26/10/2014
CHÚA NHẬT XXX MÙA
THƯỜNG NIÊN năm A
(phần II)
GIÁO LÝ PHÚC ÂM CHÚA NHẬT XXX QUANH NĂM, NĂM A
GLPÂ CHÚA
NHẬT XXX QUANH NĂM, NĂM A
Sách Xuất Hành 22.21-27;
Thư I của Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu
Tessalonica 1,5-10
và Phúc Âm Thánh Matthêô 22.34-40
I. Giáo Huấn P.Â.:
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và
hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn
thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính
mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.”
Mến Chúa yêu người là hai điều răn cao trọng
ngang nhau.
II. Vấn nạn P.Â.
Tại sao mến Chúa yêu người lại cao trọng ngang nhau?
Vì Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh
Chúa.
“Thiên Chúa phán : "Chúng ta hãy làm ra con
người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá
biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất."Thiên
Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo
hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (STK. 1.26-27)
Con người rất cao trọng vì giống Thiên Chúa có
linh hồn, có trí khôn và được làm bá chủ vũ trụ.
Vì sống hòa thuận yêu thương là yếu tố để Chúa
khấn nhậm lễ tế.
“Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn
thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy
để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở
lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).
Vì Chúa tạo dựng con người và vũ trụ vạn vật bất
toàn, để con người kiện toàn bằng tình yêu thương bác ái.
Cụ thể: Bản thân mỗi người chúng ta, từ thân xác
cho đến tâm hồn bao gồm những thiếu sót và bất toàn. Có bao giờ chúng ta hoàn
toàn thỏa mãn với chính chúng ta về cả thân xác và tâm hồn. Chúng ta thường ƯỚC
được như thế nầy thế khác. ƯỚC, có nghĩa là chưa được.
Trong đời sống vợ chồng hay gia đình, có bao giờ
chúng ta mãn nguyện hoàn toàn với người phối ngẫu hay với những thành phần
trong gia đình. Có đôi lần chúng ta mơ ước gia đình mình được như gia đình của
một ai đó. Vợ chồng phản bội nhau là kết quả của thất vọng hay mộng đẹp chưa
tròn.
Muốn kiện toàn, chúng ta phải có tình yêu thương
bác ái và quảng đại tha thứ cho nhau. Kiện toàn đời sống cá nhân, gia đình hay
xã hội bằng tình yêu thương bác ái là lý do chúng ta được sinh ra và sống
trên trần đời. Hạnh phúc thật lớn lao khi chúng ta được thực thi bác ái và làm
gì đó mang ích cho người khác.
Vì ngày chung thẩm, Chúa phán xét dựa trên tiêu
chuẩn bác ái.
“ Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta
khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta
trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi
tù, các ngươi đã đến thăm". Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng:
"Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho
uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho
mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm
đâu?" Ðể đáp lại, Ðức Vua sẽ bảo họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi
lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là
các ngươi đã làm cho chính Ta vậy". (Matt. 25. 35-40)
Tất cả Luật Môsê và các sách Ngôn Sứ đều tùy
thuộc vào hai điều răn ấy. Thế nào về luật giữ ngày Chúa Nhật, có liên quan gì
đến giới răn mến Chúa yêu người?
Nói về luật giữ ngày Chúa Nhật và các lễ buộc.
Giáo luật qui định về việc giữ ngày Chúa Nhật và
lễ buộc:
Điều 1246 §1: Tất cả các ngày Chúa nhật là ngày
cử hành Mầu nhiệm Vượt Qua theo truyền thống Tông đồ, ngày đó phải được giữ như
là ngày lễ buộc chính yếu trong Giáo Hội toàn cầu.
Cụ thể là:
Bốn lễ kính mầu nhiệm của Đức Kitô: lễ Sinh Nhật
Đức Giêsu Kitô, lễ Hiển Linh, lễ Thăng Thiên, lễ Mình và Máu Rất Thánh Đức
Kitô;
Ba lễ kính Đức Maria: lễ Thánh Maria Mẹ Thiên
Chúa, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm và lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời;
Ba lễ dành cho các Thánh: lễ Thánh Giuse, lễ hai
Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, lễ Các Thánh.
Điều 1246 §2: Tuy nhiên, Hội Đồng Giám Mục có thể
xin Tông Toà huỷ bỏ hoặc chuyển một số lễ buộc sang ngày Chúa Nhật.
Tại Việt Nam, các Đức Giám Mục, theo Điều 2 và
1246 §, duy trì các đặc ân vẫn có đối với các lễ buộc, nghĩa là: Tại Giáo tỉnh
Hà Nội, ngoài các ngày Chúa Nhật, chỉ buộc giữ “Tứ Quý”, tức là 4 ngày lễ
trọng: lễ Giáng Sinh, lễ Chúa Thăng Thiên, lễ Đức Mẹ Lên Trời và lễ các Thánh
Nam Nữ.Tại các Giáo tỉnh Huế và Giáo tỉnh Sàigòn, ngoài các ngày Chúa nhật, chỉ
buộc giữ lễ Chúa Giáng Sinh. Canada ngoài các ngày Chúa Nhật có hai lễ buộc là
Giáng Sinh và lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa ngày đấu năm dương lịch 1.1
Ở Mỹ, có sáu ngày lễ buộc là: Lễ Đức Mẹ là Mẹ
Thiên Chúa ngày 1.1; Lễ thăng thiên, chỉ áp dụng ở các ít thành phố như Boston, Hartford, New York, Newark, Omaha, vàPhiladelphia; Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời 15.8; Lễ các
thánh nam nữ 1.11; Lễ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội 8.12 và Lễ Giáng Sinh 25.12
Luật buộc giữ ngày Chúa Nhật và những lễ buộc
dành cho những tín hữu đã được rửa tội trong Giáo Hội Công giáo hay đã được
nhận vào Giáo Hội Công Giáo đã sử dụng đủ trí khôn và đã được 7 tuổi trọn.
Tham dự lễ ngày Chúa Nhật có liên quan gì đến
việc yêu người?
Tham dự lễ ngày Chúa Nhật chúng ta tuyên xưng
rằng: Chúa là Thiên Chúa, Đấng đã sáng tạo, đã cứu chuộc và đã thánh hóa chúng
ta và Chúa là Đấng chúng ta phải tôn thờ và tìm kiếm trong cuộc sống.
Tham dự lễ ngày Chúa Nhật chúng ta tỏ lòng tri ơn với Đấng Tạo Hóa.
Tham dự lễ ngày Chúa Nhật chúng ta tuyên xưng rằng: Chúng ta có nhiều người anh
chị em cùng có Thiên Chúa là Cha và chúng ta cùng nhau tôn thờ Chúa và thực thi
bác ái huynh đệ. Dự Thánh lễ Chúa Nhật giống như con cái về nhà Cha Mẹ m2inh để
hỏi thăm sức khỏe Cha Mẹ cũng như để nhận ra nhu cầu của nhau.
III. Thực hành P.Â.:
Giống (Gender) Nam và Nữ (Male and Female)
Nếu chúng tra có dịp quan sát thì nhiều tờ khai
cá nhân không còn dùng từ phái tính, tức Nam hay Nữ (SEX: M or F) Nhưng dùng từ
giống loại với 3 ô: Nam, Nữ hay giới tính khác (Gender: M, F, or other)
Mặc nhiên người ta chấp nhận nhân quyền cho những người lưỡng tính hay
hôn nhân đồng tính.
Người ta bôm vào tâm trạng con người vấn đề :Sống
theo luật Chúa và luật Giáo Hội là vô lý. Có những anh chị em tỏ ra bất cần luật Chúa và
Giáo Hội trong việc hôn nhân. Họ lý luận rằng: Chúa dựng nên con người và bảo
họ làm vợ làm chồng sinh sản cho đầy mặt đất. Chúa nào có dạy phải học giáo lý
hôn nhân hay vào nhà thờ làm đám cưới….Chỉ có vậy! Còn luật Giáo Hội về hôn
nhân thì mới thành hình sau nầy…gọi là muốn chứng minh vai trò của Giáo Hội
thôi.
Không đâu! Có người Cha nào mà đặt ra luật lệ để
hãm tài con mình? Giáo Hội là Mẹ chúng ta, không lẽ Giáo Hội muốn điều bất hạnh
cho chúng ta? Vì thế có luật: chuẩn bị hôn nhân để giúp đôi hôn nhân nguội lại
hay bình tĩnh và có giờ suy nghĩ về giai đoạn quan trọng mà họ đang bước vào.
Hãy mang ơn Giáo Hội và tuân hành luật lệ Giáo Hội. Rất tốt cho chúng ta!
Ngày nào đó con sẽ thấy:
Người Cha đã 70 tuổi – Người con trai út chỉ
ngoài 30. Hai cha con hè hụt khuân những đồ vật mua từ tiệm vật liệu xây dựng
về để sưa sang bên ngoài nhà. Thanh niên 30 tuổi sức vóc: làm nhanh, vác khỏe
mà hơi thở vẫn nhẹ nhàng. Người Cha 70 tuổi chậm chạm, chỉ mang vật nhẹ mà lại
còn thở nặng nhọc nhằn. Anh c on trai 30 tuổi bảo: Ba xuống sức quá rồi, mới
vác có vài món đồ mà đã thờ hồng hộc. Cha già 70 nghe con trai mình nhận
xét, mỉm cười, quẹt mồ hôi trán và nói: Ngày nào đó con sẽ thấy!
Chúng ta sẽ thấy: chả được gì khi tiếc một giờ bỏ
lễ Chúa Nhật – Cha được gì khi không biết lắng nghe người lớn và Giáo Hội – Chả
được gì nếu sống vô kỷ luật – Chả được gì nếu từ chối giúp đỡ người khác. Ngày
nào đó chúng ta sẽ thấy cái hậu quả của những tự hào do thiếu kinh nghiệm sống
ở đời. Người lớn tuổi, có những giới hạn nhưng họ có kinh nghiệm thăng trầm của
cuộc sống. Chúng ta sẽ thấy khi về già.
Lm
Phêrô TrầnThế Tuyên
Mở
đầu đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu cho thấy một bầu khí tranh chấp và đố
kỵ của người Do Thái. Kẻ thì theo nhóm biệt phái, người thì theo nhóm Sađốc.
Bên này gài bẫy bên kia và hí hửng khi đối thủ lâm nạn. Từ lãnh vực chính trị
xã hội cuộc tranh chấp lan sang phạm vi tôn giáo. Luật pháp có tới 613 khoản, gồm
248 lệnh truyền và 365 lệnh cấm. Những khoản nào là quan trọng nhất. Đó là một
vấn đề nóng bỏng.
Tuỳ
theo lập trường nghiêng về phụng vụ hay xã hội, đền thờ hay đền vua, mà người
ta có thể biện minh cho thái độ của mình, biệt phái hay Sađốc, chống đối hay cộng
tác với ngoại bang. Ai cũng muốn tranh thủ người khác về phe mình. Người ta muốn
biết ý kiến của Chúa Giêsu, bởi vì lập trường của Ngài rất quan trọng, dân
chúng sẽ tuỳ đó mà biểu lộ cảm tình của mình với phe nào, thế nhưng tuyên bố lập
trường của mình cũng là điều nguy hiểm cho Ngài, bởi vì phe đối nghịch có thể dựa
ào đó mà kết án Ngài.
Tuy
nhiên, đó chỉ là những suy tính của người ta. Đã nhiều lần họ gài bẫy Ngài.
Nhưng chẳng có lần nào họ đã thành công. Hôm nay cũng vậy. Được hỏi ý kiến về
giới răn quan trọng nhất, Ngài đã trả lời như hết mọi người Do Thái đạo đức:
Ngươi phải kính mến Thiên Chúa hết lòng. Thế nhưng không dừng lại ở đó mà Ngài
còn nói tiếp: Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất đó là
ngươi phải thương yêu anh em như chính mình ngươi. Ngài không đồng hoá hai việc
mến Chúa và yêu người. Hai việc đó vẫn khác nhau và vì thế không được xao lãng
nhiệm vụ nào. Đó là nét độc đáo của Chúa Giêsu.
Người
ta vẫn nói phải mến Chúa và yêu người, phải có thiên đạo và nhân đạo, nhưng
bình thường người ta vẫn coi đó là những nhiệm vụ xa rời nhau, không liên hệ gì
với nhau. Người ta có thể mến Chúa trong nhà thờ và không thương người ở ngoài
xã hội. Hoặc thương người ở ngoài xã hội nhưng lại không mến Chúa ở trong nhà
thờ. Hơn nữa, người ta coi việc thương người chỉ là thứ yếu sánh với việc mến
Chúa. Đối với Chúa Giêsu thì khác. Phải mến Chúa cũng như yêu người. Ưu tiên là
mến Chúa, nhưng đồng thời cũng phải yêu người. Hay như thánh Gioan đã viết:
Không thể có lòng mến Chúa, Đấng vô hình, nếu không thương người. Và khi dạy phải
yêu người như chính bản thân, thì Chúa Giêsu không có ý bảo phải thương mình
trước. Câu nói của Chúa Giêsu có nghĩa là phải yêu người hết lòng cũng như phải
kính mến Chúa hết lòng.
Cuối
cùng một nét độc đáo khác nữa trong câu trả lời của Chúa Giêsu là tất cả luật
pháp và các tiên tri đều quy về sự mến Chúa và yêu người. Như vậy, không những
tất cả 613 khoản luật, mà toàn thể lời giáo huấn đều nhằm phát triển lòng mến
Chúa yêu người. Như thế vấn đề tranh chấp đã được giải quyết. Chẳng phe nào thắng.
Phe nào cũng phải nỗ lực hơn để giữ trọn lề luật. Phe nào cũng đã lầm lạc vì đã
không cọi trọng hai nhiệm vụ mến Chúa yêu người như nhau, cho nên đã làm mất
quân bình, gây ra những lệch lạc trong đời sống. Đức Kitô đã đến để mang lại ơn
cứu độ. Ai đón nhận Ngài thì phải mến Chúa. Ai đã mến Chúa thì cũng phải yêu
người.
Lectio Divina: Chúa
Nhật XXX Thường Niên (A)
Chúa Nhật, 26 Tháng 10, 2014
Giới
răn trọng nhất
Yêu mến Thiên Chúa là yêu mến người khác
Mt 22:34-40
Yêu mến Thiên Chúa là yêu mến người khác
Mt 22:34-40
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc
Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường
Emmau. Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa
đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau
buồn về bản án và cái chết của mình. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự
kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống
lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể
lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự việc
của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người
nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, để cũng
giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục
sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu
giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình. Chúng
con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho
chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.
Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa
khóa dẫn đến bài đọc:
Trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ ba mươi thường niên, các
người Biệt Phái muốn biết điều răn nào của lề luật mà Chúa Giêsu cho là cao
trọng nhất. Chủ đề này đã được bàn cãi giữa những người Do Thái thời
bấy giờ. Đó là cuộc tranh luận thường xuyên. Ngày nay
cũng vậy, người ta muốn biết định nghĩa của một Kitô hữu ngoan đạo là
gì. Có người cho rằng điều này gồm có việc đã được rửa tội, cầu
nguyện và tham dự thánh lễ Chúa Nhật. Một số người khác thì nói nó
bao gồm cả việc thực thi sự công bằng và sống trong tình huynh
đệ. Mỗi người có ý kiến riêng của mình. Theo bạn, điều
quan trọng nhất trong giáo lý và đời sống của Giáo Hội là gì? Khi
đọc bài Tin Mừng này, bạn hãy cố gắng để tâm chú ý đến cách thức Chúa Giêsu trả
lời câu hỏi.
b) Phúc
Âm:
34 Khi ấy, những
người Biệt Phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng,
thì họp nhau lại. 35 Đoạn một người thông luật trong
nhóm họ hỏi thử Người rằng: 36 “Thưa Thầy, trong Lề
Luật, giới răn nào trọng nhất?” 37Chúa Giêsu phán cùng người ấy
rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh
hồn và hết trí khôn ngươi. 38 Đó là giới răn thứ
nhất và trọng nhất. 39 Nhưng giới răn thứ hai cũng
giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình
ngươi. 40 Toàn thể Lề Luật và sách các Tiên Tri đều
tóm lại trong hai giới răn đó.”
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý:
Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a) Phần nào
của bài dụ ngôn bạn thích nhất hoặc động chạm bạn nhất? Tại
sao?
b) Những người
Biệt Phái thời bấy giờ là ai? Những người Biệt Phái thời nay là
ai?
c) Làm thế
nào mà một câu hỏi của người Biệt Phái hỏi Chúa Giêsu lại có thể thử thách
Người?
d) Sự tương
quan giữa các giới răn thứ nhất và thứ hai là gì?
e) Tại sao sự
yêu mến Thiên Chúa và lòng thương yêu tha nhân là một bản tóm tắt của Lề Luật
và sách các tiên tri?
5. Dành cho những ai muốn đào sâu hơn vào trong chủ đề
a) Bối cảnh đoạn Phúc Âm này trong Tin Mừng Mátthêu:
Đây là một trong nhiều cuộc thảo luận của Chúa Giêsu đã có với
các chức sắc tôn giáo vào thời bấy giờ. Lần này thì bàn luận với các
người Biệt Phái. Trước hết, những người Biệt Phái đã cố gắng làm mất
uy tín Đức Giêsu với dân chúng bằng cách vu cáo Người nói rằng Người đã bị ám
bởi quỷ vương Bê-en-giê-bun mà đã bị Người đuổi trừ (Mt 12:24). Giờ
đây, tại Giêrusalem, một lần nữa họ lại tham dự vào một cuộc thảo luận với Chúa
Giêsu liên quan đến việc giải thích lề luật của Thiên Chúa.
b) Lời bình giải về đoạn Tin Mừng:
Mt 22:34-36: Câu hỏi được đặt để bởi người Biệt
Phái.
Trước tiên, để thử Chúa Giêsu, những người Sađốc đã hỏi Người về
niềm tin vào sự phục sinh và đã bị Chúa Giêsu khiến họ im miệng (Mt
22:23-33). Bây giờ, đến phiên người Biệt Phái nhập
cuộc. Các người Biệt Phái và Sađốc là kẻ thù của nhau, nhưng họ trở
thành bạn hữu trong việc chỉ trích Chúa Giêsu. Người Biệt Phái tụ
tập nhau lại và một người trong bọn họ đại diện đứng ra đặt câu
hỏi: “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng
nhất?” Vào thời ấy, người Do Thái có rất nhiều quy tắc, truyền thống
và lề luật, lớn và nhỏ, để cai quản việc tuân giữ Mười Điều Răn. Một
điểm liên quan đến hai giới răn của lề luật Thiên Chúa là một đề tài thảo luận
gay go giữa những người Biệt Phái. Một số người nói: “Tất
cả lề luật, lớn hay nhỏ, có giá trị như nhau bởi vì chúng đều xuất phát từ
Thiên Chúa. Chúng ta không thể xếp loại những gì thuộc về Thiên
Chúa”. Những người khác lại nói: “Có một số giới răn quan trọng
hơn những điều khác và vì thế chúng đáng được xem trọng hơn!” Người
Biệt Phái muốn biết quan điểm của Chúa Giêsu thuộc về phe nào trong cuộc tranh
luận này.
Mt 22:37-40: Câu trả lời của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu trả lời bằng cách trích dẫn lời trong Kinh
Thánh: Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết
linh hồn và hết trí khôn ngươi!” (xem Đnl 6:4-5). Trong
thời Chúa Giêsu, người Do Thái sùng đạo lập lại câu kinh này mỗi ngày ba lần,
buổi sáng, buổi trưa và buổi tối. Đó là lời cầu nguyện quen thuộc
trong dân giống như kinh Lạy Cha của chúng ta ngày nay. Và Chúa Giêsu
tiếp tục trích dẫn Cựu Ước: “Đây là giới răn thứ nhất và trọng nhất.
Giới răn thứ hai cũng giống như giới răn ấy là: Ngươi phải yêu
thương kẻ khác như chính mình ngươi” (Lv 19:18). Và Người kết
luận: “Toàn thể Lề Luật và sách các Tiên Tri đều tóm lại trong hai
giới răn này”. Nói cách khác, đây là con đường dẫn tới Thiên Chúa và
tha nhân. Không có đường nào khác. Sự cám dỗ lớn lao nhất
của loài người là cố gắng tách rời hai tình yêu này, bởi vì theo cách này, sự
nghèo khổ của người khác sẽ không làm lương tâm họ cắn
rứt.
c) Phần đào sâu hơn:
i) Người Biệt Phái:
Chữ “người Pharisêu” có nghĩa là “tách biệt” bởi vì cung cách
tuân giữ Lề Luật Thiên Chúa cứng ngắc của họ đã tách biệt họ khỏi những người
khác. Với nhau, họ gọi nhau là bạn đồng hành bởi vì họ đã tạo nên
một cộng đoàn mà lý tưởng là tuân giữ tuyệt đối các quy tắc và tất cả các giới
răn của lề luật Thiên Chúa. Cách sống của hầu hết các người này là
nhân chứng cho người ta bởi vì họ dùng sức lao động mà mưu sinh và sự tận tụy
của họ dành nhiều giờ mỗi ngày để tra cứu học hỏi và suy gẫm lề luật Thiên
Chúa. Nhưng có điều gì đó rất tiêu cực: họ đã đi tìm sự
an toàn của họ không phải dựa vào Thiên Chúa mà dựa vào việc tuân giữ nghiêm
ngặt Lề Luật của Thiên Chúa. Họ đã tin vào những gì họ làm cho Thiên
Chúa hơn là vào những gì Thiên Chúa đã làm cho họ. Họ đã đánh mất đi
khái niệm về ân sủng, đó chính là nguồn mạch và hoa trái của tình
yêu. Trước một thái độ sai lạc về Thiên Chúa như thế, Đức Giêsu đã
phản ứng một cách vững chắc và khẳng định về việc thực thi tình yêu thương
khiến cho việc tuân giữ lề luật và ý nghĩa thực sự của nó thành tương
đối. Trong một thời đại của thay đổi và bất định, chẳng hạn như bây
giờ, sự cám dỗ ấy lại xuất hiện, đó là tìm kiếm sự yên thân trước khi tìm kiếm
Thiên Chúa, không phải trong sự tốt lành của Thiên Chúa dành cho chúng ta, mà
trong việc nghiêm ngặt tuân giữ Lề Luật. Nếu chúng ta không chống
nổi sự cám dỗ như thế, thì chúng ta cũng đáng bị Chúa quở trách như
vậy.
ii) Một sự tương đồng giữa Tin Mừng Máccô và Mátthêu:
Trong Tin Mừng của Máccô, một người kinh sư đứng ra chất vấn (Mc
12:32-33). Sau khi nghe xong câu đối đáp của Chúa Giêsu, vị kinh sư này
đồng ý với Người và đưa ra kết luận sau: “Thầy nói đúng, yêu mến
Thiên Chúa và tha nhân thì quý hơn nhiều so với bất kỳ lễ toàn thiêu hoặc hy
lễ”. Nói cách khác, giới răn yêu thương là giới răn quan trọng nhất
trong tất cả các giới răn liên quan đến lòng tôn sùng và các hy lễ của Đền Thờ
và các sự tuân giữ bên ngoài. Lời tuyên bố này đã có trong Cựu Ước
từ thời tiên tri Hôsê (Hs 6:6; Tv 40:6-8; Tv 51:16-17). Ngày nay,
chúng ta có thể nói rằng việc thực thi lòng bác ái thì quan trọng hơn là tuần
cửu nhật, khấn hứa, ăn chay, cầu nguyện và rước kiệu. Chúa Giêsu
chấp nhận lời kết luận của vị kinh sư và nói: “Ông không còn xa Nước
Thiên Chúa nữa đâu!” Nước Thiên Chúa gồm có điều
này: nhận biết rằng tình yêu Thiên Chúa thì ngang với tình yêu tha
nhân. Chúng ta không thể đến được với Thiên Chúa mà không hy sinh
thân mình cho tha nhân!
iii) Giới răn cao trọng nhất:
Giới răn đầu tiên và cao trọng nhất là: “Ngươi hãy
yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”
(Mc 12:30; Mt 22:37). Cho đến ngày nay, trải qua nhiều thế kỷ, dân
của Chúa đã hiểu được ý nghĩa của tình yêu này, cho đến độ họ đã ý thức được
rằng tình yêu Thiên Chúa thì có thật và chỉ thực sự nếu nó được thực hiện cụ
thể qua tình yêu tha nhân. Đó là lý do tại sao điều răn thứ hai
tương đồng như điều răn thứ nhất (Mt 22:39; Mc 12:31). “Nếu ai
nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’, mà lại ghét anh em mình, thì người ấy
là kẻ nói dối” (1Ga 4:20). “Tất cả luật Môisen và sách các Ngôn Sứ
đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22:40). Bởi vì sự gắn bó của
hai tình yêu này, đã có một sự tiến hóa trong ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: “Người đồng loại”, tương ứng với
người cùng nòi giống
Cựu Ước đã dạy rằng chúng ta phải “yêu thương người đồng loại
như chính mình!” (Lv 19:18). Nhưng sau đó, từ ngữ người đồng loại đã
được chuyển thành đồng nghĩa với người thân thuộc bà con. Họ cảm
thấy có nhiệm vụ phải yêu thương tất cả những người cùng chung huyết thống,
chung gia tộc, chung nòi giống. Đối với những kẻ xa lạ, đó là, những
kẻ không phải là dân Do Thái, sách Đệ Nhị Luật nói: “Đối với người nước
ngoài, anh em có thể thúc nợ; nhưng cái gì của anh em mà ở trong nhà người bà
con (thân nhân, hàng xóm) của anh em, thì phải tha không đòi!” (Đnl 15:3).
Giai đoạn thứ hai: “Người đồng loại” là người tôi
tiếp cận hoặc người tiếp cận tôi
Khái niệm về người đồng loại được mở rộng. Vào thời
Chúa Giêsu, có cả một cuộc thảo luận về “ai là người đồng loại của
tôi?” Một số các luật sĩ nghĩ rằng khái niệm về người đồng loại phải
được mở rộng ra khỏi giới hạn của chủng tộc. Những người khác lại
không muốn nghe điều này. Vì vậy, một người thông luật tìm đến Chúa
Giêsu và hỏi thử người câu hỏi: “Ai là người lân cận của
tôi?” Chúa Giêsu trả lời với dụ ngôn về người Samaritanô nhân hậu
(Lc 10:29-37), ở đó người lân cận không phải là một người thân thuộc cũng chẳng
là bạn hữu, mà là tất cả những ai tiếp cận với chúng ta, không phân biệt tôn
giáo, màu da, chủng tộc, giới tính hoặc ngôn ngữ! Bạn phải yêu
thương họ!
Giai đoạn thứ ba: Tiêu chuẩn để đánh giá tình yêu của
chúng ta với người lân cận là tình yêu mà Chúa Giêsu yêu thương chúng ta.
Đức Giêsu đã nói với người thông luật: “Ông không còn
xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12:34). Người thông luật đã gần Nước
Trời, vì trong thực tế, Nước Trời bao gồm kết hợp tình yêu Thiên Chúa với tình
yêu tha nhân, như người thông luật đã trang trọng tuyên bố trước mặt Chúa Giêsu
(Mc 12:33). Nhưng để được vào Nước Trời ông ta phải tiến thêm một
bước nữa. Trong Cựu Ước, tiêu chuẩn của tình yêu đối với tha nhân
như sau: “yêu thương người lân cận như chính mình”. Chúa
Giêsu đã nới rộng tiêu chuẩn ấy xa hơn và phán: “Đây là điều răn của
Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh
em! Không có tình yêu nào cao cả hơn là tình yêu của người đã hy
sinh mạng sống vì bạn hữu mình!” (Ga 15:12-13). Ngày nay, trong Tân
Ước, tiêu chuẩn là: “Hãy yêu thương tha nhân như Chúa Giêsu đã yêu
thương chúng ta!” Đức Giêsu giải thích ý nghĩa chính xác của Lời
Chúa và chỉ cho chúng ta đường lối đến một lối sống trong tình huynh đệ và công
bằng hơn.
6. Thánh Vịnh
62
Chỉ trong Thiên Chúa
mà thôi linh hồn tôi mới được nghỉ ngơi
Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.
Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Tới bao giờ các ngươi còn xúm lại
để xông vào quật ngã một người?
Hắn đã như bức tường xiêu đổ,
như hàng rào đến lúc ngả nghiêng.
Con người ấy, chúng chỉ mưu hạ bệ,
chúng thoả lòng vì đã nói dối nói gian.
Miệng thì chúc phúc cầu an,
mà lòng nguyền rủa chứa chan những lời.
hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.
Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Tới bao giờ các ngươi còn xúm lại
để xông vào quật ngã một người?
Hắn đã như bức tường xiêu đổ,
như hàng rào đến lúc ngả nghiêng.
Con người ấy, chúng chỉ mưu hạ bệ,
chúng thoả lòng vì đã nói dối nói gian.
Miệng thì chúc phúc cầu an,
mà lòng nguyền rủa chứa chan những lời.
Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn.
Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Nhờ Thiên Chúa, tôi được cứu độ và vinh quang,
Người là núi đá vững vàng,
ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân.
Hỡi dân ta, hãy tin tưởng vào Người luôn mãi,
trước mặt Người, hãy thổ lộ tâm can:
Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu.
Kẻ thường dân âu chỉ là hơi thở,
người quyền quý đều ví tựa ảo huyền,
đứng cả lên cân cũng chẳng tày mây khói.
này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn.
Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Nhờ Thiên Chúa, tôi được cứu độ và vinh quang,
Người là núi đá vững vàng,
ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân.
Hỡi dân ta, hãy tin tưởng vào Người luôn mãi,
trước mặt Người, hãy thổ lộ tâm can:
Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu.
Kẻ thường dân âu chỉ là hơi thở,
người quyền quý đều ví tựa ảo huyền,
đứng cả lên cân cũng chẳng tày mây khói.
Đừng tin tưởng ở trò áp bức nữa,
chớ hoài công cậy ngón bóc lột người!
Tiền tài dẫu sinh sôi nảy nở,
lòng chẳng nên gắn bó làm chi.
Lạy Thiên Chúa, một lần Ngài phán dạy,
con nghe được hai điều,
rằng: Ngài nắm quyền uy
và giàu lòng nhân hậu;
rằng: Ngài theo tội phúc mà thưởng phạt mỗi người.
chớ hoài công cậy ngón bóc lột người!
Tiền tài dẫu sinh sôi nảy nở,
lòng chẳng nên gắn bó làm chi.
Lạy Thiên Chúa, một lần Ngài phán dạy,
con nghe được hai điều,
rằng: Ngài nắm quyền uy
và giàu lòng nhân hậu;
rằng: Ngài theo tội phúc mà thưởng phạt mỗi người.
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp
chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa
soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực hành
Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con. Nguyện xin cho chúng con, được
trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn
thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha
trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Suy niệm và chú giải Lời
Chúa, Chúa nhật XXX thường niên - Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Thánh Phao-lô khích lệ các tín hữu
Thê-xa-lô-ni-ca và ca ngợi đức tin kiên vững của họ: dù chỉ đón nhận Tin Mừng
trong một thời gian ngắn, họ đã phải chịu trăm chiều gian nan thử thách.
CHÚA
NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay nhấn mạnh “Mến Chúa và Yêu
Người là một”.
Xh 22: 20-26
Bài Đọc I, trích từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành. Thiên
Chúa đòi hỏi dân Ngài phải thực hành đức ái đối với những người khốn khổ nhất:
ngoại kiều, mẹ góa con côi, người túng thiếu. Ngài tự đồng hóa minh với họ: “Nó
mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”.
Tv 18 (17): 2-4, 47, 51
Vua Đa-vít bày tỏ tấm lòng cảm mến tri ân của mình đối với Đức
Chúa vì Ngài không ngừng bảo vệ che chở vua trong suốt cuộc đời đầy gian nan
thử thách của vua.
1Th 1: 5-10
Thánh Phao-lô khích lệ các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca và ca ngợi
đức tin kiên vững của họ: dù chỉ đón nhận Tin Mừng trong một thời gian ngắn, họ
đã phải chịu trăm chiều gian nan thử thách.
Mt 22: 34-40
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và
yêu người làm một.
BÀI ĐỌC
I (Xh 22: 21-27)
Bản văn nầy được trích
dẫn từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành. Bộ luật nầy phản
ảnh thời kỳ dân Do thái không còn sống cuộc đời du mục nữa, nhưng định cư lập
nghiệp ở đất Ca-na-an. Vì thế, Người ta có thể ấn định niên biểu của bộ luật
này vào thời hậu Mô-sê, chính xác hơn vào những giai đoạn đầu tiên của thời kỳ
định cư, trước khi tổ chức thành một quốc gia, tức vào thời Thủ Lãnh, khoảng
năm 1200 và 1030 trước Công Nguyên. Đây là luật của một xã hội chăn nuôi và
nông nghiệp. Bộ luật được đặt vào trong bối cảnh “Trên núi Si-nai, Chúa
phán với dân Ít-ra-en”. Đây là hư cấu văn chương được dùng để nhấn mạnh
rằng bộ luật nầy vẫn ở trong tinh thần Luật Mô-sê và chỉ là khai triển Luật
Mô-sê.
Trên bình diện hình
thức, “Bộ Luật Giao Ước” nầy có nhiều mối quan hệ thân thuộc
với các luật của miền Cận Đông xưa như Bộ Luật Hammourabi, vua Ba-by-lon, vào
năm 1700 trước Công Nguyên, trong đó luật cũng được diễn tả theo biểu thức điều
kiện: “Nếu ngươi làm điều nầy, nếu người làm điều nọ”. Một biểu
thức khác, hiếm hơn trong những bản văn luật thời xưa, nhưng thường gặp trong
Cựu Ước, đó là biểu thức mệnh lệnh thường nhất được diễn tả theo hình thức lệnh
cấm: “Ngươi không được…”, như trong Thập Giới (Xh 20: 3-17), trong
đó chỉ có hai giới luật được diễn tả theo hình thức lệnh truyền:“Ngươi hãy…”.
Trong bản văn của chúng ta, hình thức lệnh cấm cũng chiếm ưu thế.
Trên bình diện nội dung,
Bộ Luật Giao Ước phân biệt rõ nét với các bộ luật ngoại quốc có cùng xuất xứ.
Sự độc đáo của Bộ Luật Giao Ước ở nơi chỗ chính Thiên Chúa đứng ra đảm bảo luật
luân lý, vì thế vi phạm luật đồng nghĩa xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Đức Ái
được đề cao như luật cốt yếu của cuộc sống xã hội, vì thế, hai giới luật: mến
Chúa và yêu người, vốn đã được liên kết cùng nhau rồi.
1.
“Người ngoại kiều”.
Ở Ít-ra-en, có nhiều quy
chế liên quan đến ngoại kiều. Trước hết, “ngoại kiều cư trú” được
hưởng một quy chế khá thuận lợi (nhất là người làm thuê ngụ ở nhà chủ mình).
Đoạn, “ngoại kiều vãng lai” được hưởng truyền thống hiếu
khách. Cuối cùng, “ngoại kiều nhập cư” phải chịu một quy chế
khắc khe. Chính hoàn cảnh của “ngoại kiều nhập cư” nầy mà Bộ
Luật Giao Ước lưu ý. Nguyên do được nêu lên là tính lịch sử: “vì chính
các người đã là ngoại kiều ở Ai-cập”. Phải nhấn mạnh rằng các luật pháp của
miền Cận Đông xưa không bao giờ nêu lên nguyên do của các luật lệ được ban
hành. Vì thế, đây là nét đặc thù của Kinh Thánh.
2. “Mẹ
góa con côi”.
Thân phận của người phụ
nữ ở Ít-ra-en là “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”.
Vì thế, người phụ nữ góa chồng khó có thể tìm được nơi nương tựa. Nếu không có
của cải, người phụ nữ nầy có thể lâm vào một cuộc sống khốn khổ, nhất là phải
gánh vác trách nhiệm nuôi nấng con cái. Những cảnh ngộ thương tâm như thế rất
thường trong những xã hội thời xưa. Thế nên, luật pháp quan tâm đến cảnh ngộ mẹ
góa con côi nầy như phần kết của Bộ Luật Hammourabi: “Ta đã viết những
lời nầy trên bia đá ngỏ hầu kẻ mạnh không ức hiếp người yếu và trả lại sự công
bình cho mẹ góa con côi”.
Như chúng ta đã nói trên,
nét độc đáo của luật Kinh Thánh chính là viện dẫn Thiên Chúa như Đấng bênh vực
bảo vệ tình cảnh mẹ góa con côi. Thiên Chúa sẽ đích thân can thiệp và “sẽ
cho gươm giết các ngươi”, nghĩa là các ngươi sẽ bị giết chết trong chiến
tranh. Một cách nào đó, đây là luật “ân oán phân minh” (luật
“răng đền răng mắt đền mắt”), nghĩa là vợ con của họ cũng sẽ trở thành góa bụa
đơn côi.
3. Cho
vay nợ.
Mối quan hệ của mọi thành
viên dân Thiên Chúa là cốt nhục tình thâm, vì thế không được để cho bất cứ một
ai trong anh chị em mình phải sống trong cảnh nghèo khổ túng thiếu. Phải cho anh
chị em vay mượn nhưng không đòi trả lãi.
Tại các dân tộc lân cận,
người ta cho vay để lấy lãi. Bộ Luật Giao Ước cấm cho vay lấy lãi như thế. Việc
vay lấy lãi được trình bày như đối lập với luật yêu thương anh chị em chủng tộc
mình. Quả thật, sách Đệ Nhị Luật xác định: “Người nước ngoài, anh em
được cho vay lấy lãi, còn người anh em của anh thì không được cho vay lấy lãi;
như vậy, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh sẽ chúc phúc cho anh trong mọi công việc
tay anh làm, trên đất anh sắp vào chiếm hữu” (Đnl 23: 20-21).
Đức Giê-su sẽ hủy bỏ quan
niệm yêu thương bị giới hạn chỉ trong vòng anh em chủng tộc nầy. Phải nhận ra
luật “Cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả” được mở rộng
đến hết mọi người, bởi vì mọi người trong bốn bể đều là anh em.
Để tránh người vay lạm
dụng, người cho vay có thể lấy áo choàng làm vật thế chấp. Bản văn đưa ra một
ví dụ ý nhị. Người chăn chiên nằm ngủ ngoài trời cần chiếc áo choàng làm chăn
đắp. “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”. Lại một
lần nữa, bản văn khẳng định rằng Thiên Chúa bao hàm trong tình yêu tha nhân.
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su khẳng định mến Chúa và yêu người chỉ là một.
THÁNH
VỊNH 18 (17): 2-4, 47, 51
Thánh vịnh này được trình
bày như một lời cảm tạ tri ân của vua Đa-vít vì Đức Chúa không ngừng bảo vệ che
chở vua trong suốt cuộc đời đầy gian truân thử thách của vua. Một dị bản được
bảo lưu trong 2Sm 22: 2-51. Đoạn trích Thánh Vịnh hôm nay được cấu trúc như
sau:
A.Vua
Đa-vít thổ lộ tấm lòng cảm mến tri ân của mình đối với Đức Chúa (cc. 2-3):
Vua Đa-vít thân thưa với
Đức Chúa của mình (“con”) và thổ lộ tấm lòng yêu mến của mình đối với Đức Chúa
từ chính kinh nghiệm của cuộc đời mình; từ chính kinh nghiệm sống đó, đức vua
mô tả tấm lòng ưu ái mà Đức Chúa dành cho mình bằng những hình ảnh rất sinh
động và gợi mở: Chúa là núi đá, là thành lũy, là khiên mộc của con trong cuộc
đời gian truân thử thách của con.
B.Vua
Đa-vít giãi bày tấm lòng ưu ái của Đức Chúa dành cho mình (cc. 4 và 47)
Vua Đa-vít giãi bày tấm
lòng ưu ái của Đức Chúa dành cho mình (“tôi”) và tôn vinh Đức Chúa, Ngài là
Đấng giải thoát mình (c. 4) và là Đấng nơi Ngài mình gặp thấy sự nương tựa vững
chắc trong những ngày đầy gian truân thử thách của cuộc đời (c. 47).
C.Lời
khẳng định về tấm lòng ưu ái của Đức Chúa dành cho vua Đa-vít (c. 51)
Cuối cùng, những ai đã
biết rõ cuộc đời của vua Đa-vít đều khẳng định tấm lòng ưu ái Đức Chúa dành cho
đức vua, người mà Ngài đã xức dầu tấn phong.
BÀI ĐỌC
II (1Th 1: 5-10)
Chúng ta tiếp tục đọc thư
của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
1.Tấm
gương của những người loan báo Tin Mừng.
Thánh nhân nói đến cách
sống của mình và của những người bạn đồng hành của mình là ông Xin-va-nô và ông
Ti-mô-thê: “Anh em biết khi ở với anh em chúng tôi đã sống thế nào để
mưu ích cho anh em”, mà không nêu ra bất kỳ một chi tiết cụ thể nào.
Sau nầy, thánh nhân sẽ đề cập vấn đề nầy một cách cụ thể và rõ ràng hơn như tấm
lòng ưu ái mà ngài dành cho họ. Trong đoạn trích dẫn hôm nay, thánh nhân ca
ngợi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vì “noi gương các vị mục tử của họ và
bắt chước Chúa”.
Chúng ta đừng quên rằng
lúc nầy thánh Phao-lô đang ở Cô-rin-tô, một cộng đoàn Ki-tô hữu mà ngài vừa mới
thành lập. Sau nầy ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô cùng một lời khuyên như
vậy: “Anh em hãy bắt chước chúng tôi như tôi bắt chước Chúa Kitô” (1Cr
11: 1) và cả cho các tín hữu Phi-líp nữa:“Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt
chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho
anh em.” (Pl 3: 17).
2.Tấm
gương của các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
Những người loan báo Tin
Mừng, dù đã phải kinh qua biết bao gian truân, họ vẫn cảm thấy niềm vui vì thấy
thành quả của Tin Mừng ở nơi các tín hữu nhờ tác động của “Thánh Thần”.
Quả thật, các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, dù đón nhận Tin Mừng trong một thời gian
ngắn và phải chịu trăm chiều thử thách, trở nên tấm gương sáng chói cho mọi
người:“Từ nơi anh em, Lời Chúa được vang ra; không những ở Ma-kê-đô-ni-a và
A-khai-a, mà đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên
Chúa…”
3.Dân
ngoại đón nhận đức tin.
Thánh Phao-lô diễn
tả niềm vui của ngài vì dân ngoại mở rộng lòng đón nhận đức tin: “Anh
em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa như thế nào, để phụng sự Thiên
Chúa hằng sống và chân thật”. Như các ngôn sứ thời xưa, thánh Phao-lô đối
lập các ngẫu tượng có mắt có tai mà không nghe không thấy với Thiên Chúa hằng
sống và chân thật. Thánh nhân ca ngợi họ đã hiểu ý nghĩa cuộc sống Kitô hữu:
phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật và chờ đợi ngày quang lâm của Con
Thiên Chúa, Đấng phục sinh từ cõi chết, cứu độ chúng ta và giải thoát chúng ta
khỏi cơn thịnh nộ đang đến.
Ở đây, thánh nhân tóm gọn
điều cốt yếu lời rao giảng của ngài. Lời rao giảng nầy theo cùng cung giọng với
lời rao giảng của Giáo Hội tiên khởi, như chúng ta gặp thấy trong sách Công vụ.
TIN
MỪNG (Mt 22: 34-40)
Câu chuyện nầy được
cả ba Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật. Tuy nhiên, chỉ một mình thánh Mát-thêu đặt
câu chuyện nầy vào trong bối cảnh của một trong những cuộc xung đột của nhóm
Biệt Phái với Chúa Giê-su ngỏ hầu họ có thể bắt bí Ngài.
1.Vấn
đề mà nhóm Biệt Phái nêu lên:
Theo thánh Mát-thêu, sau
khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng về vấn đề kẻ chết
sống lại, nhóm Biệt Phái lại xuất hiện và bày mưu tính kế hãm hại Đức Giê-su.
Trước đây họ đã giăng bẫy Ngài về vấn đề chính trị: “Có được phép nộp
thuế cho Xê-da không?” (Mt 22: 15-22), bây giờ, vấn đề tôn giáo: “Thưa
Thầy, trong sách Luật Mô-sê, giới luật nào là giới luật quan trọng nhất?”Quả
thật, sách Luật Mô-sê, tức bộ Ngũ Thư, chứa đựng vô số những lệnh truyền và
lệnh cấm, tổng cộng đến 613 điều phải tuân giữ. Làm thế nào nhận ra trong muôn
vàn giới luật nầy giới luật nào quan trọng nhất? Trong một thời gian dài từ thế
hệ nầy đến thế hệ khác, các nhà thông luật tranh luận với nhau nhưng không đưa
ra một giải pháp nào thỏa đáng cả. Vì thế, đây là một vấn đề có tính thời sự
vào lúc đó, nhưng trong hoàn cảnh nầy, vấn đề được nêu ra là nhằm gài bẫy Đức
Giê-su, điều đó cho thấy ác tâm của nhóm Biệt phái nầy.
2.Câu
trả lời của Đức Giê-su.
Đức Giê-su không xuất
thân từ trường lớp nào của các kinh sư. Ngài có thái độ khá tự do đối với huấn
lệnh ngày sa-bát (huấn lệnh quan trọng, thậm chí rất quan trọng nữa), Ngài và
các môn đệ Ngài không thực hành việc rửa tay trước bữa ăn, cũng như Ngài giao
du với những người mà người Biệt phái tránh tiếp xúc để giữ mình khỏi ô uế. Tuy
nhiên, Đức Giê-su khẳng định rằng Ngài không đến để hủy bỏ Lề luật và lời dạy
của các ngôn sứ, nhưng đề xuất những quan niệm của riêng mình. Trước vấn đề
nầy, Ngài sẽ trả lời như thế nào? Rốt cuộc, câu trả lời của Ngài sẽ cung cấp
cho những con người ác tâm nầy lý do để buộc tội Ngài chứ?
Trước hết, Chúa Giê-su
trả lời khi trích dẫn giới luật “mến Chúa” trong sách Đệ Nhị
Luật 6: 5. Giới luật nầy trở thành kinh nguyện của người Do thái (kinh Shema),
luôn luôn đứng hàng đầu trong các kinh nguyện Do thái, và được đọc hai lần một
ngày. Kinh nguyện nầy nói lên niềm hãnh diện của dân Ít-ra-en, qua đó họ khẳng
định dân tộc của họ khác với các dân tộc khác: không chỉ thờ phượng Thiên Chúa
duy nhất và hữu vị, nhưng còn yêu mến Ngài trọn cả tấm lòng của mình. Tiếp đó,
Đức Giê-su trích dẫn giới luật “yêu thương người thân cận như chính
mình” trong sách Lê-vi 19: 18. Câu trả lời của Chúa Giê-su thật sự
hoàn toàn mới mẽ:
Trước hết, giới luật yêu
thương người thân cận được trích dẫn trong sách Lê-vi chỉ giới hạn ở nơi dân
tộc Do thái, trong khi Đức Giê-su mở rộng ra với hết mọi người. Trong cùng một
câu chuyện song đối (Lc 10: 25-28), thánh Lu-ca đã khai triển điểm mới mẽ nầy
khi để cho thầy thông luật nêu lên vấn đề:“Nhưng ai là người thân cận của
tôi?” và Chúa Giê-su trả lời bằng dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành (Lc
10: 29-37) khi mà chúng ta biết rằng đối với dân Do thái, người Sa-ma-ri là kẻ
thù không đội trời chung.
Thứ nữa, hai giới luật
nầy được trích dẫn từ hai sách khác nhau: giới luật mến Chúa trong sách Đệ Nhị
Luật 6: 5, còn luật yêu người thân cận trong sách Lê-vi 19: 18. Người Do thái
cũng đã nhận biết giới luật yêu người thân cận là quan trọng vì đây là luật của
Thiên Chúa, vì thế vi phạm đến giới luật nầy là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Nhưng trong cuộc sống thường ngày, người ta thường đặt giới luật mến Chúa lên
hàng đầu, vì thế rất dể bỏ qua hay thậm chí hy sinh yêu thương người thân cận
mình vì mến Chúa, như cách hành xử của thầy tư tế và thầy Lê-vi trong dụ ngôn
người Sa-ma-ri nhân hậu hay những lời phê phán của Đức Giê-su trong những cuộc
tranh luận của Ngài với những giai cấp lãnh đạo Do thái về ngày sa-bát. Nét độc
đáo của câu trả lời của Chúa Giê-su không chỉ vì Ngài trích dẫn hai giới luật
nầy như là hai giới luật quan trọng bậc nhất, nhưng vì Ngài liên kết hai giới
luật thành một.
3.Sự
duy nhất của luật “mến Chúa và yêu người”.
Việc hiệp nhất hai giới
luật mến Chúa và yêu người là nét đặc trưng của Kitô giáo: vì mỗi người đều
được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa (St 1: 26-27) mà Công
Đồng Va-ti-can II gọi là “thiên chức toàn vẹn của con người” (G
S, 11). Hơn nữa, Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm người, tự đồng hóa mình với mỗi
một con người, đặc biệt là những người nghèo khổ, những người thấp cổ bé miệng: “Ta
bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé
nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40,
45). Như vậy, hai giới luật cùng nhau hình thành nên một nền tảng của cuộc sống
Kitô hữu. Giới luật yêu người chỉ gặp thấy điểm quy chiếu và ý nghĩa trọn vẹn
của nó chỉ trong giới luật mến Chúa. Trong toàn bộ Tân Ước, thánh Gioan Tông Đồ
cho chúng ta lời giải thích ngắn gọn nhất và cũng hay nhất về sự duy nhất của
lòng mến Chúa và yêu thương người: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên
Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương
người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không
trông thấy” (1Ga 4: 20).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét