01/05/2014
Lễ Thăng Thiên Năm A
(phần II)
GIÁO LÝ PHÚC ÂM CN THĂNG THIÊN . A
CHÚA NHẬT
LỄ THĂNG THIÊN NĂM A
Sách Tồng Đồ Công Vụ 1,1-11; Thư Thánh Phaolô gửi
Êphêsô 1,17-23
và Phúc Âm Thánh Matthêô 28, 16-20
I. Giáo Huấn P.Â.:
Môn đệ Chúa phải là người: Làm gia tăng số môn đệ
Chúa.
Làm phép rửa cho mọi người “Nhân danh Cha và Con
và Thánh Thần”
Dạy người tin Chúa giữ những điều Chúa truyền dạy
cho mình.
Tin rằng: chúa luôn ở cùng môn đệ Chúa.
II.
Vấn nạn P.Â.
Làm môn đệ Chúa là “hãy đi và làm muôn dân trở
thành môn đệ”
“Hãy đi” có nghĩa là ra khỏi, là từ bỏ những gì thiết thân với chính bản thân
mình như tính ích kỷ, ham tiền bạc, địa vị, hay kiên căng, tự phụ. “Ai không vác thập giá mình
mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ của tôi… Cũng vậy, ai trong anh em
không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc
14, 27-33).
“Hãy đi” có nghĩa là ra khỏi, là từ bỏ tình cảm thân thương với gia đình,
với bà con họ hàng hay với những ai thương mình và lo cho mình. "Nếu
ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì
không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không
thể làm môn đệ Ta” (Lc 14, 25-26).
“Hãy đi” có nghĩa là ra khỏi, là từ bỏ những toan tính tương lai cho bản thân
mình và phải tín thác vào Chúa và phải dốc toàn lực phục vụ nước Chúa. “Đang
khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu,
tôi cũng xin đi theo." Người trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có
tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu." Đức Giê-su nói với một người
khác: "Anh hãy theo tôi! " Người ấy thưa: "Thưa Thầy, xin cho
phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã." Đức Giê-su bảo: "Cứ để kẻ chết
chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa."
Một người khác nữa lại nói: "Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho
phép tôi từ biệt gia đình trước đã."Đức Giê-su bảo: "Ai đã tra tay
cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên
Chúa."(luca 9,
57-62)
“Hãy đi” diễn tả một từ bỏ trọn vẹn và quyết liệt
để:
“Làm muôn dân trở thành môn đệ”
“Muôn dân thành môn đệ”: Tất
cả thế giới phải thành môn đệ Chúa: tin Chúa, loan truyền lời Chúa và hưởng
hạnh phúc thiên đàng.
“Thành môn đệ Chúa”: Môn đệ Chúa phải làm cho người khác thành môn đệ
Chúa. Môn đệ Chúa, có nghĩa là tin Chúa, yêu Chúa và sống chết vì Chúa.
“Thành môn đệ Chúa”: sứ mạng duy nhất của môn đệ Chúa là truyền đạo và
làm cho nhiều người tin Chúa.
“Thành môn đệ Chúa”: Môn đệ Chúa không có môn đệ cho riêng mình.
Làm phép rửa cho họ “Nhân danh Cha và Con và
Thánh Thần”
“Làm phép rửa cho họ”: Dấu để thành môn đệ Chúa là nhận lãnh phép rửa. Tại sao?
Môn đệ là người tin Chúa. Tin Chúa là Thiên Chúa có Ba Ngôi: Ngôi Cha Ngôi Con
và Ngôi Thánh Thần. Người ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi qua phép rửa. Người
ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi.
“Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” Là nền tảng của đời sống
Kitô hữu. Mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất là Cha và Con và Thánh Thần đã ghi dấu
ấn rất đậm nét trong công thức rửa tội "nhân danh Cha và Con và Thánh
Thần", trong văn bản của các tông đồ "Nguyện xin ân sủng của Ðức
Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh
Thần ở cùng tất cả anh chị em". Ðồng thời trong cử hành phụng vụ, lời khẩn
cầu của Hội Thánh luôn luôn là "Nhờ Ðức Giêsu Kitô Con Cha và là Chúa
chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần
đến muôn thuở muôn đời". Và lời ngợi khen trọn vẹn nhất là "Chính nhờ
Ðức Kitô, cùng với Ðức Kitô và trong Ðức Kitô, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần,
mọi vinh quang và danh dự đều qui về Cha là Thiên Chúa toàn năng, đến muôn thuở
muôn đời". Cũng vì mầu nhiệm ấy là nền tảng cho tất cả đời sống Hội Thánh,
nên ngay từ những thế kỷ đầu tiên, Hội Thánh đã không ngừng suy niệm, vừa để
đào sâu mầu nhiệm vừa để bảo vệ đức tin tinh tuyền khỏi những quan niệm lệch
lạc. "Thiên Chúa duy nhất, không phải trong một ngôi đơn độc, nhưng trong
Ba Ngôi cùng một bản thể. Ba Ngôi tuy riêng biệt, nhưng cùng một bản thể duy
nhất và một uy quyền ngang nhau".
Dạy người tin Chúa giữ những điều Chúa truyền dạy
cho mình.
“Dạy”: Môn đệ Chúa trước tiên phải là bậc thầy,
tức bậc mô phạm, người thông thạo hơn người khác và có khả năng dạy cho người
khác, không chỉ trong lớp học, nhưng bằng đời sống gương mẫu.
“Hãy dạy điều con tin và sống điều con dạy!” như
lời nhắn nhủ của Giám Mục trước khi truyền chức linh mục. “Dạy những điều Chúa
truyền dạy”: Môn đệ Chúa phải là học trò hấp thụ những giáo huấn của Chúa trước
và sau đó thành người truyền đạt hay dạy cho người khác những gì mình đã học.
Môn đệ Chúa, người sống điều Chúa dạy trước tiên.
Giáo Hội Công Giáo được gọi là tông truyền, vì
chỉ dạy và tin những gì đã được các tông đồ là những môn đệ của Chúa truyền
lại. Các tông đã theo Chúa, đã nghe, đã học giáo lý từ Chúa. Các Ông đã truyền
đạt những gì Chúa dạy cho các ông sang những môn đệ nối tiếp. Nên giáo Hội Công
Giáo không chấp nhận chuyện suy luận hay dẫn giải cá nhân theo kiểu thần hứng.
Tất cả phải theo một giáo huấn từ: Chúa qua Giáo Hội và đến tín hữu.
Tin rằng: chúa luôn ở cùng môn đệ Chúa.
Luôn ở cùng có nghĩa:
Đó là môn đệ của Chúa. “Tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,
Thầy đã cho anh em biết (Gioan 15, 15).
Đó là người được sai đi làm việc cho Chúa. “Rồi Người lên núi và gọi
đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm
Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với
quyền trừ quỷ.” Mc 3,13-15
Đó là người đáng tin, đáng theo và đáng bắt chước. Các con là muối ướp
cho đời, nếu muối nhạt, thì chẳng còn cách gì mà làm cho mặn lại được; nó trở
thành vô dụng, chỉ còn nước ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.Các
con là ánh sáng cho toàn thế giới, là thành phố xây
trên đồi nên không thể dấu được…Cũng thế, ánh sáng chúng con phải
sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm
mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5,
13-16 ).
Đó là người phải làm chứng cho Chúa bằng chính mạng sống mình. Phúc Âm: Lc 21,
12-19
"Người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp
các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt vua chúa quan
quyền vì danh Thầy: các con sẽ có dịp làm chứng. Vậy các con hãy ghi nhớ điều
này trong lòng là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. Vì chính Thầy
sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không
thể chống lại và bắt bẻ các con. Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các
con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì
danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất. Các con
cứ bền đỗ, các con cũng sẽ giữ được linh hồn các con".
III. Thực hành
P.Â.:
Thiên đàng như thế nào? Có thề có thiên đàng trần gian hay biến trần gian thành
thiên đàng không?
Thiên đàng theo Muslimparadise là nơi mà trinh nữ
nhiều vô kể. Những trinh nữ nầy dành sẵn cho những anh hùng của Hồi Giáo…. Xem
chừng như đây là ước mơ của những người háo sắc chăng?
Thiên đàng theo quan niệm của cộng sản là nơi
không còn giai cấp, không còn người bóc lột người. Thiên đàng là nơi của cải
vật chất thừa thải. Người ta sống tự do hạnh phúc và thoải mái. Người ta lao
động theo khả năng và hưởng theo nhu cầu. Đây là ước mơ bình thường của những
người nghèo, hạng nhân công bị chủ bóc lột. Nên cộng sản lớn mạnh ở những nơi
nghèo, nơi con người chỉ có những ước mơ rất bình thường: ăn no mặt ấm đã là
thiên đàng rồi.
Kitô giáo quan niệm thiên đàng là nơi có Chúa,
Đấng Thánh tuyệt đối, Đấng hằng hữu, Đấng tình yêu và là Đấng có khả năng lấp
đầy mọi khát vọng nơi con người. Không còn một thứ đòi hỏi nào trên Thiên đàng.
Vì Chúa là tất cả (theo tư tưởng của Thánh Anselmô cả). Thiên đàng của
Kitô Giáo là nơi mà Chúa Kitô Phục Sinh lên trời. Ngài là Thiên Chúa Thánh
Thiện, đi về nơi cực thánh. Ngài là Thiên Chúa hằng hữu, đi về nới không có sự
chết. Ngài là Thiên Chúa tình yêư, đi về nơi chỉ còn đức Ái, như Thánh Phaolô
mô tả. Ngài là Đấng tuyệt hảo, đi về nơi không có gì bất toàn. Ngài là hoa quả
đầu mùa, là trưởng tử của hàng tạo vật, Ngài là đấng đi trước để dọn chỗ cho
chúng ta. Để sau cùng chúng ta cũng lên thiên đàng, nơi hạnh phúc và bất tử.
Như vậy thiên đàng trần gian chỉ là ảo tưởng hay là chiếc bánh vẽ của những ý
thức hệ chính trị nhằm tạo sự đấu tranh. Không thể có thiên đàng nếu không có
Chúa là Đấng Thánh. Nếu không tin Chúa thì làm sao có sự thánh thiện. Nếu không
có Chúa thì làm sao có hoàn hảo hay trọn vẹn. Nếu thiên đàng chỉ là chuyện ăn
no và làm tình thoải mái thỉ không trả lời được những đòi hỏi nơi bản năng. Vừa
ăn no xong, người ta vẫn còn thèm ăn nữa. Dù mới làm tình xong người ta vẫn
chưa thoả mãn hoàn toàn. Bất toàn và phàm tục thì làm sao gọi là thiên đàng?
“Thầy
được trao toàn quyền trên trời dưới đất” Như vậy môn đệ Chúa, cụ thể là Giám
Mục, Linh Mục cũng có toàn quyền dưới đất và trên trời, vì “những gì các con
cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc. Những gì chúng con tháo gở dưới
đất, trrên trời cũng tháo gở”
Chắc chắn Chúa không nói đến quyền Giám Mục hay quyền Cha sở. Nhưng là quyền
lực chiến thắng Satan và mang nhân loại lên trời. Nên “quyền” ở đây không là
sức mạnh thống trị theo kiểu Politic power nhưng là ius, là right, là authority
được trao ban để mang ích lợi cho phần rổi linh hồn người khác. Nói khác đi đó
là quyền để phục vụ. Giáo Sĩ nhiều khi bị hiểu lầm hay bị thu hút bởi quyền
thống trị. Xin mời lắng nghe suy tư về quyền chức của Đức Cha GB. Bùi Tuần.
“Xưa, địa vị chức quyền đã là cơn cám dỗ đối với các tông đồ Chúa. Nay, cơn cám
dỗ ấy vẫn không ngừng hoạt động trong Hội Thánh, nơi mạnh nơi yếu. Cơn cám dỗ
ấy được thể hiện dưới nhiều hình thức. Như chức tước trong đạo được tâng bốc
lên một thế giới thần thiêng, nắm đặc quyền đặc lợi. Tâng bốc nhiều khi quá
mức. Rồi, như vận động, đấu tranh, thủ đoạn, giả hình để được lên chức. Như lợi
dụng chức tước để tìm tư lợi. Có nơi ơn gọi trở thành bậc thang thăng tiến xã
hội. Công bằng mà nói: chính cộng đoàn và xã hội cũng nhiều khi góp phần vào
cơn cám dỗ.
Để bảo vệ Hội Thánh, Chúa không ngừng thanh
luyện. Thanh luyện từ cơ chế, đến não trạng, thói quen của từng cá nhân. Thanh
luyện nào cũng gây nên đau đớn. Trong tiến tình Chúa thanh luyện, rất nhiều môn
đệ Chúa đã cộng tác vào việc thanh luyện của Chúa. Nhờ vậy, họ trở nên giống
hình ảnh Chúa Giêsu hiền lành, khiêm nhường, làm chứng cho Thiên Chúa giàu tình
yêu thương xót. Cũng nhờ thanh luyện, Hội Thánh thắng được cơn cám dỗ muốn trở
thành một quyền lực, nhưng an tâm với sứ vụ là dấu chỉ và là dụng cụ của tình
xót thương Chúa cứu độ.”
Lm Phêrô Trần Thế Tuyên
Lời Chúa
Nơi mục tựa ngắn của một
tập sách do chính mình viết có tựa đề: "Biết Và Không Biết Về Thiên
Chúa". Tác giả Đức Hồng Y Sacrunez, một triết gia và cũng là một thần
học gia nổi tiếng của thập niên 60 đã trình bày niềm xác tín của mình như sau:
"Người ta không thể
nào không nói về Thiên Chúa, mọi kinh nghiệm tốt xấu, tích cực hay tiêu cực đều
đưa con người đến việc đặt vấn đề về Thiên Chúa. Con người không thể loại bỏ
hay quên hẳn Thiên Chúa được, con người vẫn nói về Thiên Chúa, nhưng khi nói
rồi con người cảm thấy lời nói của mình về Ngài như không có ý nghĩa gì cả, lời
nói đó trở thành như một sự im lặng to lớn."
Từ nhận định trên đây Đức
Hồng Y rút ra hai điểm kết luận ngắn rất quan trọng:
Thứ nhất, con người cần
trân trọng quí mến những lời nói, tuy là của con người nhưng đã được Thiên Chúa
sử dụng để mạc khải chính Mình cho con người.
Thứ hai, để lời nói của
mình về Thiên Chúa có được chút giá trị nào đó, diễn tả thực thể Thiên Chúa thì
con người cần có cảm nghiệm về Thiên Chúa.
Chúng ta ghi nhận là các
Tông Đồ ngày xưa đã thực hiện hai điều căn bản này. Họ trân trọng, quí mến lời
Chúa giảng dạy. Họ trung thành thông truyền, không xuyên tạc và các ngài là
những kẻ có kinh nghiệm trực tiếp về Chúa trước khi ra đi rao giảng cho kẻ
khác.
Chúa đã gọi các Tông Đồ để
các ngài sống bên cạnh Chúa trong suốt thời gian Chúa giảng dạy, đến độ tác giả
của thư thứ nhất Thánh Gioan và truyền thống cho là thánh Gioan Tông Đồ, một
trong mười hai Tông Đồ đã sống bên cạnh Chúa trong suốt cuộc đời rao giảng, tác
giả thư thứ nhất thánh Gioan đã viết ngay đầu thư như sau: "Những gì chúng
tôi đã thấy, đã nghe, đã chạm đến về Ngôi Lời Hằng Sống, về Con Thiên Chúa,
chúng tôi loan truyền lại cho anh chị em."
Mừng Lễ Chúa Lên Trời hôm
nay, chúng ta được mời gọi như các Tông Đồ ngày xưa, tiếp tục công việc của
Chúa. Trước khi lên trời, Chúa đã ra lệnh cho các Tông Đồ: "Mọi quyền hành
trên Trời, dưới đất, được trao ban cho Thầy, chúng con hãy ra đi giảng dạy muôn
dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Giảng dạy và tuân
giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con, và Thầy ở cùng các con mọi ngày cho
đến tận thế."
Người ta không thể nào
không nói về Thiên Chúa. Chúng ta, những đồ đệ của Chúa không thể nào không
chia sẻ về Chúa cho anh chị em, không những bằng lời nói mà còn bằng những việc
làm. Nhưng để làm chứng nhân cho Chúa thì hai điều kiện căn bản mà Đức Hồng Y
đã nhắc cho chúng ta là trân trọng, quí mến những lời nói của Chúa, đây là
những lời mà Con Thiên Chúa Nhập Thể đã nói cho con người biết về mầu nhiệm
Thiên Chúa, chúng ta cần trân trọng, quí mến Lời đó. Những Lời đó và cũng là
những Lời mà Con Thiên Chúa đã chọn để mạc khải Thiên Chúa cho con người. Chúng
ta cần trân trọng những Lời đó.
Điểm thứ hai, chúng ta cần
sống trực tiếp có cảm nghiệm về Chúa, sống với Chúa trước để có thể làm chứng
cho Chúa: "Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế." Trân
trọng tuân giữ lời rao giảng và duy trì kinh nghiệm khi gặp Chúa, sống với Chúa
qua đời sống cầu nguyện, việc cử hành Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Thánh Thể là
phương thế để Chúa hiện diện, để Chúa thực hiện điều Ngài đã quả quyết:
"Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế."
Chúng ta không nên có thái
độ vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm, kể Chúa như kẻ ra đi đã khuất mắt không còn
hiện diện trên trần gian này nữa, để chúng ta được tự do gây xáo trộn, tự do
phá bỏ mọi giá trị. Chúa Lên Trời là một biến cố khai mạc giai đoạn mới, giai
đoạn của một sự hiện diện mới và của sự dấn thân mới của mỗi người chúng ta để
làm chứng cho Chúa. Chúng ta cần sống với Chúa, lắng nghe Lời Chúa và trân
trọng tuân giữ Lời Chúa để trở thành những chứng nhân của Chúa.
Xin Chúa giúp mỗi người
chúng ta được thực hiện điều này và cho chúng ta được trưởng thành trong đức
tin. Amen.
R. Veritas
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Lectio Divina: Lễ Thăng Thiên (A)
Chúa Nhật, 1 Tháng 6,
2014
Hãy đi khắp thế giới
Sứ vụ phổ quát
Mt 28:16-20
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy
Chúa Giêsu, xin hãy ban Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh cùng
với tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong
ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám
phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái
chết của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm
hy vọng, đã trở nên nguồn gốc của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy
tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa
trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự việc của đời sống hằng ngày
và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau
khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, để cũng giống như hai môn
đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm
chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như
nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì
danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha
và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con. Amen.
2. Bài
Đọc
a) Chìa khóa để hướng dẫn bài đọc:
Đoạn văn này ghi lại những lời sau cùng của Chúa Giêsu theo Phúc
Âm của Mátthêu. Đây giống như một di chúc, ước muốn cuối cùng của
Người gửi cho cộng đoàn, đó là điều quan trọng trên hết trong tâm trí của
Người. Trong bài đọc, chúng ta cố gắng chú ý đến những điều sau đây:
Chúa Giêsu nhấn mạnh đến điều gì nhất trong những lời cuối của
Người?
b) Phân đoạn chương 28 để trợ giúp cho bài đọc:
Mt 28:16 – Địa điểm: trở về Galilêa
Mt 28:17 – Việc hiện ra của Chúa Giêsu và phản ứng của các môn
đệ
Mt 28:18-20a – Những lời hướng dẫn cuối cùng của Chúa Giêsu
Mt 28:20b – Lời hứa trọng đại, căn nguyên của mọi hy vọng.
c) Phúc Âm:
16: Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi
Chúa Giêsu chỉ trước.
17: Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có
ít kẻ còn hoài nghi.
18-20a: Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông
rằng: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho
Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân; làm phép rửa cho họ, nhân
danh Cha, và Con, và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền
cho các con.
20b: Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận
thế.”
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý:
a) Điều gì đã đánh động và đụng chạm vào tâm hồn bạn
nhất?
b) Hãy nhận biết các chi tiết về thứ tự thời gian và
nơi chốn trong đoạn Tin Mừng này.
c) Các môn đệ phản ứng ra sao? Nội dung
những Lời của Chúa Giêsu nói với các môn đệ là gì?
d) Câu “mọi quyền năng trên trời dưới đất” đã được ban
cho Chúa Giêsu có nghĩa là gì?
e) “Để trở thành một môn đệ” của Chúa Giêsu có ý nghĩa
gì?
f) Trong bối cảnh này, phép rửa tội “nhân danh Cha, và
Con, và Thánh Thần” có ý nghĩa như thế nào?
g) Những chữ “Thầy ở cùng các con mọi ngày, cho đến tận
thế” nhắc nhở chúng ta điều gì trong Cựu Ước?
5. Chìa khóa của bài đọc
Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong bài Tin Mừng.
a) Bối cảnh của Tin Mừng Mátthêu
* Tin Mừng Mátthêu, viết vào khoảng năm 85,
được viết cho một cộng đoàn người Do Thái cải đạo sống tại
Syria-Palestine. Họ đang trải qua một cuộc khủng hoảng căn tính sâu
đậm về quá khứ của họ. Khi họ chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế
đang được mong đợi, họ vẫ tiếp tục đi đến các hội đường và tuân giữ lề luật và
các truyền thống của cha ông họ để lại. Hơn thế nữa, họ đã có mối
quan hệ thân thích gần gũi với những người Biệt Phái, và sau cuộc nổi dậy của
người Do Thái tại Palestine chống lại đế quốc La Mã (từ năm 65 đến năm 72), họ
và những người Biệt Phái là hai nhóm duy nhất đã sống sót dưới cuộc đàn áp của
người La Mã.
* Từ những năm trong thập niên 80, những người Do
Thái anh em, Biệt Phái và Kitô hữu, những kẻ sống sót duy nhất, đã bắt đầu
chống lại nhau để làm những kẻ thừa kế của các lời hứa trong Cựu Ước. Mỗi
nhóm đều nhận mình là kẻ thừa kế. Dần dà, sự căng thẳng đã tăng dần
trong bọn họ và họ đã bắt đầu tuyệt giao với nhau. Các người Kitô
hữu không còn có thể tham dự tại hội đường và đã bị cắt đứt khỏi quá khứ của
họ. Mỗi nhóm bắt đầu tập hợp lại: những người Biệt Phái đến hội
đường, các Kitô hữu đến nhà thờ. Điều này đã làm tăng thêm vấn đề
bản sắc của cộng đoàn Kitô hữu gốc Do Thái vì nó đưa ra những vấn nạn nghiêm
trọng cần có giải pháp cấp bách. “Ai là người hưởng thừa kế những
lời hứa của Cựu Ước, những người đi đến hội đường hay những người đi đến nhà
thờ? Thiên Chúa ở về phe nào? Ai thực sự là dân riêng của
Thiên Chúa?”
* Giờ đây, Mátthêu viết Tin Mừng của mình để giúp đỡ
các cộng đoàn vượt qua cuộc khủng hoảng của họ. Trước hết, Tin Mừng của
ông là một Tin Mừng mặc khải cho thấy Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế đích
thực, một ông Môisen mới, tột đỉnh của toàn bộ lịch sử Cựu Ước và những lời hứa
trong đó. Đó cũng là Tin Mừng của sự an ủi cho những ai bị hắt hủi
và ngược đãi bởi những anh em Do Thái của họ. Mátthêu muốn an ủi và
giúp họ vượt qua khỏi nỗi tổn thương của sự chia lìa. Đó là Tin Mừng
của việc thực thi mới bởi vì nó cho thấy con đường để đạt được một nền công lý
mới, cao cả hơn công lý của những người Biệt Phái. Đó là Tin Mừng
của sự cởi mở và cho thấy rằng Tin Mừng của Thiên Chúa mà Đức Giêsu mang lại
không thể bị che dấu, nhưng phải được đặt trên ngọn nến để nó có thể soi sáng
đời sống cho tất cả mọi dân tộc.
b) Lời bình giải về đoạn Tin Mừng theo Mátthêu
28:16-20
* Mt 28:16: Trở về
Galilêa: Galilêa là nơi bắt đầu mọi sự (Mt 4:12). Ở đó
các môn đệ lần đầu tiên đã được nghe thấy ơn gọi (Mt 4:15) và cũng nơi đó Chúa
Giêsu đã hứa sẽ đoàn tụ lại với các ông sau khi phục sinh (Mt 26:31). Trong
Phúc Âm Luca, Chúa Giêsu cấm các ông không được rời khỏi Giêrusalem (Cv
1:4). Trong Phúc Âm Mátthêu, họ được lệnh phải rời khỏi Giêrusalem
và trở lại Galilêa (Mt 28:7, 10). Mỗi nhà truyền giáo theo cách
riêng của mình để trình bày con người của Đức Giêsu và các kế hoạch của
Người. Đối với Luca, sau sự phục sinh của Chúa Giêsu, việc công bố
Tin Mừng đã bắt đầu ở Giêrusalem để cho đến tận cùng trái đất (Cv 1:8). Đối
với Mátthêu, việc công bố khởi đầu tại Galilêa của dân ngoại (Mt 4:15) để biểu
hiện trước việc chuyển đổi từ dân Do Thái cho tới dân ngoại.
Các môn đệ đã phải đi đến ngọn núi mà Chúa
Giêsu đã chỉ trước cho họ. Núi này nhắc nhở chúng ta về
núi Sinai, nơi mà Giao Ước đầu tiên đã xảy ra và là nơi ông Môisen đã lãnh
những tấm bia Lề Luật của Thiên Chúa (Xh 19-24; 34:1-35). Nó cũng
nhắc nhở chúng ta về núi của Thiên Chúa, nơi mà tiên tri Êlia
đã ẩn cư để đi tìm lại ý nghĩa sứ vụ của ông (1V 19:1-18). Nó cũng
nhắc nhở chúng ta về ngọn núi Chúa Biến Hình, nơi các ông Môisen và Êlia, đó
là, Lề Luật và các ngôn sứ, hiện ra với Chúa Giêsu, do đó xác nhận rằng Người
là Đấng Cứu Thế đã được hứa (Mt 17:1-8).
* Mt 28:17: Một số người đã hoài
nghi: Các Kitô hữu đầu tiên đã gặp khó khăn lớn trong việc tin vào
sự phục sinh. Các Thánh Sử nhấn mạnh khi nói rằng họ nghi ngờ rất
nhiều và đã không tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu (Mc 16:11, 13, 14; Lc
24:11, 21, 25, 36, 41; Ga 20:25). Niềm tin vào sự phục sinh là một
tiến trình chậm chạp và khó khăn, nhưng được kết thúc bởi sự đoan chắc nhất của
các Kitô hữu (1 Cr 15:3-24).
* Mt 28:18: Mọi quyền năng trên
trời dưới đất đã được ban cho Thầy: Hình thức bị động của động từ
cho thấy rằng Chúa Giêsu đã nhận được quyền năng của Người từ Chúa Cha. Quyền
bính này là gì? Trong sách Khải Huyền, Chiên Con (Chúa Giêsu Phục
Sinh) đã nhận từ tay của Thiên Chúa cuốn sách với bảy con dấu (Kh 5:7) và đã
trở thành Chúa của lịch sử, Người là Đấng chịu trách nhiệm thực thi các chương
trình của Thiên Chúa như đã mô tả trong quyển sách được niêm phong, và được tôn
sùng bởi mọi loài thụ tạo như thế (Kh 12:11-14). Bằng vào quyền bính
và quyền năng của mình, Người chiến thắng con Mãng xà, quyền lực của sự dữ (Kh
12:1-9). Và bắt giữ con thú dữ và tiên tri giả, các biểu tượng của
Đế Quốc La Mã (Kh 19:20). Trong Kinh Tin Kính của Thánh Lễ chúng ta
tuyên xưng rằng Đức Giêsu lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha, như thế Người sẽ
lại đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
* Mt 28:19-20a: Những lời cuối cùng
của Chúa Giêsu: ba mệnh lệnh truyền cho các môn đệ: Được
ủy thác với quyền bính tối cao, Chúa Giêsu truyền lại ba mệnh lệnh cho các môn
đệ và cho tất cả chúng ta: (i) Đi giảng dạy cho muôn dân;
(ii) làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần; (iii) giảng dạy
họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con.
i) Đi giảng dạy cho muôn dân: Là
một người môn đệ không giống như một học trò. Người
môn đệ được ở trong một mối quan hệ với vị tôn sư. Người học trò ở
trong một mối tương quan với người dạy học. Người môn đệ sống với vị
tôn sư 24 giờ một ngày; người học trò nhận lãnh bài học từ thày giáo trong vài
tiếng đồng hồ rồi sau đó trở về nhà. Người môn đệ bao hàm ý một cộng
đoàn. Người học trò bao hàm sự hiện diện trong một lớp học cho các
bài học. Vị trí của người môn đệ thời ấy được đánh dấu bằng sự biểu
lộ đi theo vị tôn sư. Trong Luật dòng Cát Minh, chúng ta
đọc thấy: Sống trong sự tùng phục Chúa Giêsu Kitô. Đối
với những Kitô hữu tiên khởi, đi theo Chúa Giêsu mang ý nghĩa
ba việc liên kết sau:
- Noi theo gương Thầy: Chúa Giêsu
là mẫu mực để noi theo và để được lặp lại trong đời sống của người môn đệ (Ga
13:13-15). Sống với nhau mỗi ngày có nghĩa là một cuộc họp liên
tục. Trong Trường của Chúa Giêsu chỉ có một môn học
được dạy: Vương Quốc Nước Trời! Vương Quốc này có thể
được nhìn thấy trong đời sống và sự thực hành của Chúa Giêsu.
- Chia sẻ số phận của Thầy: Những
ai đi theo Chúa Giêsu, đã phải tự cam kết “một lòng gắn bó với Người trong mọi
thử thách cám dỗ” (Lc 22:28), trong lúc bị bách hại (Ga 15:20; Mt 10:24-25) và
phải sẵn sàng vác thập giá và chết với Người (Mk 8:34-35; Ga11:36).
- Sống trong đời sống của Chúa Giêsu: Sau
khi Phục Sinh, một khía cạnh thứ ba đã được thêm vào: “Bây giờ tôi
sống không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Các Kitô
hữu tiên khởi đã cố xác định căn tính của mình với Chúa Giêsu. Đây
là khía cạnh mầu nhiệm trong việc đi theo Đức Giêsu, là hoa trái sự tác động
của Chúa Thánh Thần.
ii) Làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh
Thần: Ba Ngôi Thiên Chúa là sự khởi đầu, sự kết thúc và
đường đi. Những ai chịu phép rửa nhân danh Chúa Cha, được mặc khải
trong Chúa Giêsu, cam kết sống với nhau như anh chị em trong tình huynh
đệ. Và nếu Thiên Chúa là Cha, tất cả chúng ta đều là anh chị
em. Những ai chịu phép rửa nhân danh Chúa Con, Chúa Giêsu, cam kết noi
gương Đức Giêsu và đi theo Người ngay cả trên thập giá để sống lại với
Người. Và quyền năng mà Chúa Giêsu nhận lãnh từ Chúa Cha là một
quyền năng sáng tạo đã chinh phục sự chết. Những ai chịu phép rửa
nhân danh Chúa Thánh Thần, được trao ban bởi Chúa Giêsu trong ngày lễ Ngũ Tuần,
cam kết sống trong tình anh em và theo gương Đức Giêsu, đặt mình dưới sự hướng
dẫn bởi Chúa Thánh Thần sống động ở giữa cộng đoàn.
iii) Giảng dạy họ tuân giữ mọi điều răn của Thầy: Đối
với chúng ta là những Kitô hữu, Chúa Giêsu là Lề Luật Mới của Thiên Chúa, được
công bố từ ở trên núi cao. Đức Giêsu là Đấng được chọn bởi Chúa Cha
như một Môisen mới, những lời của Người là lề luật cho chúng ta. “Hãy
nghe lời Người” (Mt 17:15). Chúa Thánh Thần được Người
sai đến sẽ nhắc nhở chúng ta về mọi điều Chúa đã dạy chúng ta (Ga 14:26;
16:13). Việc tuân giữ Lề Luật mới của tình yêu được quân bình bởi sự
hiện diện như món quà tặng của Chúa Giêsu ở chúng ta, cho đến tận thế.
* Mt 28:20b: Thầy ở cùng các con
mọi ngày, cho đến tận thế: Khi Môisen được sai đi đến để giải thoát
dân chúng khỏi đất Ai Cập, ông đã nhận được một sự cam kết từ Thiên Chúa, lời
cam kết duy nhất ban cho sự đoan chắc hoàn toàn: “Hãy đi, Ta sẽ ở
với ngươi!” (Xh 3:12). Đó cũng là lời đoan chắc được hứa với các
ngôn sứ và các người khác được sai đến bởi Thiên Chúa để thực hiện một sứ vụ
quan trọng trong kế hoạch của Thiên Chúa (Gr 1:8; Tl 6:16). Đức
Trinh Nữ Maria cũng đã nhận được cùng lời cam kết như thế khi sứ thần nói với
Bà: “Đức Chúa ở cùng Bà” (Lc 1:28). Con người của Chúa
Giêsu là sự biểu hiện sống thực của lời cam kết này, bởi vì tên Người là
Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1:23). Người sẽ ở cùng với
các môn đệ của Người, với tất cả chúng ta, cho đến tận thế. Ở đây
chúng ta thấy quyền bính của Chúa Giêsu. Người kiểm soát lịch sử và
thời gian. Người là Đấng trước hết và là sau cùng (Kh 1:17). Trước
Người, không có gì hiện hữu và sau Người, không có gì tồn tại. Lời
cam kết này nâng đỡ muôn dân, nuôi dưỡng đức tin của họ, duy trì hy vọng và tạo
ra tình yêu và ân sủng cho họ.
c) Điểm nổi bật Lời của Chúa Giêsu: Sứ vụ
chung của cộng đoàn.
Ông
Abraham được gọi là nguồn mạch của mọi sự chúc phúc không những chỉ cho các con
cháu dòng dõi ông, mà còn cho tất cả mọi gia tộc trên mặt đất (St 12:3). Dân
tộc bị coi là nô lệ không những chỉ phục hồi được chi tộc của nhà Giacóp, mà
còn làm ánh sáng cho muôn dân (Is 49:6; 42:6). Ngôn sứ Amốt nói rằng
Thiên Chúa đã không chỉ giải thoát dân tộc Do thái khỏi đất Ai-cập, mà cũng
giải thoát dân Phi-li-tinh khỏi Cáp-tor và dân A-ramai khỏi xứ Kia (Am
9:7). Lúc ấy, Thiên Chúa chăm sóc và quan tâm đến dân Do thái, cũng
như dân Phi-li-tinh và dân A-ramia là những kẻ thù lớn nhất của dân tộc Do
Thái! Tiên tri Êlia đã nghĩ rằng ông là người duy nhất có lòng nhiệt
thành với Thiên Chúa (1V 19:10-14), nhưng ông đã được bảo cho biết rằng ngoài
ông ra còn có bảy ngàn người khác nữa! (1V 19:18) Tiên tri Giôna
muốn Đấng Gia-Vê chỉ là Thiên Chúa của dân Israel, mà đã phải thú nhận rằng
Ngài là Thiên Chúa của tất cả muôn dân, thậm chí của cả dân thành Ninivê, những
kẻ thù địch cay đắng của dân Israel (Gn 4:1-11). Trong Tân Ước, môn
đệ Gioan đã muốn Chúa Giêsu chỉ là của riêng nhóm nhỏ, cho riêng cộng đoàn,
nhưng Chúa Giêsu đã chỉnh sửa ông và nói rằng: ai không chống lại chúng
ta là ủng hộ chúng ta! (Mc 9:38-40).
Vào
cuối thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên, những khó khăn và bách hại có
lẽ đã khiến cho các cộng đoàn Kitô hữu mất đi động lực sứ vụ và sống khép kín,
như thể họ là những kẻ duy nhất nhiệt thành với các giá trị Nước Trời. Nhưng
Tin Mừng của thánh Mátthêu, trung thành với truyền thống lâu đời về việc mở ra
cho tất cả các dân, nói với các cộng đoàn rằng họ không thể sống cho riêng
mình. Họ không thể tự cho mình độc quyền công việc của Thiên Chúa
trên thế gian. Thiên Chúa không là sở hữu riêng của cộng đoàn; mà
đúng hơn cộng đoàn sở hữu riêng của Thiên Chúa (Xh 19:5). Ở giữa
nhân loại mà công cuộc đấu tranh chống lại bách hại và áp bức, cộng đoàn phải
là muối là men (Mt 5:13; 13:33). Họ phải công bố lớn tiếng khắp cả
thế gian, trong muôn dân, Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta. Thiên
Chúa đang hiện diện ở giữa chúng ta, với cũng chính Thiên Chúa, trong thời kỳ
Xuất Hành khi xưa, đã hứa là sẽ giải thoát cho những ai kêu cầu đến Ngài! (Xh
3:7-12). Đây là sứ vụ của chúng ta. Nếu muối này mất đi
vị mặn của nó, thì nó còn được dùng vào việc gì nữa? “Nếu dùng nó để
bón ruộng hay trộn phân đều không thích hợp” (Lc 14:35)
6. Thánh Vịnh 150
Lời ca tụng của toàn thế giới
Allêluia!
Ca tụng Chúa đi, trong đền thánh Chúa,
Ca tụng Người chốn cao thẳm uy linh,
Ca tụng Chúa vì công trình hùng vĩ,
Ca tụng Người lẫm liệt uy phong.
Ca tụng Chúa đi, rập theo tiếng tù và,
Ca tụng Người, họa tiếng cầm tiếng sắt.
Ca tụng Chúa, bằng vũ điệu trống đưa,
Ca tụng Người, theo cung đàn nhịp sáo.
Ca tụng Chúa đi, với chũm chọe vang rền,
Ca tụng Người cùng thanh la inh ỏi.
Hỡi toàn thể chúng sinh, ca tụng Chúa đi nào!
Allêluia!
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp
chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi
sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời
Chúa đã mặc khải cho chúng con. Nguyện xin cho chúng con, được trở
nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực
hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha
trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét