21/12/2014
Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm B
(phần I)
Bài
Ðọc I: 2 Sm 7, 1-5. 8b-12. 14a. 16
"Nước
Ðavít sẽ tồn tại muôn đời trước mặt Chúa".
Bài
trích sách Samuel quyển thứ hai.
Khi
ấy vua Ðavít ngự trong đền và khi Chúa cho ông được bằng yên tư bề, khỏi mọi quân
thù chung quanh, thì vua nói với tiên tri Nathan rằng: "Ông thấy không? Ta
ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, còn hòm bia Chúa thì để ở trong lều bằng da
ư?" Nathan trả lời với vua rằng: "Ðiều vua nghĩ trong lòng, vua hãy
đi thực hiện, vì Chúa ở với vua". Nhưng xảy ra là, đêm ấy, có lời Chúa
phán cùng Nathan rằng: "Hãy nói với Ðavít tôi tớ Ta rằng: "Chúa phán
thế này: Có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi nhà để ở chăng?"
"Ta
đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ, lúc ngươi còn theo sau đoàn chiên, để ngươi trở
nên thủ lãnh Israel dân Ta, và Ta ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi. Ta đã
tiêu diệt mọi quân thù trước mặt ngươi, và Ta sẽ làm cho danh ngươi nên cao trọng
như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ đặt chỉ một nơi cho Israel dân ta,
và Ta sẽ vun trồng nó tại đó. Nó sẽ ở đó và sẽ không còn bị khuấy rối nữa. Con
cái sự dữ sẽ không còn đến đàn áp nó như xưa nữa, như ngày Ta thiết lập các vị
Thẩm phán trên Israel dân Ta. Ta sẽ cho ngươi được bằng yên khỏi mọi quân thù,
và Chúa phán trước cho ngươi biết là Chúa sẽ tạo lập cho ngươi một nhà. Nhà của
ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi
sẽ vững bền mãi mãi".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi
tình thương của Chúa tới muôn đời (x. c. 2a).
Xướng:
1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ, miệng con
loan truyền lòng trung thành Chúa, vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng
vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.
2)
Ta đã ký minh ước cùng người ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của
Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập
ngai báu ngươi qua muôn thế hệ". - Ðáp.
3)
Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, và Thiên Chúa là Ðá Tảng cứu
độ của con". Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với
người sẽ được mãi mãi duy trì. - Ðáp.
Bài
Ðọc II: Rm 16, 25-27
"Mầu
nhiệm được giữ kín từ đời đời, nay được tỏ bày".
Bài
trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Rôma.
Anh
em thân mến, kính chúc Ðấng có quyền năng làm cho anh em được vững vàng theo
Phúc Âm tôi loan truyền, và lời giảng dạy của Chúa Giêsu Kitô, theo mạc khải mầu
nhiệm được giữ kín từ đời đời, nhưng nay được tỏ bày, và nhờ các tiên tri ghi
chép theo lệnh của Thiên Chúa hằng hữu, được thông tri cho các Dân Ngoại, để dẫn
đưa họ về vâng phục đức tin.
Kính
chúc Thiên Chúa, Ðấng khôn ngoan độc nhất, nhờ Chúa Giêsu Kitô, kính chúc Người
vinh quang muôn đời! Amen.
Ðó
là lời Chúa.
Alleluia:
Lc 1, 38
Alleluia,
alleluia! - Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền. -
Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 1, 26-38
"Này
Trinh Nữ sẽ thụ thai và sẽ sinh một con trai".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét,
đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ
Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên
thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phước,
Thiên Chúa ở cùng trinh nữ". Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời
chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên
thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ
sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng
và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ
phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô
tận".
Nhưng
Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết
đến người nam?"
Thiên
thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ
bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi
là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai
trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là
son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria
liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền".
Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Mầu Nhiệm Nhập Thể
"Tình
yêu" là hai tiếng nói luôn ở trên môi miệng và trong con tim của nhân loại,
hai tiếng nói căn bản và thâm sâu nhất của cuộc sống.
Sinh
ra, lớn lên và chết đi, lúc nào con người cũng mong đợi tình yêu.
Có
tình yêu, con người hết là những viên đá nằm lạnh lùng bên cạnh nhau trên một
con đường, những thân cây vô tri vô giác mọc lên trong một đám rừng hay những
con vật đi ăn chung thỉnh thoảng cắn xé nhau để tranh miếng mồi ngon.
Tình
yêu khiên con người không những sống gần nhau, mà còn đi vào cuộc đời của nhau,
chấp nhận chia sẻ từ miếng cơm manh áo cho đến tâm tình ý tưởng của nhau, cùng
vui, cùng khổ, cùng lao động, cùng phấn đấu và vươn lên thoát khỏi nô lệ và
vong thân trong xã hội. Tình yêu là ánh sáng chiếu dọi, là sức nóng sưởi ấm
giúp con người triển nở trong hạnh phúc.
Tình
yêu là động lực thúc đẩy con người đến với nhau, gắn bó với nhau, để tất cả nên
một: một lòng, một trí, một ý chí, một cuộc đời.
Thánh
Kinh luôn khẳng định Thiên Chúa thương yêu con người cách đặc biệt. Tình yêu ấy
khiến Thiên Chúa đến với con người, trước khi con người đến gặp Thiên Chúa.
Tình
yêu được biểu lộ trong lịch sử, biến lịch sử thành môi trường cứu độ, nơi gặp gỡ
giữa con người và Thiên Chúa.
Những
chương đầu của sách Sáng thế cho thấy Yavê sống thân mật với con người, ngay từ
khi con người được tạo dựng. Ngài đi dạo mát với con người trong vườn Eđen,
Ngài chăm sóc sức khỏa và đời sống của con người. Ngài cho con người hưởng các
hoa quả, cho con người một bạn đường. Ngài đối thoại thân mật với con người.
Sách
Sáng thế còn cho thấy Ngài đến với con người qua dấu hiệu của thời tiết. Nhưng
đặc biệt Ngài đã đến viếng Abraham và ban cho ông lời hứa. Ngài đã ký kết với
Abraham một giao ước tình yêu và nhất quyết thi hành Giao ước đó. Ngài để ý đến
nỗi khổ của ông: tuổi đã già mà không có con nối dõi tông đường. Ngài đã cho
ông một miêu duệ lớn gấp trăm ngàn lần mong muốn.
Khi
con cháu Abraham chịu khổ cực và bị áp bức trong nước Aicập ngoại bang, Ngài đã
đến để giải phóng họ và Ngài muốn chọn Maisen - một người có lòng yêu nước nồng
nàn - Ngài đã gọi Maisen lúc ông bị đuổi bắt và chạy trốn vào sa mạc, vì đã giết
chết một người ngoại bang để bênh vực cho kẻ đồng hương.
Với
Maisen, Thiên Chúa cũng đã ký kết một giao ước và từ đó thiết lập một dân riêng
làm chứng cho Ngài giữa muôn nước.
Trong
sa mạc, Thiên Chúa luôn hiện diện. Hòm bia thánh là dấu hiệu sự gần gũi: ở giữa
và ở gần kề. Qua đám mây và cột lửa, chính Ngài hướng dẫn họ suốt cuộc hành
trình.
Sự
hiện diện của Chúa là sự hiện diện giải phóng. Ngài cứu dân khỏi lầm than đau
khổ và giúp họ chiến đấu với kẻ thù để sống còn và tiến dần vào Ðất hứa.
Khi
dân Chúa đã sống ổn định và thiết lập một vương quốc bình an thịnh vượng, Chúa
vẫn hiện diện và bảo đảm cho sự trường tồn và hạnh phúc của họ. Ðavít muốn xây
cho Chúa một đền thờ, nhưng Ngài muốn hiện diện ở giữa lòng dân. Qua lời sấm
Nathan, Ngài chưa bao giờ có ý nghĩ đòi dân xây cho mình một đền thờ bằng gạch
đá như các thần minh của dân ngoại. Chính dân là đền thờ Ngài ngự. Và Ðền thờ
đó do Ngài xây dựng, chứ không phải do tay con người làm nên. Chính Chúa tạo ra
một Ðền thờ đích thực; đó là dòng dõi, là con cháu Ðavít; và qua những con người
sống thực thuộc dòng dõi ông, Ngài sẽ hiện diện trong lịch sử loài người.
Với
Ðavít và miêu duệ ông, Thiên Chúa càng ngày càng gần gũi với nhân loại. Ngài
tác động trên lịch sử loài người và đặc biệt trong lịch sử dân riêng Ngài. Ngài
hướng dẫn và thanh luyện dân Ngài qua những biến cố đau thương như thất trận,
lưu đày... Ngài răn bảo và thúc giục... đôi khi Ngài phẫn nộ - nhưng Ngài cũng
an ủi vỗ về và hứa hẹn một thời kỳ vui mừng tràn lan ơn cứu độ. Dụng cụ Chúa
thường dùng chính là "lời nói" và "cuộc sống" các tiên tri.
Ngài
thương dân như cha yêu thương con cái, như mẹ bế bồng nâng niu, như mục tử chăm
sóc đoàn chiên.
Nhưng
Thiên Chúa như chưa bằng lòng với những gì Ngài đã làm cho dân. Ngài muốn đến
cư ngụ với dân, không chỉ như một thần linh vô hình, nhưng chấp nhận hoàn toàn
thân phận con người và chia sẻ trọn vẹn kiếp sống của nó. Thiên Chúa trở thành
Người như mọi người. Ngài bị ràng buộc bởi thời gian và không gian. Ngài sẵn
sàng đón nhận những khắc khoải lo âu của cuộc sống. Ngài cũng ăn, uống, lao động,
phấn đấu cho đời sống vật chất như mọi người. Ngài cũng vui, cười và than khóc
như những ai khác. Ngài chấp nhận mọi giới hạn và ngay cả cái chết là giới hạn
sau cùng và quan trọng nhất của con người.
Yêsu,
con của Maria và Yuse thuộc dòng dõi Ðavít là chính Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Nhưng Ngài cũng là con của trần thế, con của một dân tộc, con của người Trinh nữ
nghèo nàn sống ở Nadarét.
Ðó
là khía cạnh huyền diệu nhất của mầu nhiệm Nhập thể! Chúa muốn làm con của trần
thế, để ta nhận ra gương mặt đích thực của Ngài, một tình thương thực tế không
viễn vông, không lý thuyết Ngài không là "kẻ thuộc thế giới xa lạ".
Theo Ngài không phải để đi về thế giới ảo tưởng nào khác, nhưng để sống tình
yêu chân thật.
Maria
thụ thai Ðức Yêsu là nhân loại thụ thai Ðức Yêsu! Maria hạ sinh Ðức Yêsu là
nhân loại hạ sinh Ngài. Bài Phúc Âm Luca 1, 26-38 ví Maria như thiếu nữ Sion,
nghĩa là Israel dân Chúa. Thiên Thần kêu mời Maria hãy vui lên vì sắp sinh quý
tử. Ðó cũng là lời loan báo niềm vui cho nhân loại: chính từ nhân loại mà phát
sinh một con người toàn thiện xứng đáng làm Trưởng tử giữa muôn loài.
Mầu
nhiệm Nhập thể là tột đỉnh của sự gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa: Thiên
Chúa đến viếng thăm dân Người khiến từ lòng dân nảy sinh Ðấng Cứu độ. Chồi cây
Yêsê do Thiên Chúa vun trồng đã nở hoa.
Ðức
Yêsu là bí tích, là dấu hiệu, là điểm gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Ðức
Yêsu là nơi hội tụ của tình thương giữa Thiên Chúa và dân Người: Ngài vừa là lời
mời gọi của Thiên Chúa, vừa là tiếng đáp trả của nhân loại.
Phúc
Âm cho thấy Ðức Yêsu là một con người cụ thể, với những nét đặc thù và sống động.
Nhưng Ðức Yêsu còn là Con của Chúa Cha. Từ lúc sinh ra cho đến khi chết, mọi hoạt
động của Ngài đều do Thánh Thần của Chúa Cha thúc đẩy. Lc 1,35 nhấn mạnh đến sự
can thiệp của Thánh Linh : "Thánh Thần sẽ đến trên Cô và quyền năng Ðấng Tối
cao trên Cô rợp bóng".
Thánh
Thần Thiên Chúa đã hoạt động trong lịch sử trước ngày Ðức Yêsu sinh ra. Nhưng
Ngài đặc biệt hiện diện trong cuộc đời Yêsu. Và nhờ quyền năng Thiên Chúa, Yêsu
tuy phải chết như mọi người, đã sống lại và chiến thắng sự chết, báo hiệu
"phần số" tốt đẹp Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Ðức
Yêsu sống lại được Chúa Cha ban trọn vẹn Thánh Linh và chính nhờ Thánh Linh mà
Ðức Yêsu hiện diện giữa dân Ngài "mọi ngày cho đến tận thế".
Nhờ
Thánh Linh Ðức Yêsu vẫn ở giữa loài người, không phải chỉ cách đây hai ngàn
năm, mà Ngài vẫn hiện diện, vẫn sống giữa nhân loại hôm nay. Giáo hội là nơi
Ngài hiện diện bằng chính những hoạt động không ngừng của Thánh Linh Ngài ban.
Ngài vẫn tiếp tục hiện diện qua các sự kiện lịch sử và các biến cố. Ta có thể gặp
Ngài và phải tìm Ngài trong đó. Ngài ra đi trở về cùng Cha, không phải để rời bỏ
trần thế, nhưng để dễ dàng đồng hóa mình với mọi người sinh ra trong lịch sử, đặc
biệt với những người bé mọn, những người đói khát, những kẻ tù đày... Matthêô
cũng như Luca cho thấy sự hiện diện của Ðức Kitô phục sinh và lên trời trở
thành hữu hình trong người anh em: "Ta đói, các ngươi cho ăn, Ta khát, các
ngươi cho uốn, Ta là khách trọ các ngươi tiếp rước, Ta mình trần các ngươi cho
mặc, Ta đau yếu các ngươi viếng thăm, Ta ở tù các ngươi đến với Ta" (Mt
25,35-36).
Ðức
Kitô vẫn luôn ở giữa chúng ta. Chúng ta sẽ nhận ra Ngài khi cử hành nghi lễ bẻ
bánh, khi lắng nghe lời Ngài, khi thao thức tìm Ngài trong các dấu chỉ của thời
đại. Chúng ta sẽ tìm được Ngài khi nhìn vào những người anh em sống gần kề ta.
Ngài ở cạnh ta, cùng xây dựng xã hội và môi trường với ta. Với Ngài, ta sẽ góp
công biến đổi trần thế thành Ðất mới, Trời mới, thực hiện lời thánh Phaolô:
"Tất cả thuộc về anh em, anh em thuộc về Ðức Kitô, Ðức Kitô thuộc về Thiên
Chúa".
Bài
Giảng Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm B:
Càng
gần lễ Giáng sinh, công việc chuẩn bị của chúng ta lại càng gấp rút. Tôi ca ngợi
thiện chí và nỗ lực của mọi người. Xin Chúa chúc lành cho tất cả mọi cố gắng của
chúng ta, để lễ Giáng sinh năm nay được chan hòa ơn thánh.
Nhưng
chính trong bầu khí nhiệt liệt chuẩn bị Ðại lễ Giáng Sinh này, mà các bài sách
Thánh hôm nay muốn nâng bổng tâm hồn chúng ta lên, để thay vì chỉ mải miết thu
dọn những công việc bề ngoài, chúng ta biết tìm dịp chiêm ngưỡng những gì mà
Chúa đang muốn thực hiện cho chúng ta.
Quả
vậy, khi Ðavít suy tính sắp sửa xây cất cho Chúa một đền thờ xứng đáng, Người
đã sai tiên tri Nathan đến thưa nhà vua rằng: Chính Người sẽ xây cho nhà vua một
nhà, một họ, một dòng tộc để tồn tại muôn đời. Hôm nay Chúa cũng muốn bảo chúng
ta, những người đang làm hang đá, dọn máng cỏ cho Chúa rằng: chúng ta hãy chú ý
đến những gì mà Chúa đang muốn thực hiện cho ta. Ngài sai sứ thần Gabriel đến
báo tin cho Maria biết: Ngôi Lời muốn trở thành nhục thể, Thiên Chúa muốn sinh
ra làm người. Ðó là sứ điệp của Chúa nhật hôm nay. Sứ điệp ấy gửi đến để ta đón
nhận, suy niệm rồi thực hành, để Chúa có thể đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong
thời đại này, trên quê hương Việt Nam đang hình thành một nếp sống mới.
Trước
hết chúng ta hãy đón nhận Tin Mừng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Dĩ nhiên
Người không còn đầu thai nữa như xưa kia ở trong lòng Trinh nữ Maria. Nhưng Người
vẫn còn muốn đầu thai cách mầu nhiệm trong bí tích bàn thờ này, để được đầu
thai trong tâm hồn chúng ta qua việc rước lễ, để đầu thai nữa trong nếp sống hằng
ngày của chúng ta, hầu ai thấy đời sống tốt đẹp của chúng ta, cũng nhận ra vinh
quang của Chúa mà ca tụng Ngài. Mầu nhiệm đầu thai qua bí tích Thánh Thể ấy
không cần phải quảng diễn thêm.
Nhưng
còn một cách nữa Chúa vẫn dùng để đầu thai nơi ta giữa thời buổi này, chính là
Lời Chúa khi đến với ta trong sức mạnh của Thánh Thần. Lời Chúa mà ta nghe và đọc
trong Thánh Kinh có thể trổ sinh trong lòng ta một cuộc sống mới, thánh thiện
và tốt đẹp. Ta sẽ trở thành con cái Chúa một cách trung thực hơn và dần dần dòng
dõi những người con Chúa trở thành một thực tại có thể cảm nghiệm được. Ngay đến
mọi biến cố xảy ra hàng ngày cũng có thể mang theo nhiều ân sủng, khiến ai đón
nhận như thánh ý Chúa, sẽ làm cho Nước Người được lan rộng; và như vậy Thiên
Chúa lại như nhập thể ở giữa chúng ta.
Do
đó thật là chủ bại khi nghĩ rằng thế giới càng ngày xấu đi; đời sống chẳng còn
nghĩa lý gì nữa; và nói đến tương lai mà làm gì! Nhưng người có đức tin không
thể nghĩ như thế. Tinh thần mùa Vọng nhắc nhở: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người.
Ngài muốn đời sống con người thật đáng sống. Và vì Thiên Chúa đã đầu thai trong
lòng một Trinh nữ bình dân, nơi một điểm nhỏ bé trên bản đồ thế giới, đang buổi
suy yếu của dân tộc Dothái, chúng ta càng có quyền hy vọng tràn trề khi hoàn cảnh
chung quanh dường như không đáng lạc quan. Chính nơi Thập giá đã có ơn cứu độ
chúng ta. Chính máu chảy ra ở trên đó đã rửa sạch ta để ta trở nên con cái
Chúa. Như vậy, có gì phải bi quan? Tất cả, ngược lại, như đang có thể kéo ơn cứu
độ xuống. Và ở bất cứ hoàn cảnh nào, ơn Chúa nhập thể vẫn có thể đến để phục hồi
tất cả.
Chúng
ta chỉ cần noi gương một Ðavít và một Maria. Ðavít đã biết quên mình để nghĩ đến
Chúa. Maria cũng đã tự xưng là nữ tì để thi hành hết mọi ý định của Ðấng mình
tôn thờ. Chúng ta nhiều khi không sống như vậy. Chúng ta nghĩ đến mình quá nhiều,
nghĩ đến sự sống của bản thân, và không quan tâm đến Nước Chúa và đến tương lai
của dân tộc dủ. Chúng ta tìm sự sống mình, như lời Phúc Âm nói. Nhưng cũng như
Phúc Âm đã nói tiếp: chúng ta sẽ mất sự sống ấy. Còn ai tìm Nước Thiên Chúa và
sự công chính trước, sẽ được ban cho tất cả sau. Làm sao tương lai có thể đẹp
được, khi ai ai cũng chỉ biết nghĩ đến cá nhân của mình? Ngược lại khi người ta
nghĩ đến công ích, làm việc cho công bình bác ái ngự trị, thì những khó khăn hiện
tại sẽ khắc phục được dễ dàng. Ðavít đã không nghĩ đến mình, Ðức Maria cũng thế.
Nên Thiên Chúa đã tìm được người cộng tác để thực hiện công trình của Người, ở
trần gian, là chính Người sẽ nhập thể để mang hạnh phúc đến cho loài người.
Thế
thì hôm nay và những ngày sắp tới, đang khi hân hoan sửa soạn mừng lễ Giáng
sinh, chúng ta cần nhất phải mở rộng tâm hồn để đón nhận hồng ân của Chúa đang
đến với chúng ta. Ngài dùng Lời Thánh Kinh và Bánh Thánh Thể để đi vào trong
tâm hồn ta, biến ta nên con người muốn sống như Chúa; và như vậy Ngài đang muốn
nhập thể tiếp nối cuộc đời của Ngài ở nơi ta. Ngài dùng mọi biến cố xảy đến hằng
ngày, kêu gọi ta đón nhận như Thánh ý Ngài gửi đến, để ta hợp tác thi hành
trong tinh thần xã hội Kitô giáo, hầu ơn Ngài có thể tràn lan trong thế gian,
khiến Chúa ở trong mọi sự và mầu nhiệm nhập thể được kiện toàn. Ðiều cần hơn hết
là chúng ta luôn phải tin vững vàng rằng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người.
Người muốn sống giữa trần gian. Ngài kêu gọi ta nhìn vào cuộc sống và muốn nhập
thể với Ngài. Chúng ta có sẵn sàng đem tinh thần Phúc Âm vào thế giới để đáp lại
Lời mời gọi đó không?
Nguyện
chúc tất cả anh em được như vua Ðavít và Ðức Maria: sẵn sàng trở thành cộng sự
viên của mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể vì yêu thương trần gian.
Ðức
Mẹ Mùa Vọng
Chúng
ta còn lạ gì: mục đích của mùa Vọng không phải chỉ là để đi đến Mầu nhiệm Giáng
sinh vì Chúa Cứu thế đã giáng sinh rồi không còn phải trông đợi theo kiểu dân
Dothái ngày trước nữa. Nhưng mùa Vọng vẫn lấy lễ Giáng sinh làm một điểm tựa chắc
chắn để lao mình về đàng xa, về ngày Chúa quang lâm tái giáng. Mùa Vọng nhìn
vào mầu nhiệm Chúa Giáng sinh để chắc chắn về mầu nhiệm Chúa sẽ đến và mùa Vọng
gợi lại thời gian trông đợi ngày trước để kiện toàn tinh thần trông đợi ngày
nay. Nói vắn tắt, mùa Vọng muốn hiện đại hóa thời gian Cựu Ước để hoàn tất thời
kỳ Tân Ước. Trong mùa này, chúng ta được mời gọi kết thúc lịch sử để đưa nó
sang đời sau. Vinh dự cho chúng ta biết bao được cộng tác vào công cuộc vĩ đại
và đẹp đẽ này.
Và
cũng như Cựu Ước ngày trước đã được kết thúc một cách tuyệt diệu nơi con người
Ðức Maria, trong mùa Vọng phụng vụ này Giáo hội cũng mời gọi ta chiêm ngưỡng
Người như là khuôn mẫu phải đi tới. Người thật là bông hoa của Cựu Ước. Những
cái tinh túy nhất của Cựu Ước đã đúc nặn nên Người. Ở nơi Người, ta có thể gặp
lại tất cả lòng tin sâu xa của Abraham, lòng cậy của tất cả Ngôn sứ, lòng mến của
tác giả các thánh vịnh. Thiên Chúa đã phải khôn ngoan nhẫn nhục dẫn đưa lịch sử
dân Người và lịch sử thế giới để tạo nên được một con người như thể để Ngôi Hai
Thiên Chúa có thể giáng trần.
Nếu
quả thật trong bao ngàn năm lịch sử, "vạn phương khát vọng từ vân vũ hóa
nhi" thì phải đợi đến khi Maria xuất hiện, người ta mới thấy "nhất
phiến cổ hoài tịnh thổ sản phúc quả", nghĩa là mới tìm ra được một mảnh đất
thanh sạch đón nhận đám mây từ nhân mưa Ðấng công chính xuống. Ðức Maria vì thế
trở thành lý tưởng mà Giáo Hội và chúng ta phải đạt tới để chuẩn bị ngày Chúa
trở lại.
Nhưng
một lý tưởng bao giờ cũng phong phú có rất nhiều khía cạnh thâm thúy và sâu xa,
không ai có thể nói lên được tất cả, huống nữa là nói lên trong một lúc. Tuy
nhiên, mỗi lần nói, người ta vẫn ước vọng có thể khơi lên ở nơi người nghe một
cảm tình mộ mến dẫn sang một thích thú muốn tìm hiểu thêm. Và đó là tham vọng của
phụng vụ trong mùa này khi gợi lên cho chúng ta thấy một vài nét trong cuộc đời
của Ðức Mẹ.
Chúng
ta đừng thấy lễ Vô Nhiễm là lễ Ðức Mẹlà lễ Ðức Mẹ lớn nhất trong mùa này mà vội
tưởng đó là hình ảnh Ðức Mẹ phải tập trung mọi cái nhìn suy niệm của ta. Không,
mùa Vọng không đặt ra lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm. Lễ này cũng đã được đặt ra phải vì
mùa Vọng. Giáo hội La Mã vẫn có óc lịch sử và pháp luật, thấy rằng đã tưởng niệm
cuộc đời của Chúa trong các mầu nhiệm nào thì cũng phải nên tưởng niệm cuộc đời
Ðức Mẹ trong các mầu nhiệm ấy; đã mừng việc Chúa đản sinh và đầu thai, thì cũng
nên mừng sinh nhật và đầu thai của Mẹ. Và hai sự kiện mầu nhiệm phải cách nhau
9 tháng. Lễ sinh nhật Mẹ đã được đặt vào ngày 8 tháng 9 rồi, thì lễ Người đầu
thai vô nhiễm phải đưa lên 9 tháng trước tức là phải mừng vào ngày 8 tháng 12.
Các
nhà làm lịch lễ dường như không để ý đến mùa Vọng khi đặt ra lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm,
nhưng đặt rồi họ mới thấy đây là một sự trùng hợp có ý nghĩa. Có lễ Ðức Mẹ Vô
Nhiễm, mùa Vọng Kitô giáo trở thành hân hoan chắc chắn, khác với mùa Vọng của
Dothái ngày xưa. Thuở trước, các linh hồn thánh thiện vẫn chờ mong ngày thực hiện
lời của Thiên Chúa tình yêu trong vườn địa đàng: một người nữ sẽ sinh ra một
dòng dõi đạp dập đầu con rắn. Người nữ ấy là ai? Bao giờ Người xuất hiện để cho
chúng tôi được nhìn thấy ơn cứu độ? Các thế hệ Cựu Ước dường như lúc nào cũng hỏi
nhau câu ấy. Có lần, đàn thiếu nữ Sion tưởng đã có thể nhảy múa hân hoan vì kìa
bà Yuđích cắt đầu địch thủ đang trở về. Lần khác họ lại tưởng Esther trong vai
trò cứu nguy dân tộc sẽ là người nữ cần trông đợi... Nhưng rồi họ vẫn phải chờ,
chờ mãi... Mùa Vọng của họ dường như thiếu bảo chứng.
Nhưng
nay, lễ Ðức Mẹ hiện lên bầu trời mùa Vọng Kitô giáo, sự trông chờ của chúng ta
đã có bảo đảm rõ rệt. Vì thế chúng ta có thể hân hoan chắc chắn. Người nữ vô tì
ố đã xuất hiện thì ơn cứu độ cũng đã đến. Chúng ta chưa được nhìn thấy Chúa Cứu
Thế, nhưng việc Người đến không còn hồ nghi được nữa. Maria thật là vì Sao Mai
mọc trước Mặt Trời. Mùa Vọng Kitô giáo chắc chắn và hân hoan làm sao!
Nhưng
ta vẫn phải nói, lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm đã không được đặt ra vì mùa Vọng; mùa Vọng
sung sướng đón nhận lễ này nhưng lễ này không phải là mục tiêu mà mùa Vọng muốn
tập trung những cái nhìn suy niệm của toàn dân Chúa hướng vào. Phụng vụ Giáo hội
muốn cho chúng ta có một cái nhìn rộng rãi hơn về địa vị của Ðức Maria trong bầu
khí mùa Vọng. Ngay từ đầu, phụng vụ mùa Vọng của Giáo hội đã muốn cho hình ảnh
của Người chan hòa khắp trong nếp sống chờ mong của toàn dân Thiên Chúa. Giáo hội
chỉ chờ mong với Người và bằng cách nhìn vào Người. Nói cách khác, hình ảnh Ðức
Maria không phải chỉ chiếm một ngày trong mùa Vọng, nhưng hằng ngày trong suốt
mùa phụng vụ này, Giáo hội phải sống với Ðức Maria, phải nhìn ngắm Người và
trông đợi với Người.
Kể
ra làm gì những bản kinh phụng vụ mùa Vọng gián tiếp hoặc trực tiếp nói về Ðức
Maria; các bản văn ấy bây giờ đổi theo hằng năm. Nhưng cứ bỏ các kinh ấy đi mà
xem, mùa Vọng phụng vụ sẽ không còn nữa. Ðiều đó chứng tỏ hình ảnh Ðức Mẹ thật
đã được gắn liền với mùa Vọng. Chúng ta sẽ có lợi hơn nếu để giờ tìm hiểu vì
sao Ðức Trinh Nữ Mẹ chúng ta lại thiết yếu cho tinh thần mùa Vọng như thế, vì
như vậy, chúng ta mới biết được thâm ý của phụng vụ, hầu mới biết sống được cái
cốt yếu.
Tinh
thần mùa Vọng như chúng ta biết nhắm thẳng về đàng trước, chờ đón mầu nhiệm
Chúa trở lại. Tinh thần đó không thụ động, mặc cho ai muốn làm mưa làm gió ở trần
gian này. Trái lại, đó là tinh thần của các ngôn sứ ngày xưa không thể ngồi yên
khi thấy các bất công xã hội và thấy các liên minh chính trị bàn truyện thế giới
như thể không còn có một sức mạnh vô hình nào bá chủ hoàn vũ. Giáo hội biết
trong giai đoạn lịch sử này những người con Chúa phải tỉnh thức, phải giũ bỏ cuộc
đời đen tối và bước đi trong ánh sáng để càng ngày càng đi tới thời đại huy
hoàng của Ðức Kitô. Thế mà Giáo hội biết không mẫu người nào đã chuẩn bị ngày
Chúa đến viếng thăm một cách đắc lực như Trinh nữ Maria. Kể cả các ngôn sứ. Họ
còn là những người trỏ tay vào Maria để chờ đón ngày Người xuất hiện. Hơn nữa
Giáo hội còn biết rõ Ðức Maria không phải chỉ là gương mẫu chờ đợi và chuẩn bị
trong quá khứ, Người đang còn chờ đợi và chuẩn bị với chúng ta với tư cách là Ðấng
Ðồng Công Cứu Chuộc. Chỉ có những thứ thần học nông cạn mới không biết đến điều
đó; mới nghĩ rằng Ðức Kitô đã chấm dứt mọi hoạt động của Người khi trút hơi
trên Núi Sọ và mới quyết rằng Ðức Mẹ đồng trinh của Người cũng chỉ đồng công cứu
chuộc đến có khi ấy. Ngược lại, những thứ thần học chân chính đều thấy việc Ðức
Kitô tắt thở trên Núi Sọ chỉ là giai đoạn Ngài phải vượt qua để có thể hoạt động
hữu hiệu hơn ở ngoài những ràng buộc của không gian và thời gian; Ngài phải từ
bỏ xác thịt yếu đuối để hoạt động mạnh mẽ bằng Thánh Thần Ngài sẽ tuôn đổ xuống
trên Giáo hội; vì Thánh Thần tuôn đổ này chính là Thần Linh của Ngài. Những thứ
thần học sâu xa đó cũng nhận thấy ngay, lúc đứng ở chân Núi Sọ, Ðức Maria không
những chưa chấm dứt vai trò đồng công cứu chuộc của Người, nhưng ngược lại,
chính khi đó, Người mới bắt đầu trở nên Mẹ của Yoan, tức là của Giáo hội. Chính
vì vậy mà tác giả sách Công vụ các Tông đồ cho ta thấy Giáo hội ngay từ thuở sơ
khai đã cầu nguyện và sinh hoạt với Ðức Maria, Mẹ Chúa Yêsu.
Chúng
ta muốn nhìn thấy các hoạt động cụ thể của Ðức Mẹ ư? Sao chúng ta không muốn biết
như thế về hoạt động của Ðức Kitô hiện nay ở trong Giáo hội. Cả hai Ngài vẫn nội
tại với đời sống hiện nay của thế giới, nhưng không hiện diện như thân thể
chúng ta đang sống. Theo tục ngữ Việt Nam có thể bảo: người ta hiện nay sống
thì khôn, còn các Ngài hiện nay đã thác thì thiêng. Khôn thì ở một bình diện,
còn thiêng lại ở bình diện cao hơn và cao hẳn. Không phải những trí óc khôn
ngoan đang dẫn đưa lịch sử của thế giới này, nhưng chính là những bậc thiêng
liêng huyền bí. Không phải chúng ta đang xếp đặt thời gian sẽ đến nhưng chính Ðức
Kitô, chính vị đồng công cứu chuộc với Ngài đang âm thầm nhưng mạnh mẽ hành động
qua chúng ta và muốn chúng ta cộng tác vào, vì cũng như ngày trước, đất có sẵn
thì mây trời mới mưa Ðấng công chính xuống.
Muốn
biết chúng ta phải cộng tác chuẩn bị bằng cách nào sao? Phụng vụ mùa Vọng bảo
chúng ta nhìn vào Ðức Mẹ. Thánh Yoan trong sách Khải huyền cũng mơ thấy Giáo hội
sau này trở thành người hôn thê kiều diễm, tức là người trinh nữ vẹn sạch mà
dung nhan Ðức Mẹ thể hiện ở trước mặt chúng ta. Trên khuôn mặt khả ái đó, Thiên
Chúa đã để lại những nét luôn luôn hấp dẫn tình yêu thương vô bờ bến của Ngài,
mà Ngài muốn cho Giáo hội có trên nếp sống của mình. Một đôi mắt trong sạch
không bao giờ dừng lại trên những gì dơ bẩn; một đôi môi dịu dàng chỉ có sẵn những
lời êm ái; một dáng điệu tùng phục sâu xa tất cả những gì là của Chúa; một sự
lanh lẹ không quản gian lao để đi cứu với Người... Mầu nhiệm dâng mình, mầu nhiệm
đồng trinh, mầu nhiệm vâng theo ý Chúa, mầu nhiệm yên lặng trước nỗi nghi ngờ
chính đáng của Yuse, mầu nhiệm đi thăm bà Elisabeth và nhất là mầu nhiệm kết hợp
tận tụy và âm thầm làm tất cả những gì cần thiết để chờ đón Chúa: đó là những
nét đã được ghi sâu trong cuộc đời, nên dung nhan của Ðức Mẹ và mùa Vọng phụng
vụ ước mong chúng ta chiêm ngưỡng và bắt chước.
Chúng
ta cũng chỉ là những con người đang có một nếp sống âm thầm với những phận sự
nhỏ nhặt, nhưng tất cả những sự âm thầm nhỏ nhặt ấy lại là những yếu tố mà Thần
Linh hiện nay đang muốn dùng để xây dựng Nước Trời, để chuẩn bị việc Chúa Kitô
tái giáng. Thật là tuyệt diệu nếu chúng ta cũng biết sống và làm những công việc
ấy như Trinh nữ Maria, với cái nhìn trong sạch, với các nụ cười hiền dịu, với
các lời lẽ từ tốn, với lòng nhiệt thành không sợ gian nan... như dung nhan của
Người đang cho chúng ta thấy. Cuộc đời của chúng ta sẽ nên như cuộc sống của
Người và khuôn mặt của Giáo hội sẽ đang vẽ lại dung nhan Ðức Mẹ mùa Vọng.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật IV Mùa Vọng, Năm B
Bài đọc: II Sam 7:1-5, 8-11, 16; Rom
16:25-27; Lk 1:26-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa “xây nhà” cho con người.
Sau
khi đã định vị, sửa dọn, và vui mừng đón chờ Đấng Cứu Thế trong ba Chủ Nhật vừa
qua, phụng vụ Lời Chúa tuần này đưa chúng ta vào Mầu Nhiệm Cứu Độ ngòai sức tưởng
tượng và vượt quá khả năng hiểu biết của con người. Vì một Thiên Chúa, tuy uy
quyền vô biên và sức mạnh khôn tả, đã chọn để xuống ở với con người; không phải
trong chiếc lều vải như thời dân Do-Thái lang thang trong sa mạc, nhưng trong
cung lòng Đức Trinh Nữ Maria như một Hài Nhi, để được sinh ra và ở với con người.
Trong
Bài đọc I, vì lòng nhiệt thành và biết ơn, Vua David muốn xây “Nhà” cho Thiên
Chúa; nhưng Vua không hiểu rằng cả ngôi nhà vũ trụ cũng không chứa nổi Thiên
Chúa. Ngược lại, chính Thiên Chúa sẽ xây “Nhà” cho David: cho chính Vua, cho
giòng dõi của Vua, cho dân tộc Do-Thái, và cho tất cả mọi dân tộc. Trong Bài đọc
II, Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa tuy được giấu kín từ ngàn xưa, nhưng được mặc
khải tiệm tiến qua các tiên tri; và được mặc khải rõ ràng qua Đức Kitô cho tất
cả các dân tộc, không chỉ giới hạn trong dân tộc Do-Thái mà thôi. Trong Phúc
Âm, Thánh-sử Luca tường thuật chóp đỉnh của Mầu Nhiệm Cứu Độ được thực hiện qua
biến cố Truyền Tin: Đấng Cứu Thế, Người Con Thiên Chúa, muốn nhập thể trong
cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, để “cắm lều” ở giữa con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Vua David muốn
xây Nhà cho Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa lại muốn xây Nhà cho David.
1.1/
Vua David muốn xây Nhà cho Thiên Chúa: Trong
tất cả các Vua của Do-Thái, không một ai quan trọng và nổi tiếng bằng Vua
David. Bàn tay của Thiên Chúa ở với Vua trong mọi sự: chiến thắng tướng Goliath
của Philistines (I Sam 17); thắng vượt mưu kế của Philistines (I Sam 27); đưa tất
cả các chi tộc về một mối và cai trị họ; chiến thắng thành phố kiên cố
Jerusalem (II Sam 5:6-12); kiếm được quà thách thức và kết hôn với Michal, con
gái của Saul (I Sam 18:20-29). Không lạ gì mà trình thuật hôm nay kể: “Khi vua
được yên cửa yên nhà và Đức Chúa đã cho vua được thảnh thơi mọi bề, không còn
thù địch nào nữa, thì vua nói với ngôn sứ Nathan: "Ông xem, tôi được ở nhà
bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều vải." Ông Nathan
thưa với vua: "Tất cả những gì ngài ấp ủ trong lòng, xin ngài cứ đi mà thực
hiện, vì Đức Chúa ở với ngài."”
Thiên
Chúa ở trong lều vải kể từ khi Ngài đưa dân Do-Thái ra khỏi đất nô lệ Ai-Cập. Lều
vải là phương tiện nhà ở duy nhất của dân du mục, mặc dù không chắc chắn nhưng
có thể dọn đi bất cứ chỗ nào. Thiên Chúa ở trong lều vải để luôn hiện diện với
dân, để bảo vệ họ trong cuộc hành trình qua sa mạc, và để hướng dẫn họ mỗi khi
gặp khó khăn trong cuộc lữ hành vào Đất Hứa. Giờ đây khi dân Do-Thái đã tiến
vào Đất Hứa và ổn định đời sống, Vua muốn xây dựng một ngôi nhà kiên cố cho
Thiên Chúa ngự trị.
1.2/
Thiên Chúa sẽ xây “Nhà” cho Vua David: Nhưng
ngay đêm ấy, có lời Đức Chúa phán với ông Nathan rằng: "Hãy đi nói với tôi
tớ của Ta là David: Đức Chúa phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao? Bây
giờ ngươi hãy nói với tôi tớ Ta là David như sau: Đức Chúa các đạo binh phán thế
này: Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người
lãnh đạo dân Ta là Israel. Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi; mọi thù địch
ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi.”
Thiên
Chúa hứa sẽ xây nhà cho David, Ngài hứa sẽ làm cho Nhà Vua ba điều sau đây:
(1)
“Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt
đất.” Như đã nói trên, Thánh Vương David là vị Vua nổi tiếng nhất trong lịch sử
của Do-Thái.
(2)
“Ta sẽ cho dân Ta là Israel một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn
tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức
chúng như thuở ban đầu.” Sau khi vào Đất Hứa, dân Do-Thái đã có lãnh thổ hợp
pháp để ổn định đời sống.
(3)
“Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa. Đức Chúa báo cho
ngươi biết là Đức Chúa lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi và vương quyền của
ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi
mãi.” Nhà là giòng dõi của David, sẽ nối nghiệp nhau làm vua cai trị dân tộc
Do-Thái, cho đến khi Đấng Cứu Thế từ giòng dõi David ra đời.
Tất
cả là do sức mạnh và uy quyền của Thiên Chúa dành cho những ai biết kính sợ và
vâng theo thánh ý của Ngài. Tuy David không được phép để xây Nhà cho Thiên
Chúa, nhưng Solomon, con của Vua, đã xây dựng Đền Thờ tại Jerusalem đầu tiên
cho Thiên Chúa ngự trị.
2/
Bài đọc II: Mầu Nhiệm Cứu Độ của
Thiên Chúa được mặc khải cho con người.
Thiên
Chúa đã có Kế Họach Cứu Độ cho con người ngay từ đầu, vì Ngài biết con người sẽ
sa ngã vì không biết xử dụng tự do Thiên Chúa ban. Theo Kế Họach này, Thiên
Chúa sẽ xử dụng và huấn luyện một Dân Riêng, đó là dân Do-Thái. Từ dân tộc
Do-Thái và giòng tộc của David, Ngài sẽ cho Đấng Cứu Thế ra đời để chuộc tội
cho con người. Khi Đấng Cứu Thế hòan tất Kế Họach Cứu Độ, tất cả mọi người trên
khắp thế giới và ở mọi thời sẽ được hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
Mầu
Nhiệm Cứu Độ vốn được giữ kín tự ngàn xưa: Tuy Kế Họach Cứu Độ đã được phác họa
ngay từ đầu; nhưng không ai biết được Kế Họach đó nếu Thiên Chúa không mặc khải
tiệm tiến qua các tiên tri, và mặc khải rõ ràng qua chính Đức Kitô, Người Con của
Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói với các tín hữu Roma: “Tin Mừng đó mặc khải mầu
nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa, nhưng nay lại được biểu lộ qua lời các ngôn
sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm
này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. Chỉ
mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến
muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giêsu Kitô. Amen.”
Chính
người Do-Thái, mặc dù là Dân Riêng của Thiên Chúa, cũng không thấu hiểu Mầu Nhiệm
này. Nhiều người Do-Thái vẫn nghĩ chỉ có họ mới xứng đáng được hưởng Ơn Cứu Độ;
tất cả Dân Ngọai sẽ phải chịu cảnh hư mất. Nhiều người vẫn không tin Đức Kitô
là Đấng Cứu Thế và họ vẫn đang chờ đợi một Đấng khác. Nhưng sau khi Đức Kitô
hòan tất sứ vụ trần gian của Ngài, biết bao nhiêu Dân Ngọai được nghe rao giảng
Tin Mừng. Nếu họ tin và vâng phục Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa, họ cũng được
hưởng Ơn Cứu Độ mà Thiên Chúa đã phác họa cho họ ngay từ thuở ban đầu. Đó là
Tin Mừng mà Thánh Phaolô muốn loan truyền cho các tín hữu của ngài: “Nhưng nay,
mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên
Chúa. Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh
theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giêsu Kitô.”
3/
Phúc Âm: Thiên thần truyền tin
cho Đức Trinh Nữ Maria.
3.1/
Cuộc gặp gỡ giữa trời và đất: Tuyệt
đỉnh của Mầu Nhiệm Cứu Độ là Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra; và bắt đầu cuộc đời của Đấng
Cứu Thế trên dương gian là biến cố Truyền Tin hôm nay. Không ai có thể ngờ một
Thiên Chúa, Đấng dựng nên và có quyền trên muôn lòai, lại đến với một tạo vật của
mình; để xin cho Người Con được vào cung lòng của Trinh Nữ và sinh ra làm người.
Thánh-sử Luca tường thuật biến cố Truyền Tin như sau: “ Khi Bà Elizabeth có
thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền
Galilee, gọi là Nazareth, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là
Giuse, thuộc dòng dõi vua David. Trinh nữ ấy tên là Maria. Sứ thần vào nhà
trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng
bà." Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.
Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.”
3.2/
Mầu Nhiệm Cứu Độ được mặc khải: Sứ-thần
Gabriel nói về con trẻ sẽ được sinh ra như sau: “Và này đây bà sẽ thụ thai,
sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi
là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua
David, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Jacob đến muôn đời, và triều đại của
Người sẽ vô cùng vô tận." Đây chính là lời hứa thứ ba mà Tiên-tri Nathan
đã loan báo cho Vua David trong Bài đọc I. Chỉ có một điều kỳ lạ không ai ngờ tới
về đứa trẻ sinh ra, tuy là Con của Đấng Tối Cao nhưng lại thuộc giòng dõi David
qua người cha nuôi, Thánh Giuse.
3.3/
Phản ứng của Đức Trinh Nữ Maria: Vì đã khấn giữ mình đồng trinh, Maria thưa với
sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!"
Điều Maria muốn giữ mình đồng trinh là điều đẹp lòng Thiên Chúa, vì Ngài muốn
Con của Ngài nhập thể trong một cung lòng thanh sạch và tinh tuyền như thế. Hơn
nữa, lời tiên tri của Isaiah cũng đã báo trước về người Trinh-nữ này (parthenos,
Isa 7:14).
Đức
Trinh Nữ, cũng giống như nhiều người chúng ta, thắc mắc theo sự hiểu biết của
con người: Làm sao thụ thai và sinh con mà còn đồng trinh? Chúng ta quên đi
cách của Thiên Chúa: có thể giữ mình đồng trinh mà vẫn sinh con. Sứ thần cắt
nghĩa cách của Thiên Chúa: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng
Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là
Con Thiên Chúa.” Sứ thần đưa một bằng chứng cụ thể: “Kìa bà Elizabeth, người họ
hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị
mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên
Chúa, không có gì là không thể làm được." Sau khi đã lắng nghe lời cắt
nghĩa của Sứ-thần, Đức Trinh Nữ Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của
Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra
đi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Vì yêu thương Thiên Chúa luôn muốn ở với để dạy dỗ, an ủi, hướng dẫn, và ban
muôn ơn lành cho con người. Để luôn có Ngài trong cuộc sống, chúng ta cần chuẩn
bị một chỗ ở xứng đáng cho Thiên Chúa, không phải chỉ trong những Đền Thờ vững
chắc và to lớn, nhưng trong căn lều vải là chính con người yếu đuối của chúng
ta.
-
Mầu Nhiệm Cứu Độ được Thiên Chúa chuẩn bị và bắt đầu từ dân tộc Do-Thái; nhưng
Ơn Cứu Độ không chỉ giới hạn trong dân tộc này. Thiên Chúa muốn chúng ta rao giảng
Tin Mừng và mang Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa tới cho muôn người.
-
Chúng ta có thể có ý định và kế họach cho cuộc sống; nhưng một khi Thiên Chúa
muốn chúng ta thay đổi kế họach và làm theo thánh ý Ngài, chúng ta phải biết
khiêm nhường lắng nghe và thi hành ý định của Thiên Chúa như Vua David và Đức
Trinh Nữ Maria.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
21/12/14 CHÚA NHẬT TUẦN
4 MV – B
Lc 1,26-38
Lc 1,26-38
Suy niệm: Việc
gặp gỡ chàng Kim Trọng làm cho nàng Thúy Kiều phân vân: “trăm năm biết có duyên gì hay không?” Cuộc gặp gỡ sứ thần Gáp-ri-en cũng khiến cô
thiếu nữ thành Na-da-rét có đôi chút bối rối về cách thức thực hiện cuộc “tình
duyên” muôn đời của Thiên Chúa với con người. Rồi cuối cùng sứ thần cũng nghe
được tiếng “xin vâng” từ người thiếu nữ này. Đức Maria được sứ thần
chào bằng một danh xưng đặc biệt "Đấng đầy ân sủng" vì được Thiên Chúa đổ đầy ân sủng trên con
người của Mẹ. Sau tiếng "xin vâng," "Đấng đầy ân sủng" ấy sẽ sinh ra Đức Giê-su, Đấng là
nguồn-mạch-mọi-ân-sủng. Noi gương Đức Ma-ri-a, ta cũng dám liều lĩnh đáp lại
tiếng xin vâng, tin tưởng và cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa.
Mời Bạn: Khi
truyền tin, bạn không chỉ đem tới cho ai đó một tin (vui hoặc buồn); nhưng còn nhằm thông truyền
đức tin cho người ấy, bởi khi họ tin vào lời truyền có thế giá của bạn, đức tin
của họ sẽ bắt đầu chớm nở.
Chia sẻ: Có
khi nào bạn chia sẻ (truyền) tin vui (đức tin) cho ai chưa, nhất là khi tin vui
ấy xuất phát từ sự trải nghiệm ngọt ngào của ơn thánh Chúa trong đời bạn?
Sống Lời Chúa: Phân
vân, tự hỏi trước các vấn nạn của đức tin là điều bình thường. Tuy nhiên, bạn
khó đáp lời xin vâng nếu chỉ xử lý các vấn nạn ấy theo cảm quan tự nhiên. Hãy
noi theo gương Mẹ Ma-ri-a, thưa xin vâng với trọn niềm tin và phó thác nơi
Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Mẹ Ma-ri-a, xin giúp con biết noi gương Mẹ nói lời “Xin vâng”
trước lời mời gọi của Chúa, trong niềm hy vọng, cậy trông nơi Chúa.
Gần
kề với lễ Giáng sinh, Giáo hội muốn chúng ta chiêm ngưỡng khuôn mặt Mẹ Maria. Mẹ
đã thưa lên lời xin vâng và đã trung thành với lời xin vâng ấy.
Chắc
hẳn ngay từ những ngày tháng còn thơ ấu, bà thánh Anna và ông thánh Gioakim đã
dạy cho Mẹ biết Thiên Chúa là một người cha nhân từ luôn yêu thương chăm sóc
chúng ta, cho nên hãy tin tưởng phó thác nơi Ngài, đồng thời hãy khao khát
trông đợi Đấng Cứu Thế. Mẹ sẵn sàng để Chúa hướng dẫn, cho dù không biết được
con đường của Chúa sẽ dẫn tới đâu.
Thực
vậy, bấy giờ Mẹ đã đính hôn cùng thánh Giuse và có lẽ hai người đã quyết tâm sống
tận hiến cho Thiên Chúa. Nhưng rồi Thiên Chúa đã chọn Mẹ. Sứ thần Gabriel đã tới
thăm viếng và tỏ lộ cho Mẹ biết vai trò Thiên Chúa đã dành cho Mẹ, đó là trở
nên Mẹ của Đấng Cứu Thế. Sau những giây phút ngạc nhiên và lo lắng, Mẹ đã thưa
lên:
-
Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền.
Một
lời xin vâng quyết liệt đã xoay chuyển toàn bộ cuộc đời của Mẹ. Chỉ ít lâu sau
lời xin vâng này, Mẹ đã đau khổ rất nhiều trước thái độ nghi ngờ của thánh
Giuse khi thấy Mẹ mang thai. Thế nhưng vì đã tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa,
nên Mẹ đã giữ sự im lặng, bởi vì chính Thiên Chúa sẽ làm sáng tỏ vấn đề và sẽ
giúp cho thánh Giuse được hiểu.
Trong
lúc Mẹ và thánh Giuse chuẩn bị ngày Chúa chào đời tại Nagiarét, thì Thiên Chúa
lại nhìn sự việc một cách khác. Với lệnh truyền của hoàng đế, Mẹ phải xuống
Bêlem để đăng ký nhân hộ khẩu và rồi Chúa Giêsu đã phải sinh ra trong cảnh
nghèo túng của máng cỏ đêm đông.
Mỗi
biến cố là một dấu chỉ nói lên thánh ý của Thiên Chúa. Trong từng giây từng
phút và trong từng sự kiện suốt cả cuộc đời, Mẹ không ngừng xin vâng trước ý định
muôn thuở của Thiên Chúa và thực hiện một cách trọn vẹn ý định thánh thiện ấy.
Và đỉnh cao của lời xin vâng phải là đau khổ thập giá.
Đúng
thế, Mẹ luôn kết hiệp với Chúa và chia sẻ những khổ đau Chúa phải chịu. Cũng
như các Tông đồ, hẳn Mẹ đã được Chúa báo trước về cuộc tử nạn. Mẹ đã lắng nghe
và ghi nhớ trong lòng.
Rồi
khi cuộc tử nạn bắt đầu. Chúa hấp hối trong vườn cây dầu và Ngài đã phải kêu
lên:
-
Lạy Cha xin cất chén đắng này xa con, nhưng không theo ý con, một vâng ý Cha mà
thôi.
Chúa
cảm thấy như gánh tội lỗi đè nặng trên mình. Còn Mẹ mặc dù lúc ấy không có mặt
trong vườn cây dầu, nhưng chắc chắn Mẹ cũng đã chia sẻ gánh nặng và những khổ
đau của Chúa.
Rồi
đêm hôm đó Chúa đã phải chịu biết bao nhiêu cực hình, nào là bị đánh đòn, bị đội
mạo gai. Mẹ luôn kết hiệp với Chúa. Thân xác Chúa rách nát thì thân xác Mẹ cũng
đớn đau Chúa đã kêu lên:
-
Một vâng theo ý Cha mà thôi.
Mẹ
cũng thưa:
-
Này tôi là tôi tá Chúa.
Mẹ
luôn xin vâng, dù gặp phải những hoàn cảnh đen tối và đau đớn nhất.
Và
sau cùng là cây thập giá trên đỉnh đồi Canvê. Mẹ đã theo Chúa trên đường lên
núi Sọ. Mẹ đã chứng kiến cảnh tượng quân lính đóng đanh Chúa. Và rồi Mẹ đã đứng
lặng dưới chân cậy thập giá để chứng tỏ rằng Mẹ luôn kết hiệp và chia sẻ với
Chúa. Và như vậy Mẹ đã đi cho tới tận cùng lời xin vâng của mình.
Còn
chúng ta thì sao? Chúng ta đã có thái độ nào trong những giờ phút đau khổ và
cay đắng, chúng ta đã phản ứng ra làm sao trước thánh ý của Thiên Chúa.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21 THÁNG MƯỜI HAI
Dọn
Chỗ Cho Chúa Trong Lòng Ta
Trong
Mùa Vọng, chúng ta được ân sủng thúc giục để có tâm tình đức tin trong lòng và
có niềm mong đợi của tất cả những ai đợi trông Chúa, tất cả những ai tin và yêu
mến Đức Giêsu. Con đường Mùa Vọng như thế giúp làm cho đức tin của chúng ta nên
sinh động trong khi chúng ta không ngừng suy niệm và được bồi dưỡng bằng Lời
Chúa. Đối với người Kitô hữu, đây sẽ là điểm qui chiếu đầu tiên và nền tảng cho
đời sống tâm linh của mình, một đời sống phải được bồi dưỡng bằng kinh nguyện
tôn thờ và ca tụng Thiên Chúa. Trong số những kinh nguyện này, Benedictus của
Dacaria, Nunc dimittis của Simêon, và nhất là Magnificat của Đức Trinh Nữ
Ma-ri-a là những kinh nguyện kiểu mẫu vô song.
Tâm
tình đức tin bên trong của Mùa Vọng được củng cố nhờ việc chúng ta lãnh nhận các
bí tích, nhất là bí tích Hòa Giải và Thánh Thể, tinh luyện và ban dồi dào ân sủng
Đức Kitô cho chúng ta. Các bí tích ấy làm cho chúng ta trở thành con người mới,
theo như lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy sám hối!” (Mt 3,2).
Từ
viễn tượng này, chúng ta thấy rằng trong tư cách là Kitôhữu, mọi ngày đều có thể
là một Mùa Vọng cho mình. Bởi vì chúng ta càng thanh tẩy linh hồn mình, chúng
ta sẽ càng dọn nhiều chỗ hơn cho tình yêu của Thiên Chúa chiếm ngự tâm hồn ta.
Rồi Đức Kitô sẽ có thể đến và sinh hạ trong ta.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 21-12.
Chúa
Nhật IV Mùa Vọng
2Sm
7,1-5.8b-12.14a.16; Rm 16,25-27; Lc 1,26-38.
LỜI
SUY NIỆM: “Bấy giờ bà Maria nói: Vâng,
tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
Tiếng
“Xin Vâng” của Đức Mẹ Maria không những chỉ thưa lên khi đã hiểu ý muốn của
Thiên Chúa; muốn Mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế cho toàn thể nhân loại. Nhưng Đức Mẹ
còn “Xin Vâng” suốt cuộc đời mình để chương trình của Thiên Chúa được hoàn hảo
một cách trọn vẹn. Đức Mẹ “Xin Vâng” khi sinh Chúa Giêsu nơi hang đá Bêlem, Xin
Vâng khi đưa con trốn sang Ai-Cập rồi Xin Vâng trở về Nadarét. Mẹ đã tiếp tục
“Xin Vâng” cho đến khi đứng dưới chân Thánh Giá đón nhận lời làm mẹ cả nhân loại.
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đã thương ban Đức Mẹ, để làm mẹ của chúng con. Xin cho mọi
thành viên trong gia đình chúng con luôn sống trong khiêm nhường và vâng lời
như Đức Mẹ, và luôn kêu khấn qua Đức Mẹ để được bình an lúc này và trong giờ
lâm tử Amen.
Mạnh Phương
21
Tháng Mười Hai
Rạn Nứt Trong Tâm Hồn
Một
ông vua giàu có nọ rất keo kiệt và hà khắc đối với thần dân. Thành ra, tất cả mọi
người đều oán ghét ông.
Một
hôm ông ra lệnh cho quan tể tướng tiến hành việc thu thuế hằng năm. Nhưng quan
tể tướng cho biết: "Năm nay mùa màng hư hại, dân chúng đang chết đói, họ
không thể nào nộp thuế được".
Nhưng
nhà vua vẫn một mực cho tiến hành việc thu thuế và yêu cầu quan tể tướng dùng tất
cả tiền thuế để sửa sang cung điện và nội thành. Quan tể tướng đi một vòng xung
quanh cung điện, nơi nào cũng có sự rạn nứt, nhưng sự rạn nứt sâu xa hơn vẫn là
sự bất mãn và ta thán của người dân.
Thế
là, năm đó, thay vì tiến hành lệnh của vua, quan tể tướng đã cho người đi khắp
nơi và loan báo như sau: "Năm nay, nhà vua miễn thuế cho tất cả mọi người".
Nghe thế, ai cũng vui mừng vỡ lở. Khắp nơi, tuy đói kém, ai ai cũng làm tiệc ăn
mừng.
Trở
lại triều đình, quan tể tướng thông cáo với nhà vua rằng với số tiền thu thuế
được, ông đã cho làm những tu sửa cần thiết nhất.
Ngày
hôm sau, quan tể tướng mời nhà vua và đoàn tùy tùng đi tham quan một vòng xung
quanh những nơi mà ông báo cáo đã được tu sửa. Vừa ra khỏi cung điện, nhà vua
đã được dân chúng tung hô vạn tuế không dứt lời. Nhìn đám đông vui mừng phở lở,
nhà vua mới quay sang quan tể tướng để hỏi lý do của ngày hội này. Quan tể tướng
mới giải thích như sau: "Tâu bệ hạ, ngày lễ hôm nay được tổ chức là để
đánh dấu những tu sửa quan trọng trong cung điện. Trước khi tiến hành việc thu
thuế, hạ thần đã đi tham quan một vòng, hạ thần nhận thấy rằng những rạn nứt
đáng kể nhất không phải là những rạn nứt trên tường thành của cung điện mà
chính là trong lòng người dân. Người dân không thể vui mừng được vì từ bao lâu
nay, họ không còn thấy được lòng tốt nữa. Ðó là lý do đã khiến hạ thần tuyên bố
miễn thuế cho họ trong năm nay".
Nghe
thế, nhà vua mới sực tỉnh lại và nhận ra thái độ keo kiệt hà khắc của ông. Ông
nhìn xuống đám đông dân chúng đang hân hoan vẫy chào, lòng ông cảm thấy xúc động.
Lần đầu tiên, người ta thấy nụ cười của vui tươi và yêu thương nở trên môi ông.
Người
Việt Nam chúng ta có lẽ đã quá quen thuộc với hai chữ đổi mới. Năm kia qua
tháng nọ, lúc nào người ta cũng hô hào "đổi mới", nhưng đâu vẫn vào
đó: đói khổ vẫn còn đó, dốt nát vẫn còn đó, lạc hậu vẫn còn đó, tù đày khốn khổ
vẫn còn đó... Ðiều đó xem ra cũng dễ hiểu, người ta chỉ vá víu để hàn gắn những
rạn nứt bên ngoài, còn rạn nứt thâm sâu nhất là rạn nứt trong tâm hồn mình, thì
người ta không bao giờ nghĩ tới.
"Ðổi
mới" là trọng tâm của sứ điệp Kitô Giáo chúng ta. Khai mở sứ vị công khai
của Ngài, Chúa Giêsu đã kêu gọi: "Hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng".
Sự hoán cải mà Chúa Giêsu đề ra là hoán cải tâm hồn, hoán cải con tim, hoán cải
tư duy, hoán cải cái nhìn.
Sự
hoán cải ấy không phải là công việc của một ngày, một tháng, một năm, mà là
công trình của cả một cuộc đời. Bao lâu còn mang lấy danh hiệu Kitô, thì bấy
lâu người tín hữu vẫn còn được mời gọi để hoán cải.
Sự
hoán cải ấy cũng không chỉ là cố gắng riêng tư của người tín hữu mà là tác động
của chính Chúa. Chính Ngài mới có thể tác tạo cho con người một trái tim mới, một
quả tim biết yêu thương. Sự đổi mới mà người tín hữu Kitô không ngừng đeo đuổi
trong cả cuộc sống của mình chính là cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa những cố gắng
riêng tư của mình và sự tác tạo của Chúa.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét