17/03/2015
Thứ Ba Tuần IV Mùa
Chay Năm lẻ
BÀI
ĐỌC I: Ed 47, 1-9. 12
"Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến
ai, thì tất cả đều được cứu rỗi".
Trích
sách Tiên tri Êdêkiel.
Trong
những ngày ấy, thiên thần dẫn tôi đến cửa nhà Chúa, và đây nước chảy dưới thềm
nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng về phía đông, còn nước thì chảy
từ bên phải đền thờ, về phía nam bàn thờ. Thiên thần dẫn tôi qua cửa phía bắc,
đưa đi phía ngoài, đến cửa ngoài nhìn về hướng đông, và đây nước chảy từ bên phải.
Khi đó có người đàn ông đi ra về hướng đông, tay cầm sợi dây, ông đo một ngàn
thước tay và dẫn tôi đi qua dưới nước tới mắt cá chân. Ông đo một ngàn thước
tay nữa và dẫn tôi đi qua dưới nước đến đầu gối. Ông còn đo một ngàn thước tay
và dẫn tôi đi qua dưới nước đến ngang lưng. Ông lại đo thêm một ngàn thước tay
nữa, và đây là suối nước, tôi không thể đi qua được, vì nước suối dâng lên cao
quá, phải lội mới đi qua được, nên người ta không thể đi qua được. Người ấy nói
với tôi: "Hỡi người, hẳn ngươi đã xem thấy". Rồi ông dẫn tôi đi, rồi
dẫn trở lại trên bờ suối. Khi trở lại, tôi thấy hai bên suối có nhiều cây cối.
Người ấy lại nói với tôi: "Nước này chảy về phía cồn cát, phía đông, chảy
xuống đồng bằng hoang địa, rồi chảy ra biển, biến mất trong biển và trở nên nước
trong sạch. Tất cả những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống.
Sẽ có rất nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành,
và sự sống sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến.
Gần
suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá của nó sẽ
không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết; mỗi tháng nó có trái mới,
vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái của nó dùng làm thức ăn, và lá của
nó dùng làm thuốc uống. Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 45, 2-3. 5-6. 8-9
Đáp:
Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, và ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ (c. 8).
1)
Chúa là nơi ẩn náu và là sức mạnh của chúng ta, Người hằng cứu giúp khi ta sầu
khổ. Dầu đất có rung chuyển, ta không sợ chi, dầu núi đổ xuống đầy lòng biển cả.
- Đáp.
2) Nước
dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Đấng Tối Cao hiển
ngự. Chúa ở giữa thành, nên nó không chuyển rung, lúc tinh sương, thành được
Chúa cứu giúp. - Đáp.
3) Chúa
thiên binh hằng ở cùng ta, ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ. Các ngươi hãy đến
mà xem mọi kỳ công Chúa làm, Người thực hiện muôn kỳ quan trên vũ trụ. - Đáp.
CÂU
XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Tv 50, 12a và 14a
Ôi
lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu
độ.
PHÚC
ÂM: Ga 5, 1-3a. 5-16
"Tức khắc người ấy được lành bệnh".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Hôm
đó là ngày lễ của người Do-thái, Chúa Giêsu lên Giêru-salem. Tại Giêrusalem, gần
cửa "Chiên", có một cái hồ, tiếng Do-thái gọi là Bếtsaiđa, chung
quanh có năm hành lang. Trong các hành lang này, có rất nhiều người đau yếu, mù
loà, què quặt, bất toại nằm la liệt. Trong số đó, có một người nằm đau liệt đã
ba mươi tám năm. Khi Chúa Giêsu thấy người ấy nằm đó và biết anh đã đau từ lâu,
liền hỏi: "Anh muốn được lành bệnh không?" Người đó thưa: "Thưa
Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết tới, thì
có người xuống trước tôi rồi". Chúa Giêsu nói: "Anh hãy đứng dậy vác
chõng mà về". Tức khắc người ấy được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi.
Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbat, nên người Do-thái bảo người vừa được khỏi bệnh
rằng: "Hôm nay là ngày Sabbat, anh không được phép vác chõng". Anh ta
trả lời: "Chính người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: "Vác chõng mà
đi". Họ hỏi: "Ai là người đã bảo anh 'Vác chõng mà đi'?" Nhưng kẻ
đã được chữa lành không biết Người là ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ
tập nơi đó.
Sau
đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ, Người nói: "Này, anh đã được lành
bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước". Anh ta đi nói cho
người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là người đã chữa anh ta lành bệnh.
Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong ngày Sabbat. Đó là lời Chúa.
Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong ngày Sabbat. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
SUY NIỆM : Chữa Người Bất Toại
Cuốn
phim Mỹ với tựa đề: “Cái chết của một thiên thần” mang một ý nghĩa sâu sắc. Tại
một vùng quê hẻo lánh bên Nam Mỹ, nơi mà lòng đạo đức bình dân thường pha trộn
những mê tín dị đoan, một thanh niên nọ đã ngụy tạo ra một phép lạ thu hút được
rất nhiều người. Anh lén rạch da lấy máu mình và cho vào tượng Thánh giá mà chỉ
anh mới biết cách tháo ráp. Mỗi lần anh ôm Thánh giá vào lòng thì máu từ mão
gai của tượng chảy ra. Dân chúng từ khắp nơi, nhất là những kẻ tàn tật, mù lòa
đổ vào để chứng kiến phép lạ. Đoàn người làm thành một đám rước Thánh giá lên
trên một ngọn đồi, tại đó người thanh niên quỳ cầu nguyện bên cạnh Thánh giá và
máu lại chảy ra từ mão gai trên đầu Chúa.
Trong
khi phép lạ ngụy tạo này diễn ra mỗi ngày, thì một đám người bất lương muốn lợi
dụng cơ hội để làm tiền. Họ biết chắc đây chỉ là một sự lừa bịp, nhưng họ chưa
khám phá được bí quyết của người thanh niên. Sau một thời gian theo dõi, họ đã
bắt giữ người thanh niên và tra khảo anh khai ra bí mật ấy. Không chịu nổi cuộc
tra tấn, người thanh niên đành thú nhận sự thật và đó cũng là lúc khởi đầu của
những hình ảnh đẹp nhất trong cuộc đời anh. Trước đám đông đang chuẩn bị cuộc
rước, người thanh niên tháo gỡ tượng Chúa Giêsu khỏi Thánh giá và cho mọi người
thấy sự lường gạt của anh từ bao năm qua. Với tất cả thành tâm thống hối, anh
vác Thánh giá tiến lên đồi. Đám người bất lương bắn xối xả vào người anh, anh ngã
gục, nhưng đoàn người lại tiếp tục vác Thánh giá lên đồi, nhiều người tàn tật,
mù lòa bỗng cảm thấy được chữa lành.
Câu
chuyện trên đây có thể giúp chúng ta nhận ra phần nào sứ điệp mà Mẹ Giáo Hội muốn
gửi đến chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay. Đám đông trong câu chuyện trên chờ đợi
những dấu lạ từ pho tượng của Chúa Giêsu, nhưng dấu lạ lại chỉ xảy đến chính
lúc họ biết khước từ những hiện tượng bên ngoài ấy để nhận ra khuôn mặt đích thực
của Chúa Giêsu trên Thánh giá và thông hiệp vào chính cuộc khổ nạn của Ngài.
Phép
lạ xảy ra cho người bất toại trong Tin Mừng hôm nay có thể là hình ảnh của lòng
tin cần được thanh luyện. Từ 38 năm qua, con người tàn tật này chờ một phép lạ,
nhưng một phép lạ gắn liền với một hiện tượng bên ngoài là nước hồ lay động đã không
bao giờ xảy đến. Chỉ khi người tàn tật này gặp gỡ Chúa Giêsu, xưng thú nỗi bất
lực của mình, và tin tưởng ở lời Ngài, thì lúc đó phép lạ mới thực sự được thực
hiện.
Ngày
nay, để cảm nhận được phép lạ của Thiên Chúa, chúng ta cũng cần vượt qua não trạng
chỉ chờ đợi những hiện tượng khác lạ trong thiên nhiên. Người ta thích đổ xô tới
nơi có hiện tượng lạ thường. Dĩ nhiên, trong một số trường hợp. Thiên Chúa đã
thực hiện điều đó. Thế nhưng điều quan trọng cho đức tin chúng ta không phải là
những hiện tượng khác thường ấy, mà là chính sự gặp gỡ thân tình với Chúa
Giêsu. Gặp gỡ Ngài, tin ở lời Ngài, kết hiệp với Ngài nhất là trong mầu nhiệm
khổ nạn, con người mới cảm nhận được tác động của Ngài.
Mùa
chay là mùa của thanh luyện. Giáo Hội mời gọi tín hữu kết hiệp với Đức Kitô Tử
nạn bằng cách sống tâm tình tin tưởng phó thác của Ngài, nhờ đó niềm tin của họ
được thanh luyện và họ sẽ cảm nhận được tình yêu của Chúa.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần IV MC
Bài đọc: Eze 47:1-9; Jn
5:1-3a, 5-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự hiện diện của
Thiên Chúa mang lại sự sống cho con người.
Nước
không thể thiếu trong đời sống con người. Tại Jerusalem và miền nam của Israel,
nước còn quan trọng hơn nữa vì nằm trên núi và sa mạc. Nếu không có nước, con
người và muôn lòai không thể sống. Nước còn có một công dụng khác: rửa sạch mọi
nhơ bẩn. Nước thánh từ Đền Thờ chảy ra là hình ảnh của Nước Rửa Tội trong đêm Vọng
Phục sinh, có thể thanh tẩy mọi ô uế trong tâm hồn.
Các
Bài Đọc hôm nay xoay quanh sự cần thiết của nước trong đời sống. Trong Bài Đọc
I, tiên-tri Ezekiel, tuy sống trong nơi lưu đày, có một thị kiến về nước từ bên
phải của Đền Thờ Jerusalem chảy ra. Nước này nhiều đến độ làm thành một con
sông lớn và chảy về phía Biển Chết và sa mạc Arabah. Nước chảy đến đâu đem sự sống
cho muôn lòai đến đó. Nước này cũng chữa lành mọi bệnh tật của con người. Trong
Phúc Âm, một người bị liệt đã 38 năm, nằm bên hồ Bethzatha chờ mặt nước nối liền
Đền Thờ được khuấy động là nhảy xuống hồ để được chữa lành. May mắn cho anh,
Chúa Giêsu đi ngang, nhìn thấy, và chữa lành. Ngài truyền cho anh đứng dậy, vác
chõng, và đi về nhà.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự
sống.
1.1/
Thị kiến “Nước từ Đền Thờ chảy ra” của tiên-tri Ezekiel: Nhiều tác giả đã
dùng biểu tượng “Nước từ Đền Thờ chảy ra” (x/c Joel 3:18, Zech 14:8, Psa
36:8-9, Rev 22:1). Có tác giả cho đây có lẽ là một ám chỉ của giòng nước chảy
ra từ Vườn Địa Đàng (Gen 2:10-14), ngưng chảy vì tội của Adam, xuất hiện trở lại
trong cuộc Xuất Hành qua sa mạc qua biến cố “Nước chảy ra từ Tảng Đá,” và sau
cùng tái xuất hiện trong thành Jerusalem vào Ngày Cánh Chung như một giòng
sông. Phía Đông của Đền Thờ Jerusalem là thung lũng Kedron, thường thì khô cạn,
và người ta có thể băng ngang để leo lên Vườn Cây Dầu như Chúa Giêsu và các môn
đệ thường làm. Thị kiến của Ezekiel muốn nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa.
Ngài có thể làm cho nước ngập tràn thung lũng Kedron, làm thành một giòng sông
chảy vào Biển Chết như sông Jordan.
1.2/
Nước từ Đền Thờ mang lại sự sống và chữa lành con người: Nơi nào có nước là
có sự sống. Cây trồng bên suối nước sẽ luôn xanh tươi và sinh nhiều hoa trái.
Trong thực tế, Biển Chết là nơi nước sông Jordan chảy vào; vì không có lối
thóat nên nước trở nên rất mặn, và không một sinh vật nào có thể sống nổi. Thị
kiến của tiên-tri Ezekiel có lẽ muốn nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa trong
tương lai. Ngài sẽ làm nước từ Đền Thờ chảy ra nhiều đến nỗi làm thành một
giòng sông lấp đầy thung lũng Kedron, chảy vào Biển Chết và thông xuống vùng sa
mạc Arabah. Khi Biển Chết được thông thương, nước sẽ trở nên tinh sạch hơn và
làm cho nước biển hoá lành. Vì thế, “Sông chảy đến đâu thì mọi sinh vật lúc
nhúc ở đó sẽ được sống. Sẽ có rất nhiều cá, vì nước này chảy tới đâu, thì nó chữa
lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” Một điều chắc chắn hơn, thị
kiến này ám chỉ Nước Rửa Tội mà trong đêm Vọng Phục Sinh, khi chúng ta sẽ hát
lên: “Tôi đã thấy nước từ bên phải Đền Thờ chảy ra; và nước ấy chảy đến những
ai, thì tất cả đều được cứu rỗi và reo lên …”
2/
Phúc Âm:
Người bệnh bất tọai chờ bên hồ nước Bethzatha để được chữa lành.
2.1/
Lịch sử của hồ nước Bethzatha: Trước thế kỷ 20, các học giả của Tin Mừng Gioan cho hồ nước này
chỉ là biểu tượng, chứ không có thật tại Jerusalem, nhiều người còn chú giải 5
hành lang tượng trưng cho 5 Sách của Ngũ Kinh, 38 năm tượng trưng cho 38 năm
dân Do-thái lang thang trong sa mạc. Trường Kinh Thánh và Khảo Cổ của Dòng
Đa-minh, École Biblique, tìm ra tông tích của chiếc hồ này ở phía Tây của Đền
Thờ, gần nhà thờ St. Ann hiện nay, cùng với các các di tích lịch sử của nó. Hai
cái hồ tìm thấy nằm kế cận nhau được giải thích trong tờ hướng dẫn của các cha
dòng White Friars như sau:
-
Thời xa xưa, những hồ chứa nước được thiết lập trong thung lũng này. Một cái hồ
đơn giản được đào để chứa nước chảy qua thung lũng như một cái hồ thiên nhiên.
Sau này, cái hồ này được xây và biến thành hồ nhân tạo với chiều kích 40x50 m bằng
cách dùng một ống dẫn nước rộng khỏang 6 m. Nước trong hồ được dẫn vào Đền Thờ
bằng một con kênh nhỏ. Sách Isa 7:3 và 2 Kgs 18:17 ám chỉ con kênh nhỏ này.
-
Vào cuối thế kỷ 3rd BC, một chiếc hồ thứ hai được thiết lập, có
lẽ vào khỏang thời gian của Thượng Tế Simon (x/c Sir 50:3). Nó được xây ở phía
Nam của ống dẫn nước, con kênh nhỏ được bao phủ và trở thành ống dẫn nước vào Đền
Thờ.
-
Vào giữa năm 150 BC và 70 AD, một trung tâm chữa bệnh nổi tiếng được phát triển
về phía Đông của hai cái hồ này. Một giếng nước, chỗ tắm, và những bàn thờ cũng
được thiết lập cho mục đích chữa trị và tôn giáo. Nơi đây là nơi tụ họp của
nhóm người bị cấm không cho vào trong Đền Thờ vì bệnh tật. Họ chờ đợi khi thiên
thần khuấy động nước là lăn xuống hồ để được chữa trị. Chính tại nơi Cửa Chiên
này, Chúa Giêsu đã chữa lành người bại liệt.
-
Vào thế kỷ 1st AD, một cái hồ lớn hơn, BIRKET ISRAEL, được xây
gần Đền Thờ, làm cho những cái hồ ở Bethzatha không còn quan trọng nữa. Một tường
thành mới được xây dựng về phía Bắc bởi Herod Agrippa vào năm 44 AD, ngăn cản
không cho nước chảy vào Đền Thờ nữa.
2.2/
Chúa chữa lành người bại liệt đã 38 năm: Đức Giêsu thấy anh ta nằm đấy và biết anh sống trong
tình trạng đó đã lâu, thì nói: "Anh có muốn khỏi bệnh không?" Bệnh
nhân đáp: "Thưa Ngài, khi nước khuấy lên, không có người đem tôi xuống hồ.
Lúc tôi tới đó, thì đã có người khác xuống trước mất rồi!" Với tình trạng
bệnh tật của anh, không thể nào anh là người thứ nhất lăn xuống hồ. Chúa Giêsu
biết anh đã chịu bệnh lâu năm, nên bảo: "Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà
đi!" Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và đi được. Hôm đó lại là
ngày Sabbath.
2.3/
Tranh luận về ngày Sabbath.
(1)
Vi phạm ngày Sabbath: Vác chõng đi trong ngày Sabbath là vi phạm Lề Luật nặng nề,
và có thể bị ném đá đến chết. Khi thấy anh vác chõng, người Do-thái mới nói với
kẻ được khỏi bệnh: "Hôm nay là ngày Sabbath, anh không được phép vác
chõng!" Anh đáp: "Chính người chữa tôi khỏi bệnh đã nói với tôi:
"Anh hãy vác chõng mà đi!" Họ hỏi anh: "Ai là người đã bảo anh:
"Vác chõng mà đi?" Nhưng người đã được khỏi bệnh không biết là ai.
(2)
Cuộc gặp gỡ lần thứ hai: Sau đó, Đức Giêsu gặp người ấy trong Đền Thờ và nói:
"Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!"
Anh ta đi nói với người Do-thái: Đức Giêsu là người đã chữa anh khỏi bệnh. Do
đó, người Do-thái chống đối Đức Giêsu, vì Người hay chữa bệnh ngày Sabbath.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Như nước cần cho sự sống phần xác thế nào, nước từ Đền Thờ chảy ra cũng cần cho
sự sống phần hồn như vậy. Nước Rửa Tội xóa sạch mọi tội của con người và mang lại
cho người lãnh nhận nhiều ân sủng của Thiên Chúa.
-
Không có sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, con người sẽ bị khô héo
lâu năm như người bại liệt. Khi có sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc đời,
Ngài sẽ chữa lành mọi bệnh tật cho con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
17/03/15 THỨ BA TUẦN 4
MC
Th. Pát-trích, giám mục
Ga 5,1-3a.5-16
Th. Pát-trích, giám mục
Ga 5,1-3a.5-16
Mời bạn đọc
kỹ Tin Mừng hôm nay để thấy Chúa Giê-su tha thiết chữa lành cho người bệnh này
thế nào, mà tiếc thay anh ta sao lại quá vô tình! Anh nằm ở bờ hồ Bết-da-tha đã
38 năm thế nhưng anh không hề tìm một phương thế tích cực nào để được chữa
lành. Không đợi anh xin, Chúa hỏi anh có muốn được chữa lành không; anh trả lời
bằng một giọng điệu bất cần. Dù thế, Chúa vẫn thương và chữa anh lành. Anh đứng
dậy vác chõng đi, không một lời cám ơn, cũng không biết người vừa chữa lành cho
mình là ai. Thật phũ phàng thay! Gặp lại anh trong đền thờ, Chúa vẫn thương và
cảnh báo: bệnh của anh có liên hệ với tội lỗi, vì thế, “đừng phạm tội nữa, kẻo
lại phải khốn hơn trước.” Biết anh có nghe lời cảnh báo mà tỉnh ngộ hay cứ tiếp
tục thờ ơ lạnh nhạt? Ôi, đáng buồn thay!
Bạn ơi phải
chăng chúng ta vẫn biết mình có tội đấy, nhưng lại thích nấn ná trong tội? Phải
chăng chúng ta cứ sa đi ngã lại trong đam mê tội lỗi đến độ lòng mình trở a
chai lỳ trước Lời Chúa kêu gọi hoán cải? Phải chăng vì tội lỗi, chúng ta đã trở
nên lạnh nhạt thờ ơ với Ngài, đã dập tắt ngọn lửa tình yêu nồng nhiệt dành cho
Ngài? Bạn có nghe Lời Chúa khẩn thiết năn nỉ bạn không: “Đừng phạm tội nữa! Bạn
ơi, đừng phạm tội nữa!” Ngài đang gọi bạn trong nước mắt và trong máu của Ngài
nữa đấy!
Sống Lời Chúa: Bạn
ngồi thật yên lặng lặp lại nhiều lần những lời này của Chúa để chúng vang vọng
thật sâu trong lòng bạn: “Đừng phạm tội nữa! Bạn ơi,
đừng phạm tội nữa!”
Cầu nguyện: Đọc kinh Ăn Năn Tội.
Muốn trở nên lành mạnh
Hôm nay Đức Giêsu cũng hỏi tôi: Con có muốn trở
nên lành mạnh không?... Ngài mời tôi đứng lên và mạnh dạn bước đi, bỏ lại quá khứ
tội lỗi.
Suy niệm:
Các Tin Mừng Nhất lãm chẳng
khi nào nói đến chuyện
Đức Giêsu chữa bệnh cho ai ở
vùng Giêrusalem.
Riêng Tin Mừng Gioan nói đến
chuyện Ngài chữa bệnh cho một anh bất toại
tại một cái hồ, gần Cửa
Chiên dẫn vào khuôn viên Đền thờ Giêrusalem.
Hồ Bếtdatha này khá lớn, có
hình chữ nhật, được ngăn làm hai phần.
Chính vì thế có đến năm hành
lang, nơi đây người bệnh nằm la liệt.
Họ mắc đủ thứ bệnh hoạn tật
nguyền khác nhau,
nhưng ai đến đây cũng nuôi
hy vọng khỏi bệnh.
Giữa bao người ốm đau tàn
tật đó, dường như Đức Giêsu chỉ thấy một mình anh.
Ngài biết anh mắc bệnh đã
lâu, nằm trên chõng một thời gian dài.
Ba mươi tám năm, thời gian
bằng một nửa đời người.
Chính Đức Giêsu là người đến
với anh và mở lời bằng một câu hỏi:
“Anh có muốn trở nên lành mạnh không ?” (c. 6).
Câu hỏi có vẻ thừa này thật
ra lại chạm đến nỗi khát khao sâu thẳm của anh.
Nó đụng đến chờ đợi mòn mỏi
của anh từ nhiều năm qua.
Anh bất toại không trả lời
câu hỏi của Đức Giêsu, người với anh vẫn còn xa lạ.
Nhưng anh lại muốn trải lòng
cho người lạ này thấy cái ngõ cụt của mình,
những lý do khiến mình phải
nằm ở đây lâu đến vậy.
“Tôi không có người đem tôi xuống hồ, khi nước động”: đó là lý do thứ nhất.
Tôi không có được sự trợ
giúp từ phía bạn bè thân thuộc.
Tôi cô đơn, trơ trọi một
mình.
Giá mà tôi có ai đó giúp tôi
lúc cơ may đến…
“Lúc tôi tới đó, thì người khác đã xuống trước tôi rồi” : đó là lý do thứ hai.
Khi phải lê đi bằng chính
sức của mình, thì tôi bao giờ cũng là người đến sau.
Tôi đã cố gắng nhiều lần,
nhưng luôn phải cam chịu thất bại.
Bây giờ tôi còn dám tin vào
mình nữa không ?
Anh bất toại mong có một
người bạn đem anh xuống nước đầu tiên.
Anh mơ thấy ngày trồi lên từ
hồ nước, ướt sũng, nhưng đi lại bình thường.
Anh chẳng tin rằng ngày ấy
là hôm nay.
Người bạn anh mong đang ở
gần, kéo anh ra khỏi nỗi cô đơn.
Anh sẽ được khỏi bệnh mà
người vẫn khô ráo.
“Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi !”: đây là lời mời hay mệnh lệnh ?
Bất ngờ, nhanh chóng và dễ
dàng, anh đã đứng lên và đi được.
Cái chõng đã vác anh, bây
giờ anh vác nó.
Hãy nhìn những bước đi đầu
tiên của người ba mươi tám năm bất toại.
Anh đã trở nên lành
mạnh, dù anh không xin hay bày tỏ lòng tin nào (cc. 6, 9,14).
Giêsu đến với anh như một
người bạn làm anh trở nên lành mạnh (cc. 11,15).
Vì chữa bệnh cho anh này vào
ngày sabát, Ngài đã bắt đầu bị chống đối (c.16).
Hôm nay Đức Giêsu cũng hỏi
tôi: Con có muốn trở nên lành mạnh không?
Con có muốn ra khỏi sự bất
toại kinh niên của mình không ?
Ngài mời tôi đứng lên và
mạnh dạn bước đi, bỏ lại quá khứ tội lỗi.
Sau khi được chữa lành, ngài
dặn tôi đừng phạm tội nữa (c. 14).
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như
hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc
hướng
vì không tìm được một người
để tin;
vẫn có những người đã chết
từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh
bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình
dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ
thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn,
lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống
bên lề xã hội,
dù không phải là người
phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương
như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
17
THÁNG BA
Quí
Hơn Vàng!
Trong
Mùa Chay, chúng ta ôn lại Thập Giới, vì đây là mùa mà Đức Giêsu Kitô kêu gọi
chúng ta khảo sát lương tâm mình. Từ đầu Mùa Chay, Chúa không ngừng giục giã
chúng ta hoán cải và giao hòa. Tiếng thúc giục này liên can với việc chúng ta
tuân giữ luật luân lý của Thiên Chúa như được thể hiện trong Thập Giới. Hoán cải
có nghĩa là đoạn tuyệt với sự dữ và dứt bỏ các thứ tội lỗi. Hoán cải là quyết định
trở về vâng phục Thiên Chúa và thực thi điều tốt.
Chúng
ta biết rằng Đức Giêsu Kitô đã đến để hoàn thành mọi giới răn mà Thiên Chúa đã
trao cho dân Ngài tại Núi Si-nai. Người đòi dân It-ra-en phải tuân phục các giới
răn đó. Người xác nhận với họ rằng việc tuân phục các giới răn ấy chính là nền
tảng của cuộc giao hòa với Thiên Chúa và của ơn cứu độ vĩnh hằng.
Đó
là lý do vì sao phụng vụ thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời.
Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện… Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan
hỉ cõi lòng… Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh; thật quý
báu hơn vàng, hơn vàng y muôn lượng” (Tv 19,8-11).
Mùa
Chay là lúc để ta quay về với Thập Giới của Thiên Chúa. Trong ánh sáng của Thập
Giới, chúng ta bắt đầu khảo sát lương tâm mình và đào thải mọi tội lỗi đã bén rễ
trong đời ta.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
17-3
Thánh
Patriciô, giám mục
Ed
47,1-9.12; Ga 5,1-16.
LỜI
SUY NIỆM: “Này, anh đã được
khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!”
Đứng
trước một con người cô đơn, không có người giúp đỡ đã ba mươi tám năm đau ốm;
Chúa Giêsu đã hỏi ý muốn của ông ta: “Anh có muốn khỏi bệnh không” và với ý muốn
được chữa lành của ông ta. Chúa Giêsu đã bảo: “Anh hãy chỗi dậy, vác chõng mà
đi!” Người ấy liền khỏi bệnh, vác chõng và đi được”. Điêu này cho chúng ta được
biết: Ơn của Chúa luôn tuôn đổ trên thế gian; nhưng còn tùy thuộc vào ý muốn
đón nhận của con người. Còn đối với Chúa; Chúa luôn sẵn sàng ban mọi ơn lành.
Khi đã nhận được ơn lành; phải biết giữ mình; vì con người luôn có những cám dỗ,
nguy hại nhất là những cám đỗ của quá khứ mà mình đã có lần đã vấp phạm. Tội có
thể tái phạm. Nên Chúa đã khuyên: “này anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa,
kẻo phải khốn hơn trước,”
Lạy
Chúa Giêsu, Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn được hưởng mọi
ơn lành của Chúa để được sống trong vai trò tự do làm con cái của Chúa, xin đừng
để chúng con trở lại sống nô lệ trong sự cai quản của Sa-tan.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
17-03: Thánh PATRICIÔ
Giám
mục (.... - 492)
Là
anh hùng dân tộc và thánh bảo trợ của Ai Nhĩ Lan, Patriciô chào đời tại
Bretagne. Trang trại của cha Ngài, phó tế Calpurniô, ở gần biển. Patriciô được
16 tuổi khi bọn hải khấu Ai Nhỉ Lan đến cướp phá bắt người. Thảm họa thường xẩy
ra thời man rợ này. Patriciô bị bán sang Ai Nhĩ Lan. Ngài chăn súc vật trên núi
và đã nếm mùi cực của đời làm tôi mọi. Ngài đau khổ nhiều.
Nhưng
thời kỳ gian lao phải làm nô lệ này lại là thời kỳ phong phú nhất đối với đời
Ngài. Suốt những tháng ngày dài đơn độc, Ngài nghĩ tới Thiên Chúa. Những lời dạy
dỗ của cha mẹ mà trứơc kia Ngài chẳng chú ý gì tới, bây giờ lại trở thành động
lực sống. Như thế Patriciô tự thánh hóa, hiến mình cho ơn thánh Chúa, quen thuộc
với địa sở, với thổ dân và ngôn ngữ của họ, chuẩn bị cho sứ mệnh lớn lao của
Ngài sau này.
Sáu
năm trôi qua, tới ngày đào thoát. Ngài tới một hải cảng, nơi có một con tàu sắp
sửa giương buồm nhổ neo. Nhưng Ngài không có tiền trả lộ phí các thương gia
không cho Ngài đáp tàu. Buồn rầu, Patriciô trở về. Bỗng chủ tàu gọi lại và cho
Ngài lên tàu. Sau ba ngày vuợt biển, họ tới một miền hoang vu ở Econe. Các thủy
thủ lang thang kiếm ăn. Sự lo âu làm họ muốn nghẹt thở. Patriciô nói với bạn hữu
về quyền năng siêu việt của Thiên Chúa mà Ngài thờ lạy.
Các
lương dân xin Ngài khẩn cầu cho họ. Họ nói với Ngài: - Mày là Kitô hữu mà chẳng
làm gì được cho chúng tao cả. Mày không cứu nổi chúng tao khỏi cơn đói này được
sao ?
Patriciô
trả lời : - Cứ tin tưởng và thật tình quay về với Chúa, đối với Ngài không có
gì là không thể được, để ngay hôm nay đây, Ngài sẽ gửi đồ ăn tới cho các bạn.
Và
chẳng mấy chốc, họ gặp một bầy heo, khiến cho họ có thể sống cho đến khi tìm tới
được miền có dân cư.
Nhiều
năm trôi qua sau những biến cố thăng trầm và cả một thời gian làm nô lệ,
Patriciô được trở về và gặp lại cha mẹ. Dường như sau bao nhiêu gian khổ, Ngài
nói về vui hưởng an bình và tình thương. Nhưng các thị kiến ám ảnh Ngài luôn:
các trẻ em giơ tay kêu mời Ngài, xin Ngài rửa tội cho chúng.
Tận
thẳm sâu tâm hồn Ngài biết rằng mình phải trở lại đảo lưu đày của mình và lần
này là để trở thành nô lệ của các tâm hồn. Lúc khởi sự chương trình, Ngài gặp
phải những dèm pha, chống đối tư tưởng như thời gian và sức lực Ngài đã uổng
phí nơi đám lương dân này. Nhưng Patriciô, người chiến sĩ của Chúa Kitô không nản
chí, không dừng bước. Ngài bắt đầu học đạo ở Gaule, tại cung điện thời danh
Iles de Lérins. Trở về, Ngài dành một thời gian lâu dài tại Anxèrre để hoàn tất
việc học hỏi nơi các giám mục Amator và Germain. Trong khi chuẩn bị công cuộc
truyền giáo lớn lao sắp tới Ngài được tấn phong giám mục. Đó là việc thành lập
tòa giám mục Armagh.
Năm
432, Patriciô đi bước quyết định. Ngài sắp lôi kéo các tâm hồn dân Ai Nhĩ Lan
ra khỏi việc sùng bái của các tăng ni (thời cổ xưa) để tỏ cho họ thấy một quyền
năng thiêng liêng cao cả hơn. Ngài biết rằng để hiến tế chính con người, dân Ai
Nhĩ Lan chọn những người ngoại quốc. Nhưng Ngài đương đầu với mọi nguy hiểm đe
dọa đến mạng sống. Ngay tại trung tâm thờ ngẫu tượng mà các tăng ni cư ngụ,
Patriciô ra mắt các thủ lãnh và các chiến binh.
Bất
kể những chống đối dữ dội, Ngài sắp dẫn các lãnh tụ đến chỗ xin được rửa tội.
Luôn luôn Ngài nhằm cải hoá các thủ lãnh bộ tộc, để rồi họ sẽ dắt dân chúng
theo Ngài từ chối quà cáp các vua này muốn trao tặng Ngài. Tại miền Almonaid. Các
đạo sĩ nổi dậy. Patriciô giơ tay trái lên trời chúc dữ thủ lãnh Rechrad khiến hắn
chết tốt. Khi dựng lên nhà thờ ở bìa rừng gần biển, rất nhiều người đã trở lại.
Trong một chuyến đi tới Connaught, chính một tăng lữ đã đón nhận thánh nhân và
giúp Ngài thiết lập một tu viện và một nhà thờ.
Lịch
sử kể lại cuộc hoán cải của các con gái vua Loeghair tại giếng Grogan và diễn từ
Ngài đã nói với họ:
-
"Thiên Chúa chúng ta cổ xúy tất cả, làm sống động tất cả, trỗi vượt tất cả,
đỡ nâng tất cả, Ngài có một người con vĩnh cửu như Ngài, giống như Ngài. Thánh
linh hiển hiện giữa các Ngài, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần không hề
tách rời nhau. Tôi, tôi muốn dâng các cô cho vua trên trời. Các cô là những con
cái trần thế, các cô có tin không ?
Tiếp
sau câu hỏi của thánh nhân, là những câu đáp:
-
Các cô có tin rằng sau khi chịu phép rửa tội, tội nguyên tổ liền bị xua trừ
không ?
-
Chúng tôi tin.
-
Các cô có tin vào cuộc sống mới sau khi chết không ?
-
Chúng tôi tin.
Thế
là Patriciô rửa tội cho họ và các Kitô hữu xin được xem thấy mặt Chúa Kitô.
Patriciô nói: - Nếu không chết, nếu không rước mình thánh, các cô không thấy được
mặt Chúa Kitô.
Và
rồi khi đã rước lễ. Các cô gái của nhà vua lịm đi như chết, gần giếng Crôgan
còn nấm mồ của họ.
Không
ngơi nghỉ, Patriciô rảo khắp trên hòn đảo và thích ứng các phong tục ngẫu thần
với Kitô giáo. Ngài để cho lương dân tổ chức lễ thắp lửa ngày 21 tháng sáu kính
mùa hè, nhưng là để kính thánh Gioan Tẩy giả. Ơ Bretagne vẫn còn giữ được lửa
thánh Gioan tẩy giả của Ngài. Do bình cánh chuồn đầy dẫy ở đồng quê, vị tông dồ
cho dân chúng thấy hình ảnh Chúa Ba Ngôi. Như thế mọi sự đều có thể là bài học
cho việc giảng dạy.
Trên
một ngọn đồi, Patriciô lập một ngôi nhà gỗ cho các tu sĩ. Nơi này đã trở thành
một trung tâm vĩ đại, nguồn gốc của thành phố Armagh. Ngài truyền chức cho các
linh mục, đặt họ ở các thành phố. Còn chính Ngài, Ngài sống đời cầu nguyện mãnh
liệt và kiên trì. Chúng ta khó tưởng tượng nổi, Cuốn Confession của Ngài cho thấy
đức tin, lòng nhân hậu và hạnh phúc của Ngài như một cuộc tử đạo.
Thánh
Patriciô đã làm cho cả hòn đảo theo Kitô giáo. Khi cải hóa dân Ai Nhĩ Lan, Ngài
còn là Đấng khai sáng văn minh. Đưa dân man rợ vào nghệ thuật và khoa học. Các
tu viện Ngài để lại phát triển khác thường lôi kéo các sinh viên tới trong nhiều
thế kỷ. Ai Nhĩ Lan được cải hóa đã thành đảo của các nhà trí thức, các thánh
nhân, nhờ dấu vết thánh thiện của thánh Patriciô.
(daminhvn.net)
17
Tháng Ba
Chia Sẻ Ánh Sáng Cứu
Ðộ
Ngày
xưa có một người cha có ba đứa con trai. Ông vốn sinh ra nghèo khổ, nhưng nhờ
chuyên cần làm việc và cần kiệm, nên ông trở nên một điền chủ giàu có. Lúc về
già, gần đất xa trời, ông nghĩ tới chuyện chia gia tài cho các con. Nhưng ông
cũng muốn xem đứa con nào thông minh nhất để phó thác phần lớn gia sản của ông
cho nó. Ông liền gọi ba đứa con đến giường bệnh, trao cho mỗi đứa năm đồng bạc
và bảo mỗi đứa hãy mua cái gì có thể lấp đầy căn phòng trơ trọi mà ông đang ở.
Ba
đứa con vâng lời cha cầm tiền ra phố. Người anh cả nghĩ rằng đây chỉ là một
công việc dễ dàng. Anh ta ra tới chợ mua ngay một bó rơm rất lớn mang ngay về
nhà. Người con thứ hai suy nghĩ kỹ lưỡng hơn: sau khi đi rảo quanh chợ một
vòng, anh ta quyết định mua những bao lông vịt rất đẹp mắt.
Còn
người con trai thứ ba, suy nghĩ đi, suy nghĩ lại: làm sao mua được cái gì với
năm đồng bạc này, để có thể lấp đầy căn phòng lớn của cha mình. Sau nhiều giờ đắn
đo, bỗng mắt chàng thanh niên hớn hở, anh ta lại căn tiệm nhỏ mất hút trong đường
nhỏ gần chợ, anh ta mua cây đèn cầy và một hộp diêm. Trở về nhà, anh hồi hộp,
không biết hai anh mình đã mua được cái gì.
Ngày
hôm sau, cả ba người con trai đều họp lại trong phòng của cha già. Mỗi người
mang quà tặng của mình cho cha: Người con cả mang rơm trải trên nền nhà của căn
phòng, nhưng phòng quá lớn, rơm chỉ phủ được một góc nền nhà. Người con thứ hai
mang lông vịt ra, nhưng cũng chỉ phủ được hai góc của căn phòng. Người cha cóvẻ
thất vọng. Bấy giờ người con trai út mới đứng ra giữa phòng, trong tay chẳng
mang gì cả. hai người em tò mò chăm chú nhìn em, và hỏi: "Mày không mua
cái gì sao?". Bấy giờ đứa em mới từ từ rút trong túi quần ra một cây nến
và hộp diêm. Thoáng một cái, căn phòng đầy ánh sáng. Mọi người đều mỉm cười.
Người cha già rất sung sướng vì quà tặng của đứa con út. Ông quyết định giao phần
lớn ruộng đất và gia sản của mình cho con trai út, vì ông thấy anh ta đủ thông
minh để quản trị gia sản của mình và nhờ đó cũng có thể giúp đỡ các anh của nó
nữa.
Ðứng
trước khó khăn thử thách, để kêu gọi sự bình tĩnh sáng suốt và tinh thần hợp
tác, người ta thường nói với nhau: thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà
nguyền rủa bóng tối.
Cuộc sống của mỗi người chúng ta, cuộc sống của những người xung quanh chúng ta, cuộc sống của xã hội chúng ta có lẽ cũng giống như một căn phòng đen tối... Chỉ cần một người đốt lên một chút ánh sáng, những người xung quanh sẽ cảm thấy ấm cúng và phấn khởi.
Một chút ánh sáng của một cái mỉm cười. Một chút ánh sáng của một lời chào hỏi. Một chút ánh sáng của một san sẻ. Một chút ánh sáng của tha thứ. Và một chút ánh sáng của niềm tin được chiếu tỏa qua sự vui vẻ chấp nhận cuộc sống... Một chút ánh sáng ấy cũng đủ để nâng đỡ ít nhất là một người mà chúng ta gặp gỡ, bởi vì không có một nghĩa cử nào được thực thi mà không ảnh hưởng đến người khác...
Cuộc sống của mỗi người chúng ta, cuộc sống của những người xung quanh chúng ta, cuộc sống của xã hội chúng ta có lẽ cũng giống như một căn phòng đen tối... Chỉ cần một người đốt lên một chút ánh sáng, những người xung quanh sẽ cảm thấy ấm cúng và phấn khởi.
Một chút ánh sáng của một cái mỉm cười. Một chút ánh sáng của một lời chào hỏi. Một chút ánh sáng của một san sẻ. Một chút ánh sáng của tha thứ. Và một chút ánh sáng của niềm tin được chiếu tỏa qua sự vui vẻ chấp nhận cuộc sống... Một chút ánh sáng ấy cũng đủ để nâng đỡ ít nhất là một người mà chúng ta gặp gỡ, bởi vì không có một nghĩa cử nào được thực thi mà không ảnh hưởng đến người khác...
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét