24/04/2014
Thứ Năm Trong Tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 3, 11-26
"Ðấng ban sự sống
thì anh em đã giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, khi người què được chữa lành
cứ theo sát Phêrô và Gioan, toàn dân bỡ ngỡ chạy đến hai ngài đang ở hành lang
gọi là hành lang Salômôn. Thấy vậy Phêrô liền nói với dân chúng rằng: "Hỡi
các người Israel, tại sao anh em ngạc nhiên về việc đó và nhìn chúng tôi như là
chúng tôi dùng quyền năng hay lòng đạo đức riêng mà làm cho người này đi được?
Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, Thiên Chúa Giacóp, Thiên Chúa các tổ phụ
chúng ta, đã làm vinh danh Chúa Giêsu, Con của Ngài, Ðấng mà anh em đã nộp và
chối bỏ trước mặt Philatô trong khi Philatô xét là phải tha cho Người. Anh em
đã chối bỏ Ðấng Thánh, Ðấng Công Chính, và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn
Ðấng ban sự sống thì anh em lại giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi
chết sống lại, điều đó chúng tôi xin làm chứng. Và bởi đã tin vào danh Người,
nên danh Người đã làm cho kẻ mà anh em thấy và biết đây, được vững mạnh, và
lòng tin vào Người chữa anh này hoàn toàn lành mạnh trước mặt hết thảy anh em.
"Hỡi anh em, thế nhưng tôi biết rằng anh em
đã hành động vì không biết, như các thủ lãnh anh em đã làm. Thiên Chúa đã hoàn
tất việc Ngài dùng miệng các tiên tri mà báo trước rằng Ðức Kitô của Ngài phải
chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội lỗi anh em được xoá bỏ,
như thế để Thiên Chúa ban cho anh em thời kỳ thư thái, và sai Ðức Giêsu Kitô, Ðấng
mà Chúa đã phán hứa cùng anh em trước, Ðấng phải về trời cho đến thời kỳ phục hồi
vạn vật, như Chúa đã dùng miệng các thánh tiên tri Ngài mà phán từ ngàn xưa.
Môsê đã nói rằng:
"Vì Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ cho xuất
hiện giữa anh em các ngươi một tiên tri như ta, các ngươi hãy nghe tất cả những
điều Ngài sẽ nói với các ngươi. Vậy, tất cả những ai không chịu nghe theo vị
tiên tri đó, thì sẽ bị khai trừ khỏi dân chúng.
"Và tất cả các tiên tri, từ Samuel và các vị
kế tiếp, đều đã nói và tiên báo về ngày này. Anh em là con cháu các tiên tri và
con cháu của giao ước mà Chúa đã thiết lập với các tổ phụ chúng ta, khi Người
phán cùng Abraham rằng: "Chính nơi dòng dõi ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất
sẽ được chúc phúc". Chính vì anh em trước tiên mà Thiên Chúa đã cho Con của
Ngài xuất hiện và sai đi chúc phúc cho anh em, để mỗi người từ bỏ tội ác".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 8, 2a và 5.
6-7. 8-9
Ðáp: Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ
lùng thay danh Chúa khắp nơi hoàn cầu (c. 2a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ lùng
thay danh Chúa khắp nơi hoàn cầu! Nhân loại là chi mà Chúa để ý chăm nom? -
Ðáp.
2) Chúa dựng nên con người kém thiên thần một
chút, Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh quang, Chúa ban cho quyền
hành trên công cuộc tay Ngài sáng tạo, Chúa đặt muôn vật dưới chân con người. -
Ðáp.
3) Nào chiên, nào bò, thôi thì tất cả, cho tới những
muông thú ở đồng hoang, chim trời với cá đại dương, những gì lội khắp nẻo đường
biển khơi. - Ðáp.
Alleluia: Tv 117, 24
Alleluia, alleluia! - Ðây là ngày Chúa đã thực hiện,
chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 24, 35-48
"Ðấng Kitô phải
chịu thương khó như vậy, rồi mới được tôn vinh".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc
đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. Mọi người còn đứng
bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: "Bình an cho các
con! Này Thầy đây, đừng sợ". Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma.
Chúa lại phán: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy
xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các
con thấy Thầy có đây". Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ
còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: "Ở đây các con có gì ăn
không?" Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn
trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Ðoạn Người phán: "Ðúng như lời
Thầy đã nói với các con khi Thầy còn ở với các con, là: cần phải ứng nghiệm hết
mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh".
Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
Người lại nói: "Có lời chép rằng: Ðấng Kitô sẽ
phải chịu thương khó và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải
nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn
dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những
điều ấy".Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Thầy Ðây Ðừng Sợ
Vào một ngày nọ, từ mảnh vườn nhỏ nằm phía sau
nhà, bỗng có một tiếng khóc của cậu con trai duy nhất mới 5 tuổi khiến cho cha
mẹ cậu lo lắng. Họ vội vàng bỏ dở công việc chạy ra ẵm lấy cậu bé. Tiếng khóc của
cậu nức nở đầy tức tối và tiếc nuối. Vừa khóc, cậu vừa chỉ vào con rùa nằm bật
ngửa bất động: con rùa thân yêu của cậu bé đã chết, làm cho cậu bé khóc một hồi
rồi mới dỗ dành được. Họ hứa sẽ cử hành đám tang con rùa thật trọng thể. Cha cậu
sẽ lấy chiếc hộp sắt đẹp nhất mà bấy lâu nay gia đình đựng bánh kẹo để làm hòm
đựng con rùa. Sau khi chôn cất xong, mẹ cậu sẽ làm một bữa tiệc để mời bạn bè của
cậu và những người đã dự đám tang con rùa.
Tiếng khóc đã biến mất, thay vào đó là một nụ cười.
Ðể trấn an cậu, người cha lại hứa hẹn thêm: "Ba sẽ dẫn con ra phố và mua
cho con chùm bong bóng và những quả bóng tròn to tướng, mặc sức con vui đùa với
chúng bạn. Ðang khi cậu mỉm cười sung sướng với giấc mơ của mình, thì trước sự
ngạc nhiên của mọi người, chú rùa đã lật sấp trở lại rồi từ từ bò đi. Thấy chú
rùa như vậy, cậu bé vội hét lên: "Ba ơi, chúng ta giết quách con rùa đi
cho rồi".
Anh chị em thân mến!
Thái độ đau buồn hoặc vui mừng của cậu bé trước
cái chết của chú rùa thân yêu cũng giúp cho chúng ta hiểu được tâm trạng của
các tông đồ sau cái chết của Thầy mình là Ðức Kitô. Tâm trạng ấy được thánh
Luca tường thuật thật rõ nét trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sau khi Chúa Giêsu đã chết và xác Ngài được chôn cất
trong mồ, các môn đệ rơi vào tình cảnh đau buồn, tuyệt vọng. Họ ngồi lại với
nhau vì sợ người Do Thái; họ ngồi lại với nhau để than khóc u sầu hơn là đợi chờ
hy vọng. Có hai môn đệ không chịu nổi cảnh này đã bỏ về quê. Chúa Kitô Phục
Sinh đã hiện ra với hai ông và hai ông vội vã trở về Giêrusalem báo Tin Mừng.
Nhóm còn lại vẫn chưa tin việc Chúa Kitô Phục Sinh. Rồi Chúa Giêsu lại hiện ra
giữa họ, nhưng họ vẫn nghi ngờ là ma, không nghĩ là Thầy mình. Vì thế, Chúa
Giêsu tỏ cho họ thấy thân xác thật sự của Ngài. Họ vẫn chưa tin, Ngài lại phải
xin một miếng cá nướng và ăn uống bình thường với họ và họ được trấn an.
Tuy nhiên, chỉ khi được Kinh Thánh soi sáng về ý
nghĩa biến cố Tử Nạn và Phục Sinh, chỉ khi được Chúa Giêsu soi lòng mở trí cho
thì các môn đệ mới vững tâm và vui mừng thật sự. Và chính lúc này Ngài trao cho
họ sứ mệnh rao giảng Tin Mừng.
Kitô giáo là tôn giáo của niềm vui: vui vì được
Chúa từ trời cao xuống viếng thăm, vui vì được ban tặng ơn cứu rỗi, vui vì từ
thân phận nô lệ tội lỗi được nâng lên hàng con cái và vui vì cuộc sống hạnh
phúc vĩnh cửu đang đón chờ. Một tôn giáo của niềm vui nhưng đã bị coi là tôn
giáo của khổ chế, hy sinh, và thập giá vì cuộc sống của các thành viên chưa phản
ánh đủ căn bản của niềm tin, như các môn đồ được nói đến trong bài Tin Mừng hôm
nay.
Thực tế, cuộc sống trước mắt đã khiến cho các Kitô
hữu u buồn và bi quan mà quên đi sự cao quí của hy sinh Thập Giá. Ðau khổ dẫn đến
vinh quang. Cái chết trên Thập Giá sẽ mang lại sự phục sinh khải hoàn. Ðành rằng,
con người bị hạn hẹp trong không gian và thời gian, không thể biến viễn ảnh
thành hiện tại.
Tuy nhiên, không phải vì thế mà viễn ảnh trở thành
ảo ảnh phản ánh Phục Sinh vinh quang của Kitô hữu là nối dài của điểm khởi đầu
biến cố Phục Sinh của Ðức Kitô. Ðây là một biến cố đã được Ðức Kitô báo trước
và đã xảy ra và mãi mãi là chất men làm sống dậy những cuộc sống khác.
Lạy Chúa, trên hành trình đức tin, nhiều lúc
con đã ngại ngùng sợ hãi không dám dấn thân vào con đường Chúa mời gọi con bước
tới. Con đường ấy có quá nhiều chông gai, thử thách. Xin Chúa cho con hiểu rằng,
bên trên các gai nhọn là đóa hồng rực rỡ. Bên trên lớp mây mù ảm đạm là vầng
thái dương huy hoàng. Có được một xác tín như vậy, chắc chắn cuộc sống của con
sẽ là chuỗi ngày vui mừng, hy vọng và tràn trề cậy trông vào Chúa Kitô Phục
Sinh. Amen.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần I BNPS
Bài đọc: Acts 3:11-26; Lk
24:35-48.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Làm thế nào để biết và tin chắc Chúa đã sống
lại?
Mỗi năm, vào dịp các Kitô hữu chuẩn bị kỷ niệm cuộc
Thương Khó, cái chết, và sự sống lại của Chúa Giêsu, các tuần báo Mỹ như Times
và Newsweek luôn đặt những câu hỏi giật gân chung quanh việc sống lại của Chúa
như: Chúa Giêsu có thực sự sống lại không? Không một nhân chứng nào thấy tận mắt
lúc Chúa sống lại và ra khỏi mộ! Ngành khảo cổ không tìm thấy vết tích gì cả về
ngôi mộ của Chúa. Tại sao lại có hai nơi đều nhận là “mộ Chúa” bên Jerusalem? Mục
đích của họ là để con người đặt lại niềm tin vào sự sống lại đời sau, đúng như
thánh Phaolô nói: “Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta vô ích.”
Nhưng đi tìm những dữ kiện quanh ngôi mộ trống là
cách thấp nhất để chứng minh sự kiện Chúa sống lại. Các Bài Đọc hôm nay cho
chúng ta những bằng chứng cao hơn. Trong Bài Đọc I, thánh Phêrô minh chứng sự
kiện Chúa sống lại bằng việc làm cụ thể: Ngài dùng quyền năng của Chúa Kitô phục
sinh để chữa lành một người què từ lúc mới sinh, và minh chứng sự kiện phục
sinh đã được các ngôn sứ đề cập đến nhiều lần trong Kinh Thánh. Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu trực tiếp hiện ra với các tông đồ, và Ngài đã ăn uống trước mặt các
ông để chứng minh Ngài là người thật, chứ không phải là ma hay ảo ảnh mà các
ông đang sợ hãi. Ngài cũng dùng lời Kinh Thánh để chứng minh Ngài phải chịu đau
khổ và được sống lại.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phêrô và Gioan chứng minh Chúa đã sống lại thật.
1.1/ Phêrô làm chứng cho
Chúa Phục Sinh bằng việc chữa lành: Phêrô muốn chứng tỏ với dân 2 điều:
(1) Quyền chữa lành
không đến từ con người: Ông Phêrô lên tiếng nói với dân: "Thưa đồng
bào Israel, sao lại ngạc nhiên về điều đó, sao lại nhìn chúng tôi chằm chằm,
như thể chúng tôi đã làm cho người này đi lại được, nhờ quyền năng riêng hay
lòng đạo đức của chúng tôi?”
(2) Quyền chữa lành đến
từ Đức Kitô:
- Đức Kitô, Người mà anh em giết đi, đã sống lại:
“Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giêsu,
Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét
là phải tha. Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm
cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng.”
- Đức Kitô ban cho Phêrô uy quyền chữa lành:
“Chính nhờ lòng tin vào danh Người, mà Người đã làm cho kẻ anh em nhìn và biết
đây trở nên cứng cáp; chính lòng tin Người ban đã cho anh này được khỏi hẳn như
thế, ngay trước mắt tất cả anh em.”
1.2/ Phêrô làm chứng cho
Chúa bằng việc giải thích Kinh Thánh.
(1) Chúa Giêsu phải chịu
khổ hình: Việc các thủ lãnh Do-thái giết Chúa Giêsu không phải là chuyện
ngẫu nhiên xảy ra; nhưng đã được sắp đặt trước bởi Thiên Chúa, và được loan báo
trước bởi hầu hết các ngôn sứ của Người (Isaiah, Jeremiah, Hoseah). Ông Phêrô
trấn an dân: “Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu
biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện
những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của
Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để
Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em. Như vậy thời kỳ an lạc mà Đức Chúa ban cho anh
em sẽ đến, khi Người sai Đấng Kitô Người đã dành cho anh em, là Đức Giêsu.”
(2) Chúa Giêsu làm trọn
lời loan báo của các ngôn sứ: Những gì xảy ra cho Đức Kitô khi Ngài sống
trên trần gian, đã được loan báo trước bởi các ngôn sứ; mỗi ngôn sứ loan báo một
khía cạnh của cuộc đời Ngài. Tổng hợp tất cả lời loan báo của các ngôn sứ cho
chúng ta sự hiểu biết về cuộc đời của Ngài. Ông Phêrô liệt kê 3 ngôn sứ trong
trình thuật hôm nay:
- Lời chứng của Moses: “Từ giữa đồng bào của anh
em, Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em sẽ cho trỗi dậy một ngôn sứ như tôi để
giúp anh em; tất cả những gì vị ấy nói với anh em, anh em hãy nghe. Kẻ nào mà
không nghe ngôn sứ ấy, thì sẽ bị diệt trừ khỏi dân” (Deut 18:15-20).
- Lời chứng của Samuel và các ngôn sứ khác: Sau
đó, mọi ngôn sứ, kể từ ông Samuel đến các vị kế tiếp, khi lên tiếng thì cũng đã
loan báo những ngày chúng ta đang sống (Lk 1:70).
- Lời chứng mà Thiên Chúa đã hứa với tổ phụ
Abraham: “Nhờ dòng dõi ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (Gen
22:18, 26:4). Thiên Chúa đã cho Tôi Trung của Người trỗi dậy để giúp anh em trước
tiên, và sai đi chúc phúc cho anh em, bằng cách làm cho mỗi người trong anh em
lìa bỏ những tội ác của mình.
2/ Phúc Âm: Chúa hiện ra với các tông đồ.
2.1/ Chúa chứng minh cho
các tông đồ biết Ngài là người thật: Khi một người nhìn thấy hồn người
chết hiện về, cảm tưởng của họ chắc cũng như các tông đồ: “Các ông kinh hồn bạt
vía, tưởng là thấy ma.” Để chứng minh Ngài là người thật, Chúa Giêsu làm hai việc:
(1) Cho các ông sờ vào
thân thể Ngài: Người nói với các ông: "Sao lại hoảng hốt? Sao lòng
anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma
đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?" Nói xong, Người đưa tay
chân ra cho các ông xem.
(2) Ăn uống trước mắt
các ông: Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì
Người hỏi: "Ở đây anh em có gì ăn không?" Các ông đưa cho Người một
khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.
2.2/ Chúa chứng minh cho
các tông đồ những lời Kinh Thánh đã nói về Ngài.
(1) Toàn bộ Kinh Thánh
cần thiết để hiểu Đức Kitô: Chúa Giêsu nhắc lại những lời dạy dỗ của
Ngài cho các ông khi Ngài còn ở với các ông: "Khi còn ở với anh em, Thầy
đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì Sách Luật Moses, các Sách Ngôn Sứ
và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm." Các ông không
thể hiểu những lời này mà không có Đức Kitô; đồng thời các ông cũng không thể
hiểu cuộc đời Chúa Kitô mà không được soi sáng bởi những lời này.
(2) Tiên-tri Hosea đã
nói về sự sống lại của Ngài: "Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng
Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại” (Hos 6:2).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta đừng bao giờ để các báo chí lung lạc niềm
tin vào Chúa sống lại của chúng ta.
- Có nhiều bằng chứng về sự kiện Chúa sống lại: những
lần Ngài hiện ra với các môn đệ, những phép lạ các môn đệ nhân danh Ngài là
làm, cuộc sống chứng nhân và thay đổi hoàn toàn của các môn đệ, Kinh Thánh, và
những cuộc trở lại của nhiều người. Chúng ta không chỉ có 2 nhân chứng như Luật
đòi, nhưng ức triệu nhân chứng cho sự sống lại của Chúa Giêsu.
- Lịch sử Giáo Hội hơn 2000 năm qua là bằng chứng
hùng hồn Chúa Giêsu vẫn đang họat động và ở lại trong Giáo Hội giữa bao chống đối,
bắt bớ, và tù đày.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH
Lc 24,35-48
A. Hạt giống...
Thánh Luca tiếp tục tường thuật cuộc hiện ra thứ
hai của Chúa Giêsu phục sinh, lần này là hiện ra cho các tông đồ ở Giêrusalem :
1. Hai môn đệ Emmau vừa trở về báo tin cho các
tông đồ hay Chúa Giêsu đã sống lại.
2. Chúa Giêsu hiện ra :
- Ngài chứng minh cho các ông hiểu rằng sau khi sống
lại, Ngài vẫn là một như trước (có tay chân xương thịt, biết ăn uống)
- Ngài cắt nghĩa bài học Thánh Kinh : Đức Kitô phải
qua cái chết mới tới phục sinh.
- Ngài bảo các ông nhân danh Ngài "rao giảng
sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân".
B.... nẩy mầm.
1. "Chính Thầy đây. Hãy sờ xem : ma đâu có
xương thịt như Thầy có đây" : Chúa Giêsu phục sinh đang sống và hiện diện
bên cạnh tôi. Đây không phải chỉ là một kiểu nói, không phải chỉ là niềm tin,
mà là sự thật. Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một. Tôi phải sống
với niềm xác tín ấy.
2. "Các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy"
: không những tôi phải sống với niềm xác tín rằng tôi đang sống với Chúa phục
sinh đang hiện diện bên cạnh, mà còn phải làm sao cho cách sống đó khiến người
ta nhìn vào mà cũng tin như vậy.
2b. Một bề trên tu viện công giáo đến tìm một ẩn
sĩ ấn giáo tại chân núi Hy mã lạp sơn và trình bày về tình trạng bi đát của tu
viện ông :
Trước kia tu viện này là một trung tâm thu
hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ
khắp nơi đến. Trong tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu hàng ngày đến
gõ cửa nữa. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà
thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người, cuộc sống thật là buồn tẻ.
Vị bề trên hỏi tu sĩ ấn giáo cho biết nguyên nhân
nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ ấn giáo ôn tồn
bảo : "Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình."
Và ông giải thích : "Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị,
nhưng quý vị không nhận ra Ngài."
Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn hở trở về
tu viện. Ông tập họp mọi người lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang cải
trang thành một người trong nhà. Các tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau.
Ai là Đấng Cứu Thế cải trang vậy ? Nhưng có điều chắc là một khi Ngài đã cải
trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ đều có thể là Đấng
Cứu Thế.
Vậy là từ đó mọi người đều đối xử với nhau
như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống
và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta lại tìm đến tu
viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng
đoàn. (Trích "Món quà giáng sinh")
3. "Bình an cho chúng con. Này Thầy đây, đừng
sợ" : Trong khoảng thời gian vắng Chúa, các môn đệ rất hoang mang và sợ
hãi. Nay Chúa đã trở lại và đang ở với họ, họ tìm lại được bình an. Xin Chúa
luôn ở với con, để ban cho con được bình an giữa bao xáo trộn của cuộc đời.
4. Chúa nói với họ : "Sao anh em lại hoảng hốt
? sao còn ngờ vực trong lòng ?"
Ở đời ai cũng sợ một điều gì đó. Hãy nói thật cho
tôi biết bạn sợ cái gì nhất ? Còn tôi, tôi sợ cuộc sống nhất, tôi sợ tất
cả những gì thuộc về cuộc sống này.
Bạn thử nghĩ xem, làm sao tôi tránh được lo sợ khi
quanh tôi giá trị con người được tính bằng nhan sắc, tiền bạc, gia thế. Còn lẽ
phải, sự công bằng lúc nào cũng thuộc về tay kẻ mạnh. Còn tình yêu ư ? Tất cả
chỉ là trò bịp bợm. nếu không nói là giải trí bản năng. Vị sự sinh tồn, vì hưởng
thụ, vì lòng tham, vì ích kỷ... con người lao vào cấu xé lẫn nhau, làm khổ
nhau.
Tôi sợ mình không đủ dũng cảm để đấu tranh dành lấy
công bằng. Tôi sợ mình không đủ cao thượng để hy sinh nhường đường cho kẻ khác.
Tôi sợ một ngày nào đó vì sự sinh tồn tôi phải bán tất cả để tìm lấy cho mình một
chỗ đứng, khi đó tôi không còn là tôi nữa... Nỗi sợ hãi làm tôi không tin vào bất
kỳ điều gì, tôi không tin vào tình người : tôi không tin người tốt
sẽ được sống hạnh phúc.
Tôi không hiểu sống để làm gì, khi hiện tại tương
lai đầy ấp nỗi sợ hãi. Tôi muốn thoát khỏi sự sợ hãi, tôi muốn được bình an...
và trong cơn hoảng loạn, tôi đã nghĩ đến cái chết...tôi quên mất mình đang sống
mùa phục sinh, Phục sinh của đức Kitô.
Lạy Chúa, xin cho con thoát khỏi sự sợ hãi, biết
can đảm vượt qua mọi thử thách để được lớn lên, trưởng thành trong vòng tay của
Ngài. (Epphata)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ
24/04/14 THỨ NĂM TUẦN BÁT NHẬT PS
Lc 24,35-48
Lc 24,35-48
ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN
“Đấng Kitô phải chịu khổ
hình, rồi . . .từ cõi chết sống lại: phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn
dân. . . Chính anh em là chứng nhân về những điều này.” (Lc 24,46-48)
Suy niệm: Chỉ trong ít ngày, các môn đệ Chúa Ki-tô trải
nghiệm đủ mọi sắc màu cảm xúc. Chưa hết kinh hoảng và trốn chui trốn nhủi vì
Thầy mình bị bắt và chết thảm, các môn đệ lại ngỡ ngàng rồi bùng nổ với niềm
vui gặp lại Ngài đang sống. Giờ đây các môn đệ lại được cuốn hút vào việc tiếp
nối sứ mạng của Thầy mình là rao giảng và làm chứng cho muôn dân rằng Chúa
Ki-tô đã chịu khổ hình, đã chết, và đã sống lại, và nhất là ai tin vào Ngài thì
cũng sẽ được sống đời đời với Ngài. Các tông đồ - và các thế hệ Ki-tô hữu xuyên
suốt hai mươi thế kỷ nay - một khi đã tin vào Đức Ki-tô Phục Sinh, cũng đương
nhiên trở thành những người được sai đi, rao giảng và làm chứng nhân cho Ngài.
Mời Bạn: Làm
chứng nhân là người kể câu chuyện Đức Ki-tô phục sinh với tư cách một người
trong cuộc. Câu chuyện “Chúa Phục sinh và tôi” cũng là câu chuyện của tôi, là
điều tôi đã trải nghiệm. Tôi kể câu chuyện ấy như một chứng từ; nó có thể rất
mộc mạc đơn sơ, nhưng chắc chắn đây là cách rất hữu hiệu để thi hành sứ mạng
loan báo Tin Mừng hôm nay. Người ta có thể phản đối những tuyên bố, thậm chí
những tín biểu. Nhưng không ai phản đối một câu chuyện, nhất là câu chuyện về
kinh nghiệm của một người trong cuộc.
Sống Lời Chúa: Tôi
không ngại chia sẻ cho người khác về câu chuyện đức tin của mình, về tầm quan
trọng của Chúa Giê-su trong cuộc đời tôi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Phục sinh, xin giúp con trở thành chứng nhân đích thực
của Chúa trong đời sống mình
Anh em là chứng nhân
Chuyện Ðức Giêsu phục sinh
là chuyện khó tin. Nhưng nếu chúng ta sống quên mình phục vụ thì người ta có
thể gặp được Ðấng đang sống.
Suy niệm:
Sợ ma không phải chỉ là
chuyện của trẻ con.
Cả người lớn như các tông đồ
cũng sợ ma.
Có lần Ðức Giêsu đi trên mặt
nước mà đến với họ,
nhưng họ kinh hoàng tưởng
Thầy là ma.
Khi Ðức Giêsu phục sinh hiện
ra với các môn đệ,
họ cũng hoảng hốt tưởng là
thấy ma.
Ðấng sống lại đã kiên nhẫn
làm hết cách
để đưa các môn đệ ra khỏi
nỗi ám ảnh kinh khủng.
Ngài mời họ xem và đụng đến
tay chân Ngài
để thấy Ngài là người bằng
xương bằng thịt.
Ngài còn ăn một miếng cá
nướng
để cho họ thấy Ngài không
phải là một bóng ma.
Khi các môn đệ yếu đức tin,
họ coi Ðức Giêsu phục sinh
chỉ là bóng ma.
Nhưng khi đức tin của họ
được củng cố,
họ mới thấy Ngài có thực.
Lắm khi chúng ta vẫn tưởng
Chúa là bóng ma đe dọa,
vì Chúa đến gặp ta một cách
quá bất ngờ,
giữa lúc con thuyền đời ta
chòng chành vì gió ngược,
hay lúc căn nhà lòng ta khép
kín vì nỗi buồn đau.
Chúa vẫn đến lúc ta tưởng
Ngài không thể đến.
Ngài mời gọi ta làm chứng
nhân cho Ngài.
Kitô hữu là chứng nhân của
niềm hy vọng.
Ðức Giêsu bị đóng đinh đã
sống lại ra khỏi mồ.
Bạo lực, bất công, dối trá,
hận thù bị thảm bại.
Quyền lực của bóng tối chỉ
là tạm thời.
Chiến thắng cuối cùng thuộc
về Tình Yêu và Ánh Sáng.
Bởi thế người Kitô hữu vẫn
hy vọng không ngơi
ngay giữa lúc sự dữ có vẻ
thắng thế.
Kitô hữu là chứng nhân của
sự sống.
Thế giới hôm nay bị mê hoặc
bởi sự chết.
Những cuộc chiến tranh, xung
đột, ám sát, bạo động.
Những loại ma tuý khiến
người ta chết không ra người.
Những vụ phá thai quá dễ
dàng nơi các cô gái trẻ.
Những vụ tự tử chỉ vì những
lý do không đâu.
Kitô hữu phải làm cho sự
sống có mặt,
và hấp dẫn gấp ngàn lần sự
chết.
Họ phải là nguồn sống dồi
dào,
sống đơn sơ, thanh bạch,
nhưng hạnh phúc.
Kitô hữu là chứng nhân của
niềm vui.
Bao trẻ thơ buồn vì thiếu
thầy cô, thiếu trường học.
Bao bệnh nhân ở xa thành
phố, cần đến thầy thuốc.
Bao người nghèo khổ sống
trong nỗi muộn phiền.
Nếu chúng ta thực sự có niềm
vui của Chúa,
nếu chúng ta đã ra khỏi nỗi
âu lo về mình,
chắc chúng ta sẽ ra đi công
bố Tin Mừng Phục Sinh,
bằng việc đem lại nụ cười
cho những người bất hạnh.
Chuyện Ðức Giêsu phục sinh
là chuyện khó tin.
Nhưng nếu chúng ta sống quên
mình phục vụ
thì người ta có thể gặp được
Ðấng đang sống.
Cầu nguyện:
Giữa một thế giới
chạy theo tiện nghi, hưởng thụ,
xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.
Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo,
xin cho con đừng thu tích
của cải.
Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp,
xin cho con biết quý trọng
phẩm giá từng người.
Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống,
xin cho con biết xây lại
niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con cảm được
cơn đói đang giày vò bao
người,
xin cho con nghe được lời
mời của Chúa:
“Các con hãy cho họ ăn đi.”
Ước gì chúng con dám trao
tất cả những gì chúng con có cho Chúa,
để Chúa trao tất cả những gì Chúa có
cho chúng con và cho cả nhân loại.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy Niệm
Bình an là quà tặng của Thiên
Chúa dành cho con người. Tiếc thay, đôi khi con người không biết quý trọng món
quà ấy của Chúa ban với nhiều lý do. Có thể là do tác động từ bên ngoài như:
Cuộc sống sôi động, cuộc sống thiếu thành thật, cuộc sống quá bon chen. Ngoài
ra, chúng ta đánh mất bình an là do chính bản thân như: Sự sợ hãi, sự lo âu, sự
chán nản và những việc làm sai trái… dẫn đến lung lay đức tin, mất niềm hy
vọng, mất niềm cậy trông vào Chúa.
Nhìn lại các tông đồ, các ông đã
nhiều lần đánh mất bình an khi các ông xa Chúa. Cụ thể:
- Khi các ông gặp giông bão (Ga
6,16-21). Nhưng khi có Chúa hiện diện, lòng các ông cảm thấy bình an và hạnh
phúc.
- Khi Chúa Giêsu bị bắt, bị đánh
đòn và chết trên thập giá chắc chắn lòng các ông bất an – trốn vào phòng kín (Ga
20,18). Thấu hiểu được điều đó, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Ngài trao ban
bình an cho các ông: ‘Bình an cho anh em’ (Ga 20,21).
Khi nhận được sự bình an của
Thiên Chúa, các ông thay đổi cuộc sống vì thấy cuộc đời có ý nghĩa hơn như hai
môn đệ trên đường về Emmau và các tông đồ khác. Đặc biệt, các ông cảm thấy cuộc
đời rất hữu dụng và tràn đầy hạnh phúc khi ra đi rao giảng Tin Mừng của Chúa mà
không sợ hãi như thánh Phêrô mạnh dạn nói với thượng hội đồng Do thái: ‘Vâng
lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta’ (Cv 5,9).
Thật vậy, vâng lời Thiên Chúa và
giữ các điều Chúa truyền dạy là cách tốt nhất để chúng ta tìm được sự bình an
và hạnh phúc như các tổ phụ, các tiên tri và các thánh dù họ gặp nhiều thử
thách trong cuộc sống. Thử thách ở trần gian không ngăn cản bước đường tìm kiếm
hạnh phúc mà Chúa ban cho họ, từ đó họ chia sẻ cho tha nhân. Đức Thánh Cha
Phanxicô viết như sau: ‘Những ai đã mở cửa tâm hồn mình cho tình yêu của
Thiên Chúa, đã nghe thấy giọng nói của Ngài và nhận được ánh sáng của Ngài, thì
không thể giữ món quà này cho riêng mình. Vì khi đức tin được nghe và được
thấy, nó cũng được truyền lại như lời nói và ánh sáng’ (Đức Phanxicô, Thông
điệp Lumen Fidei, 37).
Mỗi người được Chúa trao
ban món quà bình an, xin Chúa cho chúng con biết gìn giữ trong tâm hồn, nhất là
biết trao ban cho anh em và cùng giúp nhau đạt tới bình an đích thực trên trời
mà Chúa dành cho chúng ta.
Lm. Phêrô
THANH HÀ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
24
THÁNG TƯ
Phó
Thác Cho Quyền Lực Cứu Độ Của Đức Kitô
Ơn
cứu chuộc bắt đầu với Thập Giá và được hoàn thành nơi cuộc Phục Sinh. Chiên Con
đã cứu chuộc bầy chiên. Đức Kitô vô tì tích đã giao hòa các tội nhân với Chúa
Cha.
Và,
con người đã được giải thoát khỏi sự chết và được trao ban lại sự sống. Và, con
người đã được giải phóng khỏi tội lỗi và được trao ban lại tình yêu. Hỡi tất cả
những ai còn đang chìm trong bóng tối của sự chết, xin hãy lắng nghe: Đức Kitô
đã sống lại! Hỡi tất cả những ai còn đang bị đè nặng dưới ách của tội lỗi, xin
hãy lắng nghe: Đức Kitô đã vượt thắng tội lỗi nơi Thập Giá và nơi cuộc Phục
Sinh của Người! Hãy phó thác sự sống của anh em cho Người!
Hỡi
con người của thế giới hôm nay! Hãy qui phục Đức Kitô, qui phục quyền lực của
Người! Càng khám phá ra những nẻo đường tội lỗi sau lưng mình, anh em càng ý thức
hơn sự chết khủng khiếp như thế nào. Anh em hãy đặt mình trong quyền năng cứu độ
của Đức Kitô!
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 24-4
THỨ NĂM TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC
SINH
Cv 3, 11-26; Lc 24, 35-48.
LỜI SUY NIỆM: “Bình an cho anh em.”
Chúa Giêsu Phục Sinh đã đến với các Tông Đồ mặc dù các
ông đều bất xứng.Chúa đã đến gặp trực tiếp bằng chính Thân Thể Sống của Chúa.
Chúa đã ban bình an cho các Tông Đồ với quyền năng của Chúa. Chúa còn mở trí
cho các ông hiểu Kinh Thánh: “Có lời Kinh Thánh nói rằng: Đấng Kitô phải
chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba. Từ cõi chết sống lại.” Chúa còn tin dùng, làm
chứng nhân cho Chúa Phục Sinh và sai các ông đi: ”Chính anh em là chứng nhân về
những điều này”.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh. Chúng con đang sống trong Tuần
Bát Nhật Phục Sinh với tình yêu thương, tha thứ, dạy bảo và tin dùng của Chúa.
Xin Chúa mở lòng trí mỗi người trong gia đình chúng con được hiểu biết về tình
yêu và sự tin dùng của Chúa để chúng con luôn là chứng nhân Tin Mừng Chúa Phục
Sinh.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
24-04
Thánh
FIDÊLÊ Đệ SIGMARINGA
Tử
Đạo - (1528 - 1622)
Thánh
Fidelê, tên thật là Marê Rey, sinh ra năm 1528 ở Sigmaringa nước Đức. Sau những
ngày trong tuổi thơ ấu trong trắng vô tội, Ngài được gởi đi học tại đại học tại
Friburg, Thụy Sĩ. Để tự chủ, Marê thực hiện nhiều việc bỏ mình nghiêm ngặt. Khi
đã hoàn tất cấp bậc tiến sĩ về triết học, Ngài đã tỏ ra rất mực khôn ngoan đến
nỗi người ta gọi Ngài là triết gia Kitô giáo.
Năm
1604, công tước Stotzngen xin Ngài hứơng dẫn cho con mình và hai nhà quí phái
khác trong một cuộc du hành khắp các vương quốc Âu Châu để học hiểu. Cuộc du
hành kéo dài sáu năm. Marê đã khuyên nhủ họ nhiều điều không thể quên được.
Ngài thúc giục họ phải biết thắng vượt chính mình: - Sống xa hoa nhẹ dạ, người
ta bất xứng với vinh quang thực mà chỉ chinh phục được bằng nỗ lực và bằng việc
chà đạp vui thú dưới chân.
Sau
cuộc viễn du những nhà quí phái trẻ muốn Ngài đừng bỏ họ. Ngài đã theo học luật.
Và sau khi nhận bằng tiến sĩ luật Ngài lập văn phòng luật sư ở Colmar. Ngài quyết
thực thi đức ái đến nỗi Ngài được gọi là luật sư của dân nghèo. Nhưng nghề nghiệp
đã cứu giúp Ngài khám phá ra được những bất lương của cuộc đời. Quyết định theo
đuổi đời sống hoàn hảo, Ngài tới gõ cửa dòng Phanxicô. Năm 1612 Ngài được danh
hiệu Fiđêlê.
Vị
luật sư trở thành thầy dòng làm cho ma quỉ tức giận. Trước các cơn cám dỗ, thày
Fiđêlê bối rối, nhưng thử thách tan biến khi Ngài đến giải bày nỗi lòng với một
linh mục giàu kinh nghiệm, Người đã dạy Ngài cầu nguyện nhiều hơn,
Fiđêlê
đã khẩn cầu tha thiết. - Lạy Chúa cứu chuộc con, xin trả lại niềm vui cần thiết
và bình an tâm hồn. Xin hãy tẩy sạch mọi nghi ngờ để ý Chúa được thực hiện và để
con thắng vượt quân thù, thắng con người và những đam mê của con.
Fiđêlê
nỗ lực hy sinh hãm mình cho đến khi Thiên Chúa ban lại bình an cùng ánh sáng
cho Ngài. Từ đó thánh nhân luôn trung thành quảng đại hiến mình cho Chúa. Ngài
nói: - Thật bất hạnh nếu tôi là một chiến sĩ dưới quyền thủ lãnh đầu đội mão
gai, mà lại chiến đấu một cách yếu hèn.
Khi
được chọn làm bề trên tu viện ở Weltkirvhen, Ngài được ơn làm phép lạ để hoán cải
người ta. Gặp thời dịch tể, Ngài hết mình phục vụ các bệnh nhân. Người ta thấy
Ngài ở khắp nơi, trong nhà thương, ở tư gia, chạy trên đường phố, săn sóc thân
xác linh hồn mọi người và thường chữa lành cho cả hồn lẫn xác.
Lạc
giáo tàn phá miền Grisons. Đức giáo hoàng giao cho thánh Fiđêlê trách nhiệm đối
phó với nhón người theo pháí Calvin. Thánh nhân giã từ tu viện, để lại bao
nhiêu là xúc động, Ngài từ biệt dân Weltkirchen như đi chịu tử đạo.
Nhưng
với các bạn đồng hành, Ngài khích lệ: - Nào chúng ta lên đường tới nơi mà Chúa
kêu gọi và mùa gặt thúc bách.
Ngài
giảng cho dân chúng, dạy người nghèo, thông truyền giáo lý cho trẻ em.
Để
cứu một linh hồn, Ngài cũng sẵn sàng đi chân không vượt qua mọi sỏi đá tuyết
sương. Những người Thệ phản bực tức vì sự anh dũng của thánh nhân nên họ quyết
thủ tiêu Ngài. Thư từ Ngài viết còn ghi: - Thày Fiđêlê sẽ sớm làm mồi cho sâu bọ.
Một
lần kia, sau bài giảng hùng hồn, thánh nhân xin bạn mình ngồi tòa giải tội vì
Ngài phải đi Seewis không biết có điều gì sẽ xảy ra, nhiều người lo lắng cầu
nguyện cho Ngài.
Một
người đã hỏi : - Nếu các người theo lạc giáo tấn công thì Cha làm sao ?
Thánh
Fiđêlê trả lời : - Tôi sẽ làm như các vị tử đạo. Tôi sẽ vui mừng đón nhận cái
chết vì tình yêu Chúa và coi đó như một ân huệ lớn lao dành cho tôi.
Ngài
thường nói : - Lạy Chúa, con phải chịu khó với Chúa nếu con muốn được hoàn toàn
thuộc về Chúa.
Tại
Seewis, Ngài rung chuông tập họp dân chúng lại. Một riếng súng nổ, nhưng không
trúng Ngài. Trên đường về Grisch, Ngài bị một nhóm binh sĩ lạc giáo xông vào
đánh đập, Ngài chỉ nói được trong hơi thở yếu ớt: - Tôi hiến mạng sống tôi để
các bạn nhận biết đức tin của tổ tiên chúng ta.
Bị
đập, Ngài vẫn gắng gượng để thốt lên : - Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con. Lạy
Mẹ Maria, xin giúp đỡ con.
Và
Ngài đã xin Thiên Chúa tha cho kẻ thù mình và gục ngã dưới lưỡi gươm ngày 24
tháng 04 năm 1622.
(daminhvn.net)
24
Tháng Tư
Hạt Táo
Tại
một xứ Hồi giáo nọ, có một người đàn ông bị vua truyền lệnh treo cổ vì đã ăn cắp
thức ăn của một người khác. Như thường lệ, trước khi bị treo cổ, tù nhân được
nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ tử tội bèn xin với nhà vua như sau:
"Tâu bệ hạ, xin cho thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt
giống sẽ nảy mầm, thành cây và có trái ăn ngay tức khắc. Ðây là một bí quyết mà
cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là bí quyết này không được truyền lại
cho hậu thế".
Nhà
vua truyền lệnh cho chuẩn bị mọi sự sẵn sàng để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu
diễn cách trồng táo. Ðúng giờ hẹn, trước mặt nhà vua và các quan văn võ trong
triều đình, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói: "Chỉ có người nào chưa hề
ăn cắp hoặc lấy của người khác, người đó mới có thể trồng được hạt giống này. Vì
đã từng ăn trộm nên tôi không thể trồng được hạt giống này".
Nhà
vua tin người tử tội, nên mới quay sang nhìn vị tể tướng, có ý nhờ ông ta làm
công tác ấy. Nhưng sau một hồi do dự, vị tể tướng mới thưa: "Tâu bệ hạ, thần
nhớ lại lúc còn niên thiếu, thần cũng đã có lần lấy của người khác... Thần cảm
thấy mình không đủ điều kiện để trồng hạt táo này". Nhà vua đảo mắt nhìn
quanh các quan văn võ đang có mặt, ông nghĩ bụng: may ra quan thủ kho trong triều
đình là người nổi tiếng trong sạch có thể hội đủ điều kiện. nhưng cũng giống
như vị tể tướng, quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố trước mặt mọi
người rằng, ông cũng đã có một lần gian lận trong chuyện tiền bạc. không còn
tìm được người nào có thể thực hiện được bí quyết trồng cây ấy, nha vua định cầm
hạt giống đến cho vào lỗ đã đào sẵn. Nhưng ông cũng chợt nhớ rằng lúc còn niên
thiếu, ông cũng có lần đánh cắp một báu vật của vua cha...
Lúc
bấy giờ, người tử tội chỉ vì ăn cắp thức ăn, mới chua xót thốt lên: "Các
ngài là những kẻ quyền thế cao trọng. Các ngài không hề thiếu thốn điều gì. Vậy
mà các ngài cũng không thể trồng được hạt giống này, bởi vì các ngài cũng đã
hơn một lần lấy của người khác. Còn tôi, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức
ăn của người khác để ăn cho đỡ đói qua ngày, thì lại bị các ngài nghị án treo cổ...".
Nhà vua và cả triều thần nghe như xốn xáo trong lương tâm. Ông ra lệnh phóng
thích cho người ăn trộm.
Lời
cầu chúc "bình an" của Ðức Kitô Phục Sinh là một thứ hạt táo được
gieo vào tâm hồn chúng ta. hạt giống bình an đó chỉ có thể nảy mầm thành cây và
mang lại hoa trái là nếu mỗi người ai cũng dọn sẵn đất đai cho nó. Ðất đai thuận
tiện để cho hạt giống của Bình An ấy được nảy mầm, chính là lòng sám hối thực sự.
Sám hối nghĩa là biết chấp nhận chính bản thân và sãn sàng cảm thông, tha thứ
cho người khác. Có nhận ra những yếu đuối bất toàn của mình, con người mới dễ
dàng cảm thông và tha thứ cho người. Và có cư xử như thế, chúng ta mới thấy được
hạt giống Bình An nảy mầm trong tâm hồn chúng ta và mang lại hoa trái cho người
xung quanh...
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét