29/06/2014
Chúa
Nhật XIII Mùa Thường Niên
Lễ
Thánh Phêrô và Phaolô, Tông Đồ
(phần II)
GIÁO LÝ PHÚC ÂM
CN LỄ THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ
CHÚA NHẬT LỄ HAI THÁNH TÔNG ĐỒ PHÊRÔ & PHAOLÔ
Sách Tông Đồ Công Vụ 12.1-11;
Thư Thứ Hai của Tánh Phaolô gửi Timôtê 4.6-8,17-18
và Phúc Âm Thánh Matthêô 16.13-19
I. Giáo Huấn Phúc Âm:
Chúa thiết lập Giáo Hội trường tồn trên đá tảng
Phêrô.Chúa trao quyền lãnh đạo Giáo Hội, quyền cầm buộc cho Phêrô. Sauk hi khi
Phêrô đã được Thiên Chúa Cha soi sáng tuyên xưng Thiên tính của con người Chúa
Giêsu rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!”
Giáo Hội Chúa trường tồn dù bị quyền lực Satan
tấn công. Vì chính Chúa thiết lập Giáo Hội trên đá tảng vững bền.
Người lãnh đạo Giáo Hội dưới sự soi dẫn của Thiên
Chúa để cho mọi người biết tuyên xưng : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống!”
II. Vấn nạn Phúc Âm:
Tông đồ Phêrô:
Phêrô nguyên tên gốc Do Thái là Simon, là anh em
với ông Anrê. Có hai cặp anh em ruột là Anrê - Simon và Giacôbê – Gioan là
người làng Bethsaida, bên cạnh hồ Galilê (Mátthêu: 4,23). Những Ông nầy đều là
dân thuyền chài kiếm sống ở Biển Hồ Galilê và được Chúa kêu gọi làm những môn
đệ đầu tiên của Ngài sau khi đã cho họ bắt được một mẻ cá đầy (Máccô: 1,16-18;
Mátthêu 4,18-22; Luca 5,1-11 và Luca: 5, 4:11).
Simon gặp Chúa Giêsu qua sự giới thiệu của Anrê
và được Người đặt tên là Kepha theo tiếng Aram (Gioan: 1, 42) (hay Cephas trong
tiếng Hy Lạp). Kepha hay Cephas dịch sang Petros trong Hy Lạp đều có cùng một
nghĩa là Đá. Tiếng Pháp Pierre, tiếng Anh Peter, có nghĩa là Rock và tiếng Việt
nhái âm đọc là Phêrô và thường phải nói thêm “có nghĩa là Đá!”
Chúa đã có ý chọn Phêrô làm thủ lãnh qua việc:
Đổi tên Ông từ Simon sang Phêrô
Tên Phêrô luôn đứng đầu danh sách các Tông Đồ
được ghi trong Máccô 3,16-19; Mátthêu 10,2-4; Luca 6,14-16; và Công vụ: 1,13).
“Sau đây là tên của mười hai Tông đồ đứng đầu là ông Simon, cũng gọi là Phêrô”
Tên của ông luôn được nhấn mạnh (Mátthêu: 10:2):
“Và Người lập nhóm mười hai để các ông ở lại với Người. Người sai các ông đi
rao giảng và đặt tên cho Simon là Phêrô”
Phêrô đã nhân danh các tông đồ khác mà trả lời
khi Chúa có vấn nạn, như trong việc tuyên tín Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.
(Mátthêu: 16 – 16)
Phêrô luôn ở bên cạnh chúa trong những biến cố
đặc biệt, cũng như Ông có những kỷ niệm thật sâu đậm với Chúa: Khi Chúa
chữa con gái Ông chủ Hội Đường, Ông Giairô; Chúa cho đi trên mặt nước; Chúa
biến hình sáng láng trên núi Tabor; Chúa hấp hối trong vườn Cây dầu; Theo sát
Chúa vào tận dinh thượng tế Caipha khi Chúa bị bắt và bị xét xử; Chối Chúa ba
lần; nhảy xuống biển bơi vào bờ; Bị Chúa cật vấn 3 lần là Siomon, con Gioan,
con có yêu mến Thầy hơn những người nầy không? Sau cùng trao quyền chủ chăn tôi
cáo…
Sau khi Chúa Phục Sinh và lên trời. Sauk hi đã
nhận lãnh Chúa Thánh Thần, Phêrô thi hành quyền thủ lãnh được Chúa trao: Ông
giảng tại Công trường Giêrusalem và có 3000 người rửa tội trong ngày ấy. Ông
chủ tọa việc bầu chọn Matthias thay thế Giuđa Iscariôt (Cv 1,15-26). Phêrô chủ
tọa Công Đồng đầu tiên tại Giêrusalem (Công vụ chương 15) Khi lên Giêrusalem
lần đầu tiên, ông Phaolô đi gặp ông Phêrô và các tông đồ nồng cốt như Giacôbê
và Gioan để tỏ ra tinh thần vâng phục vị thủ lãnh các tong đồ (Galata 1.18-19)
Ông làm nhiều phép lạ chữa bệnh tật nhân danh Đức Kitô, Đấng Cứu Thế….
Phêrô đến Rôma năm 42 và thành lập Cộng đoàn Kitô
giáo ở đó. Theo lưu truyền, Phê-rô bị bắt
và bị tống giam. Tại nhà ngục, ông đã cảm hóa hai người lính canh ngục tên là
Processus và Martinianus. Cả hai được rửa tội và tử đạo. Cuối cùng vì không có
quốc tịch Rô-ma, ông bị kết án tử hình trên thập tự. Bị dẫn tới hí trường
Caligula trên đồi Vatican, trông thấy thập giá, Phê-rô cảm thấy mình không xứng
đáng được chết như thầy mình, đã yêu cầu được đóng đinh ngược. Phê-rô tử đạo
năm 64 dưới thời bạo Chúa Nêrô.
Tông đồ Phaolô:
Thánh Phaolô tên thật là Saolê, thuộc chi tộc
Benjamin sinh khoảng năm 5 tại Tarsus, Tiểu Á, ngày nay thuộc Thổ nhĩ Kỳ, nhiều
người ở đây đã trở nên công dân của Đế quốc Rôma. Khi còn nhỏ, Saolê học kinh
doanh, có thể vì người cha là người buôn vải. Nhưng Saolê lại có tài lãnh đạo.
Hơn 10 tuổi, Saolê đến Jerusalem học với thầy Gamaliel. Phaolô được giáo dục
trong truyền thống thuần Do Thái Giáo. Phaolô đã trích Cựu ước khoảng 200 lần
trong các thư gởi các Giáo đoàn.
Lòng yêu mến tôn giáo tổ tiên khiến Ông đã bách
hại Giáo hội sơ khai bằng cách hành hạ các tín hữu cho đến chết, trói và tống
ngục cả đàn ông lẫn phụ nữ. Người đầu tiên bị Phaolô thủ tiêu là thánh
Stêphanô, bị ném đá đến chết trước mặt người Pharisiêu. Tuy nhiên, Chúa đã hoán
cải Ông trên đường Ông đi tìm giết người theo Chúa: Ông ngã ngựa, mù mắt và đã
có cả 3 năm giờ để chuyển hướng. Chúa đã chiến thắng và đã dùng Phaolô như một
tong đồ truyền giáo số một. Là người Rôma, Phaolô đã đi khắp Đế quốc, nói 3
ngôn ngữ: tiếng Aram, tiếng Do thái và tiếng Hy lạp, đồng thời còn thông thạo
tiếng Latin nữa.
Ngoài công cuộc truyền giáo cho dân ngoại. Phaolô
có công rất lớn trong việc xây dựng nền thần học cho Kitô giáo qua 14 lá thư
gửi cho các giáo đoàn. Khoảng năm 60, thánh Phaolô bị bắt lần nữa và bị giải về
Rôma. Tương truyền chính vua Nêro, người chống Kitô giáo kịch liệt, đã ngồi ghế
thẩm phán kết án thánh Phaolô bị xử trảm tại Hang Khuynh Diệp gần Rôma. Người
ta nói rằng thủ cấp của thánh Phaolô rơi xuống và nảy lên 3 lần trên đất tạo
thành 3 giếng nước. Cách đó khoảng 2 dặm là Đại Thánh đường Thánh Phaolô Ngoại
thành được xây dựng chỉ sau khi ngài tử đạo một thời gian ngắn.
Quyền tối thượng của Phêrô và Giám Mục Rôma tức
các Đức Giáo Hoàng:
Nơi chốn lịch sử:
Nơi Chúa trao quyền thủ lãnh tối cao lãnh đạo
Giáo Hội cho Phêrô gọi là Tabgha. Tabgha là một địa danh nằm phía Tây Bắc biển
hồ Galilê. Theo truyền thống Kitô giáo, đây cũng chính là nơi Chúa đã làm phép
lạ hoá bánh ra nhiều theo tường trình của Phúc Âm Thánh Matcô 6.30-46. Đây cũng
chính là nơi mà Chúa Phục sinh đã hiện ra lần thứ ba, theo tường trình của Phúc
Âm Gioan 21.1-24. Đây là lần hiện ra rất quan trọng: Chúa chất vấn Phêrô ba lần
và trao quyền lãnh đạo tối cao cho Phêrô "Này anh Si-môn, con ông Gio-an,
anh có mến Thầy hơn các anh em này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy có,
Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su nói với ông: "Hãy chăm sóc
chiên con của Thầy." Người lại hỏi: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an,
anh có mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến
Thầy." Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy." Người hỏi lần
thứ ba: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?"
Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có yêu mến Thầy không?"
Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến
Thầy." Đức Giê-su bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy.
Ngày nay nơi đây có nhà thờ mang tên “Nhà Thờ
trao quyền thủ lãnh tối cao cho Phêrô” (Church of the Primacy of Peter) do quí
linh mục dòng Phanxicô cai quản. Nhà thờ trao quyền tối cao cho Phêrô được xây
dựng vào khoảng hậu bán thế kỷ thứ tư. Sau nầy, năm 1938 được xây dựng cho phù
hợp với ý nghĩa của Phúc Âm hơn: Nhà thờ nằm bên bờ hồ và một vịnh nhỏ dẫn nước
gần sát bên nhà thờ. Bên ngoài nhà thờ cạnh hướng ra biển hồ có thềm đá, chỉ
nơi Chúa đứng để hỏi các tông đồ: “Chúng con có bắt được gì không?” Bên trong
nhà thờ có chỗ gọi là Mensa Christi, tức nơi Chúa dọn ăn sáng cho các tông đồ.
Phía trước nhà thờ có tượng Chúa trao quyền thủ lãnh cho Phêrô bằng đồng đen.
Tất cả đều được tạo dựng sau nầy theo tường thuật trong Phúc Âm. Thật ra không
ai dám cả quyết chính xác nơi chốn Chúa trao quyền cho Phêrô. Cũng giống như
vậy khi đề cập nơi Chúa sinh ra ở Bêlem. Người ta đánh dấu nơi Chúa sinh ra bằng
một ngôi sao David dưới hầm nhà thờ Chính Thống Giáo. Khách hành hương chỉ nên
tỏ lòng tôn kính nơi đâu gần đây Chúa sinh ra, chứ còn nơi chốn chính xác thật
không cần thiết và không thể quả quyết.
Là thủ lãnh tối cao, Phêrô có nhiệm vụ gì?
Phêrô phải là Kêpha, tức là Ðá. Chúa đã đổi tên
Simon trong tiếng Do Thái sang Phêrô, có nghĩa là Đá và trên Đá Tảng Phêrô,
Chúa thành lập Giáo Hội và “dù cho quỉ hoả ngục cũng không thắng nỗi!” Nên
nhiệm vụ hàng đầu của Phêrô là đá tảng vững bền, xây nền Giáo Hội.
Phêrô có quyền cầm buộc: Phêrô thật sự nhận thần
quyền do Chúa trao ban “Phêrô, con là Đá, trên đá nầy, Ta sẽ xây Giáo Hội của
Ta. Dù quỉ hoả ngục cũng không thắng nỗi. Ta trao cho con chìa khoá nước trời.
Sự gì con cầm buộc dưới đất trên trời cũng cầm buộc. Sự gì con tháo gở dưới
đất, trên trời cũng tháo gở” Hay sau khi sống lại, Chúa hiện ra, thổi hơi trên
các tông đồ và nói: “Hãy nhận lấy Chúa Thánh thần, các con tha tội cho ai thì
tội người ấy được tha. Các con cầm buộc tội ai thì tội người ấy bị cầm buộc”
như trong Phúc Âm Thánh Gioan 20.21-23 và trong Matthêo 18.18.Quyền thủ lãnh
của Phêrô bao gồm cả quyền lập pháp tức lập luật và giải thích luật để Giáo Hội
tuân giữ mà mang ích lợi cho phần rỗi thiêng liêng.
Phêrô là thủ lãnh và là Mục tử nhân hậu: Trong
Cựu Ước, Môisen, Đavít là những lãnh tụ, nhưng họ từng là những mục tử, những
người chăn chiên, những người đi theo bầy đàn của mình: Biết chiên, lo cho
chiên, dẫn chiên đến dồng cỏ xanh, đến suối nước trong, đến nơi nghỉ ngơi bổ
dưỡng (Thánh Vịnh 23) Chủ chiên đi tìm chiên lạc. Chủ chiên phải hy sinh mạng
sống vì đàn chiên. Phêrô được trao quyền thủ lãnh, tức quyền mục tử để
chăm lo, chăn dắt và mang phúc lợi cho đàn chiên Chúa.
Làm sao biết hay chứng minh được là các Đức Giáo
Hoàng kế vị Thánh Phêrô?
Những Giáo phái Tin Lành không tin chuyện các
Giáo Hoàng Công Giáo kế vị Thánh Phêrô. Vì nhiệm vụ của Phêrô là độc đáo dành
riêng cho một mình cá nhân Ông. Cũng giống như Thánh Lễ và Bí Tích Thánh Thể
bên Công Giáo, những Giáo Phái Tin lành xác quyết rằng: Chúa Giêsu là linh mục
thượng phẩm và đã dâng lễ một lần trên Thánh giá là đủ để mang ơn cứu độ cho
nhân loại. Câu Chúa nói “Các con hãy làm việc nầy để nhớ đến Ta”, không có ý
trao quyền tế lễ để tiếp tục ban ơn cứu độ cho nhân loại. Đó chỉ là lời khuyên
nên nhóm họp để nhớ lại việc Chúa làm mà thôi. Việc dâng lễ bên Công Giáo chỉ
là việc thêm một giọt nước dư thừa vào ly nước đã đầy, ly nước công nghiệp của
Chúa Giêsu đã quá đủ, không còn khả năng dung nạp thêm một giọt nước nào nữa
cả.
Giáo Huấn của Giáo Hội Công Giáo:
Phêrô thừa nhận quyền thủ lãnh và quyền tối
thượng trên toàn thể Giáo Hội. Phêrô chính thức được trao quyền sau khi ba lần
bị sát hạch là “Simon, con Gioan con có yêu mến Ta hơn những người nầy không?”
Cả ba lần Ông đã trả lời “Có! Dạ Thầy biết con yêu mến Thầy” Và Chúa đã trao
cho Ông quyền chăn chiên “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” như trong Bài Phúc Âm
Chúa Nhật III sau Phục Sinh tường thuật. Thánh lễ truyền chức: Phó tế, Linh mục
hay Giám Mục đều có phần tra vấn trước khi đặt tay truyền chức. Tra vấn để xác
tín rồi mới trao quyền thi hành.
Thi hành quyền tiên tri và thánh hoá: Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô như một thủ
lãnh Giáo Hội truyền giảng Tin Mừng cho muôn dân. Ông qui tụ thêm số đông người
vào Giáo Hội mà Ông là Đá Tảng. Chỉ trong một ngày, Phêrô và các tông đồ đã
giảng và rửa tội cho 3 ngàn người từ khắp nơi tụ về Giêrusalem. TĐCV. 2.1-41
Phêrô và các Tông đồ được thông truyền thần lực và có thể chữa bệnh như trong
TĐCV.3.6-8 “Bấy giờ ông Phê-rô nói: "Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái
tôi có, tôi cho anh đây : nhân danh Đức Giê-su Ki-tô người Na-da-rét, anh đứng
dậy mà đi !" Rồi ông nắm chặt lấy tay mặt anh, kéo anh chỗi dậy. Lập tức
bàn chân và xương mắt cá của anh trở nên cứng cáp. Anh đứng phắt dậy, đi lại
được ; rồi cùng với hai ông, anh vào Đền Thờ, vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng
Thiên Chúa.
Phêrô thi hành quyền lãnh đạo Giáo Hội: Triệu tập Công Đồng chung lần đầu tiên
tại Giêrusalem để quyết định rằng: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định
không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này:
là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, và tránh gian dâm. Anh em
cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi” (Cv 15:28-29). Công đồng đã quyết định
không bắt buộc “dân ngoại” phải cắt bì và tuân thủ Lề Luật của người Do Thái.
Phêrô lên tiếng bảo vệ cùng một nguyên tắc như Phaolô: “Anh em biết: ngay từ
những ngày đầu, Thiên Chúa đã chọn tôi giữa anh em, để các dân ngoại được nghe
lời Tin mừng từ miệng tôi và tin theo...” (Cv 15: 7t). Luca còn thuật là khi
Phêrô bị bắt, Giáo hội đã khẩn thiết cầu nguyện cho ông (Cv 12: 5), và một
thiên thần đã đến giải phóng ông, “rồi ông ra đi, đến một nơi khác” (Cv 12:
17)...
Chính ông chủ tọa việc bầu một tông đồ thay thế Giuđa Iscariôt (Cv. 1,15-26).
Khi lên Giêrusalem lần đầu tiên, ông Phaolô chỉ đi gặp ông Phêrô (Kêpha) và ông
Giacôbê (Gl 1,18-19).
III. Thực hành Phúc Âm.
Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành lễ kính hai Thánh
Tông đồ Phêrô và Phaolô
và trao dây pallium cho các tân Tổng giám mục
Vào lúc 9g30 sáng nay, thứ Bảy 29-06, 2013 Đức
Thánh Cha Phanxicô đã chủ tế Thánh lễ kính hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô
tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Nhân dịp này, Đức Thánh Cha cũng trao
dây pallium cho các tân Tổng giám mục chính tòa đã được bổ nhiệm từ sau ngày
lễ hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô năm trước. Xin trích đăng những điểm chính
trong bài giảng của Đức Thánh cha:
Củng cố trong đức tin : Phúc âm nói về lời tuyên
xưng của Thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).
Lời tuyên xưng này không phải của ngài nhưng do Cha trên trời mặc khải cho. Vì
lời tuyên xưng này, Chúa Giêsu trả lời: “Anh là Phêrô, và trên đá này Thầy sẽ
xây Hội Thánh của Thầy” (câu 18). Bất cứ khi nào chúng ta để cho những suy
nghĩ, tình cảm của chúng ta hay để cho lý luận của quyền năng nhân loại chiếm
ưu thế, mà không cho để cho đức tin, cho Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, khi ấy
chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở. Niềm tin vào Chúa Kitô chính là ánh
sáng soi dẫn cuộc đời chúng ta, là các Kitô hữu hay thừa tác viên trong Giáo
hội.
Củng cố trong tình yêu: Trong bài đọc thứ hai,
chúng ta đã nghe những lời cảm động của Thánh Phaolô: “Tôi đã chiến đấu trong
cuộc chiến cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin” (2Tm 4,7).
Nhưng cuộc chiến này là gì? Đó không phải là một cuộc chiến với thứ vũ khí của
con người mà đáng buồn thay luôn gây ra cảnh máu đổ trên khắp thế giới, nhưng
là cuộc chiến tử đạo. Thánh Phaolô chỉ có một vũ khí, đó là sứ điệp của Chúa
Kitô và cả cuộc đời của thánh nhân như món quà dâng cho Chúa Kitô và cho tha
nhân. Giám mục Roma được kêu gọi sống và củng cố anh chị em mình trong tình yêu
ấy, yêu Chúa Kitô và tha nhân, yêu thương không phân biệt, không giới hạn.
Củng cố trong sự hiệp nhất: Dây pallium là biểu
tượng của sự hiệp thông với người kế vị Thánh Phêrô, “là nguyên lý và nền tảng
trường tồn và hữu hình của sự hiệp nhất trong đức tin và của sự hiệp thông”
(Lumen Gentium, 18). Dây pallium, một khi là dấu chỉ sự hiệp thông với Giám mục
Roma và với Giáo hội hoàn vũ, cũng mời gọi các giám mục trở nên tôi tớ phục vụ
tình hiệp thông.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha kết luận: Tuyên xưng
Chúa bằng cách để Thiên Chúa dạy dỗ mình, tiêu hao chính mình vì yêu mến Chúa
Kitô và Tin Mừng của Người, trở nên tôi tớ của sự hiệp nhất. Đó là những nhiệm
vụ mà hai Thánh tông đồ Phêrô và Phaolô ủy thác cho mỗi người chúng ta, để mỗi
người Kitô hữu cũng sống những điều ấy.
Lm.
Phêrô TRẦN THẾ TUYÊN
Lectio Divina: Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, Tông Đồ
Chúa Nhật, 29 Tháng 6,
2014
Đức Giêsu nói với ông
Phêrô: “Này con là Đá!”
Tảng đá của hỗ trợ và
của cản lối
Mt: 16:13-23
1. Lời
nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến
giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ
trên đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh
Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa
trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập giá
tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự
sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để
chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh,
trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất
là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng
con, để cũng giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức
mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang
sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa
bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã
mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.
Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa
khóa dẫn đến bài đọc:
Văn bản phụng vụ của ngày lễ các Thánh Phêrô
và Phaolô được lấy từ sách Tin Mừng theo thánh Mátthêu
16:13-19. Trong phần bình luận của chúng ta, chúng tôi cũng bao gồm
các câu 20-23, bởi vì trong toàn bộ của văn bản, các câu 13-23, Chúa Giêsu quay
về phía thánh Phêrô và hai lần gọi ông là “đá”. Một lần Chúa gọi ông
là tảng đá nền tảng (Mt 16:18) và một lần tảng đá cản đường (Mt
16:23). Cả hai câu nói bổ sung cho nhau. Trong khi đọc
Tin Mừng, chúng ta nên chú ý đến thái độ của ông Phêrô và những lời trang trọng
mà Chúa Giêsu nói với ông trong cả hai lần.
b) Phân
đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
13-14: Chúa
Giêsu muốn biết người ta nghĩ gì về Người.
15-16: Chúa
Giêsu hỏi các môn đệ và ông Phêrô tuyên xưng đức tin của mình: “Thầy
là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa!”
17-20: Sau
đó, chúng ta có câu trả lời long trọng của Chúa Giêsu cho ông Phêrô (câu nói
chính cho ngày lễ hôm nay).
21-22: Chúa
Giêsu giải thích ý nghĩa của Đấng Cứu Thế, nhưng ông Phêrô phản ứng và từ chối
chấp nhận ý nghĩa ấy.
22-23: Câu
trả lời long trọng của Chúa Giêsu dành cho ông Phêrô.
c) Phúc
Âm:
13 Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành
Cêsarêa Philípphê, và hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Con Người
là ai?” 14 Các ông thưa: “Người thì bảo là
Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri
nào đó.”
15 Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần
các con, các con bảo Thầy là ai?” 16 Simon Phêrô thưa
rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống.”
17 Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi Simon
con ông Giôna, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mặc khải cho
con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. 18 Vậy Thầy
bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của
Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. 19 Thầy sẽ trao
cho con chìa khóa nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời
cũng cầm buộc, và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở.” 20 Rồi
Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô.
21 Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các
môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do
các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba
sẽ sống lại.
22 Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu
trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện
ấy!” 23 Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông
Phêrô: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Con cản lối Thầy,
vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài
người.”
3. Giây
phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa được thấm
nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài
câu hỏi gợi ý:
Để giúp chúng ta trong
việc suy gẫm cá nhân.
a) Điều gì trong đoạn Tin Mừng làm
tôi chú ý nhất?
b) Người ta nghĩ Đức Giêsu là
ai? Phần ông Phêrô và các môn đệ thì nghĩ Chúa Giêsu là
ai?
c) Đối với tôi, Chúa Giêsu là
ai? Tôi là ai đối với Chúa Giêsu?
d) Phêrô có nghĩa là tảng đá theo hai
cách: hai nghĩa đó là gì?
e) Cộng đoàn chúng ta thì thuộc loại tảng
đá nào?
f) Trong đoạn Tin Mừng, chúng ta thấy
có một số ý kiến về Đức Giêsu là ai và một số cách bày tỏ đức
tin. Ngày nay cũng vậy, có một số ý kiến về Đức Giêsu là
ai. Ý kiến của cộng đoàn chúng ta về Đức Giêsu là gì? Sứ
vụ ngụ ý dành cho chúng ta là loại sứ vụ gì?
5. Chìa
khóa dẫn đến bài đọc
Dành cho những ai muốn
đào sâu vào chủ đề.
i) Bối
cảnh:
Trong phần tường thuật
Tin Mừng của mình, thánh Mátthêu đã dùng cùng trình tự của Tin Mừng theo thánh
Máccô. Tuy nhiên, ông cũng trích dẫn một tài liệu được thánh Luca và
ông biết đến. Hiếm khi ông đưa ra những dữ kiện hoàn toàn của ông,
như trong bài Tin Mừng hôm nay. Bài Tin Mừng này và cuộc đối thoại
giữa Chúa Giêsu và ông Phêrô được giải thích nhiều cách khác nhau, thậm chí còn
theo những chiều hướng đối nghịch trong các giáo hội Kitô giáo khác
nhau. Trong Giáo Hội Công Giáo, văn bản này là cơ sở cho tính ưu
việt của ông Phêrô. Dù sao chăng nữa cũng không không có bất kỳ điều
gì làm giảm bớt tầm quan trọng của văn bản này, tốt nhất là đặt nó vào trong
bối cảnh Tin Mừng Mátthêu, nơi mà ở những chỗ khác, phẩm chất được gán cho ông
Phêrô cũng là do những người khác. Chúng không hẳn là riêng cho ông
Phêrô.
ii) Lời
bình giải về văn bản:
a) Mt
16:13-16: Các ý kiến của dân chúng và các môn đệ về Đức Giêsu.
Chúa Giêsu muốn biết
người ta nghĩ gì về Người. Câu trả lời khá là đa dạng: là
Gioan Tẩy Giả, là tiên tri Giêrêmia hay một tiên tri nào đó. Khi
Chúa Giêsu hỏi ý kiến của các môn đệ, ông Phêrô nhân danh các ông mà thưa rằng: “Thầy
là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống!” Câu trả lời của ông Phêrô
không có gì mới mẻ. Vào một dịp trước đó, khi Chúa Giêsu đi trên mặt
nước, các môn đệ đã tuyên xưng đức tin một cách tương tự: “Quả thật
Thầy là Con Thiên Chúa!” (Mt 14:33). Đây là lời thừa nhận rằng trong
Đức Giêsu những lời tiên tri của Cựu Ước đã được thực hiện. Trong
Tin Mừng của thánh Gioan, bà Máctha cũng đã tuyên xưng tín điều tương
tự: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga
11:27).
b) Mt 16:17: Câu
trả lời của Chúa Giêsu cho ông Phêrô: Hỡi Simon, con ông Giôna, con
thật có phúc!
Chúa Giêsu tuyên bố
rằng ông Phêrô thật là “có phúc” bởi vì ông đã được mặc khải bởi Đức Chúa
Cha. Câu trả lời của Chúa Giêsu cũng chẳng mới gì. Vào một dịp
trước đây, Đức Giêsu cũng đã thực hiện việc công bố cùng một niềm ân phúc cho
các môn đệ vì các ông đã được nghe và được thấy điều mà trước đây không ai được
nghe và thấy (Mt 13:16), và Người ca tụng Đức Chúa Cha vì Người đã mặc khải Con
Thiên Chúa cho những kẻ bé mọn mà không mặc khải cho những bậc khôn ngoan thông
thái (Mt 11:25). Ông Phêrô là một trong những kẻ bé mọn mà chính
Chúa Cha đã mặc khải cho. Việc nhận thức rằng Thiên Chúa hiện diện
trong con người Giêsu không phải “đến từ xác thịt và máu”, đó không phải là kết
quả của sự nghiên cứu hoặc nỗ lực của loài người, mà là một ân sủng mà Thiên
Chúa tự ý ban cho người đó.
c) Mt
16:18-20: Tư cách khả năng của ông Phêrô: Là nền đá
tảng và giữ chìa khóa cửa Nước Trời.
1. Là Tảng
Đá: ông Phêrô phải là đá, đó là, ông phải là nền tảng vững chắc cho
Hội Thánh, để Giáo Hội có thể đứng vững trước các cuộc tấn công của cửa địa
ngục. Qua những lời này của Chúa Giêsu nói với ông Phêrô, thánh
Mátthêu khuyến khích các cộng đoàn đang bị bách hại và đau khổ tại Syria và
Paléstine, là những người đã chứng kiến sự lãnh đạo của ông Phêrô được đánh dấu
từ lúc đầu. Dù rằng yếu ớt và bị đàn áp, họ đã có một nền tảng vững
chắc, được bảo đảm bởi Lời của Chúa Giêsu. Vào những ngày ấy, các cộng đoàn
được gieo trồng một mối quan hệ tình cảm rất vững chắc với các nhà lãnh đạo đã
tạo lập ra cộng đoàn. Do đó, các cộng đoàn tại Syria và Paléstine đã
vun trồng mối quan hệ của họ với con người Phêrô; những người thuộc cộng đoàn
Hy Lạp thì với thánh Phaolô; một số cộng đoàn ở tiểu Á thì với Người Môn Đệ
Chúa Yêu và những cộng đoàn khác thì với thánh Gioan của sách Khải
Huyền. Xác định căn tính mình với nhà lãnh đạo của xứ sở họ đã giúp
cho cộng đoàn phát triển tốt hơn trong phần bản sắc và tâm linh của họ. Nhưng
điều này cũng có thể làm phát sinh xung đột như trong trường hợp của cộng đoàn
Côrintô (1Cr 1:11-12).
Là nền đá tảng của đức
tin, gợi nhớ lại trong trí Lời Chúa nói với dân chúng trong thời gian lưu đày ở
Babylon: “Hỡi ai theo đuổi sự công chính, hỡi kẻ đi tìm Đức Chúa,
hãy nghe Ta! Hãy đưa mắt nhìn lên tảng đá: từ tảng đá
này, các ngươi sẽ được đẽo ra; hãy đưa mắt nhìn vào hầm đá: từ hầm
đá này, các ngươi sẽ được lấy ra. Hãy ngước mắt nhìn tổ phụ Ápraham
và Sara, người đã sinh ra các ngươi; vì khi được Ta gọi, Ápraham chỉ có một
mình, nhưng Ta đã ban phúc lành cho nó, và cho nó trở nên đông đảo” (Is
51:1-2). Khi áp dụng cho ông Phêrô, phẩm chất của nền đá tảng này
hướng đến một sự khởi đầu mới cho dân riêng của Thiên Chúa.
2. Chìa
khóa của Nước Trời: ông Phêrô nhận lãnh chìa khóa Nước Trời để cầm
buộc và tháo gỡ, có nghĩa là, để hòa giải con người với Thiên
Chúa. Cùng một quyền lực cầm buộc và tháo gỡ cũng được trao cho các
cộng đoàn (Mt 18:8) và các môn đệ (Ga 20:23). Một trong những điểm
mà Tin Mừng Mátthêu khẳng định là ơn hòa giải và tha thứ (Mt
5:7,23-24,38-42,44-48; 6:14-15). Thực tế là vào những năm của thập
niên 80 và 90, có rất nhiều căng thẳng và chia rẽ giữa các gia đình trong cộng
đoàn tại Syria vì đức tin vào Chúa Giêsu. Có một số người chấp nhận
Ngài là Đấng Mêssia trong khi có những kẻ khác thì không, và điều này là nguồn
gốc của nhiều quan điểm trái ngược và xung đột. Thánh Mátthêu khẳng
định về việc hòa giải. Sự hòa giải tiếp tục là một trong những nhiệm
vụ quan trọng nhất của các điều phối viên của cộng đoàn. Giống như
ông Phêrô, họ cũng phải ràng buộc và tháo gỡ, có nghĩa là, làm việc để mang lại
sự hòa giải, chấp nhận lẫn nhau, và xây dựng tình huynh đệ đích thực.
3. Hội
Thánh: từ ngữ Hội Thánh, tiếng Hy Lạp là ekklesia, được
tìm thấy 105 lần trong Tân Ước, hầu như luôn tìm thấy trong sách Tông Đồ Công
Vụ và các Thánh Thư. Chúng ta chỉ tìm thấy chữ này ba lần trong các
sách Phúc Âm và chỉ thấy trong sách Tin Mừng của Mátthêu. Từ ngữ này
có nghĩa là “cộng đoàn được gọi” hay là “công đoàn được tuyển
chọn”. Từ ngữ này áp dụng cho những người tụ tập lại, được mời gọi
bởi Lời Thiên Chúa, người tìm kiếm để sống sứ vụ Nước Trời được mang đến bởi
Chúa Giêsu. Giáo Hội không phải là Nước Trời, mà là một khí cụ và là
một dấu chỉ của Nước Trời. Nước Trời thì cao trọng
hơn. Trong Giáo Hội, cộng đoàn, tất cả mọi người phải trông thấy
hoặc nên thấy những gì sẽ xảy ra khi một nhóm người để cho Thiên Chúa cai trị
và chiếm hữu đời sống của mình.
d) Mt 16:21-22: Chúa
Giêsu hoàn chỉnh những gì thiếu sót trong câu trả lời của ông Phêrô, và Phêrô
phản ứng bằng cách không chấp nhận.
Thánh Phêrô đã tuyên
xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!” Để
phù hợp với ý tưởng thịnh hành thời bấy giờ, ông đã tưởng tượng ra một Đấng Cứu
Thế vinh quang. Chúa Giêsu đã sửa ông: “Thật là cần thiết
cho Đấng Cứu Thế phải chịu đau khổ và sẽ bị giết chết tại
Giêrusalem”. Với những chữ “cần thiết”, Chúa nói rằng sự đau khổ đã
được dự kiến trong những lời tiên tri (Is 53:2-8). Nếu các môn đệ chấp
nhận Chúa Giêsu như là Đấng Cứu Thế và là Con Thiên Chúa, thì các ông cũng phải
chấp nhận Người như là Đấng Mêssia Tôi Tớ phải chịu chết. Không
những chỉ có chiến thắng vinh quang mà cũng còn phải qua con đường thập
giá! Nhưng ông Phêrô không chịu nghe lời sửa dạy của Chúa Giêsu và
cố gắng thuyết phục Người.
e) Mt
16:23: Câu trả lời của Chúa Giêsu cho ông Phêrô: Tảng đá
cản đường
Câu trả lời của Chúa
Giêsu thật đáng ngạc nhiên: “Satan, lui lại đàng sau
Thầy! Con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng
của Thiên Chúa, mà là của loài người!” Satan là một trong những kẻ
đã lôi kéo chúng ta ra khỏi con đường mà Thiên Chúa đã vạch ra cho chúng
ta. Chúa Giêsu, theo đúng nghĩa đen, nói rằng: “Hãy lui
lại đàng sau Thầy!” (theo tiếng Latin, vada retro!). Ông
Phêrô muốn lèo lái và chỉ đường. Chúa Giêsu nói: “Hãy lui
lại đàng sau Thầy!” Đức Giêsu là người chỉ đường và giữ nhịp chứ
không phải ông Phêrô. Người môn đệ phải đi theo sau thầy mình. Người
ấy phải sống trong sự chuyển đổi liên tục. Lời của Chúa Giêsu cũng
là một thông điệp cho tất cả những ai đang đứng đầu cộng đoàn. Họ
phải “đi theo” chúa Giêsu và không thể đi ở phía trước như ông Phêrô đã muốn
đi. Không phải chỉ có họ mới là những người có thể vạch ra đường hướng hay
cách thức. Mà trái lại, giống như ông Phêrô, thay vì phải là tảng đá
hỗ trợ, họ có thể trở thành tảng đá cản đường. Như có một số người
lãnh đạo cộng đoàn tại thời ông Mátthêu. Mơ hồ rằng hình như cũng có
những chuyện tương tự xảy ra giữa chúng ta ngày nay.
iii) Phụ
chú Tin Mừng liên quan đến ông Phêrô:
Chân dung thánh Phêrô.
Thánh Phêrô được biến
đổi từ một ngư phủ đánh cá sang một ngư phủ đi lưới người (Mc
1:7). Ông đã lập gia đình (Mc 1:30). Ông là một người tốt
bụng và rất nhân bản. Ông có khuynh hướng đảm nhận vai trò lãnh đạo
cách tự nhiên trong số mười hai môn đệ của Chúa Giêsu. Đức Giêsu tôn
trọng khả năng thiên phú này và chọn Phêrô làm người lãnh đạo cho cộng đoàn đầu
tiên của mình (Ga 21:17). Trước khi gia nhập cộng đoàn của Chúa
Giêsu, Phêrô có tên là Simon con ông Giôna (Mt 16:17). Chúa Giêsu
đặt tên cho ông là Kêpha có nghĩa là Đá, và từ đó trở thành tên Phêrô (Lc
6:14).
Cách tự nhiên, ông
Phêrô có thể là bất cứ điều gì, ngoại trừ là đá. Ông dũng cảm trong
lời nói, nhưng trong giờ phút lâm nguy ông trở thành kẻ sợ hãi và trốn
chạy. Ví dụ, khi Đức Giêsu đi trên mặt nước, ông Phêrô đã
hỏi: “Lạy Thầy Giêsu, con cũng có thể đi trên mặt nước mà đến với
Thầy không?” Chúa Giêsu trả lời: “Cứ đến,
Phêrô!” Ông Phêrô liền từ thuyền bước xuống và bắt đầu đi trên mặt
nước. Nhưng khi một làn gió lớn thổi lên, ông đã sợ và bắt đầu chìm. Khi
ấy ông kêu lên: “Lạy Chúa, xin cứu con với!” Chúa Giêsu nắm lấy
tay ông và cứu ông (Mt 14:28-31). Trong bữa Tiệc Ly, ông Phêrô đã
thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, con sẽ không bao giờ chối Chúa!” (Mc
14:31); thế mà chỉ ít giờ sau đó, tại dinh thày cả, trước mặt một cô tớ gái,
khi Chúa Giêsu đã bị bắt, ông Phêrô đã chối Chúa Giêsu và thề độc rằng ông
không biết Người là ai (Mc 14:66-72). Trong vườn Cây Dầu, khi Chúa
Giêsu bị bắt, ông thậm chí còn dùng đến gươm đao (Ga 18:10), nhưng sau đó bỏ
trốn, để lại một mình Chúa Giêsu (Mc 14:50). Ông Phêrô tự nhiên không là
một tảng đá! Thế nhưng là một ông Phêrô yếu hèn và con người, cũng
như chúng ta, đã trở nên tảng đá bởi vì Chúa đã cầu nguyện cho
ông: “Phêrô, Thầy đã cầu nguyện cho con để con khỏi mất lòng
tin. Phần con, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của con nên
vững mạnh” (Lc 22:31-32). Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã có thể
nói: “Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây
Hội Thánh của Thầy” (Mt 16:18). Chúa Giêsu đã giúp ông trở thành
tảng đá. Sau khi sống lại, ở Galilêa, Chúa Giêsu đã hiện ra với ông
Phêrô và hỏi ông hai lẩn: “Phêrô, con có yêu mến Thầy
không? Và ông Phêrô đã thưa lại hai lần: “Lạy Chúa, Chúa
biết con yêu mến Chúa” (Ga 21:15,16). Khi Chúa Giêsu hỏi cùng câu
hỏi đến lần thứ ba với ông, Phêrô đã buồn. Ông chắc đã nhớ đến việc
mình đã chối Chúa ba lần. Vì vậy, ông đã trả lời: “Lạy
Chúa, Chúa biết tất cả mọi sự! Chúa biết rằng con yêu mến
Chúa!” Đến lúc đó Chúa Giêsu mới trao phó cho ông việc chăm sóc đàn
chiên: “Phêrô, hãy chăm sóc chiên của Thầy!” (Ga 21:17). Với sự
giúp đỡ của Chúa Giêsu, sức mạnh của tảng đá tăng triển trong người Phêrô và
ông đã tự mặc khải vào ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Vào ngày
hôm ấy, khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các môn đệ, ông Phêrô đã mở các cánh
cửa của căn phòng trên lầu nơi tất cả các ông đã cùng tụ họp đàng sau các cánh
cửa khép kín vì sợ người Do Thái (Ga 20:19), và được truyền cho lòng can đảm,
đã bắt đầu công bốt Tin Mừng của Chúa Giêsu cho dân chúng (Cv
2:14-40). Từ đó ông không bao giờ ngừng nghỉ! Trong câu
chuyện về việc công bố dũng cảm về sự sống lại này, ông đã bị tống ngục (Cv
4:3). Trong cuộc tra hỏi, ông đã bị cấm không được loan báo về Tin
Mừng của Chúa Giêsu nữa (Cv 4:18), nhưng ông Phêrô đã không tuân thủ theo lệnh
cấm. Ông đáp: “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là
vâng lời loài người!” (Cv 4:19; 5:29). Ông lại bị bắt lần nữa (Cv
5:18,26). Ông đã bị đánh dòn (Cv 5:40). Nhưng ông đã
nói: “Cảm ơn quý vị rất nhiều. Nhưng chúng tôi phải tiếp
tục giảng dạy! (xem Cv 5:42).
Truyền thống cho chúng
ta biết răng vào cuối đời của ông, khi ở thành Rôma, ông Phêrô đã lại có một
khoảng khắc sợ hãi. Nhưng sau đó ông đã trở lại, bị bắt và bị kết án
tử hình đóng đinh trên thập giá. Tuy nhiên, ông đã xin cho được đóng
đinh ngược đầu xuống đất. Ông nghĩ rằng mình không xứng đáng để chết
trong cùng một cách như Thầy mình, Đức Giêsu. Ông Phêrô đã sống thật
với mình cho đến phút cuối cùng.
6. Thánh
Vịnh 103 (102)
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh!
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
CHÚA tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,
thương chữa lành các bệnh tật ngươi.
Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,
bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,
khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng.
CHÚA phân xử công minh,
bênh quyền lợi những ai bị áp bức,
mặc khải cho Môisen biết đường lối của Người,
cho con cái nhà Ít-ra-en
thấy những kỳ công Người thực hiện.
CHÚA là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương,
chẳng trách cứ luôn luôn,
không oán hờn mãi mãi.
Người không cứ tội ta mà xét xử,
không trả báo ta xứng với lỗi lầm.
Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất,
tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.
Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm,
tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.
Như người cha chạnh lòng thương con cái,
CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.
Người quá biết ta được nhồi nắn bằng gì,
hẳn Người nhớ: ta chỉ là cát bụi.
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
một cơn gió thoảng là xong,
chốn xưa mình ở cũng không biết mình.
Nhưng ân tình CHÚA thiên thu vạn đại,
dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn.
Người xử công minh cả với đời con cháu,
cả những ai giữ giao ước của Người
và nhớ tuân hành mệnh lệnh Người ban.
CHÚA đặt ngai báu trên trời cao thẳm,
quyền đế vương bá chủ muôn loài.
Chúc tụng CHÚA đi, hỡi muôn vì thiên sứ,
bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người,
luôn sẵn sàng phụng lệnh.
Chúc tụng CHÚA đi, toàn thể thiên binh,
hằng hầu cận và tuân hành thánh ý.
Chúc tụng CHÚA đi, muôn vật Chúa tạo thành,
thuộc quyền Người thống trị khắp nơi nơi.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh!
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
CHÚA tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,
thương chữa lành các bệnh tật ngươi.
Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,
bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,
khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng.
CHÚA phân xử công minh,
bênh quyền lợi những ai bị áp bức,
mặc khải cho Môisen biết đường lối của Người,
cho con cái nhà Ít-ra-en
thấy những kỳ công Người thực hiện.
CHÚA là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương,
chẳng trách cứ luôn luôn,
không oán hờn mãi mãi.
Người không cứ tội ta mà xét xử,
không trả báo ta xứng với lỗi lầm.
Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất,
tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.
Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm,
tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.
Như người cha chạnh lòng thương con cái,
CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.
Người quá biết ta được nhồi nắn bằng gì,
hẳn Người nhớ: ta chỉ là cát bụi.
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
một cơn gió thoảng là xong,
chốn xưa mình ở cũng không biết mình.
Nhưng ân tình CHÚA thiên thu vạn đại,
dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn.
Người xử công minh cả với đời con cháu,
cả những ai giữ giao ước của Người
và nhớ tuân hành mệnh lệnh Người ban.
CHÚA đặt ngai báu trên trời cao thẳm,
quyền đế vương bá chủ muôn loài.
Chúc tụng CHÚA đi, hỡi muôn vì thiên sứ,
bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người,
luôn sẵn sàng phụng lệnh.
Chúc tụng CHÚA đi, toàn thể thiên binh,
hằng hầu cận và tuân hành thánh ý.
Chúc tụng CHÚA đi, muôn vật Chúa tạo thành,
thuộc quyền Người thống trị khắp nơi nơi.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
7. Lời
Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về
Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện
xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức
mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con. Nguyện xin cho
chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ
lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị
cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn
đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét