05/07/2015
Chúa Nhật 14 Quanh
Năm Năm B
(phần I)
Bài
Ðọc I: Ed 2, 2-5
"Ðây
là nhà phản loạn, và họ sẽ biết rằng giữa họ vẫn có một tiên tri".
Trích
sách Tiên tri Êdêkiel.
Trong
những ngày ấy, sau khi nói với tôi, Thần Linh nhập vào tôi, và đỡ tôi đứng dậy.
Tôi nghe Người nói với tôi rằng: "Hỡi con người, Ta sai ngươi đến với con
cái Israel, đến với dân nổi loạn phản nghịch Ta, chúng và cha ông chúng vi phạm
giao ước của Ta cho đến ngày nay. Ta sai ngươi đến để nói với những con cái dầy
mặt cứng lòng rằng: 'Chúa là Thiên Chúa phán như vậy'. Hoặc chúng nghe, hoặc
chúng không nghe, vì đây là bọn phản loạn, và chúng sẽ biết rằng giữa chúng có
một tiên tri".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 122, 1-2a. 2bcd. 3-4
Ðáp: Mắt chúng con
nhìn vào Chúa, cho tới khi Người thương xót chúng con (c. 2cd).
Xướng:
1) Con ngước mắt nhìn lên Chúa, Ngài ngự trị ở cõi cao xanh. Kìa, như mắt những
người nam tôi tớ, nhìn vào tay các vị chủ ông. - Ðáp.
2)
Như mắt của những người tỳ nữ, nhìn vào tay các vị chủ bà, mắt chúng tôi cũng
nhìn vào Chúa, là Thiên Chúa của chúng tôi như thế, cho tới khi Người thương
xót chúng tôi. - Ðáp.
3)
Nguyện xót thương, lạy Chúa, nguyện xót thương, vì chúng con đã bị khinh dể ê
chề quá đỗi! Linh hồn chúng con thật là no ngấy lời chê cười của tụi giàu sang,
nỗi miệt thị của lũ kiêu căng. - Ðáp.
Bài
Ðọc II: 2 Cr 12, 7-10
"Tôi
rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức Kitô
ngự trong tôi".
Trích
thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh
em thân mến, để những mạc khải cao siêu không làm cho tôi tự cao tự đại, thì một
cái dằm đâm vào thịt tôi, một thần sứ của Satan vả mặt tôi. Vì thế đã ba lần
tôi van nài Chúa, để nó rời khỏi tôi. Nhưng Người phán với tôi rằng: "Ơn
Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối". Vậy
tôi rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức
Kitô ngự trong tôi. Vì thế, tôi vui thoả trong sự yếu hèn của tôi, trong sự
lăng nhục, quẫn bách, bắt bớ và khốn khó vì Ðức Kitô: vì khi tôi yếu đuối, chính
là lúc tôi mạnh mẽ.
Ðó
là lời Chúa.
Alleluia:
1 Pr 1, 25
Alleluia,
alleluia! - Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh
em. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mc 6, 1-6
"Không
một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi
ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Ðến ngày Sabbat,
Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người,
nên nói rằng: "Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy?
Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc
con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở
với chúng ta đây sao?" Và họ vấp phạm vì Người.
Chúa
Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê
hương, gia đình họ hàng mình". Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại
trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người
đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Kinh
Nghiệm Của Tiên Tri
Chúa
nhật trước các bài Kinh Thánh đã nói với chúng ta về đức tin. Hôm nay Lời Chúa
nhắc lại những kinh nghiệm trong cuộc đời của dân Israel, của Ðức Yêsu và của
thánh Phaolô để khuyến khích đức tin của chúng ta trong những hoàn cảnh đặc biệt.
Ước gì chúng ta hiểu những lời Kinh Thánh vừa nghe đọc. Và cho được như vậy
chúng ta cần tìm hiểu thêm.
1.
Kinh Nghiệm Của Israel
Bài
sách Ezekiel đưa chúng ta trở về đợt lưu đày đầu tiên của dân Israel, vào khoảng
năm 597 trước Ðức Yêsu ra đời. Nhà tiên tri ở trong đám dân khổ sở đó. Bị đày
xa quê hương và đền thờ ông cũng như mọi người tưởng rằng như vậy là hết rồi.
Giao ước giữa Chúa và dân không còn nữa. Họ đã bất tín đến nỗi Người phải trừng
trị. Hoàn cảnh lưu đày này làm chứng Người đã bỏ dân.
Ðang
khi họ suy nghĩ như vậy thì này đột nhiên Ezekiel được một thị kiến ngay nơi đất
khách. Sự kiện làm ông bàng hoàng tự nghĩ: làm sao Thiên Chúa có thể hiện ra với
ông nơi dân ngoại? Yavê có quyền cả ở địa phương này sao? Và hơn nữa Người chưa
hoàn toàn bỏ dân ư?
Rồi
không những có thị kiến, mà còn có tiếng nói. Lời Chúa nói với Ezekiel và sai
ông đi đến với dân phản loạn. Rõ ràng Thiên Chúa không bỏ kẻ có tội. Người ta bất
tín, nhưng Người vẫn tín thành.
Người
sai Ezekiel đến với họ như đã sai Môsê đến với Pharaon: vì Israel lúc này cũng
lòng chai đá, mặt trơ tráo như vua Aicập ngày trước (Xh 7,13). Và như vậy, đoạn
Kinh Thánh hôm nay ám chỉ Chúa đã bắt đầu nghĩ đến truyện cứu dân lưu đày. Và
cuộc giải cứu này một cách nào đó sẽ lập lại cuộc giải phóng khỏi Aicập mà
Israel vẫn nhớ lại với lòng khâm phục cảm mến.
Do
đó Ezekiel cũng phần nào đó giống như Môsê. Ông được đặt làm tiên tri đến với
dân nhân danh Chúa. Ông sẽ nói với những người đang làm tôi mọi dân ngoại rằng:
đừng quên Chúa: Người phán như thế này; Người sẽ ra tay uy hùng cứu kẻ tin vào
Người.
Dĩ
nhiên bắt đầu người ta sẽ không tin lời cứu độ đâu, cũng như xưa Pharaô từ chối
lời của Môsê. Nhưng Chúa sẽ ở với Ezekiel như đã ở với Môsê. Ezekiel sẽ là khí
cụ để Chúa biểu dương quyền lực của Người trước mặt dân ngoại. Ông sẽ không làm
những việc lạ kỳ như Môsê ở trước nhan Pharaô, vì đối với dân ngoại cần có những
dấu hiệu đó để họ nhận biết quyền năng của Chúa. Nhưng còn đối với Israel, dân
đã từng thấy những việc kỳ diệu, không cần phép lạ nữa và những phép lạ này
cũng không đủ nữa. Ðối với những kẻ đã "thấy", bây giờ phải làm cho họ
"biết" và "hiểu". Và vì thế Ezekiel phải mạnh về "Lời",
về mạc khải, nói với lòng dân thay vì với mắt họ trước đây, để Israel sẽ thay
lòng đổi dạ hầu có một trái tim thịt máu thay vì trái tim chai đá hiện nay.
Do
đó Chúa không đặt Ezekiel làm người lãnh đạo dân như Môsê, nhưng làm tiên tri.
Và như vậy không phải chính trị sẽ hướng dẫn, nhưng là Lời Chúa sẽ đưa dân đến
giải thoát cứu độ. Dân sẽ không thấy có thẩm phán, vua quan hay lãnh tụ ở với
mình thay quyền Chúa như trước nữa, nhưng sẽ có tiên tri của Người ở giữa dân
và giúp dân đi theo đường lối của Chúa. Sự hiện diện của nhà tiên tri nói lên sự
hiện diện của Chúa thay thế cho sự hiện diện của Người nơi đất Thánh và chốn đền
thờ, thay thế cho sự có mặt của hoàng đế và tư tế, từng lãnh đạo dân trong nhiều
thế kỷ trước đây.
Bài
sách Ezekiel, vì thế, mở ra trước mắt dân lưu đày một viễn tượng hoàn toàn mới
mẻ. Họ có thể thấy Chúa chưa bỏ họ trong cảnh lầm than. Người đang đi trước họ,
giới thiệu con đường cứu độ mới. Từ nay Người sẽ dùng tiên tri và dùng Lời của
Người để dạy dỗ và hướng dẫn dân, để ai tin thì sẽ được cứu độ.
Chúng
ta không được an ủi sau khi hiểu bài sách Ezekiel như thế. Ðền thờ và hàng tư tế
vẫn quý và cần thiết cho đời sống đạo. Nhưng có những lúc Chúa muốn hướng dẫn
chúng ta nguyên bằng Lời của Người, tức là bằng sách thánh, và bằng những tiên
tri biết đem lời của Chúa trình bày cho anh em. Chúng luôn muốn kêu gọi những
tiên tri như vậy. Ai đáp lời không những sẽ như Ezekiel mà còn giống như Ðức
Yêsu nữa, vì chính Người mới là vị tiên tri tuyệt diệu của Thiên Chúa mà
Ezekiel và mọi tiên tri khác chỉ như bóng sánh với hình. Bài Tin Mừng hôm nay
cho chúng ta cơ hội chiêm ngưỡng vị tiên tri tuyệt diệu ấy.
2.
Kinh Nghiệm Của Ðức Yêsu
Cho
đến nay người ta vẫn không ngớt thắc mắc về đoạn sách Marcô này. Nó đâu có làm
vẻ vang gì cho Ðức Yêsu mà tác giả sách thánh đã viết ra? Và như vậy có lợi gì
đâu mà phụng vụ ngày nay còn đem nó ra đọc trong thánh lễ? Nó cho chúng ta thấy
một Ðức Yêsu bị thất bại và bất lực ngay nơi các người đồng hương bà con của
Người. Nó liệt Người vào thân phận của mọi tiên tri chẳng bao giờ được quý trọng
nơi quê quán, nếu không muốn nói rằng Người còn thua kém họ nữa, vì chắc chắn
đã có nhiều vị tiên tri tuy không được kính trọng nhưng cũng không đến nỗi bị
chống đối, phủ nhận nơi bà con của mình.
Marcô
hôm nay cho chúng ta thấy vị tiên tri thành Nadarét bất lực quá: chẳng làm được
phép lạ nào trước sự cứng lòng tin của họ hàng thân thuộc. Người còn là vị tiên
tri không tự chủ ngay nơi bản thân Người nữa. Vì khi thì như Người thừa hiểu
hoàn cảnh; lúc lại như thể Người ngạc nhiên về thái độ của người ta. Hay là
Marcô đã dùng những từ ngữ không chỉnh và mâu thuẫn? Trong một câu ông khẳng định
cả việc Ðức Yêsu không làm được phép lạ nào, cả việc Người chữa lành một số ít
người đau ốm. Những việc chữa lành này không phải là phép lạ sao?
Nhận
thấy những lời văn khó hiểu, và nhất là thấy ý tưởng chung bất lợi cho Ðức Yêsu
quá, nhiều người thắc mắc không hiểu tạo sao có đoạn văn này trong sách Marcô.
Và người ta đưa ra không biết bao nhiêu lý lẽ và giả thiết. Nhưng mọi cố gắng
làm suy yếu đoạn văn này đều vấp phải một sự hiển nhiên: đoạn văn nằm đó trong
sách của Marcô với những lời lẽ mà chẳng ai có thể tẩy xóa hay sửa chữa được nữa.
Và bổn phận của chúng ta bây giờ là phải chấp nhận và tìm hiểu nó.
Nhìn
vào vị trí của đoạn văn trong sách của Marcô, chúng ta thấy đã đến lúc Ðức Kitô
sắp bỏ Galilêa để xuống thi hành sứ vụ ở Yuđêa. Và như vậy cũng là lúc để có một
cái nhìn tổng quát về sứ vụ ở Galilêa, nếu không muốn nói rằng tác giả Marcô đã
muốn lợi dụng lúc này để cho chúng ta một cái nhìn chung về những năm giảng đạo
của Ðức Kitô. Có thể Marcô cũng muốn tựa vào kinh nghiệm của vị tiên tri thành
Nadarét để nói về thân phận của Hội Thánh nói chung và của từng tông đồ nói
riêng. Dù sao, đây cũng là một cái nhìn tổng quát về đời hoạt động của một tiên
tri.
Thế
nên tác giả Marcô có thể lấy lại một cái nhìn cổ điển của Cựu Ước: mọi tiên tri
trong các thời đại trước đều đã không được số phận may mắn. Ezekiel chẳng hạn.
Hôm nay sách thánh viết rõ ông đã được sai đến với dân phản loạn mặt trơ tráo
và lòng chai đá. Nhưng người ta vẫn phải biết ông là tiên tri. Ðức Yêsu cũng là
tiên tri và hơn mọi tiên tri nữa. Ở nơi Người các nét tả chính yếu về bậc tiên
tri phải nổi hơn, nổi nhất. Người phải đối diện với một dân lòng chai dạ đá.
Hơn nữa, họ phải phản đối kình địch với Người hơn mọi tiên tri khác. Sự cay đắng
chua xót của Người phải nhiều hơn. Người gặp thấy nó ngay trong hàng bà con
thân thích để Yoan có thể viết rằng: Người đã đến nhà của Người, nhưng gia nhân
Người đã không chấp nhận Người. Ðó là điều Cựu Ước thường viết về Yavê Thiên
Chúa: Người ra tay làm bao việc lạ cho dân mà dân vẫn tỏ lòng chai đá bội bạc.
Nhưng
nơi nhà tiên tri không phải chỉ có thất bại. Ðúng hơn nữa, sự chống đối ông gặp
phải nói lên tội lỗi của người ta chứ không tố cáo sự bất lực của ông. Nơi ông
vẫn có "dấu tay uy quyền của Chúa". Chính vì vậy mà Ðức Yêsu vẫn chữa
lành được cho một số ít bệnh nhân khi họ có điều kiện mà đa số không có. Họ có
lòng tin đang khi những người khác cứng lòng tin. Nói theo loài người, Ðức Kitô
có thể ngạc nhiên về thái độ của đa số: thấy giáo lý khác thường và các phép lạ
Người làm mà họ không mềm lòng ra. Nhưng với cái nhìn của Thiên Chúa hay của đức
tin, thì điều này cũng không lạ, bởi vì cả lịch sử thánh cho thấy loài người
luôn luôn cưỡng lại tình thương của Thiên Chúa. Trừ một số ít. Số ít này là những
kẻ được cứu vớt. Họ sẽ làm thành đàn chiên nhỏ. Họ sẽ thừa tự Nước Trời vì họ
tin rằng: có nhà tiên tri của Chúa ở giữa họ, mặc dù bề ngoài có nhiều điều cản
trở niềm tin này.
Do
đó bài Tin Mừng hôm nay là cả một bài học quý giá cho chúng ta. Không nên căn cứ
vào câu "chẳng tiên tri nào được kính trọng tại quê nhà" để bao biện
cho các khuyết điểm và thất bại trong đời sống tông đồ. Tin Mừng của Chúa không
bao giờ muốn an ủi kiểu như vậy. Luôn luôn nó muốn chất vấn lương tâm người ta
thường có thái độ nào đối với một Ðấng Thiên Chúa và một Ðức Kitô Người sai đến
như vậy? Người ta có sẵn sàng tin sứ điệp tình yêu và cứu độ mà Thiên Chúa gửi
đến nơi Lời Kinh Thánh, nơi vị tiên tri, nơi Hội Thánh của Người không? Hay người
ta luôn luôn là những người Dothái ở thời Ezekiel và ở thời Ðức Kitô, chỉ muốn
tin vào sứ điệp và sứ giả nào hứa hẹn những lợi ích trước mắt? Thiết tưởng bài
thư Phaolô cũng phải được hiểu theo chiều hướng này.
3.
Kinh Nghiệm Của Phaolô
Người
đang nói với giáo dân Côrintô yêu quý của người. Họ đã được nhiều tông đồ có óc
Dothái đến viếng thăm. Những người này gièm pha Phaolô đủ điều, cốt để người
Côrintô đừng tin vào giáo lý cứu độ của Phaolô nữa. Nhưng nếu bỏ niềm tin này,
thì làm sao được cứu độ? Phaolô phải can thiệp ngay. Người gửi thư không phải để
chữa mình hay để lấy lại uy tín. Người quá tâm lý để biết rằng làm như vậy sẽ
chỉ thêm thất bại. Nhất là lòng đạo đức và tinh thần tông đồ đã giết chết
khuynh hướng tự tôn ở nơi người từ lâu rồi. Người viết thư hôm nay là để thi
hành sứ vụ tiên tri, rao giảng ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Người
không khoe khoang, mặc dù người có rất nhiều điều hay để nói về mình. Không những
gia thế, học lực và những nét Dothái cao quý ở nơi người; mà cả những thành quả,
lao công trong cuộc đời tông đồ; thậm chí những thị kiến và mạc khải cao siêu nữa...
Tất cả đều không được người để ý và gán cho một chút vinh quang nào. Ngược lại,
người nhấn mạnh đến một cái "dằm" ở trong thân xác người. Nó làm đau,
làm nhục người triền miên. Nó là cái gì người không xác định; nên ai có ý tưởng
nào cũng chỉ là suy đoán. Ðiều quan trọng mà Người muốn nói là cái dằm trong
xác thịt ấy luôn luôn tố cáo sự yếu đuối của người ở trước mặt Chúa để người ý
thức không phải mình sống nhưng là Ðức Kitô sống trong mình, không phải mình mạnh
nhưng là quyền năng của Ðức Kitô đậu lại ở nơi mình. Và như thế người sẽ như Ðức
Kitô, như Ezekiel, như mọi tiên tri.
Cuộc
đời của những vị này luôn mang hình thức yếu đuối, bất lực, thất bại trước mắt
thế gian, nhưng dưới cái nhìn của đức tin lại là nơi quyền năng cứu độ của Thiên
Chúa đang hoạt động.
Như
vậy chúng ta có phải bắt chước các ngài không, tức là tạo ra trong đời sống của
mình một hình dạng yếu đuối nào đó? Không cần như vậy. Ðiều cần trước hết là
chúng ta phát triển niềm tin vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, cho dù có bao
nét bề ngoài của kế hoạch đó dường như muốn làm chúng ta nản lòng. Chúa đã đòi
dân Dothái thời Ezekiel phải tin vào Lời Người và vào vị tiên tri khi họ không
còn quê hương, đền thờ. Người đã đòi bà con thân thuộc của Ðức Yêsu lướt thắng
những cản trở bên ngoài thuộc gia thế và địa vị xã hội của nhà tiên tri thành
Nadarét để đón nhận ơn cứu độ. Hằng ngày Chúa vẫn đòi chúng ta phải có niềm tin
như vậy qua mọi thử thách trần gian. Hơn nữa Chúa lại muốn chúng ta trở nên các
tiên tri của Người để giúp anh em đồng bào nhận ra Tin Mừng cứu độ. Chúng ta có
sẵn sàng đi vào đường lối của Ezekie, của Phaolô và của Ðức Kitô không?
Tất
cả những điều này sẽ diễn ra trong thánh lễ. Ở đây niềm tin đòi mọi người phải
lướt thắng nhiều nét bên ngoài để đạt tới các mầu nhiệm thâm sâu. Ở đây chúng
ta phải đón nhận một Ðức Yêsu Kitô tử nạn và phục sinh. Và chính Người lại là Ðấng
Cứu thế... Người kêu gọi chúng ta tin vào đường lối của Người, trở thành tông đồ
của Người, sống như Người để làm lan rộng ơn cứu độ. Chúng ta có nhiệt tình đáp
lại chờ mong của Người không, để Lời Chúa và Mình Thánh Chúa hôm nay đem lại hiệu
quả thật sự trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ
Nhật 14 Thường Niên,
Năm B
Bài
đọc:
Eze 2:2-5; II Cor 12:7-10; Mk 6:1-6.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những điều ngăn cản con người không nhìn ra sự thật.
Trong hành trình đi tìm sự thật, con người cần phải học biết Thiên Chúa, biết
tha nhân, và biết chính mình. Nếu chỉ ngông cuồng biết mình thôi, con người dễ
phản loạn chống lại Thiên Chúa và tha nhân. Hơn nữa, khi con người chỉ biết
mình, con người sẽ dễ kiêu hãnh và khinh thường Thiên Chúa và tha nhân.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra một số lý do tại sao con người không tin Thiên Chúa.
Trong Bài Đọc I: Vì tính ngông cuồng và phản loạn, dân tộc Israel đã lạc xa đường
lối Thiên Chúa. Tiên tri Ezekiel được Thiên Chúa sai tới để chinh phục họ về
cho Ngài. Trong Bài Đọc II: Để ngăn ngừa tính kiêu hãnh của Phaolô, Thiên Chúa
đã bắt ông chịu đau khổ để ông nhận ra một điều quan trọng: sức mạnh ông có được
đến từ Thiên Chúa. Ngài hoạt động trong những yếu đuối của Phaolô. Trong Phúc
Âm: Được chứng kiến những lời khôn ngoan từ miệng Chúa và chứng kiến những phép
lạ Ngài làm, thay vì những người đồng hương Nazareth đánh giá Chúa trên những
giá trị này để tin vào Chúa; họ lại đánh giá gia đình, tài sản, địa vị, và các
môn đệ, những điều không phải là Chúa, để rồi khinh thường và không tin vào
Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Giống nòi phản loạn không chịu tin vào Thiên Chúa.
1.1/
Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá: Dân tộc Israel bị Thiên Chúa mắng
là giòng giống phản loạn. Thiên Chúa phán với Tiên-tri Ezekiel: "Hỡi con người,
chính Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn
chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày
nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với
chúng."
Đặc
tính của người phản loạn:
+ Họ không muốn nghe lời của bất cứ ai: Họ lấy mình làm tiêu chuẩn để phán xét
mọi người. Họ không muốn nghe lời Thiên Chúa hay những gì Ngài nói qua các ngôn
sứ.
+ Họ khó chịu khi thấy ai làm gì không giống họ: Họ không muốn tin Thiên Chúa;
đã vậy, họ còn ngăn cản những ai tin vào Thiên Chúa. Lý do: những tín hữu khuấy
động lương tâm của họ. Người Do-thái bắt bớ và truy tố các ngôn sứ, vì các ngôn
sứ không chịu phản loạn như họ.
+ Họ muốn làm gì thì làm: Giống như con ngựa bất kham, không muốn đeo bất cứ điều
gì trên người để tự do bay nhảy tung tăng khắp chốn; nhưng người chủ phải chế
ngự nó bằng giây cương hàm thiết, nó mới chịu ngoan ngoãn thi hành lệnh của chủ.
Giống người phản lọan cũng thế, họ không muốn giữ bất cứ luật lệ nào của Thiên
Chúa cũng như của loài người. Nhưng loại người như thế sẽ không tồn tại lâu
dài, vì luật pháp sẽ không dung thứ họ. Cho dù họ có thể qua mặt loài người, họ
sẽ không qua khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
1.2/
Các ngôn sứ là khí cụ Thiên Chúa dùng để vạch ra lầm lỗi của họ: Chúa muốn Tiên-tri
Ezekiel phải can đảm nói những gì Chúa muốn nói: "Còn chúng, vốn là nòi phản
loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn
sứ đang ở giữa chúng."
Thái độ của ngôn sứ: Không được sợ hãi loại người phản loạn này, nhưng phải can
đảm vạch ra lầm lỗi của chúng: "Phần ngươi, hỡi con người, đừng sợ chúng,
cũng đừng sợ những lời chúng nói, dù ngươi có bị chống đối, có gặp chông gai tư
bề, hay ngồi trên bò cạp. Những lời chúng nói, ngươi đừng sợ; có phải giáp mặt
chúng, cũng đừng khiếp, vì chúng là nòi phản loạn. Ngươi cứ nói với chúng những
lời của Ta, dù chúng nghe hay không, vì chúng là quân phản loạn" (Eze 2:6-7).
2/
Bài đọc II:
Sức mạnh của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.
2.1/
Đau khổ giúp con người khỏi tự cao tự đại: Phaolô, trước khi trở thành môn đệ của Đức Kitô, là
người nhiệt thành và kiêu hãnh. Ông hãnh diện với truyền thống của cha ông, và
nhiệt thành truy tố những tín hữu của Đức Kitô, Người mà ông cho là xúi giục
dân chúng chống lại Lề Luật của cha ông. Để dạy Phaolô một bài học, Chúa để ông
té ngựa và bị mù; đồng thời Ngài cũng mặc khải cho ông biết nguy hiểm của những
ai mù quáng giơ chân đạp mũi nhọn. Kể từ đó Phaolô suy nghĩ về thái độ quá
khích của mình, và khiêm nhường để Đức Kitô hướng dẫn cuộc đời của ông.
Trình thuật hôm nay kể: "Và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải
phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ
hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại." Qua các
Thư Phaolô, chúng ta biết ông đã được Đức Kitô thân hành hiện ra dạy dỗ và cho
hiểu biết nhiều mầu nhiệm. Chính vì được thấu hiểu các mầu nhiệm mà Satan ganh
tị với ông. Không lạ gì khi Satan đến vả mặt ông vì chúng không muốn ai thấu hiểu
những mầu nhiệm này. Hơn nữa, biết những điều phi thường dễ đưa con người đến
chỗ tự mãn, tự kiêu. Chúng ta không biết rõ "cái dằm đâm vào thân xác Phaolô"
là cái gì: có người cho là cám dỗ thân xác, có người cho là các bệnh tật mà ông
phải chịu; nhưng điều quan trọng ông đã nói ra là "cái dằm" ngăn ngừa
ông để khỏi tự cao, tự đại.
2.2/
Phaolô nhận ra sức mạnh đến từ Thiên Chúa: Qua kinh nghiệm của biến cố trở lại và của "cái
dằm đâm vào thân xác," Phaolô hiểu rõ con người kiêu hãnh và yếu đuối của
mình. Ông biết nếu không có sức mạnh của Thiên Chúa chữa lành và ở với ông, ông
sẽ mù lòa suốt đời về cả thể lý và tâm linh; nhưng vì tình yêu Thiên Chúa dành
cho ông, Ngài cho ông lại được nhìn thấy ánh sáng và thấu hiểu sự quan trọng của
Đức Kitô trong Kế Hoạch Cứu Độ.
Trong trình thuật hôm nay, vì nhiệt thành rao giảng đức tin, Phaolô đã ba lần
xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ của "cái dằm;" nhưng Đức Kitô quả quyết
với ông: "Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn
vẹn trong sự yếu đuối." Chúng ta ít nhiều cũng có những kinh nghiệm như
Phaolô, khi đang hăng hái nhiệt thành rao giảng hay làm việc tông đồ, mà chúng
ta bị những ngăn trở như bệnh tật, bắt bớ, hiểu lầm; chúng ta muốn Chúa lấy đi
những trở ngại này với ý hướng tốt lành, để chúng ta mạnh khỏe và có cơ hội tiếp
tục phục vụ Chúa. Thiên Chúa có kế hoạch khác: nhiều khi Ngài muốn chúng ta chậm
lại để có thời giờ suy nghĩ chín chắn hơn, hay muốn chúng ta nghỉ ngơi để chuẩn
bị cho sứ vụ sắp tới cam go hơn.
Thái độ chúng ta cần có là học nơi Phaolô: "Thế nên tôi rất vui mừng và tự
hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy,
tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt
nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh."
3/
Phúc Âm:
Tại sao con người từ chối không tin vào Chúa Giêsu?
3.1/
Đức Kitô chuẩn bị cho người đồng hương để họ tin vào Ngài: Để một người có thể
tin vào Đức Kitô, họ cần nhiều yếu tố quan trọng. Ngài chuẩn bị cho họ những điều
cần thiết này:
(1) Ngài cho họ có cơ hội gặp gỡ Ngài: Họ không đi tìm Chúa, nhưng Đức Giêsu trở
về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. Đến ngày Sabbath, Người bắt đầu
giảng dạy trong hội đường.
(2) Ngài cho họ nhận ra sự khôn ngoan của Thiên Chúa nơi Ngài: Khi Ngài giảng dạy
trong hội đường, nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Chính họ đã phải thốt
lên: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa
là làm sao?"
(3) Ngài cho họ nhận ra Ngài có uy quyền của Thiên Chúa: Khi chứng kiến các
phép lạ Chúa Giêsu đã làm, họ đã phải ngạc nhiên thốt lên: "Ông ta làm được
những phép lạ như thế, nghĩa là gì?"
3.2/
Người đồng hương không nhận ra Đức Kitô: Lý do chính khiến người đồng hương không nhận ra Đức
Kitô là thay vì họ phải phán xét chính Đức Kitô và các việc Ngài làm, họ lại
quay qua phán xét gia đình của Chúa. Họ nói: "Ông ta không phải là bác thợ,
con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em
của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?" Và họ vấp ngã vì
Người.
Một ví dụ người Việt-nam chúng ta có kinh nghiệm là biến cố thi cử sau 1975, mà
chúng ta thường nói khôi hài: "học tài thi lý lịch." Thay vì chấm điểm
thí sinh, giám khảo quay sang xét lý lịch gia đình. Nếu thí sinh là con của ngụy
quân ngụy quyền, hay thuộc các gia đình "tư sản mại bản;" họ sẽ bị
đánh rớt trước khi giám khảo có cơ hội xem bài thi của họ.
3.3/
Bụt nhà không thiêng: Đức
Giêsu bảo họ: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương
mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi." Đây
là một thực tế đau lòng, mà người Mỹ có câu "Familiarity breeds
contempt." Tục ngữ Việt-nam cũng có câu tương tự: "Quen chó, chó liếm
mặt."
(1) Nơi quê hương: Nhiều người chúng ta có thói quen thổi phồng người ngoại quốc.
Cái gì của Mỹ cũng hay, cũng tốt, cũng đẹp; cái gì của Việt-nam cũng dở cũng xấu.
Họ có biết đâu họ đang bị thành kiến chi phối, vì dân tộc nào cũng có cái hay
cái dở; và không phải người Mỹ nào cũng tốt hay người Việt-nam nào cũng xấu.
(2) Giữa họ hàng: Nhiều người thường đánh giá người đồng hương trên bằng cấp, địa
vị, hay tài sản. Trình thuật hôm nay cho biết lý do họ khinh thường Chúa Giêsu
là vì họ biết gia đình của Ngài. "Con bác xã chùa phải quét lá đa;"
con bác thợ mộc, làm sao có cơ hội để quán thông Lề Luật? Qui tụ một đám môn đệ
thất học như thế, thầy cũng chẳng hơn trò!
(3) Trong gia đình: Nhiều người trong chúng ta đã từng có kinh ngiệm này. Chúng
ta không thể hiểu lý do tại sao khi chúng ta làm cho người ngoài gia đình chỉ một
việc rất nhỏ bé như chỉ bài, cho một ly nước, giới thiệu một việc làm, họ đã biết
ơn hết sức và trả ơn bội hậu cho chúng ta. Trong khi ở nhà, chúng ta hy sinh tất
cả mọi sự cho gia đình đến chỗ chỉ còn chấp nhận cái chết; nhưng người trong
nhà vẫn vô ơn, bạc nghĩa, đến chỗ một lời cám ơn cũng không được lãnh nhận. Có
lẽ vì người trong gia đình giả sử chúng ta phải làm những việc đó!
Trình thuật Marcô kết luận: "Người đã không thể làm được phép lạ nào tại
đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ
vì họ không tin."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải dẹp bỏ tính ngông cuồng và phản loạn, vì chúng gây thiệt hại
cho chúng ta. Trái lại, chúng ta phải biết vâng lời Thiên Chúa và giữ các huấn
lệnh của Ngài.
- Chúng ta phải dẹp bỏ tính kiêu hãnh vì nó đánh lừa chúng ta. Ngược lại, chúng
ta hãy luyện tập cho biết khiêm nhường để nhìn nhận những yếu kém và giới hạn của
mình.
- Khi phải phán xét, hãy phán xét biến cố xảy ra hay người làm biến cố đó; đừng
phán xét biến cố không liên quan đến sự việc hay những người không liên quan gì
đến biến cố đó.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
05/07/15 CHÚA NHẬT TUẦN
14 TN – B
Mc 6,1-6
Mc 6,1-6
Suy niệm: Những
lời giảng dạy và việc làm của Chúa Giê-su đã gây ra cho những người đồng hương
của Ngài nhiều thắc mắc không có lời giải đáp. Trước mắt họ, Ngài chỉ là “con bác thợ Giu-se,” mà sao Ngài nói năng khôn ngoan như vậy? Ngài
cũng là bà con lối xóm với họ, giống hệt như những người bình thường khác, mà
sao Ngài làm được những phép lạ như thế? Nhìn vào cuộc sống quá bình thường của
Đức Giê-su tại quê nhà, người ta không thể chấp nhận được Ngài là Đấng Thiên
Sai. Ngài quả là một ẩn số.
Mời Bạn: Dù
bị hiểu lầm, bị chối bỏ, Chúa Giê-su vẫn muốn cứu chuộc chúng ta bằng cách chia
sẻ thân phận con người với chúng ta trong mọi ngóc ngách đời thường và cả đến
những cảnh ngộ bi đát nhất, như một con người bình thường nhất trong nhân loại.
Nhờ đó mỗi hành vi của chúng ta đều trở nên có ý nghĩa có giá trị trước mặt
Thiên Chúa nếu được kết hợp với Ngài, được làm trong Ngài, với Ngài. Để khám
phá ẩn số Giê-su trong cuộc sống của bạn, của những người anh chị em bình
thường bé mọn nhất, chúng ta cần đóng lại cặp mắt đầy thành kiến của mình và mở
ra cặp mắt đơn sơ của trẻ thơ để nhìn thấy những ưu điểm của anh chị em mình.
Sống Lời Chúa: Trong
ngày, nhiều lần nhớ tới Chúa và kết hiệp với Ngài trong suy nghĩ và công việc
của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã chấp nhận sống trọn kiếp con người để cứu độ
chúng con. Xin cho con biết sống với Chúa, trong Chúa và cùng Chúa để mọi việc
con làm trở nên có ý nghĩa và sinh ích lợi cho anh chị em con. Amen.
Tiên tri ở quê hương mình
Qua
đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu không phải chỉ là một tiên
tri như những tiên tri khác, mà Ngài chính là Con Thiên Chúa. Thế nhưng Ngài đã
phải đụng đầu với sự cứng lòng tin của chính những kẻ đồng hương với Ngài. Theo
tập tục thì mọi người Do Thái ở tuổi trưởng thành đều có thể lên tiếng khi tham
gia phụng vụ tại hội đường. Chúa Giêsu đã sử dụng quyền này của Ngài và lên tiếng
rao giảng Phúc Âm. Nội dung rao giảng hẳn phải có một cái gì khác lạ với những
điều từng được rao giảng tại đây. Khác đến độ mọi người đều có thể nhận ra và sửng
sốt trước sự khôn ngoan của Ngài. Thực tế trước mắt đã khởi sự lay động họ, kéo
họ ra khỏi giấc ngủ yên tĩnh giữa những cái biết rồi, đẩy họ vào con đường của
những khám phá mới. Thế nhưng những câu hỏi chỉ loé lên trong thoáng chốc không
đủ để chiếu sang cho họ tới được với Đấng đã đến giải phóng họ. Họ đã bỏ thực tế
để trở về với lối lý luận thông thường của họ. Họ tưởng rằng họ đã biết quá rõ
về Ngài khi nói ra được Ngài là con ai, đã làm gì và ai là những người thân
thích với Ngài. Họ đã trở về với những cái họ đã nắm được để rồi quay lưng trước
lời kêu gọi của thực tế trước mắt. Điều họ mắt thấy tai nghe đã đánh động để họ
phải đặt lại vấn đề, thế nhưng họ đã đóng chặt cửa lòng trước những cái mới mẻ
đã từng làm cho họ sửng sốt và ngạc nhiên. Họ tự tách mình ra khỏi Nước Trời
đang đến với họ. Phúc Âm còn ghi lại: thấy họ cứng lòng tin, Chúa Giêsu đã
không làm một phép lạ nào, nghĩa là Ngài đã không tỏ quyền năng của Nước Trời
cho họ và Ngài đi rao giảng ở những làng xung quanh.
Thái
độ của dân làng Nadarét cũng có thể là cơn cám dỗ của người Kitô hữu hôm nay.
Chúng ta có thể tự hào và tự mãn với những bài giáo lý, những hiểu biết về đạo,
để rồi quay lung trước lời mời gọi của Chúa trong những sự kiện, những biến cố
đang xảy ra chung quanh chúng ta. Nói cách khác, việc sống đạo của chúng ta hôm
nay không thể đóng khung trong một số kiến thức có sẵn về Thiên Chúa, về ơn cứu
độ, cũng như trong một số nghi lễ đã được quy định sẵn, trái lại phải được thể
hiện qua việc lắng nghe, tìm kiếm ý định của Chúa trong lịch sử, trong chính
lòng cuộc đời cá nhân và trong sinh hoạt của cộng đồng xã hội. Vấn đề là chúng
ta có thực sự thoát ra được những thành kiến, những quan niệm, những lối nhìn sẵn
có để thực sự lắng nghe tiêng nói mới mẻ của Chúa qua các biến cố, qua các sự
kiện của thực tế hôm nay.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
Tháng 7
5
THÁNG BẢY
Tính
Tự Trị Của Các Vật Thụ Tạo
Mặc
dù cách diễn tả của Thánh Kinh gán quyền cai quản mọi loài trực tiếp cho Thiên
Chúa, chúng ta vẫn có thể nhận ra rõ ràng sự khác biệt giữa hành động của Thiên
Chúa – Đấng Tạo Hóa – và hoạt động của các thụ tạo. Đó là sự khác biệt giữa
nguyên nhân đệ nhất và các nguyên nhân đệ nhị. Đây là vấn đề rất thường được đặt
ra bởi con người thời nay: Thế giới thụ tạo có được sự tự trị và sự tự do đến mức
nào? Đâu là vai trò của con người trong việc phát minh, sáng tạo và xây dựng thế
giới?
Theo
đức tin Công Giáo, sự khôn ngoan của Đấng Tạo Hóa làm cho sự quan phòng của
Ngài có thể hiện diện trong thế giới – trong khi thế giới thụ tạo vẫn có được một
sự tự trị nào đó theo quyền của mình. Công Đồng Vatican II đã đề cập đến mầu
nhiệm này. Một đàng, Thiên Chúa giữ gìn mọi sự và làm cho mọi sự có thể là
chính chúng: “Chính vì được tạo dựng mà mọi vật đều có sự vững chãi, chân thực,
tốt lành cùng những định luật và trật tự riêng” (MV 36). Đàng khác, nhờ cách thế
mà Thiên Chúa cai quản thế giới, các tạo vật – nhất là con người – có thể có được
sự tự trị nào đó “theo ý muốn của Đấng Sáng Tạo” (MV 36).
Sự
quan phòng của Thiên Chúa được diễn tả một cách chính xác trong “tính tự trị của
các loài thụ tạo”, trong đó cả sức mạnh lẫn sự ân cần của Thiên Chúa đều được
thể hiện. Chúng ta nhận ra rằng – đối với con người – sự quan phòng của Thiên
Chúa sẽ vẫn luôn luôn còn là một sự khôn ngoan nhiệm mầu bao trùm hết thảy mọi
sự (“từ chân trời này đến chân trời kia”). Sự quan phòng ấy được nhận ra nơi mọi
sự với đầy sức sáng tạo và với trật tự rõ ràng của nó. Tuy nhiên, nó vẫn còn chừa
lại nguyên đó vai trò của con người trong việc xây dựng và phát triển thế giới.
Đó chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa chúng ta.
Gương
Thánh Nhân
Ngày
05-07: Thánh ANTÔN MARIA GIACARIA
Linh
mục (1502 - 1539)
Thánh
Antôn Maria Giacaria sinh năm 1502 tại Grêmôna, cha Ngài mất sớm, mẹ Ngài, người
góa phụ trẻ 18 tuổi không còn biết tới hạnh phúc nào hơn trên trần gian là đào
tạo tâm hồn người con nhỏ của mình. Thấy con thích làm việc hơn là chơi giỡn và
biết kiên trì hy sinh hãm mình, bà rất mừng rỡ, chính bà cũng phát huy tình bác
ái đối với người nghèo khổ, làm gương cho con.
Thành
Grêmôna nơi Antôn sinh trưởng vừa mới hết chiến tranh. Sau cuộc chiếm đóng của
người Pháp, dân thành lại phải chiến đấu với Ludorse Sforza. Tình cảnh thật khốn
khổ. Ngày kia trên đường về học, cậu bé Antôn đã cởi tấm áo thêu của mình cho
người nghèo mặc. Thấy vậy, người mẹ đã âu yếm ôm con vào lòng. Từ đó Antôn xin
cho con được ăn mặc bình thường, có khi còn nhịn phần ăn cho người nghèo nữa.
Thân
mẫu Antôn đã chọn cho Ngài những bậc thầy nổi danh về văn chương Hy lạp và
Latinh. Vào tuổi 15, Antôn đã theo môn triết học ở Pavie, rồi lại theo đuổi y học
ở Padua. Ở đại học người ta chế nhạo nếp sống nghèo khó của Ngài. Tốt nghiệp
phải cấp bằng tiến sĩ ưu hạng, Ngài được rất nhiều khách hàng tín nhiệm. Nhưng
đây lại là thời Luthênô nổi dậy. Antôn bỏ nghề thuốc để theo môn thần học.
Antôn
Giacaria bắt đầu tụ tập trẻ em lại, Ngài nói cho chúng nghe về các chân lý cao
trọng. Cha mẹ chúng cũng thường tới nghe dạy. Họ nói : - Nào chúng mình đến
nghe thiên thần của Chúa.
Tay cầm
thánh giá, thánh nhân rảo qua khắp các đường phố nói về ơn cứu chuộc và việc thống
hối. Nơi nào bị chế nhạo, bị xỉ nhục, Ngài càng năng lui tới hơn.
Năm
1528, lúc được 36 tuổi, Antôn được thụ phong linh mục. Ngài đến ở Milan,
thăm viếng các người đau khổ trong các nhà thương, nhà tù, nơi các xóm nghèo.
Các nghĩa cử Ngài làm đã mang lại cho Ngài danh hiệu "người cha dân tộc".
Ngài ngồi tòa hàng giờ để phục sinh các linh hồn. Ngài chống lại phái thệ phản
và đối đầu với bất cứ ai muốn tấn công đức tin tinh tuyền. Cha Antôn có hai người
bạn tông đồ là Mariggia và Ferrari. Đức giáo hoàng truyền cho các Ngài lập một
hội dòng mới, các tu sĩ dòng thánh Phaolô. Các Ngài được trao cho việc coi sóc
thánh đường thánh Barnabê, nên người ta gọi các Ngài là các cha Barnabê.
Thánh
Antôn Maria Giacaria thường nói với các môn sinh: - "Đặc tính của những
tâm hồn đại lượng là phục vụ không mong phần thưởng, chiến đấu không chờ lương
bổng. Hãy tiến tới không ngừng và hướng tới sự hoàn thiện cao cả hơn. Hãy nói với
Chúa Giêsu bị đóng đinh về tất cả những gì bạn thấy và lãnh ý Người, cho mình
và cho người khác".
Ngài
dạy họ phải quen với những phỉ báng khinh miệt nhưng không làm như vậy được nếu
không hướng trọn ý tưởng về với Chúa, và nếu kinh nguyện chưa nên của ăn nuôi sống
linh hồn. Các linh mục và cả hàng giáo sĩ đã bắt đầu. Chiều về anh em họp nhau
lại để thú tội. Thánh nhân còn dẫn anh em rảo qua đường phố bằng cách vác Thánh
giá mà rao giảng. Họ còn tự động cột giây vào cổ, làm những việc nặng nhọc
trong khi một số khác đi ăn xin cho người nghèo.
Thấy
vậy, nhiều người thống hối và cải thiện đời sống. Thánh Antôn còn cổ động lòng
sùng kính Thánh Thể khuyên năng rước lễ hơn. Thời đó người ta chỉ rước lễ một
hai lần trong năm. Trước sự đổi mới này, nhiều người coi sự nhiệt thành của
Ngài là cuồng tín dị đoan. Thánh nhân vẫn an lòng và cảm nghiệm điều Ngài thường
nói : - Bạn sẽ được thấp nhập vào Chúa đến độ không còn lo tưởng đến những sự
trên thế gian này nữa.
Năm
1530, Ngài giúp nữ công tước Torelli thành lập một hội dòng nữ. Đức giáo hoàng
Phaolô III đã chuẩn y hội dòng này và đặt tên là "Dòng chị em các thiên thần".
Năm
1536, cha Antôn Giacaria từ chức bề trên nhà dòng mà Ngài đã giữ từ đầu để đi
truyền giáo. Ngài rao giảng Phúc âm và giải hòa các cuộc tranh chấp. Công việc
thật bề bộn, không thể lường trước được, dầu vậy thánh nhân vẫn trung thành với
tác vụ, các cuộc tĩnh tâm và thư tín.
Tuy
nhiên lần này, tại Guastalla, thánh nhân đã kiệt sức. Xa các môn sinh, Ngài lui
về với thân mẫu. Bà khóc lóc khi thấy con. Nhưng Antôn nói :- Mẹ ơi ! Mẹ đừng
khóc nữa. Chẳng bao lâu rồi mẹ cũng được vui mừng với con trong vinh quang bất
tận mà bây giờ con đang tiến vào.
Ba
giờ chiều ngày 5 tháng 7 năm 1593, linh mục trẻ 36 tuổi Antôn Maria Giacaria thở
hơi cuối cùng trong tay mẹ hiền.
(daminhvn.net)
05
Tháng Bảy
Con Người Tự Do
Ðại
thi hào Rabindranath Tagore của Ấn Ðộ có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Khi
còn trẻ, tôi cảm thấy tràn đầy năng lực... Một buổi sáng nọ, tôi ra khỏi nhà và
hô lớn: "Tôi sẵn sàng phục vụ bất cứ ai muốn". Thế là tôi hăm hở lên
đường và trong tư thế sẵn sàng phục vụ bất cứ ai chờ đợi. Từ đằng xa, đức vua
và đoàn tùy tùng tiến đến. Vừa nghe tiếng tôi, ngài đã dừng lại và nói với tôi:
"Ta đưa ngươi vào cung hầu hạ ta và bù lại, ta sẽ ban cho ngươi quyền
hành". Ngẫm nghĩ, không biết dùng quyền hành để làm gì, tôi đành lặng lẽ bỏ
đi...
Tôi
tiếp tục ra đi và hô lớn: "Tôi sẵn sàng phục vụ bất cứ ai muốn". Chiều
hôm đó, có một cụ già ngỏ ý thuê tôi và để đền bù, cụ cho tôi những đồng bạc mà
âm thanh vang lên như bản nhạc. Nhưng tôi cảm thấy không cần tiền bạc, cho nên
đành tiếp tục ra đi.
Tôi
tiếp tục ra đi và tiến gần đến một căn nhà xinh đẹp. Một em bé gái xinh đẹp
chào tôi và đề nghị với tôi: "Tôi thuê anh và bù lại, tôi sẽ tặng cho anh
nụ cười của tôi". Tôi cảm thấy do dự. Một nụ cười sẽ kéo dài bao lâu? Chỉ
trong chớp nhoáng, cô bé đã biến vào bóng tối...
Khi
tôi rời bỏ căn nhà xinh đẹp, thì trời cũng đã tối. Tôi ngã người trên thảm cỏ
và ngủ thiếp. Sáng ngày hôm sau, tôi thức giấc trong sự mệt mỏi. Khi mặt trời vừa
lên, tôi đi lần ra bãi biển. Một cậu bé đang chơi đùa trên cát. Vừa thấy tôi,
nó ngẩng đầu lên, mỉm cười như thể đã từng quen biết với tôi. Một lúc sau, nó
nói với tôi: "Tôi sẵn sàng thuê anh và bù lại, tôi không có gì để cho anh
cả". Tôi đón nhận ngay giao kèo của cậu bé. Và chúng tôi bắt đầu chơi đùa
với nhau trên bãi cát. Những người qua lại ngỏ ý muốn thuê tôi, nhưng tôi từ chối,
bởi vì từ ngày hôm đó, tôi mới thực sự cảm thấy mình là một con người tự do.
Không
gì quý bằng độc lập tự do: không chừng câu khẩu hiệu quen thuộc này ứng dụng một
cách rất xác thực vào đời sống Ðức Tin của chúng ta... Chúng ta tuyên xưng Chúa
Giêsu là Ðấng Cứu Thoát, bởi vì Ngài đến để giải phóng chúng ta, Ngài đến để
làm cho chúng ta được tự do. Và tự do mà Ngài mang lại cho chúng ta là gì nếu
không phải là tự do khỏi tội lỗi, tự do khỏi đam mê, tự do khỏi ích kỷ, tự do
khỏi danh vọng, tiền bạc và tất cả những gì ràng buộc con người...
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét