20/07/2015
Thứ Hai sau Chúa Nhật
16 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm I) Xh 14, 5-18
"Các
ngươi biết rằng Ta là Chúa, khi Ta tỏ vinh quang cho Pharaon".
Trích
sách Xuất Hành.
Trong
những ngày ấy, người ta báo tin cho vua Ai-cập hay: dân chúng đã trốn đi rồi; Pharaon
và quần thần của ông liền đổi lòng đối với dân chúng và nói: "Sao chúng ta
lại để dân Israel ra đi, còn ai phục dịch chúng ta nữa?" Vua chuẩn bị xe
và đem toàn quân đi với mình. Vua đem theo sáu trăm xe hảo hạng và tất cả loại
xe trong xứ Ai-cập, cùng các vị chỉ huy toàn thể quân đội. Chúa để cho lòng
Pharaon, vua xứ Ai-cập, ra cứng cỏi, ông đuổi theo con cái Israel, nhưng những
người này ra đi cách hùng dũng. Những người Ai-cập theo dấu chân họ và bắt gặp
họ đóng trại gần biển. Toàn thể kỵ binh, chiến xa và bộ binh của Pharaon trú ở
Phihahirô, đối diện với Beelsêphon.
Lúc
Pharaon đến gần, con cái Israel ngước mắt lên thấy quân Ai-cập đuổi theo mình.
Họ quá khiếp sợ, kêu lên cùng Chúa, và nói cùng Môsê rằng: "Có lẽ ở Ai-cập
không đủ đất để chôn chúng tôi hay sao, mà ông đem chúng tôi lên chết trong sa
mạc này? Ông dẫn chúng tôi ra khỏi Ai-cập với mục đích gì? Chẳng phải khi ở
Ai-cập chúng tôi đã nói với ông lời này sao?, là: "Ông hãy mặc chúng tôi
làm nô lệ cho người Ai-cập, còn hơn là chết trong sa mạc". Môsê liền nói với
dân chúng rằng: "Xin anh em đừng sợ, hãy vững lòng, và anh em sẽ thấy
Thiên Chúa hôm nay của chúng ta thế nào? Vì chưng, những người Ai-cập mà hiện
giờ anh em thấy đây, anh em sẽ không bao giờ thấy họ nữa. Chúa sẽ chiến đấu cho
anh em, nên xin anh em khỏi lo chi".
Chúa
phán cùng Môsê rằng: "Có gì mà kêu đến Ta? Hãy bảo con cái Israel cứ lên
đường. Còn ngươi đưa gậy lên và giơ tay trên biển, hãy phân rẽ biển ra, cho con
cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn. Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập
ra chai đá, chúng sẽ rượt theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ tỏ vinh quang cho
Pharaon, toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy biết. Người Ai-cập sẽ
biết Ta là Chúa khi Ta tỏ vinh quang cho Pharaon?, chiến xa và kỵ binh của vua ấy".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Xh 15, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Chúng ta hãy
ca tụng Chúa, vì Người uy linh cao cả (c. 1a).
Xướng:
1) Tôi sẽ ca tụng Chúa, vì Người uy linh cao cả. Người đã ném ngựa và người xuống
biển khơi. Chúa là sức mạnh và là khúc ca của tôi, chính Người đã cho tôi được
cứu thoát. Người là Thiên Chúa tôi, tôi sẽ tôn vinh Người; Người là Chúa tổ phụ
tôi, tôi sẽ hát ca mừng Chúa. - Ðáp.
2)
Chúa như là người chiến sĩ, danh thánh Người thật toàn năng. Người đã ném xe cộ
và đạo binh của Pharaon xuống biển, và dìm xuống Biển Ðỏ các tướng lãnh của
ông. - Ðáp.
3)
Các vực thẳm đã chôn sống họ, họ rơi xuống đáy biển như tảng đá to. Lạy Chúa,
tay hữu Chúa biểu dương sức mạnh, lạy Chúa, tay hữu Chúa đánh tan quân thù. -
Ðáp.
Alleluia:
Ga 10, 27
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và
chúng theo Ta". - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 12, 38-42
"Nữ
hoàng phương nam sẽ chỗi dậy lên án thế hệ này".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, có mấy luật sĩ và biệt phái thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy,
chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ". Người trả lời: "Thế hệ hung
ác gian dâm đòi một dấu lạ! Nhưng sẽ không cho dấu lạ nào, trừ dấu lạ tiên tri
Giona. Cũng như xưa tiên tri Giona ở trong bụng cá ba đêm ngày thế nào, thì Con
Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba đêm ngày như vậy. Tới ngày phán xét, dân
thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó, vì họ đã nghe lời
tiên tri Giona mà sám hối tội lỗi, nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Giona. Ðến
ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án
nó: vì bà từ biên thuỳ trái đất đã đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon,
nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Salomon".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Dấu
Chỉ Yêu Thương
Trong
quyển tự thuật "Vì Danh Ta", một Mục sư người Hungari đã kể lại kinh
nghiệm của ông. Bị bắt và bị chuyển từ trại này sang trại khác, vị Mục sư vẫn
âm thầm rao giảng Lời Chúa cho các bạn tù. Trong 13 năm tù, ông đã giúp cho rất
nhiều bạn tù được gặp gỡ Chúa. Ông đã kết thúc quyển tự thuật cũng là bài ca
tuyên xưng đức tin của ông như sau:
"Trong
suốt thời gian bị tù đày, tôi đã hiểu được rằng Lời Chúa đi vào tâm hồn con người
dễ dàng hơn giữa những đau khổ và bách hại. Ðó là lý do cho thấy mùa gặt thiêng
liêng trong các ngục tù luôn luôn dồi dào. Tôi không tự cho mình là người anh
hùng, lại càng không phải là vị tử đạo. Nhưng vào lúc sống tự do, nhìn lại đằng
sau, tôi có thể nói với tất cả thành thật rằng 13 năm bị tra tấn đánh đập, đói
khát, 13 năm đau khổ và xa gia đình để làm mục sư cho hàng ngàn tù nhân trong
các trại giam, 13 năm như thế quả thật đáng giá".
Những
dòng trên đây quả là một phấn khởi cho tất cả những ai đang vì niềm tin của
mình mà phải chịu bách hại và đau khổ. Những đau khổ thử thách mà các Kitô hữu
phải trải qua thường là dấu chỉ cao đẹp nhất, qua đó Thiên Chúa tỏ mình cho con
người.
Chúa
Giêsu như muốn nói đến điều đó, khi Ngài mượn hình ảnh tiên tri Yôna để loan
báo về chính cái chết của Ngài. Cũng như Yôna đã vâng phục Thiên Chúa đến rao
giảng sự sám hối cho dân thành Ninivê, thì Chúa Giêsu cũng vâng phục Chúa Cha để
sống kiếp con người và trở thành dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa cho con người.
Qua hình ảnh Yôna để loan báo sự vâng phục cho đến chết của Ngài, Chúa Giêsu muốn
nói đến con đường mạc khải của Thiên Chúa, đó là con đường tình yêu. Ngài đã tạo
dựng con người theo hình ảnh Ngài, nghĩa là có tự do và biết yêu thương, cho
nên Thiên Chúa đã chọn con đường yêu thương để đến với con người. Ngài đã hóa
thân làm người, sống trọn vẹn kiếp người, và cuối cùng chịu chết treo trên Thập
giá, tất cả để trở thành lời mời gọi đối thoại yêu thương.
Mãi
mãi Thiên Chúa chỉ đến với con người qua dấu chỉ của tình yêu. Người Kitô hữu
luôn được mời gọi để nhận ra những dấu chỉ yêu thương ấy trong cuộc sống của
mình, không những qua những chúc lành và may mắn, mà còn qua những mất mát, khổ
đau thua thiệt nữa. Nhận ra những dấu chỉ yêu thương của Thiên Chúa trong cuộc
sống, người Kitô hữu cũng được mời gọi để trở thành những dấu chỉ yêu thương của
Ngài cho mọi người chung quanh. Trở thành dấu chỉ yêu thương có nghĩa là chấp
nhận sống vâng phục và vâng phục cho đến chết như Chúa Giêsu. Trở thành dấu chỉ
yêu thương giữa tăm tối của cuộc sống, giữa đọa đày bách hại, người Kitô hữu vẫn
tiếp tục chiếu sáng trong tín thác, yêu thương, phục vụ, tha thứ.
Xin
cho lý tưởng chứng nhân luôn bừng sáng trong chúng ta, để dù sống trong đau khổ,
thử thách, chúng ta vẫn trung thành với tình yêu Chúa.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 16 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Exo 14:5-18; Mt 10:38-42.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đừng thử thách
Thiên Chúa.
Thiên
Chúa không mắc nợ gì con người; trái lại, con người mắc nợ tất cả với Thiên
Chúa. Để khơi niềm tin, Thiên Chúa sẽ cho con người cơ hội để nghe những lời
khôn ngoan và chứng kiến các phép lạ. Con người phải biết nắm lấy những cơ hội
này để phát triển niềm tin. Con người không thể tiếp tục đòi những dấu lạ xảy
ra theo ý mình muốn, và càng không thể thử thách sự kiên nhẫn của Thiên Chúa
trước khi đặt niềm tin vào Thiên Chúa.
Các
Bài Đọc hôm nay dẫn chứng những trường hợp con người thử thách Thiên Chúa.
Trong Bài Đọc I, vua Pharao và người Ai-cập tiếp tục thử thách Thiên Chúa, mặc
dù đã được nghe lời yêu cầu của Moses phóng thích dân Israel khỏi Ai-cập và đã
chứng kiến những thiên tai khủng khiếp của Thiên Chúa đổ xuống trên nước ông.
Nhà vua tiếc vì khối nô lệ khổng lồ dân Israel cung cấp cho Ai-cập; nên đã huy
động toàn thể quân đội đuổi theo dân Israel để bắt họ về. Ngay cả dân Israel,
dù đã được dạy dỗ và chứng kiến bao quyền năng của Thiên Chúa; vẫn run sợ và ta
thán khi thấy quân đội của vua Pharao đuổi theo mình. Trong Phúc Âm, khi một số
kinh-sư và luật sĩ đòi Chúa Giêsu làm phép lạ trước mặt họ để họ có thể tin nơi
Ngài; Chúa Giêsu từ chối lời yêu cầu của họ, nhưng hứa sẽ cho họ thấy phép lạ Con
Người sống lại sau ba ngày trong huyệt mộ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Đức Chúa sẽ chiến đấu cho anh em. Anh em chỉ có việc ngồi yên.
1.1/
Phản ứng của người Ai-cập: Sau thiên tai cuối cùng, các thiên thần đi khắp xứ để giết các
con đầu lòng của người Ai-cập; vua Pharao đã đồng ý để Moses đưa dân ra khỏi
Ai-cập, vì nhà vua không thể chịu nổi hậu quả của thiên tai.
(1)
Sợ không còn người làm nô lệ: Nhưng khi dân Israel xuất hành khỏi Ai-cập,
"vua Pharao và bề tôi liền thay lòng đổi dạ với dân. Chúng nói: "Ta
đã làm gì vậy? Ta đã thả cho Israel đi, thành ra bọn chúng hết làm nô lệ cho
ta! Nhà vua cho thắng chiến xa và đem quân đi theo.
Vua
lấy sáu trăm chiến xa tốt nhất, và tất cả các chiến xa của Ai-cập, chiếc nào
cũng có chiến binh." Lý do nhà vua và người Ai-cập đuổi theo là họ sợ mất
mối lợi nô lệ mà dân Israel phục vụ họ. Điều này cho ta thấy lý do chính đáng
Thiên Chúa muốn giải phóng dân. Con người không có quyền đối xử với người khác
như những nô lệ.
(2)
Đức Chúa làm cho lòng Pharao vua Ai-cập ra chai đá? Có nhiều người thắc mắc về
tình thương của Thiên Chúa trong câu này: "Đức Chúa làm cho lòng Pharao
vua Ai-cập ra chai đá, và vua ấy đuổi theo con cái Israel, trong khi con cái
Israel đi ra, giơ tay đắc thắng." Tại sao Thiên Chúa thương dân Israel và
trừng trị người Ai-cập? Tại sao Thiên Chúa không làm cho nhà vua nhận ra lẽ
ngay để đừng chai đá mà tiếp tục lãnh hình phạt?
Chúng
ta biết đây chỉ là lối diễn tả của người Do-thái, vì họ tin mọi việc xảy ra đều
là do thánh ý của Thiên Chúa, chứ họ không quan tâm đến việc giải thích hợp lý
cách thần học như thời đại chúng ta. Theo quan điểm thần học, Thiên Chúa ban
cho con người có trí tuệ để nhận ra điều phải hay trái, và có tự do để thi
hành. Thiên Chúa đã bảo Moses và các kỳ-mục vào xin phép nhà vua để phóng thích
dân Israel. Khi vua không chịu, Thiên Chúa mới gởi các thiên tai tới, không chỉ
một vài lần, mà tới bảy lần. Vì thế, lỗi không phải là ở Thiên Chúa, mà tại sự
cứng lòng và lối cư xử bất công của nhà vua và dân Ai-cập với đồng loại của
mình.
1.2/
Phản ứng của con cái Israel:
(1)
Yếu lòng tin dù đã thấy những việc Thiên Chúa làm qua 7 thiên tai: Khi con cái
Israel nhìn thấy quân đội Ai-cập tiến đến sau lưng họ, con cái Israel kinh hãi,
liền lớn tiếng kêu cầu Đức Chúa. Họ nói với ông Moses: "Bên Ai-cập không
có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? Ông làm
gì chúng tôi vậy, khi ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập? Đó chẳng phải là điều
chúng tôi từng nói với ông bên Ai-cập sao? Chúng tôi đã bảo: Cứ để mặc chúng
tôi làm nô lệ Ai-cập! Thà làm nô lệ Ai-cập còn hơn chết trong sa mạc!"
Người
anh hùng thà chết vinh hơn sống nhục; con cái Israel thà sống nhục hơn chết
vinh. Hai tội của con cái Israel chúng ta có thể nhận ra ở đây: (1) Họ không có
niềm tin vững vàng vào Thiên Chúa dù đã thấy quá nhiều các uy quyền của Ngài
qua việc chọn Moses và 7 thiên tai. (2) Họ chọn làm nô lệ cho người Ai-cập để
có của ăn dư thừa, hơn là tự do mà phải sống thiếu thốn! Khi đức tin bị thử
thách, con người phải chứng minh cho Thiên Chúa biết niềm tin của họ.
(2)
Đức tin của nhà lãnh đạo Moses: Ông Moses nói với dân: "Đừng sợ! Cứ đứng vững,
rồi anh em sẽ thấy việc Đức Chúa làm hôm nay để cứu thoát anh em: những người
Ai-cập anh em thấy hôm nay, không bao giờ anh em thấy lại nữa. Đức Chúa sẽ chiến
đấu cho anh em. Anh em chỉ có việc ngồi yên." Những gì Thiên Chúa hứa,
Ngài sẽ thực thi. Ông Moses bày tỏ đức tin vững vàng của ông vào Thiên Chúa cho
dân Israel thấy, ông làm tất cả những gì Ngài truyền.
2/
Phúc Âm:
Chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Jonah.
2.1/
Niềm tin cần thiết để có dấu lạ: Trong hầu như tất cả phép lạ Chúa Giêsu làm, Ngài
đòi con người phải chứng tỏ niềm tin của mình trước. Khi không có dấu chỉ của
niềm tin, Chúa không làm phép lạ như trình thuật Chúa về quê hương Nazareth
trong Tin Mừng của Chủ Nhật vừa qua.
(1)
Đòi hỏi của các luật sĩ và kinh sư: "Bấy giờ có mấy luật sĩ kinh sư và mấy
người kinh-sư nói với Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy
làm một dấu lạ."" Họ đã từng được nghe hay chứng kiến những phép lạ
Chúa làm. Điều họ yêu cầu hôm nay chỉ là một thử thách. Chúa biết đối với những
người cứng lòng như họ, có làm bao nhiêu phép lạ nữa cũng không lay chuyển được
sự ngoan cố của họ.
(2)
Câu trả lời của Chúa Giêsu: Người đáp: "Thế hệ gian ác và ngoại tình này
đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Jonah.
Quả thật, ông Jonah đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con
Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy." Tuy Chúa không thỏa
mãn lời yêu cầu của họ, nhưng Chúa hứa sẽ cho họ thấy sự kiện Chúa chết ba ngày
trong phần mộ và sẽ phục sinh khải hoàn.
2.2/
Kẻ có cơ hội đến nhiều, sẽ bị phán xét nặng hơn:
(1)
Dân thành Nineveh: Tiên tri Jonah sau khi đã nhận ra uy quyền của Thiên Chúa
qua biến cố sống trong bụng cá 3 ngày, đã vâng lời đi rao giảng tại Nineveh.
Khi ông mới chỉ rao giảng có một ngày, toàn thể dân thành, từ nhà vua đến dân
chúng, từ con người đến thú vật, đều ăn năn xám hối, xức tro trên đầu, và mặc
áo nhặm đền tội. Vì thế, Chúa nói: "Trong cuộc phán xét, dân thành Nineveh
sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi
nghe ông Jonah rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Jonah nữa." Những luật sĩ
và kinh sư sẽ bị kết án nặng nề hơn dân thành Nineveh, vì họ đã được nghe chính
Chúa dạy dỗ và tỏ uy quyền.
(2)
Nữ hoàng Phương Nam: là người đã từ phương xa mang theo bao lễ vật lặn lội tới
để được nghe những lời khôn ngoan của vua Solomon. Vì thế, "trong cuộc
phán xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với thế hệ này, và bà sẽ kết án
họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Solomon;
mà đây thì còn hơn vua Solomon nữa."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta không bao giờ được quyền đòi Thiên Chúa phải tỏ khôn ngoan và uy quyền.
Chúng ta phải khiêm nhường học hỏi và nhìn ra những điều này trong trời đất.
-
Chúng ta phải chứng minh niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa, khi đức tin của
chúng ta bị thử thách. Đừng bao giờ chọn những lợi lộc vật chất thay vì chọn
Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
20/07/15 THỨ HAI TUẦN 16 TN
Th. A-pô-li-na-rê, giám mục, tử đạo
Mt 12,38-42
Th. A-pô-li-na-rê, giám mục, tử đạo
Mt 12,38-42
Suy niệm: Thời
nào người ta cũng sính những điều mới lạ. Ngày xưa các kinh sư và Pha-ri-sêu
đòi Chúa Giê-su làm dấu lạ. Ngày nay, dưới nhãn hiệu “hiện đại”, “đổi mới”,
nhân loại đòi Thiên Chúa và Hội Thánh làm dấu lạ. Câu trả lời của Chúa Giê-su
vẫn là, và phải là câu trả lời của Hội Thánh: đối với “thế hệ gian ác và ngoại
tình”, sẽ chỉ có một dấu lạ duy nhất, dấu lạ Giô-na. Đó là dấu lạ của hạt lúa
phải thối đi, chết đi để có thể trổ sinh, tăng trưởng.
Mời Bạn: Não
trạng thực dụng của nền văn minh tiêu thụ ngày nay len lỏi vào mọi lãnh vực của
cuộc sống, không loại trừ cả lãnh vực thánh thiêng. Cám dỗ “dấu lạ” mê hoặc tâm
hồn nhiều người, cả giáo sĩ, tu sĩ cũng như giáo dân. Hơn lúc nào hết, để đối
lại với nền “văn minh sự chết” này, cần có một cái nhìn đức tin trước những cám
dỗ “dấu lạ”. Thay vì những hoạt động “phi thường” những trình diễn “ngoạn mục”
để thoả mãn tính hiếu kỳ, người ki-tô hữu biết sống “dấu lạ Gio-na” là hoàn
thành những cái “bình thường”, thậm chí “tầm thường” nhỏ nhoi, nhưng bằng một
cách “phi thường”.
Chia sẻ: Bạn
có kinh nghiệm gì về hậu quả của việc “có mới nới cũ” không? Hoặc kinh nghiệm
về việc âm thầm chu toàn nhiệm vụ từng ngày không?
Sống Lời Chúa: Chu
toàn việc bổn phận hằng ngày của bạn trong tinh thần khiêm tốn, vui tươi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cám dỗ “dấu lạ” thật hấp dẫn đối với chúng con. Xin giúp
chúng con lướt thắng nó bằng cuộc sống hy sinh quên mình để phục vụ.
Đòi dấu lạ
Làm thế nào chúng ta nhận ra những dấu lạ Chúa vẫn
làm cho đời ta, để ta không đòi hỏi thêm dấu lạ nữa, nhưng mãn nguyện với những
gì mình nhận được?
Suy niệm:
Sinh trong một gia đình
người Pháp giàu có, quý phái và đạo đức,
Anh Charles de Foucauld mất
đức tin từ năm 16 tuổi.
Hai năm sau Anh học ở trường
sĩ quan Saint-Cyr nổi tiếng của Pháp,
đã đi thám hiểm nước Ma rốc
ở châu Phi và được huy chương vàng.
Sau thời gian đó anh đã muốn
suy nghĩ về đời mình.
Đời sống đạo đức của người
chị em họ đánh động Anh nhiều.
Anh đi nhà thờ dù chẳng tin
gì, chỉ thích lặp đi lặp lại lời nguyện này:
“Lạy Chúa, nếu Chúa hiện
hữu, thì xin làm cho con nhận biết Chúa.”
Chúa đã làm cho Anh nhận
biết Ngài vào một ngày cuối tháng 10-1886.
Khi được chị họ giới thiệu
với cha sở Huvelin ở Paris, anh đã xin học đạo.
Nhưng cha lại bảo anh vào
tòa giải tội và xưng tội.
Anh ngần ngại, nhưng đã chấp
nhận quỳ xuống,
và bất ngờ nếm được niềm vui
khôn tả của người con lưu lạc trở về.
Đời Anh đã bắt đầu sang
trang từ giây phút ấy.
Chúa đưa Anh trở lại không
bằng những dấu lạ lùng,
nhưng qua bà chị họ đạo đức,
qua cha sở Huvelin nhiều kinh nghiệm.
Ơn hoán cải của Anh không
dựa trên những dấu lạ làm Anh ngất ngây,
nhưng đến từ khiêm nhường
tìm kiếm và quỳ xuống đón nhận.
Chỉ ai biết quỳ xuống mới
nhận ra dấu bình thường là dấu lạ.
Đức Giêsu không vui khi
người Pharisêu và những người đương thời
muốn thấy dấu lạ và tìm kiếm
dấu lạ (cc. 38-39).
Họ chờ mong một dấu lạ làm
họ lóa mắt, gây ấn tượng mạnh,
khiến họ không thể chối cãi
và buộc họ phải tin.
Tiếc rằng Đức Giêsu không
bao giờ có ý muốn làm thứ dấu lạ như vậy.
Ngài không làm dấu lạ để
biểu diễn quyền năng của mình trước con người.
Ngài chỉ làm dấu lạ để phục
vụ nhu cầu con người và loan báo Nước Chúa.
Dấu lạ là dấu chỉ mời gọi
chứ không cưỡng bức người xem phải tin.
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu
lạ, nhưng họ vẫn không tin, vẫn đòi dấu lạ mới,
và còn bảo dấu lạ của Ngài
là nhờ dựa vào tướng quỷ (Mt 12, 24).
Khăng khăng đòi dấu lạ cho
thấy lòng họ dứt khoát từ chối Đức Giêsu.
Chẳng có dấu lạ nào làm họ
thay đổi được cái nhìn về Ngài.
Đức Giêsu đã từng trách các
thành vùng Galilê vì họ không sám hối (Mt 11,20).
Nay Ngài cũng quở trách một
số người Pharisêu như vậy.
Vào ngày phán xét, chính dân
Ninivê và Nữ hoàng Phương Nam sẽ kết án họ,
vì họ đã cứng lòng không tin
Đức Giêsu (cc. 41-42).
Làm thế nào chúng ta nhận ra
những dấu lạ Chúa vẫn làm cho đời ta,
để ta không đòi hỏi thêm dấu
lạ nữa,
nhưng mãn nguyện với những
gì mình nhận được?
Làm thế nào để chúng ta hạnh
phúc
vì vẫn được nghe giảng bởi
chính Đấng còn hơn Giôna nữa,
vẫn được tiếp xúc với Đấng
còn khôn ngoan hơn vua Salômôn nữa?
Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận
là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn
hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là
chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được
bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho
con,
hay vì Cha muốn ban cho con
một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn
Lên
20
THÁNG BẢY
Ước
Gì Mọi Miệng Lưỡi Đều Ngợi Khen Ân Sủng Rạng Ngời Của Ngài
“Thiên
Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi trao ban chính Con Một của Ngài, để những
ai tin vào người Con ấy thì không phải hư nát, nhưng được sống đời đời” (Ga
3,16). Lời ấy của Đức Giêsu làm nên cốt lõi của giáo thuyết về sự tiền định.
Chúng ta nhận ra giáo thuyết này trong giáo huấn của các Tông Đồ, nhất là trong
các Thư của Thánh Phao-lô.
Chẳng
hạn, chúng ta đọc thấy trong Thư Ê-phê-sô: “Thiên Chúa, Cha của Đức Giê-su Kitô
Chúa chúng ta, … đã tuyển chọn chúng ta trong Người, trước cả khi tạo thành vũ
trụ, để trước thánh nhan Ngài chúng ta trở nên tinh tuyền thánh thiện. Theo ý
muốn và lòng nhân ái của Ngài, Ngài đã tiền định cho chúng ta làm nghĩa tử
trong Đức Kitô – để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời mà Ngài ban tặng cho
chúng ta trong người Con yêu dấu” (Ep 1,3-6).
Những
xác quyết ấy về định mệnh của chúng ta trong Đức Kitô giải thích hùng hồn yếu
tính của điều mà chúng ta gọi là “tiền định”. Thật vậy, cần phải làm sáng tỏ ý
nghĩa của thuật ngữ này để phòng tránh mọi nguy cơ ngộ nhận khi người ta sử dụng
nó – điều khá thường xảy ra. Chẳng hạn, người ta có thể ngộ nhận rằng sự tiền định
đồng nghĩa với một số mệnh mù quáng nào đó – hay là “cơn giận” thất thường của
một vị chúa hay ghen tị. Trong mạc khải thần linh, từ ngữ “tiền định” có nghĩa
là sự chọn lựa đời đời của Thiên Chúa. Sự chọn lựa đó luôn luôn tích cực, sáng
suốt và đầy lòng tư phụ. Đó là một sự chọn lựa của tình yêu.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY
20-7
Thánh
Apôllinarê, giám mục tử đạo
Xh
14, 5-18; Mt 12, 38-42
LỜI
SUY NIỆM: “Quả thật, ông Giô-na đã ở trong bụng kình
ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba
đêm như vậy.”
Khi
Chúa Giêsu mạc khải về Chúa Cha, về Nước Trời và Người đưa ra những giáo huấn
chân thật, tốt lành, để dẫn đưa nhân loại trở về cùng Chúa Cha. Người thực hiện
giữa đám đông dân chúng biết bao dấu lạ đầy quyền phép trong lời nói cũng như
trong việc làm. Nhưng những kinh sư và người Pharisêu vẫn đòi hỏi Người phải
làm cho họ một dấu lạ. Chúa Giêsu đã không đáp ứng điều họ đòi hỏi, Nhưng Chúa
đưa hình ảnh và câu chuyện của ngôn sứ Giô-na, để tiên báo sự Thương Khó và Phục
Sinh của Người. Nếu họ muốn có một dấu lạ để tin Người.
Lạy
Chúa Giêsu. Nhờ Kinh Thánh, nhờ Hội Thánh, nhờ các chủ chăn và các tu sĩ nam nữ
trong Giáo Hội, chúng con càng này càng trưởng thành trong đức tin. Xin cho mọi
thành viên trong gia đình chúng con, luôn tiếp tục học biết về Chúa để chúng
con sống xứng đáng là con của Chúa.
Mạnh
Phương
20
Tháng Bảy
Ai Cũng Có Lý
Cách
đây không lâu, tại nhà của một quan tòa ở Milano, bên Italia, đã xảy ra một câu
chuyện như sau: Có hai người tranh chấp với nhau lâu ngày, cuối cùng đã đưa
nhau đến quan tòa của thành phố nhờ phân xử dùm. Người thứ nhất trình bày câu
chuyện và tự biện hộ cho mình. Anh vừa dứt lời thì quan tòa dõng dạc tuyên bố:
"Anh có lý". Ðến lượt người thứ hai phân trần, anh cũng đem ra mọi lý
lẽ để làm nghiêng cán cân công lý về phía mình. Sau kho nghe anh trình bày dông
dài, quan tòa cũng tuyên bố: "Anh có lý".
Cậu
con trai nhỏ của quan tòa theo dõi câu chuyện từ đầu. Nó ngạc nhiên vô cùng:
làm thế nào cả hai đều có lý cả? Quan tòa cũng đưa ra phán quyết về nhận xét của
con mình như sau: con cũng có lý. Mỗi người chúng ta ai cũng có lý của mình,
nhưng có lẽ chúng ta không muốn nhận ra phần có lý của người khác cũng như
chính phần lỗi của mình. Và đó chính là đầu mối của mọi bất hòa.
Vô
nhân thập toàn, nhưng cũng không có ai là người xấu hoàn toàn. Nếu chúng ta biết
khiêm tốn nhận ra những giới hạn của mình và chấp nhận giá trị của người khác,
thì có lẽ chúng ta sẽ không bất mãn về người khác cũng như đối với chính mình.
Cuộc sống chỉ có thể thở được nếu mỗi người chúng ta biết cư xử bằng sự cảm
thông và tha thứ.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét