Trang

Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2015

05-07-2015 : (phần I) CHÚA NHẬT XIV MÙA THƯỜNG NIÊN năm B

05/07/2015
Chúa Nhật 14 Quanh Năm Năm B
(phần I)


Bài Ðọc I: Ed 2, 2-5
"Ðây là nhà phản loạn, và họ sẽ biết rằng giữa họ vẫn có một tiên tri".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Trong những ngày ấy, sau khi nói với tôi, Thần Linh nhập vào tôi, và đỡ tôi đứng dậy. Tôi nghe Người nói với tôi rằng: "Hỡi con người, Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân nổi loạn phản nghịch Ta, chúng và cha ông chúng vi phạm giao ước của Ta cho đến ngày nay. Ta sai ngươi đến để nói với những con cái dầy mặt cứng lòng rằng: 'Chúa là Thiên Chúa phán như vậy'. Hoặc chúng nghe, hoặc chúng không nghe, vì đây là bọn phản loạn, và chúng sẽ biết rằng giữa chúng có một tiên tri".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 122, 1-2a. 2bcd. 3-4
Ðáp: Mắt chúng con nhìn vào Chúa, cho tới khi Người thương xót chúng con (c. 2cd).
Xướng: 1) Con ngước mắt nhìn lên Chúa, Ngài ngự trị ở cõi cao xanh. Kìa, như mắt những người nam tôi tớ, nhìn vào tay các vị chủ ông. - Ðáp.
2) Như mắt của những người tỳ nữ, nhìn vào tay các vị chủ bà, mắt chúng tôi cũng nhìn vào Chúa, là Thiên Chúa của chúng tôi như thế, cho tới khi Người thương xót chúng tôi. - Ðáp.
3) Nguyện xót thương, lạy Chúa, nguyện xót thương, vì chúng con đã bị khinh dể ê chề quá đỗi! Linh hồn chúng con thật là no ngấy lời chê cười của tụi giàu sang, nỗi miệt thị của lũ kiêu căng. - Ðáp.

Bài Ðọc II: 2 Cr 12, 7-10
"Tôi rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức Kitô ngự trong tôi".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, để những mạc khải cao siêu không làm cho tôi tự cao tự đại, thì một cái dằm đâm vào thịt tôi, một thần sứ của Satan vả mặt tôi. Vì thế đã ba lần tôi van nài Chúa, để nó rời khỏi tôi. Nhưng Người phán với tôi rằng: "Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối". Vậy tôi rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức Kitô ngự trong tôi. Vì thế, tôi vui thoả trong sự yếu hèn của tôi, trong sự lăng nhục, quẫn bách, bắt bớ và khốn khó vì Ðức Kitô: vì khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: 1 Pr 1, 25
Alleluia, alleluia! - Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 6, 1-6
"Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Ðến ngày Sabbat, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?" Và họ vấp phạm vì Người.
Chúa Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình". Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Kinh Nghiệm Của Tiên Tri
Chúa nhật trước các bài Kinh Thánh đã nói với chúng ta về đức tin. Hôm nay Lời Chúa nhắc lại những kinh nghiệm trong cuộc đời của dân Israel, của Ðức Yêsu và của thánh Phaolô để khuyến khích đức tin của chúng ta trong những hoàn cảnh đặc biệt. Ước gì chúng ta hiểu những lời Kinh Thánh vừa nghe đọc. Và cho được như vậy chúng ta cần tìm hiểu thêm.

1. Kinh Nghiệm Của Israel
Bài sách Ezekiel đưa chúng ta trở về đợt lưu đày đầu tiên của dân Israel, vào khoảng năm 597 trước Ðức Yêsu ra đời. Nhà tiên tri ở trong đám dân khổ sở đó. Bị đày xa quê hương và đền thờ ông cũng như mọi người tưởng rằng như vậy là hết rồi. Giao ước giữa Chúa và dân không còn nữa. Họ đã bất tín đến nỗi Người phải trừng trị. Hoàn cảnh lưu đày này làm chứng Người đã bỏ dân.
Ðang khi họ suy nghĩ như vậy thì này đột nhiên Ezekiel được một thị kiến ngay nơi đất khách. Sự kiện làm ông bàng hoàng tự nghĩ: làm sao Thiên Chúa có thể hiện ra với ông nơi dân ngoại? Yavê có quyền cả ở địa phương này sao? Và hơn nữa Người chưa hoàn toàn bỏ dân ư?
Rồi không những có thị kiến, mà còn có tiếng nói. Lời Chúa nói với Ezekiel và sai ông đi đến với dân phản loạn. Rõ ràng Thiên Chúa không bỏ kẻ có tội. Người ta bất tín, nhưng Người vẫn tín thành.
Người sai Ezekiel đến với họ như đã sai Môsê đến với Pharaon: vì Israel lúc này cũng lòng chai đá, mặt trơ tráo như vua Aicập ngày trước (Xh 7,13). Và như vậy, đoạn Kinh Thánh hôm nay ám chỉ Chúa đã bắt đầu nghĩ đến truyện cứu dân lưu đày. Và cuộc giải cứu này một cách nào đó sẽ lập lại cuộc giải phóng khỏi Aicập mà Israel vẫn nhớ lại với lòng khâm phục cảm mến.
Do đó Ezekiel cũng phần nào đó giống như Môsê. Ông được đặt làm tiên tri đến với dân nhân danh Chúa. Ông sẽ nói với những người đang làm tôi mọi dân ngoại rằng: đừng quên Chúa: Người phán như thế này; Người sẽ ra tay uy hùng cứu kẻ tin vào Người.
Dĩ nhiên bắt đầu người ta sẽ không tin lời cứu độ đâu, cũng như xưa Pharaô từ chối lời của Môsê. Nhưng Chúa sẽ ở với Ezekiel như đã ở với Môsê. Ezekiel sẽ là khí cụ để Chúa biểu dương quyền lực của Người trước mặt dân ngoại. Ông sẽ không làm những việc lạ kỳ như Môsê ở trước nhan Pharaô, vì đối với dân ngoại cần có những dấu hiệu đó để họ nhận biết quyền năng của Chúa. Nhưng còn đối với Israel, dân đã từng thấy những việc kỳ diệu, không cần phép lạ nữa và những phép lạ này cũng không đủ nữa. Ðối với những kẻ đã "thấy", bây giờ phải làm cho họ "biết" và "hiểu". Và vì thế Ezekiel phải mạnh về "Lời", về mạc khải, nói với lòng dân thay vì với mắt họ trước đây, để Israel sẽ thay lòng đổi dạ hầu có một trái tim thịt máu thay vì trái tim chai đá hiện nay.
Do đó Chúa không đặt Ezekiel làm người lãnh đạo dân như Môsê, nhưng làm tiên tri. Và như vậy không phải chính trị sẽ hướng dẫn, nhưng là Lời Chúa sẽ đưa dân đến giải thoát cứu độ. Dân sẽ không thấy có thẩm phán, vua quan hay lãnh tụ ở với mình thay quyền Chúa như trước nữa, nhưng sẽ có tiên tri của Người ở giữa dân và giúp dân đi theo đường lối của Chúa. Sự hiện diện của nhà tiên tri nói lên sự hiện diện của Chúa thay thế cho sự hiện diện của Người nơi đất Thánh và chốn đền thờ, thay thế cho sự có mặt của hoàng đế và tư tế, từng lãnh đạo dân trong nhiều thế kỷ trước đây.
Bài sách Ezekiel, vì thế, mở ra trước mắt dân lưu đày một viễn tượng hoàn toàn mới mẻ. Họ có thể thấy Chúa chưa bỏ họ trong cảnh lầm than. Người đang đi trước họ, giới thiệu con đường cứu độ mới. Từ nay Người sẽ dùng tiên tri và dùng Lời của Người để dạy dỗ và hướng dẫn dân, để ai tin thì sẽ được cứu độ.
Chúng ta không được an ủi sau khi hiểu bài sách Ezekiel như thế. Ðền thờ và hàng tư tế vẫn quý và cần thiết cho đời sống đạo. Nhưng có những lúc Chúa muốn hướng dẫn chúng ta nguyên bằng Lời của Người, tức là bằng sách thánh, và bằng những tiên tri biết đem lời của Chúa trình bày cho anh em. Chúng luôn muốn kêu gọi những tiên tri như vậy. Ai đáp lời không những sẽ như Ezekiel mà còn giống như Ðức Yêsu nữa, vì chính Người mới là vị tiên tri tuyệt diệu của Thiên Chúa mà Ezekiel và mọi tiên tri khác chỉ như bóng sánh với hình. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta cơ hội chiêm ngưỡng vị tiên tri tuyệt diệu ấy.

2. Kinh Nghiệm Của Ðức Yêsu
Cho đến nay người ta vẫn không ngớt thắc mắc về đoạn sách Marcô này. Nó đâu có làm vẻ vang gì cho Ðức Yêsu mà tác giả sách thánh đã viết ra? Và như vậy có lợi gì đâu mà phụng vụ ngày nay còn đem nó ra đọc trong thánh lễ? Nó cho chúng ta thấy một Ðức Yêsu bị thất bại và bất lực ngay nơi các người đồng hương bà con của Người. Nó liệt Người vào thân phận của mọi tiên tri chẳng bao giờ được quý trọng nơi quê quán, nếu không muốn nói rằng Người còn thua kém họ nữa, vì chắc chắn đã có nhiều vị tiên tri tuy không được kính trọng nhưng cũng không đến nỗi bị chống đối, phủ nhận nơi bà con của mình.
Marcô hôm nay cho chúng ta thấy vị tiên tri thành Nadarét bất lực quá: chẳng làm được phép lạ nào trước sự cứng lòng tin của họ hàng thân thuộc. Người còn là vị tiên tri không tự chủ ngay nơi bản thân Người nữa. Vì khi thì như Người thừa hiểu hoàn cảnh; lúc lại như thể Người ngạc nhiên về thái độ của người ta. Hay là Marcô đã dùng những từ ngữ không chỉnh và mâu thuẫn? Trong một câu ông khẳng định cả việc Ðức Yêsu không làm được phép lạ nào, cả việc Người chữa lành một số ít người đau ốm. Những việc chữa lành này không phải là phép lạ sao?
Nhận thấy những lời văn khó hiểu, và nhất là thấy ý tưởng chung bất lợi cho Ðức Yêsu quá, nhiều người thắc mắc không hiểu tạo sao có đoạn văn này trong sách Marcô. Và người ta đưa ra không biết bao nhiêu lý lẽ và giả thiết. Nhưng mọi cố gắng làm suy yếu đoạn văn này đều vấp phải một sự hiển nhiên: đoạn văn nằm đó trong sách của Marcô với những lời lẽ mà chẳng ai có thể tẩy xóa hay sửa chữa được nữa. Và bổn phận của chúng ta bây giờ là phải chấp nhận và tìm hiểu nó.
Nhìn vào vị trí của đoạn văn trong sách của Marcô, chúng ta thấy đã đến lúc Ðức Kitô sắp bỏ Galilêa để xuống thi hành sứ vụ ở Yuđêa. Và như vậy cũng là lúc để có một cái nhìn tổng quát về sứ vụ ở Galilêa, nếu không muốn nói rằng tác giả Marcô đã muốn lợi dụng lúc này để cho chúng ta một cái nhìn chung về những năm giảng đạo của Ðức Kitô. Có thể Marcô cũng muốn tựa vào kinh nghiệm của vị tiên tri thành Nadarét để nói về thân phận của Hội Thánh nói chung và của từng tông đồ nói riêng. Dù sao, đây cũng là một cái nhìn tổng quát về đời hoạt động của một tiên tri.
Thế nên tác giả Marcô có thể lấy lại một cái nhìn cổ điển của Cựu Ước: mọi tiên tri trong các thời đại trước đều đã không được số phận may mắn. Ezekiel chẳng hạn. Hôm nay sách thánh viết rõ ông đã được sai đến với dân phản loạn mặt trơ tráo và lòng chai đá. Nhưng người ta vẫn phải biết ông là tiên tri. Ðức Yêsu cũng là tiên tri và hơn mọi tiên tri nữa. Ở nơi Người các nét tả chính yếu về bậc tiên tri phải nổi hơn, nổi nhất. Người phải đối diện với một dân lòng chai dạ đá. Hơn nữa, họ phải phản đối kình địch với Người hơn mọi tiên tri khác. Sự cay đắng chua xót của Người phải nhiều hơn. Người gặp thấy nó ngay trong hàng bà con thân thích để Yoan có thể viết rằng: Người đã đến nhà của Người, nhưng gia nhân Người đã không chấp nhận Người. Ðó là điều Cựu Ước thường viết về Yavê Thiên Chúa: Người ra tay làm bao việc lạ cho dân mà dân vẫn tỏ lòng chai đá bội bạc.
Nhưng nơi nhà tiên tri không phải chỉ có thất bại. Ðúng hơn nữa, sự chống đối ông gặp phải nói lên tội lỗi của người ta chứ không tố cáo sự bất lực của ông. Nơi ông vẫn có "dấu tay uy quyền của Chúa". Chính vì vậy mà Ðức Yêsu vẫn chữa lành được cho một số ít bệnh nhân khi họ có điều kiện mà đa số không có. Họ có lòng tin đang khi những người khác cứng lòng tin. Nói theo loài người, Ðức Kitô có thể ngạc nhiên về thái độ của đa số: thấy giáo lý khác thường và các phép lạ Người làm mà họ không mềm lòng ra. Nhưng với cái nhìn của Thiên Chúa hay của đức tin, thì điều này cũng không lạ, bởi vì cả lịch sử thánh cho thấy loài người luôn luôn cưỡng lại tình thương của Thiên Chúa. Trừ một số ít. Số ít này là những kẻ được cứu vớt. Họ sẽ làm thành đàn chiên nhỏ. Họ sẽ thừa tự Nước Trời vì họ tin rằng: có nhà tiên tri của Chúa ở giữa họ, mặc dù bề ngoài có nhiều điều cản trở niềm tin này.
Do đó bài Tin Mừng hôm nay là cả một bài học quý giá cho chúng ta. Không nên căn cứ vào câu "chẳng tiên tri nào được kính trọng tại quê nhà" để bao biện cho các khuyết điểm và thất bại trong đời sống tông đồ. Tin Mừng của Chúa không bao giờ muốn an ủi kiểu như vậy. Luôn luôn nó muốn chất vấn lương tâm người ta thường có thái độ nào đối với một Ðấng Thiên Chúa và một Ðức Kitô Người sai đến như vậy? Người ta có sẵn sàng tin sứ điệp tình yêu và cứu độ mà Thiên Chúa gửi đến nơi Lời Kinh Thánh, nơi vị tiên tri, nơi Hội Thánh của Người không? Hay người ta luôn luôn là những người Dothái ở thời Ezekiel và ở thời Ðức Kitô, chỉ muốn tin vào sứ điệp và sứ giả nào hứa hẹn những lợi ích trước mắt? Thiết tưởng bài thư Phaolô cũng phải được hiểu theo chiều hướng này.

3. Kinh Nghiệm Của Phaolô
Người đang nói với giáo dân Côrintô yêu quý của người. Họ đã được nhiều tông đồ có óc Dothái đến viếng thăm. Những người này gièm pha Phaolô đủ điều, cốt để người Côrintô đừng tin vào giáo lý cứu độ của Phaolô nữa. Nhưng nếu bỏ niềm tin này, thì làm sao được cứu độ? Phaolô phải can thiệp ngay. Người gửi thư không phải để chữa mình hay để lấy lại uy tín. Người quá tâm lý để biết rằng làm như vậy sẽ chỉ thêm thất bại. Nhất là lòng đạo đức và tinh thần tông đồ đã giết chết khuynh hướng tự tôn ở nơi người từ lâu rồi. Người viết thư hôm nay là để thi hành sứ vụ tiên tri, rao giảng ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Người không khoe khoang, mặc dù người có rất nhiều điều hay để nói về mình. Không những gia thế, học lực và những nét Dothái cao quý ở nơi người; mà cả những thành quả, lao công trong cuộc đời tông đồ; thậm chí những thị kiến và mạc khải cao siêu nữa... Tất cả đều không được người để ý và gán cho một chút vinh quang nào. Ngược lại, người nhấn mạnh đến một cái "dằm" ở trong thân xác người. Nó làm đau, làm nhục người triền miên. Nó là cái gì người không xác định; nên ai có ý tưởng nào cũng chỉ là suy đoán. Ðiều quan trọng mà Người muốn nói là cái dằm trong xác thịt ấy luôn luôn tố cáo sự yếu đuối của người ở trước mặt Chúa để người ý thức không phải mình sống nhưng là Ðức Kitô sống trong mình, không phải mình mạnh nhưng là quyền năng của Ðức Kitô đậu lại ở nơi mình. Và như thế người sẽ như Ðức Kitô, như Ezekiel, như mọi tiên tri.
Cuộc đời của những vị này luôn mang hình thức yếu đuối, bất lực, thất bại trước mắt thế gian, nhưng dưới cái nhìn của đức tin lại là nơi quyền năng cứu độ của Thiên Chúa đang hoạt động.
Như vậy chúng ta có phải bắt chước các ngài không, tức là tạo ra trong đời sống của mình một hình dạng yếu đuối nào đó? Không cần như vậy. Ðiều cần trước hết là chúng ta phát triển niềm tin vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, cho dù có bao nét bề ngoài của kế hoạch đó dường như muốn làm chúng ta nản lòng. Chúa đã đòi dân Dothái thời Ezekiel phải tin vào Lời Người và vào vị tiên tri khi họ không còn quê hương, đền thờ. Người đã đòi bà con thân thuộc của Ðức Yêsu lướt thắng những cản trở bên ngoài thuộc gia thế và địa vị xã hội của nhà tiên tri thành Nadarét để đón nhận ơn cứu độ. Hằng ngày Chúa vẫn đòi chúng ta phải có niềm tin như vậy qua mọi thử thách trần gian. Hơn nữa Chúa lại muốn chúng ta trở nên các tiên tri của Người để giúp anh em đồng bào nhận ra Tin Mừng cứu độ. Chúng ta có sẵn sàng đi vào đường lối của Ezekie, của Phaolô và của Ðức Kitô không?
Tất cả những điều này sẽ diễn ra trong thánh lễ. Ở đây niềm tin đòi mọi người phải lướt thắng nhiều nét bên ngoài để đạt tới các mầu nhiệm thâm sâu. Ở đây chúng ta phải đón nhận một Ðức Yêsu Kitô tử nạn và phục sinh. Và chính Người lại là Ðấng Cứu thế... Người kêu gọi chúng ta tin vào đường lối của Người, trở thành tông đồ của Người, sống như Người để làm lan rộng ơn cứu độ. Chúng ta có nhiệt tình đáp lại chờ mong của Người không, để Lời Chúa và Mình Thánh Chúa hôm nay đem lại hiệu quả thật sự trong đời sống hằng ngày của chúng ta.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật 14 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Eze 2:2-5; II Cor 12:7-10; Mk 6:1-6.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những điều ngăn cản con người không nhìn ra sự thật.

             Trong hành trình đi tìm sự thật, con người cần phải học biết Thiên Chúa, biết tha nhân, và biết chính mình. Nếu chỉ ngông cuồng biết mình thôi, con người dễ phản loạn chống lại Thiên Chúa và tha nhân. Hơn nữa, khi con người chỉ biết mình, con người sẽ dễ kiêu hãnh và khinh thường Thiên Chúa và tha nhân.
             Các Bài Đọc hôm nay đưa ra một số lý do tại sao con người không tin Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I: Vì tính ngông cuồng và phản loạn, dân tộc Israel đã lạc xa đường lối Thiên Chúa. Tiên tri Ezekiel được Thiên Chúa sai tới để chinh phục họ về cho Ngài. Trong Bài Đọc II: Để ngăn ngừa tính kiêu hãnh của Phaolô, Thiên Chúa đã bắt ông chịu đau khổ để ông nhận ra một điều quan trọng: sức mạnh ông có được đến từ Thiên Chúa. Ngài hoạt động trong những yếu đuối của Phaolô. Trong Phúc Âm: Được chứng kiến những lời khôn ngoan từ miệng Chúa và chứng kiến những phép lạ Ngài làm, thay vì những người đồng hương Nazareth đánh giá Chúa trên những giá trị này để tin vào Chúa; họ lại đánh giá gia đình, tài sản, địa vị, và các môn đệ, những điều không phải là Chúa, để rồi khinh thường và không tin vào Chúa.  

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC: 

1/ Bài đọc I: Giống nòi phản loạn không chịu tin vào Thiên Chúa.

1.1/ Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá: Dân tộc Israel bị Thiên Chúa mắng là giòng giống phản loạn. Thiên Chúa phán với Tiên-tri Ezekiel: "Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng."
            Đặc tính của người phản loạn:
            + Họ không muốn nghe lời của bất cứ ai: Họ lấy mình làm tiêu chuẩn để phán xét mọi người. Họ không muốn nghe lời Thiên Chúa hay những gì Ngài nói qua các ngôn sứ.
            + Họ khó chịu khi thấy ai làm gì không giống họ: Họ không muốn tin Thiên Chúa; đã vậy, họ còn ngăn cản những ai tin vào Thiên Chúa. Lý do: những tín hữu khuấy động lương tâm của họ. Người Do-thái bắt bớ và truy tố các ngôn sứ, vì các ngôn sứ không chịu phản loạn như họ.
            + Họ muốn làm gì thì làm: Giống như con ngựa bất kham, không muốn đeo bất cứ điều gì trên người để tự do bay nhảy tung tăng khắp chốn; nhưng người chủ phải chế ngự nó bằng giây cương hàm thiết, nó mới chịu ngoan ngoãn thi hành lệnh của chủ. Giống người phản lọan cũng thế, họ không muốn giữ bất cứ luật lệ nào của Thiên Chúa cũng như của loài người. Nhưng loại người như thế sẽ không tồn tại lâu dài, vì luật pháp sẽ không dung thứ họ. Cho dù họ có thể qua mặt loài người, họ sẽ không qua khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
           
1.2/ Các ngôn sứ là khí cụ Thiên Chúa dùng để vạch ra lầm lỗi của họ: Chúa muốn Tiên-tri Ezekiel phải can đảm nói những gì Chúa muốn nói: "Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng."
            Thái độ của ngôn sứ: Không được sợ hãi loại người phản loạn này, nhưng phải can đảm vạch ra lầm lỗi của chúng: "Phần ngươi, hỡi con người, đừng sợ chúng, cũng đừng sợ những lời chúng nói, dù ngươi có bị chống đối, có gặp chông gai tư bề, hay ngồi trên bò cạp. Những lời chúng nói, ngươi đừng sợ; có phải giáp mặt chúng, cũng đừng khiếp, vì chúng là nòi phản loạn. Ngươi cứ nói với chúng những lời của Ta, dù chúng nghe hay không, vì chúng là quân phản loạn" (Eze 2:6-7).

2/ Bài đọc II: Sức mạnh của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.

2.1/ Đau khổ giúp con người khỏi tự cao tự đại: Phaolô, trước khi trở thành môn đệ của Đức Kitô, là người nhiệt thành và kiêu hãnh. Ông hãnh diện với truyền thống của cha ông, và nhiệt thành truy tố những tín hữu của Đức Kitô, Người mà ông cho là xúi giục dân chúng chống lại Lề Luật của cha ông. Để dạy Phaolô một bài học, Chúa để ông té ngựa và bị mù; đồng thời Ngài cũng mặc khải cho ông biết nguy hiểm của những ai mù quáng giơ chân đạp mũi nhọn. Kể từ đó Phaolô suy nghĩ về thái độ quá khích của mình, và khiêm nhường để Đức Kitô hướng dẫn cuộc đời của ông.
            Trình thuật hôm nay kể: "Và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại." Qua các Thư Phaolô, chúng ta biết ông đã được Đức Kitô thân hành hiện ra dạy dỗ và cho hiểu biết nhiều mầu nhiệm. Chính vì được thấu hiểu các mầu nhiệm mà Satan ganh tị với ông. Không lạ gì khi Satan đến vả mặt ông vì chúng không muốn ai thấu hiểu những mầu nhiệm này. Hơn nữa, biết những điều phi thường dễ đưa con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu. Chúng ta không biết rõ "cái dằm đâm vào thân xác Phaolô" là cái gì: có người cho là cám dỗ thân xác, có người cho là các bệnh tật mà ông phải chịu; nhưng điều quan trọng ông đã nói ra là "cái dằm" ngăn ngừa ông để khỏi tự cao, tự đại.

2.2/ Phaolô nhận ra sức mạnh đến từ Thiên Chúa: Qua kinh nghiệm của biến cố trở lại và của "cái dằm đâm vào thân xác," Phaolô hiểu rõ con người kiêu hãnh và yếu đuối của mình. Ông biết nếu không có sức mạnh của Thiên Chúa chữa lành và ở với ông, ông sẽ mù lòa suốt đời về cả thể lý và tâm linh; nhưng vì tình yêu Thiên Chúa dành cho ông, Ngài cho ông lại được nhìn thấy ánh sáng và thấu hiểu sự quan trọng của Đức Kitô trong Kế Hoạch Cứu Độ.
            Trong trình thuật hôm nay, vì nhiệt thành rao giảng đức tin, Phaolô đã ba lần xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ của "cái dằm;" nhưng Đức Kitô quả quyết với ông: "Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối." Chúng ta ít nhiều cũng có những kinh nghiệm như Phaolô, khi đang hăng hái nhiệt thành rao giảng hay làm việc tông đồ, mà chúng ta bị những ngăn trở như bệnh tật, bắt bớ, hiểu lầm; chúng ta muốn Chúa lấy đi những trở ngại này với ý hướng tốt lành, để chúng ta mạnh khỏe và có cơ hội tiếp tục phục vụ Chúa. Thiên Chúa có kế hoạch khác: nhiều khi Ngài muốn chúng ta chậm lại để có thời giờ suy nghĩ chín chắn hơn, hay muốn chúng ta nghỉ ngơi để chuẩn bị cho sứ vụ sắp tới cam go hơn.
            Thái độ chúng ta cần có là học nơi Phaolô: "Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh."

3/ Phúc Âm: Tại sao con người từ chối không tin vào Chúa Giêsu?

3.1/ Đức Kitô chuẩn bị cho người đồng hương để họ tin vào Ngài: Để một người có thể tin vào Đức Kitô, họ cần nhiều yếu tố quan trọng. Ngài chuẩn bị cho họ những điều cần thiết này:
            (1) Ngài cho họ có cơ hội gặp gỡ Ngài: Họ không đi tìm Chúa, nhưng Đức Giêsu trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. Đến ngày Sabbath, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường.
            (2) Ngài cho họ nhận ra sự khôn ngoan của Thiên Chúa nơi Ngài: Khi Ngài giảng dạy trong hội đường, nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Chính họ đã phải thốt lên: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao?"
            (3) Ngài cho họ nhận ra Ngài có uy quyền của Thiên Chúa: Khi chứng kiến các phép lạ Chúa Giêsu đã làm, họ đã phải ngạc nhiên thốt lên: "Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?"

3.2/ Người đồng hương không nhận ra Đức Kitô: Lý do chính khiến người đồng hương không nhận ra Đức Kitô là thay vì họ phải phán xét chính Đức Kitô và các việc Ngài làm, họ lại quay qua phán xét gia đình của Chúa. Họ nói: "Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?" Và họ vấp ngã vì Người.
            Một ví dụ người Việt-nam chúng ta có kinh nghiệm là biến cố thi cử sau 1975, mà chúng ta thường nói khôi hài: "học tài thi lý lịch." Thay vì chấm điểm thí sinh, giám khảo quay sang xét lý lịch gia đình. Nếu thí sinh là con của ngụy quân ngụy quyền, hay thuộc các gia đình "tư sản mại bản;" họ sẽ bị đánh rớt trước khi giám khảo có cơ hội xem bài thi của họ.

3.3/ Bụt nhà không thiêng: Đức Giêsu bảo họ: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi." Đây là một thực tế đau lòng, mà người Mỹ có câu "Familiarity breeds contempt." Tục ngữ Việt-nam cũng có câu tương tự: "Quen chó, chó liếm mặt."
            (1) Nơi quê hương: Nhiều người chúng ta có thói quen thổi phồng người ngoại quốc. Cái gì của Mỹ cũng hay, cũng tốt, cũng đẹp; cái gì của Việt-nam cũng dở cũng xấu. Họ có biết đâu họ đang bị thành kiến chi phối, vì dân tộc nào cũng có cái hay cái dở; và không phải người Mỹ nào cũng tốt hay người Việt-nam nào cũng xấu.
            (2) Giữa họ hàng: Nhiều người thường đánh giá người đồng hương trên bằng cấp, địa vị, hay tài sản. Trình thuật hôm nay cho biết lý do họ khinh thường Chúa Giêsu là vì họ biết gia đình của Ngài. "Con bác xã chùa phải quét lá đa;" con bác thợ mộc, làm sao có cơ hội để quán thông Lề Luật? Qui tụ một đám môn đệ thất học như thế, thầy cũng chẳng hơn trò!
            (3) Trong gia đình: Nhiều người trong chúng ta đã từng có kinh ngiệm này. Chúng ta không thể hiểu lý do tại sao khi chúng ta làm cho người ngoài gia đình chỉ một việc rất nhỏ bé như chỉ bài, cho một ly nước, giới thiệu một việc làm, họ đã biết ơn hết sức và trả ơn bội hậu cho chúng ta. Trong khi ở nhà, chúng ta hy sinh tất cả mọi sự cho gia đình đến chỗ chỉ còn chấp nhận cái chết; nhưng người trong nhà vẫn vô ơn, bạc nghĩa, đến chỗ một lời cám ơn cũng không được lãnh nhận. Có lẽ vì người trong gia đình giả sử chúng ta phải làm những việc đó!
            Trình thuật Marcô kết luận: "Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin."

 ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

            - Chúng ta phải dẹp bỏ tính ngông cuồng và phản loạn, vì chúng gây thiệt hại cho chúng ta. Trái lại, chúng ta phải biết vâng lời Thiên Chúa và giữ các huấn lệnh của Ngài.
            - Chúng ta phải dẹp bỏ tính kiêu hãnh vì nó đánh lừa chúng ta. Ngược lại, chúng ta hãy luyện tập cho biết khiêm nhường để nhìn nhận những yếu kém và giới hạn của mình.
            - Khi phải phán xét, hãy phán xét biến cố xảy ra hay người làm biến cố đó; đừng phán xét biến cố không liên quan đến sự việc hay những người không liên quan gì đến biến cố đó. 
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.

05/07/15 CHÚA NHẬT TUẦN 14 TN – B 
Mc 6,1-6
Suy niệm: Những lời giảng dạy và việc làm của Chúa Giê-su đã gây ra cho những người đồng hương của Ngài nhiều thắc mắc không có lời giải đáp. Trước mắt họ, Ngài chỉ là “con bác thợ Giu-se,” mà sao Ngài nói năng khôn ngoan như vậy? Ngài cũng là bà con lối xóm với họ, giống hệt như những người bình thường khác, mà sao Ngài làm được những phép lạ như thế? Nhìn vào cuộc sống quá bình thường của Đức Giê-su tại quê nhà, người ta không thể chấp nhận được Ngài là Đấng Thiên Sai. Ngài quả là một ẩn số.
Mời Bạn: Dù bị hiểu lầm, bị chối bỏ, Chúa Giê-su vẫn muốn cứu chuộc chúng ta bằng cách chia sẻ thân phận con người với chúng ta trong mọi ngóc ngách đời thường và cả đến những cảnh ngộ bi đát nhất, như một con người bình thường nhất trong nhân loại. Nhờ đó mỗi hành vi của chúng ta đều trở nên có ý nghĩa có giá trị trước mặt Thiên Chúa nếu được kết hợp với Ngài, được làm trong Ngài, với Ngài. Để khám phá ẩn số Giê-su trong cuộc sống của bạn, của những người anh chị em bình thường bé mọn nhất, chúng ta cần đóng lại cặp mắt đầy thành kiến của mình và mở ra cặp mắt đơn sơ của trẻ thơ để nhìn thấy những ưu điểm của anh chị em mình.
Sống Lời Chúa: Trong ngày, nhiều lần nhớ tới Chúa và kết hiệp với Ngài trong suy nghĩ và công việc của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã chấp nhận sống trọn kiếp con người để cứu độ chúng con. Xin cho con biết sống với Chúa, trong Chúa và cùng Chúa để mọi việc con làm trở nên có ý nghĩa và sinh ích lợi cho anh chị em con. Amen.


Tiên tri ở quê hương mình
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu không phải chỉ là một tiên tri như những tiên tri khác, mà Ngài chính là Con Thiên Chúa. Thế nhưng Ngài đã phải đụng đầu với sự cứng lòng tin của chính những kẻ đồng hương với Ngài. Theo tập tục thì mọi người Do Thái ở tuổi trưởng thành đều có thể lên tiếng khi tham gia phụng vụ tại hội đường. Chúa Giêsu đã sử dụng quyền này của Ngài và lên tiếng rao giảng Phúc Âm. Nội dung rao giảng hẳn phải có một cái gì khác lạ với những điều từng được rao giảng tại đây. Khác đến độ mọi người đều có thể nhận ra và sửng sốt trước sự khôn ngoan của Ngài. Thực tế trước mắt đã khởi sự lay động họ, kéo họ ra khỏi giấc ngủ yên tĩnh giữa những cái biết rồi, đẩy họ vào con đường của những khám phá mới. Thế nhưng những câu hỏi chỉ loé lên trong thoáng chốc không đủ để chiếu sang cho họ tới được với Đấng đã đến giải phóng họ. Họ đã bỏ thực tế để trở về với lối lý luận thông thường của họ. Họ tưởng rằng họ đã biết quá rõ về Ngài khi nói ra được Ngài là con ai, đã làm gì và ai là những người thân thích với Ngài. Họ đã trở về với những cái họ đã nắm được để rồi quay lưng trước lời kêu gọi của thực tế trước mắt. Điều họ mắt thấy tai nghe đã đánh động để họ phải đặt lại vấn đề, thế nhưng họ đã đóng chặt cửa lòng trước những cái mới mẻ đã từng làm cho họ sửng sốt và ngạc nhiên. Họ tự tách mình ra khỏi Nước Trời đang đến với họ. Phúc Âm còn ghi lại: thấy họ cứng lòng tin, Chúa Giêsu đã không làm một phép lạ nào, nghĩa là Ngài đã không tỏ quyền năng của Nước Trời cho họ và Ngài đi rao giảng ở những làng xung quanh.
Thái độ của dân làng Nadarét cũng có thể là cơn cám dỗ của người Kitô hữu hôm nay. Chúng ta có thể tự hào và tự mãn với những bài giáo lý, những hiểu biết về đạo, để rồi quay lung trước lời mời gọi của Chúa trong những sự kiện, những biến cố đang xảy ra chung quanh chúng ta. Nói cách khác, việc sống đạo của chúng ta hôm nay không thể đóng khung trong một số kiến thức có sẵn về Thiên Chúa, về ơn cứu độ, cũng như trong một số nghi lễ đã được quy định sẵn, trái lại phải được thể hiện qua việc lắng nghe, tìm kiếm ý định của Chúa trong lịch sử, trong chính lòng cuộc đời cá nhân và trong sinh hoạt của cộng đồng xã hội. Vấn đề là chúng ta có thực sự thoát ra được những thành kiến, những quan niệm, những lối nhìn sẵn có để thực sự lắng nghe tiêng nói mới mẻ của Chúa qua các biến cố, qua các sự kiện của thực tế hôm nay.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 7
5 THÁNG BẢY
Tính Tự Trị Của Các Vật Thụ Tạo
Mặc dù cách diễn tả của Thánh Kinh gán quyền cai quản mọi loài trực tiếp cho Thiên Chúa, chúng ta vẫn có thể nhận ra rõ ràng sự khác biệt giữa hành động của Thiên Chúa – Đấng Tạo Hóa – và hoạt động của các thụ tạo. Đó là sự khác biệt giữa nguyên nhân đệ nhất và các nguyên nhân đệ nhị. Đây là vấn đề rất thường được đặt ra bởi con người thời nay: Thế giới thụ tạo có được sự tự trị và sự tự do đến mức nào? Đâu là vai trò của con người trong việc phát minh, sáng tạo và xây dựng thế giới?
Theo đức tin Công Giáo, sự khôn ngoan của Đấng Tạo Hóa làm cho sự quan phòng của Ngài có thể hiện diện trong thế giới – trong khi thế giới thụ tạo vẫn có được một sự tự trị nào đó theo quyền của mình. Công Đồng Vatican II đã đề cập đến mầu nhiệm này. Một đàng, Thiên Chúa giữ gìn mọi sự và làm cho mọi sự có thể là chính chúng: “Chính vì được tạo dựng mà mọi vật đều có sự vững chãi, chân thực, tốt lành cùng những định luật và trật tự riêng” (MV 36). Đàng khác, nhờ cách thế mà Thiên Chúa cai quản thế giới, các tạo vật – nhất là con người – có thể có được sự tự trị nào đó “theo ý muốn của Đấng Sáng Tạo” (MV 36).
Sự quan phòng của Thiên Chúa được diễn tả một cách chính xác trong “tính tự trị của các loài thụ tạo”, trong đó cả sức mạnh lẫn sự ân cần của Thiên Chúa đều được thể hiện. Chúng ta nhận ra rằng – đối với con người – sự quan phòng của Thiên Chúa sẽ vẫn luôn luôn còn là một sự khôn ngoan nhiệm mầu bao trùm hết thảy mọi sự (“từ chân trời này đến chân trời kia”). Sự quan phòng ấy được nhận ra nơi mọi sự với đầy sức sáng tạo và với trật tự rõ ràng của nó. Tuy nhiên, nó vẫn còn chừa lại nguyên đó vai trò của con người trong việc xây dựng và phát triển thế giới. Đó chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa chúng ta.

Gương Thánh Nhân
Ngày 05-07: Thánh ANTÔN MARIA GIACARIA
Linh mục (1502 - 1539)

Thánh Antôn Maria Giacaria sinh năm 1502 tại Grêmôna, cha Ngài mất sớm, mẹ Ngài, người góa phụ trẻ 18 tuổi không còn biết tới hạnh phúc nào hơn trên trần gian là đào tạo tâm hồn người con nhỏ của mình. Thấy con thích làm việc hơn là chơi giỡn và biết kiên trì hy sinh hãm mình, bà rất mừng rỡ, chính bà cũng phát huy tình bác ái đối với người nghèo khổ, làm gương cho con.
Thành Grêmôna nơi Antôn sinh trưởng vừa mới hết chiến tranh. Sau cuộc chiếm đóng của người Pháp, dân thành lại phải chiến đấu với Ludorse Sforza. Tình cảnh thật khốn khổ. Ngày kia trên đường về học, cậu bé Antôn đã cởi tấm áo thêu của mình cho người nghèo mặc. Thấy vậy, người mẹ đã âu yếm ôm con vào lòng. Từ đó Antôn xin cho con được ăn mặc bình thường, có khi còn nhịn phần ăn cho người nghèo nữa.
Thân mẫu Antôn đã chọn cho Ngài những bậc thầy nổi danh về văn chương Hy lạp và Latinh. Vào tuổi 15, Antôn đã theo môn triết học ở Pavie, rồi lại theo đuổi y học ở Padua. Ở đại học người ta chế nhạo nếp sống nghèo khó của Ngài. Tốt nghiệp phải cấp bằng tiến sĩ ưu hạng, Ngài được rất nhiều khách hàng tín nhiệm. Nhưng đây lại là thời Luthênô nổi dậy. Antôn bỏ nghề thuốc để theo môn thần học.
Antôn Giacaria bắt đầu tụ tập trẻ em lại, Ngài nói cho chúng nghe về các chân lý cao trọng. Cha mẹ chúng cũng thường tới nghe dạy. Họ nói : - Nào chúng mình đến nghe thiên thần của Chúa.
Tay cầm thánh giá, thánh nhân rảo qua khắp các đường phố nói về ơn cứu chuộc và việc thống hối. Nơi nào bị chế nhạo, bị xỉ nhục, Ngài càng năng lui tới hơn.
Năm 1528, lúc được 36 tuổi, Antôn được thụ phong linh mục. Ngài đến ở Milan, thăm viếng các người đau khổ trong các nhà thương, nhà tù, nơi các xóm nghèo. Các nghĩa cử Ngài làm đã mang lại cho Ngài danh hiệu "người cha dân tộc". Ngài ngồi tòa hàng giờ để phục sinh các linh hồn. Ngài chống lại phái thệ phản và đối đầu với bất cứ ai muốn tấn công đức tin tinh tuyền. Cha Antôn có hai người bạn tông đồ là Mariggia và Ferrari. Đức giáo hoàng truyền cho các Ngài lập một hội dòng mới, các tu sĩ dòng thánh Phaolô. Các Ngài được trao cho việc coi sóc thánh đường thánh Barnabê, nên người ta gọi các Ngài là các cha Barnabê.
Thánh Antôn Maria Giacaria thường nói với các môn sinh: - "Đặc tính của những tâm hồn đại lượng là phục vụ không mong phần thưởng, chiến đấu không chờ lương bổng. Hãy tiến tới không ngừng và hướng tới sự hoàn thiện cao cả hơn. Hãy nói với Chúa Giêsu bị đóng đinh về tất cả những gì bạn thấy và lãnh ý Người, cho mình và cho người khác".
Ngài dạy họ phải quen với những phỉ báng khinh miệt nhưng không làm như vậy được nếu không hướng trọn ý tưởng về với Chúa, và nếu kinh nguyện chưa nên của ăn nuôi sống linh hồn. Các linh mục và cả hàng giáo sĩ đã bắt đầu. Chiều về anh em họp nhau lại để thú tội. Thánh nhân còn dẫn anh em rảo qua đường phố bằng cách vác Thánh giá mà rao giảng. Họ còn tự động cột giây vào cổ, làm những việc nặng nhọc trong khi một số khác đi ăn xin cho người nghèo.
Thấy vậy, nhiều người thống hối và cải thiện đời sống. Thánh Antôn còn cổ động lòng sùng kính Thánh Thể khuyên năng rước lễ hơn. Thời đó người ta chỉ rước lễ một hai lần trong năm. Trước sự đổi mới này, nhiều người coi sự nhiệt thành của Ngài là cuồng tín dị đoan. Thánh nhân vẫn an lòng và cảm nghiệm điều Ngài thường nói : - Bạn sẽ được thấp nhập vào Chúa đến độ không còn lo tưởng đến những sự trên thế gian này nữa.
Năm 1530, Ngài giúp nữ công tước Torelli thành lập một hội dòng nữ. Đức giáo hoàng Phaolô III đã chuẩn y hội dòng này và đặt tên là "Dòng chị em các thiên thần".
Năm 1536, cha Antôn Giacaria từ chức bề trên nhà dòng mà Ngài đã giữ từ đầu để đi truyền giáo. Ngài rao giảng Phúc âm và giải hòa các cuộc tranh chấp. Công việc thật bề bộn, không thể lường trước được, dầu vậy thánh nhân vẫn trung thành với tác vụ, các cuộc tĩnh tâm và thư tín.
Tuy nhiên lần này, tại Guastalla, thánh nhân đã kiệt sức. Xa các môn sinh, Ngài lui về với thân mẫu. Bà khóc lóc khi thấy con. Nhưng Antôn nói :- Mẹ ơi ! Mẹ đừng khóc nữa. Chẳng bao lâu rồi mẹ cũng được vui mừng với con trong vinh quang bất tận mà bây giờ con đang tiến vào.
Ba giờ chiều ngày 5 tháng 7 năm 1593, linh mục trẻ 36 tuổi Antôn Maria Giacaria thở hơi cuối cùng trong tay mẹ hiền.
(daminhvn.net)

05 Tháng Bảy
Con Người Tự Do
Ðại thi hào Rabindranath Tagore của Ấn Ðộ có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Khi còn trẻ, tôi cảm thấy tràn đầy năng lực... Một buổi sáng nọ, tôi ra khỏi nhà và hô lớn: "Tôi sẵn sàng phục vụ bất cứ ai muốn". Thế là tôi hăm hở lên đường và trong tư thế sẵn sàng phục vụ bất cứ ai chờ đợi. Từ đằng xa, đức vua và đoàn tùy tùng tiến đến. Vừa nghe tiếng tôi, ngài đã dừng lại và nói với tôi: "Ta đưa ngươi vào cung hầu hạ ta và bù lại, ta sẽ ban cho ngươi quyền hành". Ngẫm nghĩ, không biết dùng quyền hành để làm gì, tôi đành lặng lẽ bỏ đi...
Tôi tiếp tục ra đi và hô lớn: "Tôi sẵn sàng phục vụ bất cứ ai muốn". Chiều hôm đó, có một cụ già ngỏ ý thuê tôi và để đền bù, cụ cho tôi những đồng bạc mà âm thanh vang lên như bản nhạc. Nhưng tôi cảm thấy không cần tiền bạc, cho nên đành tiếp tục ra đi.
Tôi tiếp tục ra đi và tiến gần đến một căn nhà xinh đẹp. Một em bé gái xinh đẹp chào tôi và đề nghị với tôi: "Tôi thuê anh và bù lại, tôi sẽ tặng cho anh nụ cười của tôi". Tôi cảm thấy do dự. Một nụ cười sẽ kéo dài bao lâu? Chỉ trong chớp nhoáng, cô bé đã biến vào bóng tối...
Khi tôi rời bỏ căn nhà xinh đẹp, thì trời cũng đã tối. Tôi ngã người trên thảm cỏ và ngủ thiếp. Sáng ngày hôm sau, tôi thức giấc trong sự mệt mỏi. Khi mặt trời vừa lên, tôi đi lần ra bãi biển. Một cậu bé đang chơi đùa trên cát. Vừa thấy tôi, nó ngẩng đầu lên, mỉm cười như thể đã từng quen biết với tôi. Một lúc sau, nó nói với tôi: "Tôi sẵn sàng thuê anh và bù lại, tôi không có gì để cho anh cả". Tôi đón nhận ngay giao kèo của cậu bé. Và chúng tôi bắt đầu chơi đùa với nhau trên bãi cát. Những người qua lại ngỏ ý muốn thuê tôi, nhưng tôi từ chối, bởi vì từ ngày hôm đó, tôi mới thực sự cảm thấy mình là một con người tự do.
Không gì quý bằng độc lập tự do: không chừng câu khẩu hiệu quen thuộc này ứng dụng một cách rất xác thực vào đời sống Ðức Tin của chúng ta... Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là Ðấng Cứu Thoát, bởi vì Ngài đến để giải phóng chúng ta, Ngài đến để làm cho chúng ta được tự do. Và tự do mà Ngài mang lại cho chúng ta là gì nếu không phải là tự do khỏi tội lỗi, tự do khỏi đam mê, tự do khỏi ích kỷ, tự do khỏi danh vọng, tiền bạc và tất cả những gì ràng buộc con người...
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét