Trang

Thứ Ba, 4 tháng 11, 2025

NHẸ NHÀNG VÀ DỊU DÀNG, LINH HỒN THÂN THƯƠNG ĐƯỢC CỨU CHUỘC



 Đức Hồng Y Newman của Henry Joseph Whitlock, 1879 [Phòng trưng bày Chân dung Quốc gia, London]

 

Nhẹ nhàng và dịu dàng, Linh hồn thân thương được cứu chuộc

Vũ Văn An  02/Nov/2025

 

Linh mục Peter M.J. Stravinskas, trên The Catholic Thing, Thứ Bảy, ngày 1 tháng 11 năm 2025, có bài viết về vị thánh tiến sĩ mới nhất của Giáo Hội,
Thánh Newman, một tài năng rất phong phú và vĩ đại, vượt quá thần học, lịch sử và các cuộc tranh luận, còn là một nhà thơ và người dẫn dắt tâm hồn
.

Thánh John Henry Newman, ở tuổi mười lăm, đã bắt đầu một hành trình dài hàng thập niên: theo châm ngôn của ngài, ex imaginibus et umbris in veritatem (“Từ hình ảnh và bóng tối đến chân lý”). Trong nhiều năm hành trình thần học, Newman đã trung thành với giáo huấn của 39 Điều khoản Tôn giáo của Hiệp thông Anh giáo, bao gồm cả điều khoản mô tả Luyện ngục là một giáo lý “độc hại”. Với nhiều lời cầu nguyện, sự nghiên cứu chuyên sâu toàn bộ ý nghĩa của Kinh Thánh, cùng với chứng tá thuyết phục của các Giáo phụ, cuối cùng ngài đã viết nên một trong những tác phẩm xuất sắc nhất về Luyện ngục, “Giấc mơ của Gerontius”, sánh ngang với chiều sâu và vẻ đẹp của sự cảm nhận về Luyện ngục của Dante trong tác phẩm Divina Commedia của ông; có lẽ tác phẩm này được biết đến nhiều nhất qua bài thánh ca tuyệt vời “Ngợi khen Đấng Chí Thánh”, mà Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã trích dẫn trong bài giảng lễ phong chân phước cho Newman.

Trong bài thơ của Newman, một linh hồn đang trong cơn hấp hối và cố gắng hiểu những khoảnh khắc cuối cùng của mình, với sự trợ giúp của Thiên thần Hộ mệnh. Người hấp hối không hiểu tại sao mình lại trở nên bình tĩnh đến vậy trước trải nghiệm kinh hoàng trước đó; thiên thần nói với ông rằng những lời cầu nguyện của vị linh mục và bạn bè xung quanh đã tiếp thêm cho ông sự tự tin, và hơn nữa, rằng "sự bình an và niềm vui trỗi dậy trong tâm hồn ngươi là thành quả đầu mùa của sự đền đáp, và Thiên đàng đã bắt đầu."

Người đàn ông dần dần sa sút và lo lắng về việc mất đi các giác quan; Thiên thần an ủi ông: "Cho đến khi đạt được Phúc kiến đó, ngươi vẫn mù lòa; bởi vì ngay cả Luyện ngục của ngươi, nơi đến như lửa, cũng là ngọn lửa không có ánh sáng."

Linh hồn được nâng đỡ bởi nhận thức đó và tuân theo ý muốn của Thiên Chúa, chỉ cầu xin được nhìn thấy Thánh nhan Chúa trong khoảnh khắc trước khi bắt đầu quá trình thanh tẩy. Thiên thần tuyên bố rằng thực ra, ông sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa chỉ trong chớp mắt, nhưng cảnh cáo ông: "Cảnh tượng Đấng Công Bằng Nhất sẽ làm ông vui mừng, nhưng cũng sẽ xuyên thấu ông."

Linh hồn này giờ đây sẽ "học được rằng ngọn lửa Tình Yêu Vĩnh Cửu sẽ bùng cháy nơi nó biến đổi." Giờ đây, ông đã sẵn sàng đối diện với Chúa trong cảnh phán xét, mà chỉ cần nhìn thấy Người cũng "sẽ thắp lên trong lòng ông mọi suy nghĩ dịu dàng, nhân từ và tôn kính."

Và những suy nghĩ đó có thể là gì? Tốt nhất nên để thiên tài thi ca Newman nói trực tiếp, như ông đã biết, cor ad cor loquitur (phương châm chính của ngài: "Trái tim nói với trái tim"):

Ngươi sẽ phát ốm vì tình yêu, và khao khát Người
Và cảm thấy như thể ngươi chỉ có thể thương hại Người,
Rằng một người ngọt ngào như vậy đã từng đặt mình
vào thế bất lợi, để bị một kẻ hèn hạ như ngươi lợi dụng
một cách đê tiện đến vậy.
Có một lời khẩn xin trong đôi mắt trầm ngâm của Người
Sẽ đâm thấu ngươi đến tận xương tủy và làm ngươi bối rối.
Và ngươi sẽ căm ghét và ghê tởm chính mình; bởi vì, mặc dù
Giờ đây ngươi vô tội, ngươi sẽ cảm thấy mình đã phạm tội,
Như ngươi chưa bao giờ cảm thấy; và sẽ khao khát
Được lẩn trốn và ẩn mình khỏi tầm mắt Người:
Nhưng vẫn khao khát được ở lại
Trong vẻ đẹp của khuôn mặt Người.
Và hai nỗi đau này, thật đối nghịch và mãnh liệt,
Nỗi khao khát Người, khi ngươi không nhìn thấy Người;
Sự hổ thẹn của bản thân khi nghĩ đến việc nhìn thấy Người,
Sẽ là Luyện ngục thực sự, khắc nghiệt nhất của ngươi.


Khi người đàn ông tiến đến tòa án thần linh, anh ta kinh ngạc khi nghe thấy những giọng nói trần tục; một lần nữa, ông nhớ lại rằng mình nghe thấy vị linh mục và bạn bè đọc kinh Subvenite (“Xin hãy đến giúp đỡ họ, hỡi các thánh của Chúa”) thay mặt ông, giờ đây Thiên thần của Cuộc Khổ Nạn đã ban sức mạnh cho Chúa Kitô trong những giờ phút cuối cùng của Người để làm điều tương tự cho linh hồn tội nghiệp này, đưa ông vào cõi vĩnh hằng.

 

Khi đến nơi, người muốn yêu Chúa này “chạy đến dưới chân Emmanuel thân yêu” nhưng không bao giờ thực sự đạt được điều đó bởi vì sự thánh thiện của Đấng Toàn Thánh thiêu đốt và làm co rúm linh hồn lại thành thụ động “trước Ngai vàng đáng sợ”. Tuy nhiên, Thiên thần có thể kêu lên: “Ôi linh hồn hạnh phúc, đau khổ! Vì nó được an toàn, bị thiêu đốt, nhưng được hồi sinh, bởi cái nhìn của Thiên Chúa.”

Và linh hồn đồng ý; Nghịch lý thay, ông “hạnh phúc trong nỗi đau” và thậm chí còn muốn rời khỏi sự hiện diện của Chúa ngay lập tức, để mong ngày trở lại được trải nghiệm trọn vẹn và lâu dài, khao khát lao đến nơi mà Thiên Thần gọi là “nhà tù vàng son” của Luyện Ngục. Người đàn ông tự tin khẳng định: “Ở đó, tôi sẽ hát ca ngợi Chúa và Tình Yêu vắng mặt của tôi: – Hãy đưa tôi đi, để tôi sớm được trỗi dậy, lên cao hơn, và nhìn thấy Người trong trong chân lý của ngày vĩnh cửu.”

Và như vậy, Thiên thần của linh hồn đã đáp ứng những ước nguyện thánh thiện ấy. Hãy cùng lắng nghe Newman kết thúc tác phẩm tuyệt vời này, vừa giàu trí tưởng tượng vừa mang tính thần học, vừa hiện thực vừa nên thơ, khi ngài trao cho sứ giả của Chúa lời cuối cùng:

Nhẹ nhàng và dịu dàng, hỡi linh hồn được thân thương cứu chuộc,
Trong vòng tay yêu thương nhất, giờ đây ta ôm ấp ngươi,
Và, trên dòng nước trừng phạt, khi chúng cuồn cuộn,
Ta nâng ngươi lên, và ta hạ ngươi xuống, và giữ ngươi.

Và ta cẩn thận dìm ngươi xuống hồ,
Và ngươi, không một tiếng nức nở hay kháng cự,
Hãy lướt nhanh qua dòng nước lũ,
Chìm sâu, sâu hơn nữa, vào khoảng không mờ ảo.

Hỡi các thiên thần, những người được giao phó nhiệm vụ sẵn lòng.
Sẽ chăm sóc, nuôi dưỡng và ru ngươi ngủ khi ngươi nằm xuống;
Và những Thánh lễ trên trần gian, cùng những lời cầu nguyện trên Thiên đàng,
Sẽ nâng đỡ ngươi tại Ngai vàng của Đấng Tối Cao.

Tạm biệt, nhưng không phải mãi mãi! Anh em thân mến,
Hãy can đảm và kiên nhẫn trên Giường đau buồn;

Đêm thử thách của ngươi sẽ nhanh chóng qua đi nơi đây,
Và Ta sẽ đến đánh thức ngươi vào ngày mai.


Vậy thì, Lễ Các Đẳng Linh Hồn quy tụ nhiều chủ đề quan trọng của thần học Kitô giáo: công lý và lòng thương xót của Thiên Chúa; trách nhiệm và phẩm giá con người; sự liên đới trong cầu nguyện và đau khổ; cuộc sống giờ đây được nhìn từ góc độ vĩnh cửu, trong một Giáo Hội và một Chúa, Đấng quy tụ chúng ta vào Nhiệm Thể của Người, thực sự là một Hiệp Thông của các Thánh mà mối dây liên kết không bị cắt đứt bởi cái chết mà thực sự được củng cố.

Vậy, ai trong chúng ta lại không thể hy vọng và vui mừng trước những chân lý lớn lao và an ủi như vậy? Và sự tĩnh lặng của phụng vụ trong ngày giống như khoảnh khắc Luyện Ngục – một khúc dạo đầu xứng đáng cho vinh quang ngàn năm sở hữu Tình Yêu và được Người sở hữu mãi mãi.

Vâng, lạy Chúa, hôm nay chúng con cầu nguyện cho tất cả những ai yêu mến và khao khát tình yêu thanh tẩy của Chúa; xin cho họ – và chúng con – được cum sanctis tuis in aeternum, quia pius es (“Ở cùng các thánh của Chúa đến muôn đời, vì Chúa “nhân từ”)!

Chúng ta hãy dành cho Đức Hồng Y Newman lời cuối cùng bằng cách cầu nguyện với hai lời cầu nguyện tuyệt vời nhất của ngài:

Xin Người nâng đỡ chúng con suốt cả ngày, cho đến khi bóng tối buông xuống, hoàng hôn buông xuống, thế giới bận rộn lắng dịu, cơn sốt cuộc sống qua đi, và công việc của chúng con hoàn tất. Và rồi, trong lòng thương xót của Người, xin Người ban cho chúng con một nơi trú ẩn an toàn, một sự nghỉ ngơi thánh thiện và bình an vào giây phút cuối cùng.

Và lời này nữa:

Lạy Chúa và Đấng Cứu Độ của con, xin nâng đỡ con trong giờ phút ấy trong vòng tay mạnh mẽ của các Bí tích của Người, và bằng hương thơm tươi mát của những an ủi của Người. Xin Người đọc những lời xá tội trên con, và xin Người ban dấu thánh và ấn tín cho con, và chính Mình Người là lương thực của con, và Máu Người là sự rảy nước của con; và xin Mẹ Maria dịu hiền của con, thổi hơi trên con, và Thiên thần của con thì thầm bình an cho con, và các Thánh vinh hiển của con... mỉm cười với con; để trong tất cả, và qua tất cả, con có thể nhận được ơn kiên trì, và chết đi, như con mong muốn được sống, trong đức tin của Người, trong Hội Thánh, trong sự phục vụ và tình yêu của Người. Amen.

 

http://vietcatholic.net/News/Html/298779.htm

BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC LÊ-Ô XIV TRONG THÁNH LỄ CẦU CHO CÁC LINH HỒN

 Bài giảng của Đức Leo XIV trong Thánh Lễ cầu cho Các Linh Hồn: Hương thơm quê hương gợi nhắc chúng ta về người đã khuất

Vũ Văn An  03/Nov/2025

 


Đức Giáo Hoàng Leo XVI đã đến thăm một nghĩa trang ở Rôma và cử hành Thánh lễ vào ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn, lần đầu tiên trong tư cách giáo hoàng. VINCENZO LIVIERI | VINCENZO LIVIERI

 

Kathleen N. Hattrup, trên bản tin Aleteia ngày 02/11/25, cho hay: Đức Giáo Hoàng Leo XVI đã đến thăm một nghĩa trang ở Rôma và cử hành Thánh lễ vào ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn, lần đầu tiên trong tư cách giáo hoàng. Tại đây, ngài đã phát biểu: "Chúng ta hãy hướng ánh mắt về Chúa Kitô Phục Sinh và nghĩ về những người thân yêu đã khuất của chúng ta đang được bao bọc trong ánh sáng của Người."

Thực vậy, Đức Giáo Hoàng Leo XVI đã đến Nghĩa trang Verano ở Rôma để cử hành Thánh lễ cầu nguyện cho các tín hữu đã khuất lúc 4:00 chiều nay, đúng ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn. Đức Giáo Hoàng nói: ký ức về những người thân yêu của chúng ta vẫn còn mãi với chúng ta, nhưng lưu ý rằng đối với các Kitô hữu, ký ức về họ chính là hy vọng cho tương lai.

Ngài nói: "Vấn đề không phải là nhìn lại quá khứ, mà là hướng về phía trước, hướng đến đích đến của cuộc hành trình, hướng đến bến bờ an toàn mà Chúa đã hứa ban cho chúng ta, hướng đến bữa tiệc bất tận đang chờ đón chúng ta".

Theo Vatican News, Đức Giáo Hoàng Leo đã đi qua khu vực Pincetto của nghĩa trang trong khi bài Requiem do Schola Cantorum xướng vang lên. Toàn bộ khu vực đã được phong tỏa từ sáng; khoảng 2,500 người đàn ông, đàn bà, người cao tuổi, nữ tu và linh mục đã vội vã tìm chỗ ngồi tại quảng trường, được bao quanh bởi những hàng bia mộ và lăng mộ nhỏ, bởi các bức tượng và nhà nguyện tang lễ. Khắp nơi, người ta có thể thấy những thiên thần đau buồn, những bức tượng Đức Mẹ khóc than, những tác phẩm điêu khắc hình phụ nữ bế con, tượng bán thân, mái vòm, nhà nguyện, thậm chí cả bức tượng sói Capitoline. Có những bức ảnh màu và đen trắng, một số có niên đại từ những năm đầu thế kỷ này. Chỉ vài bước chân từ lễ đài đơn sơ được dựng lên cho buổi lễ của Đức Giáo Hoàng — nơi nổi bật là bàn thờ dát vàng — và trước mộ của các nhân vật lịch sử, nhà văn, trí thức, nghệ sĩ và nhạc sĩ, là ngôi mộ khắc chữ “Garibaldi”, nơi lưu giữ hài cốt của Ricciotti Garibaldi, con trai của nhân vật người Ý, cùng với những hậu duệ khác.

Sau khi trở về Vatican, Đức Giáo Hoàng đã dành thời gian cầu nguyện riêng tư trong các hang động Vatican, bên cạnh mộ của những vị tiền nhiệm của ngài.


 

VINCENZO LIVIERI | VINCENZO LIVIERI

 

Dưới đây là nguyên văn bài giảng của Đức Giáo Hoàng dựa vào bản tiếng Anh của Tòa Thánh:

~

Anh chị em thân mến,

Chúng ta tụ họp nơi đây để cử hành Lễ Tưởng Niệm tất cả các tín hữu đã qua đời. Chúng ta làm điều này đặc biệt vì những người được an táng tại nơi này, và với tình cảm đặc biệt dành cho những người thân yêu của chúng ta. Mặc dù họ đã rời xa chúng ta vào ngày họ qua đời, chúng ta vẫn luôn mang họ trong tim, và ký ức về họ luôn sống mãi trong chúng ta giữa cuộc sống thường nhật. Thường thì, có điều gì đó gợi lại ký ức về họ, và chúng ta nhớ lại những trải nghiệm đã từng chia sẻ với họ. Nhiều nơi, ngay cả mùi hương quê nhà, cũng gợi lên trong ta những kỷ niệm về những người ta yêu thương và đã ra đi trước ta, lưu giữ ký ức sống động về họ.

Tuy nhiên, hôm nay, chúng ta quy tụ lại không chỉ để tưởng nhớ những người đã rời xa thế gian này. Đức tin Kitô giáo của chúng ta, được đặt nền tảng trên mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, giúp chúng ta trải nghiệm những ký ức của mình không chỉ là một hồi ức về quá khứ mà còn, và trên hết, là niềm hy vọng vào tương lai. Không phải là nhìn lại quá khứ, mà là hướng về phía trước, hướng đến đích điểm của cuộc hành trình, hướng đến bến bờ an toàn mà Thiên Chúa đã hứa ban cho chúng ta, hướng đến bữa tiệc bất tận đang chờ đón chúng ta. Ở đó, bên Chúa Phục Sinh và những người thân yêu, chúng ta hy vọng được thưởng thức niềm vui của bữa tiệc vĩnh cửu. Như chúng ta vừa nghe tiên tri Isaia: “Trên núi này, Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc thịnh soạn… Người sẽ nuốt chửng sự chết đến muôn đời” (25:6,8).

Niềm hy vọng về tương lai này làm sống lại ký ức và lời cầu nguyện của chúng ta hôm nay. Đây không phải là ảo tưởng để xoa dịu nỗi đau xa cách người thân, cũng không phải là sự lạc quan đơn thuần của con người. Thay vào đó, đó là niềm hy vọng được đặt nền tảng trên sự Phục sinh của Chúa Giêsu, Đấng đã chiến thắng sự chết và mở ra cho chúng ta con đường dẫn đến sự sống viên mãn. Như tôi đã nói trong một bài giáo lý gần đây, Chúa là “đích đến của cuộc hành trình chúng ta. Nếu không có tình yêu của Người, hành trình cuộc đời sẽ trở thành một cuộc lang thang không mục tiêu, một sai lầm bi thảm với một đích đến bị bỏ lỡ… Đấng Phục sinh bảo đảm cho chúng ta sự trở về, dẫn chúng ta về nhà, nơi chúng ta được chờ đợi, yêu thương và cứu rỗi” (Buổi Tiếp kiến Chung, ngày 15 tháng 10 năm 2025).

Điểm đến cuối cùng này, bữa tiệc mà Chúa sẽ quy tụ chúng ta xung quanh, sẽ là một cuộc gặp gỡ tình yêu. Bởi vì chính vì tình yêu mà Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta, nhờ tình yêu của Con Người mà Người cứu chúng ta khỏi sự chết, và trong niềm vui của chính tình yêu ấy, Người mong muốn chúng ta sống mãi mãi với Người và với những người thân yêu của mình. Vì lý do này, bất cứ khi nào chúng ta sống trong tình yêu thương và thể hiện lòng bác ái với người khác, đặc biệt là những người yếu đuối và thiếu thốn nhất, thì chúng ta có thể tiến về đích, và ngay cả bây giờ, chúng ta cũng có thể dự đoán mục tiêu đó thông qua mối dây liên kết không thể phá vỡ với những người đã đi trước chúng ta. Hơn nữa, Chúa Giêsu khích lệ chúng ta bằng những lời này: “… vì Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn; Ta khát, các ngươi đã cho Ta uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp đón; Ta trần truồng, các ngươi đã cho Ta uống.” “Ngươi đã cho Ta áo mặc, Ta đau yếu, ngươi đã chăm sóc, Ta ngồi tù, ngươi đã thăm viếng” (Mt 25:35-36).

Tình yêu chiến thắng sự chết. Trong tình yêu, Thiên Chúa sẽ quy tụ chúng ta cùng với những người thân yêu. Và, nếu chúng ta cùng nhau bước đi trong đức ái, chính cuộc sống của chúng ta sẽ trở thành một lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa, kết hợp chúng ta với những người đã khuất, kéo chúng ta lại gần họ hơn trong khi chờ đợi được gặp lại họ trong niềm vui của sự sống đời đời.

Anh chị em thân mến, ngay cả khi nỗi buồn đau về những người không còn ở giữa chúng ta vẫn còn in sâu trong lòng chúng ta, chúng ta hãy phó thác mình cho niềm hy vọng không bao giờ làm chúng ta thất vọng (x. Rm 5:5). Chúng ta hãy hướng mắt về Chúa Kitô Phục Sinh và nghĩ đến những người thân yêu đã khuất của chúng ta đang được bao bọc trong ánh sáng của Người. Chúng ta hãy để lời hứa về sự sống đời đời của Chúa vang vọng trong tâm hồn chúng ta. Người sẽ tiêu diệt sự chết mãi mãi. Thật vậy, Người đã chiến thắng nó, mở ra cho chúng ta con đường đến sự sống đời đời bằng cách vượt qua thung lũng tử thần trong mầu nhiệm Vượt Qua của Người. Nhờ đó, nhờ được kết hợp với Người, chúng ta cũng có thể bước vào và vượt qua thung lũng tử thần.

Chúa đang chờ đợi chúng ta, và khi cuối cùng chúng ta gặp lại Người ở cuối cuộc hành trình trần thế, chúng ta sẽ hân hoan với Người và với những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta. Nguyện xin lời hứa này nâng đỡ chúng ta, lau khô nước mắt, và hướng chúng ta lên cao, hướng về niềm hy vọng vào tương lai không bao giờ phai tàn.

 

http://vietcatholic.net/News/Html/298785.htm

ĐỨC GIÁO HOÀNG LÊ-Ô XIV CỬ HÀNH THÁNH LỄ CẦU CHO ĐỨC PHAN-XI-CÔ

Đức Giáo Hoàng Leo XIV cử hành Thánh lễ cầu cho Đức Phanxicô: Cái chết là người chị em được thuần hóa của chúng ta, và nghĩa trang đồng nghĩa với nhà nghỉ

Vũ Văn An  03/Nov/2025

 


ANDREAS SOLARO | ANDREAS SOLARO

 

Kathleen N. Hattrup, trong bản tin ngày 03/11/25, tường thuậ: Tiếp nối truyền thống cử hành Thánh lễ cầu nguyện cho các giám mục đã qua đời trong năm ngoái, Đức Giáo Hoàng Lêô đã cử hành Thánh lễ cầu nguyện cho Đức Phanxicô.

"Vâng, chúng ta có thể hát: 'Lạy Chúa, chúng con ngợi khen Chúa, vì người chị em chết thể xác của chúng con,'" Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã nói như thế vào ngày 3 tháng 11 năm 2025, trong Thánh lễ tưởng niệm Đức Giáo Hoàng Phanxicô và tất cả các Hồng Y và giám mục đã qua đời trong năm nay. Hơn sáu tháng sau khi vị giáo hoàng người Argentina qua đời, vị kế nhiệm ngài đã cầu nguyện cho linh hồn ngài, nhắc lại rằng ngài đã "sống, làm chứng và giảng dạy" niềm hy vọng Kitô giáo vào sự sống đời đời.

Hàng năm, vào những ngày sau ngày 2 tháng 11, Lễ Các Đẳng Linh Hồn, Giám mục Rôma cử hành Thánh lễ tại Vatican cho tất cả các Hồng Y và giám mục đã qua đời trong 12 tháng trước đó. Năm nay, danh sách bao gồm tám Hồng Y, 134 tổng giám mục và giám mục, cũng như Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người đã qua đời vào ngày 21 tháng 4 năm 2025.

Đức Lêô XIV đã đọc bằng tiếng Latinh vào đầu Thánh lễ đặc biệt long trọng này: "Lạy Chúa, Đấng đã kêu gọi tôi tớ Chúa, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, các Hồng Y và giám mục, vào hàng giám mục giữa những người kế vị các tông đồ, xin ban cho họ cũng được chia sẻ sự hiệp thông vĩnh cửu với các ngài".

Khoảng 60 Hồng Y và giám mục đã tham dự buổi lễ, được cử hành tại bàn thờ Ngai Tòa trong Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô.

Trong bài giảng, Đức Giáo Hoàng một lần nữa nhắc đến "linh hồn được tuyển chọn" của Đức Giáo Hoàng Argentina, nhắc lại rằng ngài đã qua đời vài tháng sau khi mở Cửa Thánh (ngày 24 tháng 12 năm 2024) và một ngày sau Lễ Phục sinh, sau khi ban phép lành cho toàn thế giới.

Trong hoàn cảnh lịch sử này, được đánh dấu bằng Năm Thánh, Đức Lêô XIV cho rằng Thánh lễ cầu nguyện cho các linh mục đã qua đời này mang "một hương vị đặc biệt: hương vị của niềm hy vọng Kitô giáo".

Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng các môn đệ của Chúa Giêsu - những người kế vị trong Giáo Hội Công Giáo là các giám mục - đã trải nghiệm một "niềm hy vọng mới" trong biến cố Phục sinh.

Cái chết, người chị em "đã được thuần hóa"

Đức Giáo Hoàng nói rằng "niềm hy vọng Phục sinh" này đôi khi có thể bị hiểu lầm, đặc biệt là khi đối diện với "một cái chết dữ dội giáng xuống những người vô tội".

Ngài than thở: "Biết bao nhiêu người - biết bao nhiêu 'trẻ thơ'! - vẫn còn đau khổ ngày nay vì chấn thương của cái chết tàn khốc này, bị biến dạng bởi tội lỗi".

Đức Lêô XIV quả quyết rằng Thiên Chúa "không muốn" cái chết này và Người "đã sai chính Con của Người đến thế gian để giải thoát chúng ta khỏi nó". Ngài nhấn mạnh rằng sự hy sinh của Chúa Giêsu trên thập giá cho phép chúng ta hy vọng "vượt ra ngoài chân trời trần gian", hướng con người về Thiên Chúa, "nơi cao và sâu mà từ đó, Mặt Trời đã mọc lên để soi sáng những ai đang đứng trong đêm tối và trong bóng tối của sự chết".

Đức Giáo Hoàng nhắc lại rằng, được củng cố bởi niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu này, các Kitô hữu đã gọi những nơi chôn cất là "nghĩa trang", một hạn từ bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp koimētērion, ban đầu có nghĩa là "nhà nghỉ".

Ngài quả quyết: "Đức Giáo Hoàng Phanxicô kính yêu và các anh em Hồng Y và giám mục, những người mà cho họ, chúng ta dâng lễ hy sinh Thánh Thể hôm nay, đã sống, chứng kiến và giảng dạy niềm hy vọng mới này của lễ Phục Sinh".

"Vì vậy, vâng, chúng ta có thể hát: 'Lạy Chúa, ngợi khen Chúa, vì người chị em chết về thân xác của chúng con,'" Đức Lêô XIV nói thế, trích dẫn Bài Ca Các Tạo Vật của Thánh Phanxicô Assisi, người mà vị tiền nhiệm của ngài đã lấy tên. Ngài kết luận: "Tình yêu của Chúa Kitô chịu đóng đinh và phục sinh đã biến đổi cái chết: từ kẻ thù, nó đã trở thành chị em; Người đã thuần hóa nó".

 

http://vietcatholic.net/News/Html/298786.htm

  

GIÁO HUẤN CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG BENEDICT XVI VỀ LUYỆN NGỤC

 Giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Benedict XVI về luyện ngục

Vũ Văn An  03/Nov/2025

 


Đức Giáo Hoàng Benedict XVI - Pentling (2006). © WOLFGANG RADTKE / POOL / AFP

 

Kathleen N. Hattrup, trong bản tin- ngày 11/02/25 của Aleteia, cho hay: Spe Salvi, thông điệp của Đức Giáo Hoàng Benedict XVI về hy vọng, bao gồm tám đoạn về chủ đề cuộc phán xét chúng ta, "như một bối cảnh để học hỏi và thực hành hy vọng."

Một phần trong những gì Đức Giáo Hoàng người Đức minh họa trong phần đó là luyện ngục. Ngài nói: "Sự phán xét của Thiên Chúa là hy vọng, vì nó vừa là công lý vừa là ân sủng."

Dưới đây xin trích dẫn bốn đoạn của phần này, đặc biệt phù hợp cho lời cầu nguyện và suy niệm của chúng ta trong tháng các Linh Hồn.

__

45. Quan niệm Do Thái giáo sơ khai về trạng thái trung gian này bao gồm quan điểm cho rằng những linh hồn này không chỉ đơn thuần bị giam giữ tạm thời mà, như dụ ngôn về người giàu minh họa, đã bị trừng phạt hoặc đang trải nghiệm một hình thức hạnh phúc tạm thời. Cũng có quan điểm cho rằng trạng thái này có thể bao gồm sự thanh tẩy và chữa lành, giúp linh hồn trưởng thành để hiệp thông với Chúa. Giáo hội sơ khai đã tiếp thu những khái niệm này, và trong Giáo hội phương Tây, chúng dần dần phát triển thành giáo lý Luyện ngục. Chúng ta không cần phải xem xét ở đây những con đường lịch sử phức tạp của sự phát triển này; chỉ cần hỏi nó thực sự có nghĩa là gì. Với cái chết, lựa chọn cuộc sống của chúng ta trở nên dứt khoát - cuộc đời chúng ta đứng trước tòa án. Lựa chọn của chúng ta, trong suốt cuộc đời mang một hình dạng nhất định, có thể có nhiều hình thức khác nhau. Có thể có những người đã hoàn toàn hủy hoại khát vọng chân lý và sẵn sàng yêu thương, những người mà đối với họ mọi thứ đều trở thành dối trá, những người đã sống vì hận thù và đã kìm nén mọi tình yêu trong chính mình. Đây là một suy nghĩ đáng sợ, nhưng những gương mặt đáng báo động kiểu này có thể được nhìn thấy ở một số nhân vật trong lịch sử của chính chúng ta. Ở những người như vậy, mọi thứ sẽ vô phương cứu chữa và sự hủy diệt điều thiện sẽ không thể đảo ngược: đây là điều chúng ta muốn nói đến khi nói đến từ Địa ngục [37]. Mặt khác, có thể có những người hoàn toàn trong sạch, được Thiên Chúa thấm nhuần trọn vẹn, và do đó hoàn toàn cởi mở với tha nhân - những người mà sự hiệp thông với Thiên Chúa ngay từ bây giờ đã định hướng toàn bộ con người họ và hành trình hướng đến Thiên Chúa chỉ mang lại sự viên mãn cho chính con người họ vốn đã là [38].

46. Tuy nhiên, chúng ta biết từ kinh nghiệm rằng cả hai trường hợp đều không bình thường trong đời sống con người. Đối với đại đa số mọi người - chúng ta có thể cho rằng - trong sâu thẳm con người họ vẫn còn một sự cởi mở nội tâm tối thượng đối với chân lý, tình yêu, đối với Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong những lựa chọn cụ thể của cuộc sống, nó bị che phủ bởi những thỏa hiệp ngày càng mới mẻ với cái ác - nhiều thứ ô uế che phủ sự trong sạch, nhưng nỗi khao khát sự trong sạch vẫn còn đó và nó vẫn liên tục tái hiện từ tất cả những gì thấp hèn và vẫn hiện diện trong linh hồn. Điều gì sẽ xảy ra với những cá nhân như vậy khi họ ra trước Đấng Phán Xét? Liệu tất cả những điều ô uế mà họ đã tích tụ trong suốt cuộc đời có đột nhiên không còn quan trọng nữa không? Điều gì khác có thể xảy ra? Trong Thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô, Thánh Phaolô cho chúng ta một ý niệm về tác động khác nhau của sự phán xét của Thiên Chúa tùy theo hoàn cảnh cụ thể của mỗi người. Ngài làm điều này bằng cách sử dụng những hình ảnh, theo một cách nào đó, cố gắng diễn tả điều vô hình, mà chúng ta không thể khái niệm hóa những hình ảnh này - đơn giản vì chúng ta không thể nhìn thấy thế giới bên kia cái chết và chúng ta cũng không có bất cứ kinh nghiệm nào về nó. Thánh Phaolô bắt đầu bằng cách nói rằng đời sống Kitô hữu được xây dựng trên một nền tảng chung: Chúa Giêsu Kitô. Nền tảng này tồn tại mãi mãi. Nếu chúng ta đã đứng vững trên nền tảng này và xây dựng cuộc sống của mình trên đó, chúng ta biết rằng nó không thể bị tước đoạt khỏi chúng ta ngay cả trong cái chết. Sau đó, Thánh Phao-lô viết tiếp: “Nếu ai dùng vàng, bạc, đá quý, gỗ, cỏ khô, rơm rạ mà xây trên nền ấy, thì công việc của mỗi người sẽ được bày tỏ ra; vì Ngày của Chúa sẽ phơi bày công việc ấy, vì nó sẽ được tỏ lộ trong lửa, và lửa sẽ thử nghiệm công việc của mỗi người. Nếu công việc của ai xây trên nền ấy còn tồn tại, thì người ấy sẽ được thưởng. Còn nếu công việc của ai bị thiêu hủy, thì người ấy sẽ phải chịu thiệt hại, mặc dù chính người ấy sẽ được cứu, nhưng dường như phải qua lửa” (1 Cô-rinh-tô 3:12-15). Trong đoạn văn này, dù sao đi nữa, rõ ràng là sự cứu rỗi của chúng ta có thể có nhiều hình thức khác nhau, rằng một số công trình đã xây dựng có thể bị thiêu rụi, rằng để được cứu rỗi, bản thân chúng ta phải trải qua “lửa” để hoàn toàn mở lòng đón nhận Chúa và có thể ngồi vào bàn tiệc cưới vĩnh cửu.

47. Một số nhà thần học gần đây cho rằng ngọn lửa vừa thiêu đốt vừa cứu rỗi chính là Chúa Kitô, Đấng Phán Xét và Cứu Độ. Cuộc gặp gỡ với Người là hành động phán xét quyết định. Trước ánh mắt Người, mọi dối trá tan biến. Cuộc gặp gỡ với Người, như thiêu đốt chúng ta, biến đổi và giải thoát chúng ta, cho phép chúng ta thực sự trở thành chính mình. Tất cả những gì chúng ta xây dựng trong cuộc đời mình có thể chỉ là rơm rạ, chỉ là lời khoác lác, và rồi sụp đổ. Nhưng trong nỗi đau của cuộc gặp gỡ này, khi Sự ô uế và bệnh tật trong cuộc sống của chúng ta trở nên rõ ràng với chúng ta, thì ở đó có sự cứu rỗi. Ánh mắt của Người, sự chạm đến của trái tim Người chữa lành chúng ta qua một sự biến đổi đau đớn không thể chối cãi “như qua lửa”. Nhưng đó là một nỗi đau được chúc phúc, trong đó quyền năng thánh thiện của tình yêu Người thiêu đốt chúng ta như ngọn lửa, cho phép chúng ta trở nên hoàn toàn là chính mình và do đó hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Theo cách này, mối quan hệ qua lại giữa công lý và ân sủng cũng trở nên rõ ràng: cách chúng ta sống cuộc đời mình không phải là vô nghĩa, nhưng sự ô uế của chúng ta không làm vấy bẩn chúng ta mãi mãi nếu chúng ta ít nhất tiếp tục vươn tới Chúa Kitô, hướng tới chân lý và hướng tới tình yêu. Thật vậy, nó đã được thiêu đốt qua Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô. Vào giây phút phán xét, chúng ta trải nghiệm và hấp thụ sức mạnh áp đảo của tình yêu Người trên mọi điều ác trên thế gian và trong chính chúng ta. Nỗi đau của tình yêu trở thành sự cứu rỗi và niềm vui của chúng ta. Rõ ràng là chúng ta không thể tính toán “thời gian” của sự thiêu đốt biến đổi này theo các phép đo thời gian của thế gian này. “Khoảnh khắc” biến đổi của cuộc gặp gỡ này vượt ngoài sự tính toán của thời gian trần thế—đó là thời gian của trái tim, là thời gian “chuyển tiếp” để hiệp thông với Thiên Chúa trong Thân Thể Chúa Kitô[39]. Sự phán xét của Thiên Chúa chính là hy vọng, bởi vì đó vừa là công lý, vừa là ân sủng bởi vì đó. Nếu chỉ là ân sủng, khiến mọi sự trần thế không còn quan trọng nữa, thì Thiên Chúa vẫn nợ chúng ta một câu trả lời cho câu hỏi về công lý—câu hỏi then chốt mà chúng ta đặt ra cho lịch sử và cho Thiên Chúa. Nếu chỉ là công lý, cuối cùng nó chỉ có thể mang lại nỗi sợ hãi cho tất cả chúng ta. Sự nhập thể của Thiên Chúa trong Chúa Kitô đã liên kết chặt chẽ hai điều này—sự phán xét và ân sủng—đến nỗi công lý được thiết lập vững chắc: tất cả chúng ta đều thực hiện ơn cứu độ của mình “với lòng kính sợ và run rẩy” (Pl 2:12). Tuy nhiên, ân sủng cho phép tất cả chúng ta hy vọng và tin tưởng đến gặp Đấng Phán Xét, Đấng mà chúng ta biết là “Đấng Bào Chữa”, hay parakletos (x. 1 Ga 2:1).

48. Một điểm nữa cần được đề cập ở đây, bởi vì nó rất quan trọng cho việc thực hành niềm hy vọng Kitô giáo. Tư tưởng Do Thái thời kỳ đầu bao gồm ý tưởng này: người ta có thể giúp đỡ người đã khuất trong trạng thái trung gian của họ thông qua lời cầu nguyện (ví dụ, xem 2 Mcb 12:38-45; thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên). Thực hành tương đương đã được các Kitô hữu dễ dàng áp dụng và phổ biến trong Giáo hội Đông phương và Tây phương. Đông phương không công nhận sự thanh tẩy và đau khổ chuộc tội của linh hồn ở thế giới bên kia, nhưng họ thừa nhận nhiều cấp độ phúc lành và đau khổ khác nhau ở trạng thái trung gian. Tuy nhiên, linh hồn của người đã khuất có thể nhận được "sự an ủi và tươi mới" thông qua Bí tích Thánh Thể, cầu nguyện và bố thí. Niềm tin rằng tình yêu có thể vươn tới thế giới bên kia, rằng việc cho và nhận lẫn nhau là có thể, trong đó tình cảm của chúng ta dành cho nhau vẫn tiếp tục vượt ra ngoài giới hạn của cái chết - đây là một niềm tin nền tảng của Kitô giáo qua các thời đại và vẫn là nguồn an ủi cho đến ngày nay. Ai mà không cảm thấy cần phải truyền đạt cho những người thân yêu đã khuất của mình một dấu hiệu của lòng tốt, một cử chỉ biết ơn hoặc thậm chí là một lời cầu xin tha thứ? Bây giờ, một câu hỏi khác được đặt ra: nếu “Luyện ngục” chỉ đơn giản là sự thanh luyện qua lửa trong cuộc gặp gỡ với Chúa, Đấng Phán xét và Đấng Cứu Độ, thì làm sao một người thứ ba có thể can thiệp, ngay cả khi người đó đặc biệt gần gũi với người kia? Khi đặt câu hỏi như vậy, chúng ta nên nhớ rằng không ai là một hòn đảo, hoàn toàn tách biệt. Cuộc sống của chúng ta liên quan đến nhau, thông qua vô số tương tác, chúng được kết nối với nhau. Không ai sống một mình. Không ai phạm tội một mình. Không ai được cứu rỗi một mình. Cuộc sống của người khác liên tục tràn vào cuộc sống của tôi: trong những gì tôi nghĩ, nói, làm và đạt được. Và ngược lại, cuộc sống của tôi tràn vào cuộc sống của người khác: dù tốt hay xấu. Vì vậy, lời cầu nguyện của tôi cho người khác không phải là điều gì đó xa lạ với người đó, một điều gì đó bên ngoài, ngay cả sau khi chết. Trong sự liên kết qua lại của Hữu thể, lòng biết ơn của tôi đối với người khác - lời cầu nguyện của tôi cho họ - có thể đóng một vai trò nhỏ trong quá trình thanh luyện của họ. Và vì vậy, không cần phải biến thời gian trần thế thành thời gian của Thiên Chúa: trong sự hiệp thông của các linh hồn, thời gian trần thế đơn giản đã bị thay thế. Không bao giờ là quá muộn để chạm đến trái tim người khác, và cũng không bao giờ là vô ích. Bằng cách này, chúng ta làm sáng tỏ thêm một yếu tố quan trọng trong khái niệm hy vọng của Kitô giáo. Hy vọng của chúng ta về cơ bản luôn là hy vọng cho người khác; chỉ có điều như vậy nó mới thực sự là hy vọng cho chính tôi[40]. Là Kitô hữu, chúng ta đừng bao giờ giới hạn bản thân vào việc tự hỏi: làm thế nào tôi có thể cứu mình? Chúng ta cũng nên tự hỏi: tôi có thể làm gì để người khác được cứu và để ngôi sao hy vọng cũng có thể mọc lên cho họ? Khi đó, tôi cũng đã làm hết sức mình cho sự cứu rỗi của chính mình.

 

http://vietcatholic.net/News/Html/298787.htm

BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN CÔNG BỐ VĂN KIỆN VỀ CÁC TƯỚC HIỆU CỦA ĐỨC MẸ

 


Đức Mẹ Maria 

 

Bộ Giáo lý Đức Tin công bố văn kiện về các tước hiệu của Đức Mẹ

Ngày 4/11/2025, Bộ Giáo lý Đức Tin đã công bố “Ghi chú tín lý” về các tước hiệu của Đức Trinh Nữ Maria. Văn kiện mang tựa đề “Mater populi fidelis” (“Mẹ của Dân Thánh Chúa”) được Đức Thánh Cha Lêô XIV phê chuẩn ngày 7/10/2025, tái khẳng định nền tảng Kinh Thánh và truyền thống của lòng sùng kính Đức Mẹ, đồng thời định hướng mục vụ đối với những tước hiệu dễ gây hiểu lầm.

Vatican News

Đây là một văn kiện giáo lý về lòng sùng kính Đức Mẹ, tập trung vào hình ảnh Đức Maria, đấng gắn liền với công trình của Chúa Kitô với tư cách là Mẹ các tín hữu. Văn kiện cung cấp một nền tảng Kinh Thánh quan trọng về lòng sùng kính Đức Maria, cũng như dựa trên những đóng góp khác nhau từ các Giáo Phụ và Tiến Sĩ Hội Thánh, các yếu tố của truyền thống Đông Phương, và tư tưởng của các Giáo Hoàng gần đây.

Trong khuôn khổ tích cực này, tài liệu tín lý phân tích một số tước hiệu của Đức Maria, trân trọng một số tước hiệu trong khi cảnh báo việc sử dụng những tước hiệu khác.

Văn kiện đánh giá cao các tước hiệu như “Mẹ các tín hữu”, “Mẹ thiêng liêng”, “Mẹ của Dân Thánh Chúa”, nhấn mạnh vai trò của Đức Maria như Đấng đồng hành và nâng đỡ dân Chúa. Tuy nhiên, Bộ cũng nhấn mạnh rằng tước hiệu “Đồng Công Cứu Chuộc” là không thích hợp, vì có nguy cơ làm lu mờ vai trò cứu độ độc nhất vô nhị của Đức Giêsu Kitô. Văn kiện lưu ý rằng tước hiệu này từng được một số Giáo hoàng trước đây sử dụng mà không có giải thích đầy đủ, nhưng Công đồng Vaticanô II đã quyết định không sử dụng vì lý do tín lý và đại kết.

Đối với tước hiệu “Mẹ Ban Ơn” hay “Mẹ Trung Gian mọi ơn”, văn kiện thừa nhận có thể được chấp nhận nếu được hiểu theo nghĩa rất chính xác: Đức Maria chỉ trao ban trong tư cách hiệp thông với Đức Kitô, Đấng trung gian duy nhất. Văn kiện cảnh báo việc lạm dụng các biểu thức về Đức Maria như thể Người thay thế hoặc làm dịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, gây hiểu lầm về lòng từ bi của Thiên Chúa.

Văn kiện trích dẫn ý kiến của Đức Hồng y Joseph Ratzinger (sau này là Đức Bênêđictô XVI) về sự thiếu nền tảng Kinh Thánh của tước hiệu “Đồng Công Cứu Chuộc” và cảnh báo những nguy cơ làm suy giảm niềm tin vào trung tâm tính của Đức Kitô trong công trình cứu độ. Đức Hồng Y Ratzinger không phủ nhận rằng có những ý định tốt và những khía cạnh giá trị trong đề xuất sử dụng tước hiệu này, nhưng vẫn cho rằng đó là “thuật ngữ không chính xác”.

Trình bày tài liệu, Đức Hồng y Víctor Manuel Fernández, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, nhấn mạnh lòng đạo đức bình dân rất quý giá, nhưng cần tránh những lạm dụng hoặc xu hướng cổ vũ các tín điều mới gây hoang mang nơi tín hữu, đặc biệt qua truyền thông xã hội.

Văn kiện kêu gọi trung thành với truyền thống chân chính của Giáo hội, nơi mọi lòng sùng kính Đức Maria quy hướng về Đức Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất.

https://www.vaticannews.va/vi/vatican-city/news/2025-11/bo-giao-ly-duc-tin-duc-me-dong-cong-cuu-chuoc-dang-trung-gian.html

ĐỨC THÁNH CHA LÊ-Ô XIV CẦU NGUYỆN TẠI MỘ ĐỨC THÁNH CHA PHAN-XI-CÔ



 Đức Thánh Cha Lêô XIV cầu nguyện tại mộ Đức Thánh Cha Phanxicô

Tối ngày 3/11/2025, trên đường đến Dinh thự Giáo hoàng ở Castel Gandolfo để nghỉ ngơi hàng tuần như thường lệ, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã đến Đền thờ Đức Bà Cả viếng mộ Đức Thánh Cha Phanxicô và cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ là Phần rỗi dân thành Roma.

Vatican News

Đức Thánh Cha đã quỳ xuống và đặt một bó hoa hồng trắng trên ngôi mộ bằng đá cẩm thạch. Đây là một lời tri ân dành cho vị tiền nhiệm của ngài, được chôn cất cạnh Nhà nguyện Phaolô, nơi lưu giữ bức ảnh Salus Populi Romani (Đức Mẹ là Phần rỗi của dân thành Roma) mà Đức cố Giáo Hoàng Phanxicô thường xuyên kính viếng trước và sau mỗi chuyến công du quốc tế hoặc nằm viện.


 

Đức Thánh Cha Lêô XIV cầu nguyện tại mộ Đức Thánh Cha Phanxicô

 

Theo thông tin từ Phòng Báo chí Tòa Thánh, Đức Thánh Cha cũng đã dừng lại cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ trước khi rời Đền thờ Đức Bà Cả lúc khoảng 8:15 tối và tiếp tục hành trình đến Castel Gandolfo.

 


Đức Thánh Cha Lêô XIV cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ

 

Trước đó, sáng cùng ngày 3/11/2025, Đức Thánh Cha đã cử hành Thánh lễ tại Bàn thờ Ngai Tòa trong Đền thờ Thánh Phêrô để cầu nguyện cho Đức cố Giáo hoàng Phanxicô và các Hồng y, Giám mục đã qua đời trong năm qua.

Đây không phải lần đầu tiên Đức Thánh Cha đến cầu nguyện tại Đền thờ Đức Bà Cả. Ngay từ ngày 10/5/2025, hai ngày sau khi được bầu kế vị Thánh Phêrô, trên đường trở về từ Đền thánh Genazzano, Đức Thánh Cha đã viếng mộ Đức Thánh Cha Phanxicô, được rất nhiều tín hữu và khách hành hương viếng thăm hàng ngày. Chiều hôm đó, vị Giáo hoàng mới đắc cử đã đặt hoa lên bia mộ và dừng lại cầu nguyện một lát. Ngài cũng làm như vậy một lần nữa vào ngày 22/6/2025, sau cuộc rước kiệu trọng thể Mình và Máu Thánh Chúa Kitô từ Đền thờ Thánh Gioan Latêranô đến Đền thờ Đức Bà Cả.

 

https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2025-11/dtc-leo-xiv-den-tho-duc-ba-ca-mo-duc-thanh-cha-phanxico.html

THÁNH LỄ CẦU NGUYỆN CHO đgh PHAN-XI-CÔ VÀ CÁC HỒNG Y VÀ GIÁM MỤC

 


Thánh Lễ cầu nguyện cho ĐGH Phanxicô và các Hồng y và Giám mục: Niềm hy vọng Phục sinh soi sáng hành trình Giáo Hội

Sáng thứ Hai ngày 3/11, lúc 11 giờ tại bàn thờ Ngai Tòa của Đền thờ thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã chủ sự Thánh Lễ cầu nguyện cho Đức Giáo hoàng Phanxicô và các Hồng y, Giám mục qua đời trong năm qua. Đức Thánh Cha trích lời của thánh Phanxicô Assisi, “Ngợi khen Chúa, lạy Chúa của con, vì chị chết thân xác”, và cho thấy “tình yêu của Đức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh đã biến đổi cái chết: từ kẻ thù, Người đã khiến nó trở thành chị em, hiền hoà hơn”.

Vatican News

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Anh em Hồng y, Giám mục thân mến,
Anh chị em rất thân mến!

Hôm nay, chúng ta tiếp tục một truyền thống tốt đẹp của Hội Thánh: vào dịp kính nhớ các tín hữu đã qua đời, chúng ta cử hành Thánh Lễ để cầu nguyện cho các Hồng y và Giám mục đã qua đời trong năm vừa qua. Với tất cả lòng quý mến, chúng ta dâng Thánh lễ này đặc biệt cầu nguyện cho linh hồn Đức Giáo hoàng Phanxicô, người đã qua đời sau khi mở Cửa Thánh và ban phép lành Phục sinh cho Roma và toàn thế giới. Nhờ Năm Thánh, Thánh lễ này – cũng là lần đầu tiên đối với tôi – mang một hương vị đặc biệt: hương vị của niềm hy vọng Kitô giáo.

Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe đã soi sáng chúng ta. Trước hết, qua một hình ảnh Kinh Thánh hết sức sống động, có thể xem là tóm kết ý nghĩa toàn bộ Năm Thánh này: trình thuật Tin Mừng Luca về hai môn đệ trên đường Emmau (x. Lc 24,13-35). Ở đó, chúng ta thấy rõ hành trình của niềm hy vọng – vốn diễn ra trong cuộc gặp gỡ với Đức Kitô Phục sinh. Điểm xuất phát là trải qua kinh nghiệm cái chết, và không phải cái chết bình thường, nhưng là cái chết dữ dội, bất công, cướp đi mạng sống của Đấng Vô tội, để lại sự chán chường, tuyệt vọng. Biết bao người – biết bao kẻ “bé mọn”! – ngày nay cũng chịu đựng nỗi đau khủng khiếp ấy, vì tội lỗi đã làm méo mó sự sống.

Đối với cái chết như thế, chúng ta không thể và không được nói "laudato si’", vì Chúa Cha không hề muốn nó, và đã sai Con yêu dấu đến thế gian để giải thoát chúng ta khỏi sự chết. Kinh Thánh viết: “Đức Kitô phải chịu đau khổ như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người” (x. Lc 24,26), để ban cho chúng ta sự sống đời đời. Chỉ mình Người mới có thể mang lấy cái chết hư nát này trên chính mình và trong chính mình mà không bị nó làm hư nát. Chỉ mình Người mới có lời ban sự sống đời đời (x. Ga 6:68) – chúng ta khắc khoải tuyên xưng điều này ngay tại đây, gần Mộ Thánh Phêrô – và những lời này có sức mạnh khơi dậy đức tin và hy vọng trong lòng chúng ta (x. c. 32).

Khi Đức Giêsu cầm tấm bánh – đôi bàn tay từng bị đóng đinh vào thập giá – dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông, thì mắt các ông mở ra, và trong lòng họ nở rộ niềm tin, cùng với niềm hy vọng mới. Vâng! Đó không còn là hy vọng cũ mà họ đã đánh mất. Đó là một thực tại mới, một hồng ân, một ân sủng của Đấng Phục sinh: đó là niềm hy vọng Phục sinh.

Cũng như sự sống của Đức Giêsu phục sinh không còn như trước, mà hoàn toàn mới, do Chúa Cha tác tạo bởi quyền năng Thánh Thần, thì niềm hy vọng của Kitô hữu cũng không phải là hy vọng phàm nhân; không phải của người Hy Lạp hay người Do Thái, không dựa trên sự khôn ngoan triết gia, cũng chẳng dựa vào công lý theo lề luật, nhưng hoàn toàn dựa trên sự thật rằng Đấng chịu đóng đinh đã sống lại và đã hiện ra với ông Simon (x. Lc 24,34), với các phụ nữ và các môn đệ khác. Đó là niềm hy vọng không nhìn vào chân trời trần thế, nhưng vươn xa hơn, hướng về Thiên Chúa, Đấng từ chốn cao vời đã làm mọc lên Mặt Trời Công chính chiếu soi những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần (x. Lc 1,78-79).

Và khi ấy, đúng vậy, chúng ta có thể hát rằng: “Laudato si’, mi Signore, per sora nostra morte corporale” – “Ngợi khen Chúa, lạy Chúa của con, vì chị chết thân xác.” Tình yêu của Đức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh đã biến đổi cái chết: từ kẻ thù, Người đã khiến nó trở thành chị em, hiền lành hơn. Và trước cái chết, chúng ta “không buồn sầu như những người không có niềm hy vọng” (1 Tx 4,13). Chắc chắn, chúng ta đau buồn khi người thân ra đi. Ta bỡ ngỡ, xúc động khi thấy một con người – nhất là trẻ nhỏ, người bé mọn, yếu đuối – bị cướp mất bởi bệnh tật hay bạo lực. Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi vác cùng Chúa những thập giá đời này. Nhưng chúng ta không buồn sầu như những người không còn hy vọng, vì ngay cả cái chết bi thảm nhất cũng không thể ngăn Chúa đón nhận linh hồn chúng ta, và biến đổi thân xác mỏng giòn của chúng ta, dù sứt mẻ đến đâu, nên giống thân xác vinh hiển của Người (x. Pl 3,21).

Vì thế, người Kitô hữu không gọi nơi an nghỉ của người chết là “necropoli” – “thành phố của người chết” – nhưng là “cimitero”, nghĩa là “khu an nghỉ”, nơi tạm nghỉ chờ phục sinh. Như Thánh Vịnh viết: “Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ, vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn.” (Tv 4,9).

Anh chị em thân mến, Đức Giáo hoàng Phanxicô yêu dấu, và các Hồng y, Giám mục mà hôm nay chúng ta dâng Thánh lễ cầu nguyện, đã sống, đã làm chứng và đã dạy niềm hy vọng mới, niềm hy vọng Phục sinh ấy. Chúa đã gọi và đặt các ngài làm mục tử trong Hội Thánh Người, và với sứ vụ ấy – như sách Đanien diễn tả – các ngài đã “dẫn đưa nhiều người về đàng công chính” (x. Đn 12,3), nghĩa là đưa họ vào con đường Tin Mừng, bằng sự khôn ngoan từ Đức Kitô – Đấng đã trở nên sự khôn ngoan, sự công chính, thánh hóa và cứu chuộc (x. 1 Cr 1,30) của chúng ta. Mong sao linh hồn các ngài được tẩy sạch mọi vết nhơ, và được rực rỡ như các vì sao trên trời (x. Đn 12,3). Còn chúng ta, những người còn lữ hành dưới thế, xin được nghe trong thinh lặng lời khích lệ từ các ngài: “Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người, Người là Đấng cứu độ, là Thiên Chúa của tôi” (Tv 42,6.12).

https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2025-11/thanh-le-cau-nguyen-cho-dtc-phanxico-hong-y-giam-muc.html

NOVEMBER 5, 2025: WEDNESDAY OF THE THIRTY-FIRST WEEK IN ORDINARY TIME

 November 5, 2025

Wednesday of the Thirty-first Week in Ordinary Time

Lectionary: 487

 


Reading 1

Romans 13:8-10

Brothers and sisters:
Owe nothing to anyone, except to love one another;
for the one who loves another has fulfilled the law.
The commandments, You shall not commit adultery;
you shall not kill;
you shall not steal;
you shall not covet,

and whatever other commandment there may be,
are summed up in this saying, namely,
You shall love your neighbor as yourself.
Love does no evil to the neighbor;
hence, love is the fulfillment of the law.

 

Responsorial Psalm

Psalm 112:1b-2, 4-5, 9

R. ( 5a) Blessed the man who is gracious and lends to those in need.
or:
R. Alleluia.
Blessed the man who fears the LORD,
who greatly delights in his commands.
His posterity shall be mighty upon the earth;
the upright generation shall be blessed.
R. Blessed the man who is gracious and lends to those in need.
or:
R. Alleluia.
He dawns through the darkness, a light for the upright;
he is gracious and merciful and just.
Well for the man who is gracious and lends,
who conducts his affairs with justice.
R. Blessed the man who is gracious and lends to those in need.
or:
R. Alleluia.
Lavishly he gives to the poor;
his generosity shall endure forever;
his horn shall be exalted in glory.
R. Blessed the man who is gracious and lends to those in need.
or:
R. Alleluia.

 

Alleluia

1 Peter 4:14

R. Alleluia, alleluia.
If you are insulted for the name of Christ, blessed are you,
for the Spirit of God rests upon you.
R. Alleluia, alleluia.

 

Gospel

Luke 14:25-33

Great crowds were traveling with Jesus,
and he turned and addressed them,
"If anyone comes to me without hating his father and mother,
wife and children, brothers and sisters,
and even his own life,
he cannot be my disciple.
Whoever does not carry his own cross and come after me
cannot be my disciple.
Which of you wishing to construct a tower
does not first sit down and calculate the cost
to see if there is enough for its completion?
Otherwise, after laying the foundation
and finding himself unable to finish the work
the onlookers should laugh at him and say,
'This one began to build but did not have the resources to finish.'
Or what king marching into battle would not first sit down
and decide whether with ten thousand troops
he can successfully oppose another king
advancing upon him with twenty thousand troops?
But if not, while he is still far away,
he will send a delegation to ask for peace terms.
In the same way,
everyone of you who does not renounce all his possessions
cannot be my disciple."

https://bible.usccb.org/bible/readings/110525.cfm

 

 


Commentary on Romans 13:8-10

Paul continues his practical advice to the Romans.  The reading may be very short, but its message should be engraved deeply on the heart of every person—Christians and non-Christians alike.  What is striking in this passage is that God or Jesus is not mentioned at all, but both are clearly understood to underlie the statements.

Paul says that the only debt we should incur with others is the debt of love. Because in loving another person, we are fulfilling all the requirements of the law.

The love owed to others is the one debt that can never be paid off.  No matter how much we have loved, we are still under an obligation to keep on loving.  And this love is not only extended to fellow Christians, but must include every other person—including those who wish us harm.  And in doing so, we are not only fulfilling the requirements of the Mosaic Law, but of all law.  If in upholding a particular law, I would violate the law of love, then that law cannot be obeyed.

So, says Paul:

The commandments, “You shall not commit adultery; you shall not murder; you shall not steal; you shall not covet,” and any other commandment, are summed up in this word, “You shall love your neighbor as yourself.”

In the original quotation from Leviticus, ‘neighbour’ meant a fellow-Israelite, but here it is extended to include every other human person, as we see in the parable of the Good Samaritan (Luke 10:25-37). Jesus actually pushed that commandment even further.  At the Last Supper he gave his disciples what he called a ‘new commandment’ when he said:

This is my commandment, that you love one another as I have loved you. (John 15:12)

Here the level of love is extended to match the love of Jesus which led him to “empty himself” and sacrifice his life for every single one of us.

The commandment also presumes that we love ourselves.  Probably, most of us feel that we do, and even feel guilty about being selfish and self-centred.  But that is not real self-love.  Real self-love means the total recognition and acknowledgement of ourselves as we are, including both strengths and weaknesses.  Most of us try to hide our real selves by hiding behind masks and creating an image that will impress others.  That is not a sign of real love of self.  But without a healthy self-love, there is a lack of inner security making it difficult to reach out in love to others.

Paul says that that “love is the fulfilling of the law” because genuine loving can cause no harm to brothers and sisters.  Keeping the law in a legalistic fashion can do a lot of harm.  This is what Jesus had against the Pharisees—they put the Law before love.

Paul’s teaching reminds one of St Augustine’s famous dictum: “Love and do what you like” or St Paul’s own saying, “Love covers a multitude of sins”.  If one’s actions are motivated by a genuine love and concern for the well-being of others, then we cannot go wrong.  A truly loving person is not going to commit adultery, is not going to kill or hurt, is not going to steal, or to cast covetous glances at what belongs to another.

The word for ‘love’ used by Paul is agape—a special kind of love.  It can be defined as “a passionate desire for the well-being of the other”.  It is a unilateral love in the sense that it is given and continues to be given even when there is no response, or even if it is rejected.  It is the love that God extends to all created things and God’s agape is the source of all love in us.  And wherever there is agape, there is God, because God is agape.  That is why Paul can say that all the requirements of our faith are fulfilled, if all our words and actions are motivated by that agape.

Even in our church life, people can become very legalistic and set a lot of store by laws and regulations with very little love being shown.  Many put the Ten Commandments ahead of the law of love.  Yet as Jesus showed with the Pharisees, it is possible to keep the Law without a shred of love.  One can keep many of the Commandments—especially those expressed negatively—by doing absolutely nothing!

But it is only through the love which we show for all those around us that the quality of our Christian life is measured.  It is only by that love that our union with God is manifested.  Observing laws, however exalted, is not enough.  And doing nothing is of no help either. Love involves a constant and unconditional reaching out to all, friends and enemies, young and old, Christian and non-Christian, educated and illiterate, fellow country people and foreigners, close relatives and perfect strangers.

And as has been said, it is striking that God or Jesus are not mentioned in the whole passage.  But the message is clear—I cannot love God and bypass my brothers and sisters, including those most obnoxious. It is no use spending hours in front of the Blessed Sacrament if I am not also constantly reaching out to find and serve Jesus in those around me.  It is not difficult to talk to Jesus in the tabernacle.  It can be much more difficult with some—an unreasonable boss or a rebellious teenage son or an aggressive drug addict.

Finding Christ there and responding to him in such situations is the real test.  At the same time, we thank God for the presence of Jesus in the Blessed Sacrament as it is a wonderful environment for prayer and contemplation, and to reflect on the degree of loving others in our daily lives.

Comments Off

 


Commentary on Luke 14:25-33

Luke’s Gospel is noteworthy for its extremes. On the one hand, it shows the radical and uncompromising demands that Jesus makes on those who would be his followers and, at the same time, emphasises as none of the other Gospels do, the gentleness and compassion of Jesus for the sinful and the weak. Both pictures have always to be kept simultaneously in view and they are in no way contradictory. Today and tomorrow we will see both of these images of Jesus back to back.

In today’s passage we see Jesus, as was often the case, surrounded by a huge crowd of people. They are full of enthusiasm and expectation, but Jesus very quickly pulls them up short. He says:

Whoever comes to me and does not hate father and mother, wife and children, brothers and sisters, yes, and even life itself, cannot be my disciple.

This is a very shocking demand, especially for a society where people’s whole lives were centred on their families.  Luke is alone in asking that even the wife, too, be abandoned, but this is just an example of the totality of our commitment to following Jesus.

However, we have to make two qualifications.  First, the word ‘hate’ is a Semitic expression not to be taken literally.  It could not be so taken, as the whole of Jesus’ teaching is based on love, not only of blood relatives, but of strangers and even enemies.  It is rather a dramatic way of saying that anyone who puts any person, even those closest to them, before total commitment to Christ and his mission is not ready to be a disciple. There can be no compromise here—it is all or nothing.

Second, we also have to say that Jesus is not recommending a literal abandonment of one’s family. That would be highly irresponsible and a violation of that commandment of universal love. But it is clear that, for those who want to be part of Jesus’ work, they have to give themselves completely and unconditionally.  And where there is a choice between the clear call of the gospel and personal attachments, they have to let go of the latter.

It is important for the crowd to hear this. Following Christ is not just like football fans stalking their favourite player or ‘groupies’ following a pop star from city to city.  There is a price to be paid, and they need to know that there is one, and what it is. That price is the cross, a level of sacrifice and suffering—perhaps even of one’s life—that each one must be prepared to undergo for the sake of the gospel and the building of the Kingdom.

So, to illustrate this Jesus gives two examples. The first is of a man who had a plan to build a tower. Before he started, he made sure that he had all the necessary resources. Otherwise he might find that, after laying the foundations, he could not finish the work and he would become the laughing stock of others. “Ha! Ha! He began to build what he could not finish.”

In the second example Jesus speaks of a king with 10,000 soldiers who finds he is going to war with another king who has 20,000. If he thinks there is no way he can win, he will send an emissary to negotiate the best peace terms he can get. Similarly, says Jesus, no one can be a disciple of his who is not ready to let go of everything he has.

Following him has to be absolute and unconditional. How many of the crowd listening were ready for that?  How many of us are ready for that?  Am I ready?  What are the things I am clinging to?  What are the things I cannot let go of?  And why is that?

To be a disciple of Jesus means being absolutely free.  It reminds one of Francis of Assisi leaving his family and taking off all his rich and fancy clothes to replace them with a beggar’s rags, and being filled with a tremendous sense of joy and liberation.  Do I want to be a disciple of Jesus?  To what extent?  Am I ready to pay the price he asks?

The paradox, of course, is that once I pay the price, I will get so much in return. Just ask St Francis or St Teresa of Calcutta (Mother Teresa) about this.

Comments Off

 

https://livingspace.sacredspace.ie/o1314g/

 

 


Wednesday, November 5, 2025

Ordinary Time

Opening prayer

God of power and mercy, only with Your help can we offer you fitting service and praise. May we live the faith we profess and trust Your promise of eternal life.

We ask this through our Lord Jesus Christ, Your Son, who lives and reigns with You and the Holy Spirit, one God, for ever and ever. Amen.

Gospel reading - Luke 14:25-33

Great crowds accompanied Jesus on His way and He turned and spoke to them. "Anyone who comes to Me without hating father, mother, wife, children, brothers, sisters, and yes, his own life, too, cannot be My disciple. No one who does not carry his cross and come after Me can be My disciple.

And indeed, which of you here, intending to build a tower, would not first sit down and work out the cost to see if he had enough to complete it? Otherwise, if he laid the foundation and then found himself unable to finish the work, anyone who saw it would start making fun of him, saying, ‘Here is someone who started to build and was unable to finish.’

Or again, what king marching to war against another king would not first sit down and consider whether with ten thousand men he could stand up to the other who was advancing against him with twenty thousand? If not, then while the other king was still a long way off, he would send envoys to sue for peace. So in the same way, none of you can be my disciple without giving up all that he owns.”

Reflection

      The Gospel today speaks about discipleship and presents the conditions for being a disciple of Jesus. Jesus is on the way to Jerusalem where He will soon die on the Cross. This is the context in which Jesus speaks about discipleship.

      Luke 14:25: An example of catechesis. The Gospel today is a beautiful example of how Luke transforms the words of Jesus into catechesis for the people in the communities. He says, “Great crowds accompanied Him. He turned and spoke to them”. Jesus speaks to the great crowd, that is, He speaks to all, to the persons of the communities at the time of Luke, and today He speaks to us. In the teaching which follows, Jesus gives the conditions for those who want to be His disciples.

      Luke 14:25-26: First condition: to hate father and mother. Some reduce the force of the word to hate and translate it as “to prefer Jesus to one’s own parents”. The original text uses the expression “to hate one’s parents”. In another place, Jesus says one must love and respect one’s parents (Lk 18:20). How can this contradiction be explained? Is it a contradiction? The force of the word is typically Semitic. Matthew uses the terms “loves father or mother more”, which shows the meaning of hate is rather to love less. At the time of Jesus, social and economic conditions led families to become self- contained. This prevented them from fulfilling the law of ransom or liberation (goel) which calls one to help one’s brothers and sisters in community (clan) who were in danger of losing their land or becoming slaves (cf. Deut 15:1-18; Lev 25:23-43). Closed in upon themselves, the families weakened life in the community. Jesus wants to reconstruct life in community. This is why He asks to put an end to the restricted vision of the small family. He asks the family to open itself and be united to the larger family of community. This is the sense of hating father and mother, and wife, sons, sisters and brothers. When His family wants to take Him back to Nazareth, Jesus does not symapthize with their request. He ignores or hates their petition and extends His family, saying, “Behold, my mother and my brothers! Anyone who does the will of God, is my brother, sister and mother” (Mk 3:20-21, 31-35). The familial bonds of union cannot stand in the way of the formation of the Community. This is the first condition.

      Luke 14:27: Second condition: to carry the cross. “No one who does not carry his cross and come after me can be My disciple”. In order to understand the importance of this second requirement we have to look at the context in which Luke places this saying of Jesus. Jesus is going toward Jerusalem to be crucified and to die. To follow Jesus and to carry the cross means to go with Him up to Jerusalem to be crucified with Him. This recalls the attitude of the women who “followed and served Him when He was still in Galilee and many others who went up to Jerusalem with Him” (Mk 15: 41). This also reminds us of Paul’s statement in the Letter to the Galatians: “But as for me, it is out of the question that I should boast at all, except of the cross of our Lord Jesus Christ, through whom the world has been crucified to me, and I to the world” (Gal

6:14)

      Luke 14:28-32: Two parables. Both of these parables have the same objective: that people may think hard before making a decision. In the first parable, He says, “which of you here, intending to build a tower, would not first sit down and work out the cost to see if he had enough to complete it? Otherwise, if he laid the foundation and then found himself unable to finish the work, anyone who saw it would start making fun of him, saying, ‘Here is someone who started to build and was unable to finish!’” This parable needs no explanation. It speaks for itself. Let each one reflect well on his/her way of following Jesus and ask him/herself if he/she values the conditions before making the decision to become a disciple of Jesus.

      The second parable: Or again, “which king marching to war against another king would not first sit down and consider whether with ten thousand men he could stand up to the other who was advancing against him with twenty thousand? If not, then while the other king was still a long way off, he would send envoys to sue for peace”. This parable has the same purpose of the one before. Some ask, “How is it that Jesus uses an example of war?” The question is a pertinent one for us who today know wars. The Second World War (19391945) caused the death of about 54 million people! At that time of Jesus, though, wars were similar to commercial competition between enterprises, which nowadays struggle among themselves to obtain the greatest profit or gain at the expense of the other.

      Luke 14:33: Conclusion for discipleship. The conclusion is only one: to be Christian, to follow Jesus, is something serious. For many people today, to be Christian is not a personal choice, and neither is it a decision for life, but a simple cultural phenomenon. They do not even think of making a choice. Anyone who is born a Brazilian is a Brazilian. He who is born Japanese is Japanese. He does not have to choose. He is born like that and will die like that. Many people are Christians because they were born so, without ever choosing their faith.

Personal questions

      To be a Christian is something serious. I have to think out well my way of following Jesus. How does this take place in my life?

      “To hate one’s parents”, community or family! How do I put these two things together? Am I capable of harmonizing them?

Concluding prayer

Yahweh is my light and my salvation, whom should I fear? Yahweh is the fortress of my life, whom should I dread? (Ps 27:1)

www.ocarm.org

 

05.11.2025: THỨ TƯ TUẦN XXXI THƯỜNG NIÊN

 05/11/2025

 Thứ Tư tuần 31 thường niên

 


Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 13, 8-10

“Yêu thương là chu toàn trọn cả luật”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau. Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn Lề luật. Ðó là: Chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ mê tham, và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình. Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề luật.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 111, 1-2. 4-5. 9

Ðáp: Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong đất nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân.

Xướng: Trong u tối người xuất hiện như sự sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính. Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình.

Xướng: Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang.

 

Alleluia: Cv 16, 14b

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. – Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 14, 25-33

“Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta. Và có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không, kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế diễu người đó rằng: “Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi”.

“Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”.

Ðó là lời Chúa.

 


Chú giải về thư Rô-ma 13,8-10

Phao-lô tiếp tục lời khuyên thiết thực của mình cho người Rô-ma. Bài đọc có thể rất ngắn, nhưng thông điệp của nó nên được khắc sâu vào lòng mỗi người—cả Ki-tô hữu lẫn người không theo Ki-tô giáo. Điều đáng chú ý trong đoạn văn này là Đức Chúa Trời hay Chúa Giê-su không được đề cập đến, nhưng cả hai đều được hiểu rõ ràng là nền tảng của những lời tuyên bố.

Phao-lô nói rằng món nợ duy nhất chúng ta nên mắc phải với người khác là món nợ tình yêu. Bởi vì khi yêu thương người khác, chúng ta đang làm trọn mọi yêu cầu của luật pháp.

Tình yêu thương dành cho người khác là món nợ duy nhất không bao giờ có thể trả hết. Dù chúng ta đã yêu thương bao nhiêu, chúng ta vẫn có nghĩa vụ phải tiếp tục yêu thương. Và tình yêu thương này không chỉ dành cho anh em Ki-tô hữu, mà còn phải bao gồm tất cả mọi người—kể cả những người muốn làm hại chúng ta. Và khi làm như vậy, chúng ta không chỉ đang làm trọn các yêu cầu của Luật pháp Môi-se, mà còn của tất cả các luật pháp. Nếu khi tuân giữ một luật cụ thể, tôi vi phạm luật yêu thương, thì luật đó không thể được tuân giữ.

Vì vậy, Phao-lô nói:

Các điều răn: “Ngươi chớ ngoại tình; chớ giết người; chớ trộm cắp; chớ tham lam,” và bất kỳ điều răn nào khác, đều được tóm tắt trong câu này: “Ngươi phải yêu người lân cận như chính mình.”

Trong trích dẫn gốc từ sách Lê-vi, “người lân cận” có nghĩa là người đồng hương Israel, nhưng ở đây nó được mở rộng để bao gồm tất cả mọi người, như chúng ta thấy trong dụ ngôn về người Sa-ma-ri nhân lành (Lu-ca 10,25-37). Chúa Giê-su thực sự đã đẩy điều răn đó đi xa hơn nữa. Trong Bữa Tiệc Ly, Ngài đã ban cho các môn đồ điều mà Ngài gọi là “điều răn mới” khi Ngài phán:

Đây là điều răn của Ta: Các con hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con. (Gioan 15,12)

Ở đây, mức độ yêu thương được mở rộng để tương xứng với tình yêu của Chúa Giê-su, điều đã khiến Ngài “tự hủy mình” và hy sinh mạng sống mình vì mỗi người chúng ta.

Điều răn này cũng giả định rằng chúng ta phải yêu thương chính mình. Có lẽ, hầu hết chúng ta đều cảm thấy như vậy, và thậm chí còn cảm thấy tội lỗi vì ích kỷ và tự cho mình là trung tâm. Nhưng đó không phải là tình yêu bản thân thực sự. Tình yêu bản thân thực sự có nghĩa là sự nhận thức và thừa nhận toàn bộ con người thật của mình, bao gồm cả điểm mạnh lẫn điểm yếu. Hầu hết chúng ta cố gắng che giấu con người thật của mình bằng cách ẩn sau những chiếc mặt nạ và tạo ra một hình ảnh gây ấn tượng với người khác. Đó không phải là dấu hiệu của tình yêu bản thân thực sự. Nhưng nếu không có tình yêu bản thân lành mạnh, chúng ta sẽ thiếu sự an toàn nội tâm, khiến việc yêu thương người khác trở nên khó khăn.

Tông đồ Phao-lô nói rằng "tình yêu là sự chu toàn lề luật" bởi vì tình yêu chân chính không thể gây hại cho anh chị em. Việc tuân giữ lề luật một cách cứng nhắc có thể gây ra rất nhiều tác hại. Đây chính là điều Chúa Giê-su đã nói với những người Pha-ri-sêu  - họ đặt Luật pháp lên trên tình yêu.

Lời dạy của Phao-lô gợi nhớ đến câu châm ngôn nổi tiếng của Thánh Augustine: "Hãy yêu thương và làm những gì bạn thích" hoặc chính câu nói của Thánh Phao-lô: "Tình yêu che phủ vô số tội lỗi". Nếu hành động của một người xuất phát từ tình yêu thương chân thành và sự quan tâm đến hạnh phúc của người khác, thì chúng ta không thể sai lầm. Một người thực sự yêu thương sẽ không ngoại tình, không giết chóc hay làm hại người khác, không trộm cắp, hay liếc nhìn thèm muốn những gì thuộc về người khác.

Từ ngữ dùng để chỉ “tình yêu” mà Phao-lô dùng là agape—một loại tình yêu đặc biệt. Nó có thể được định nghĩa là “một khát khao cháy bỏng về hạnh phúc của người khác”. Đó là một tình yêu đơn phương theo nghĩa là nó được ban tặng và tiếp tục được ban tặng ngay cả khi không có sự đáp lại, hoặc thậm chí bị từ chối. Đó là tình yêu mà Thiên Chúa dành cho muôn loài thọ tạo, và agape của Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi tình yêu trong chúng ta. Và bất cứ nơi nào có agape, nơi đó có Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa là agape. Đó là lý do tại sao Phao-lô có thể nói rằng mọi yêu cầu của đức tin chúng ta đều được đáp ứng, nếu tất cả lời nói và hành động của chúng ta đều được thúc đẩy bởi agape đó.

Ngay cả trong đời sống hội thánh, người ta có thể trở nên rất tuân thủ luật pháp và coi trọng luật lệ mà không hề thể hiện tình yêu thương. Nhiều người đặt Mười Điều Răn lên trên luật yêu thương. Tuy nhiên, như Chúa Giê-su đã chỉ ra với những người Pha-ri-sêu, chúng ta có thể giữ Luật mà không cần một chút tình yêu thương nào. Người ta có thể giữ nhiều Điều Răn—đặc biệt là những điều được diễn đạt theo cách tiêu cực—bằng cách hoàn toàn không làm gì cả! Nhưng chỉ qua tình yêu thương mà chúng ta dành cho những người xung quanh, chất lượng đời sống Kitô hữu của chúng ta mới được đo lường. Chỉ bằng tình yêu thương đó, sự kết hợp của chúng ta với Thiên Chúa mới được thể hiện. Việc tuân giữ luật pháp, dù có cao quý đến đâu, vẫn chưa đủ. Và không làm gì cả cũng chẳng ích gì. Tình yêu thương bao gồm việc liên tục và vô điều kiện vươn tới tất cả mọi người, bạn bè và kẻ thù, già trẻ, tín đồ Ki-tô và không theo Ki-tô, có học thức và mù chữ, đồng hương và người nước ngoài, họ hàng thân thiết và những người hoàn toàn xa lạ.

Và như đã nói, thật đáng ngạc nhiên khi Chúa hay Chúa Giê-su không được nhắc đến trong toàn bộ đoạn văn. Nhưng thông điệp rất rõ ràng—tôi không thể yêu Chúa mà bỏ qua anh chị em mình, kể cả những người khó chịu nhất. Việc dành hàng giờ trước Thánh Thể cũng chẳng ích gì nếu tôi không liên tục vươn tới để tìm kiếm và phục vụ Chúa Giê-su trong những người xung quanh. Việc trò chuyện với Chúa Giê-su trong nhà tạm không khó. Nhưng điều đó có thể khó khăn hơn nhiều với một số người—một ông chủ vô lý, một cậu con trai tuổi teen nổi loạn hoặc một người nghiện ma túy hung hăng.

Việc tìm thấy Chúa Giê-su ở đó và đáp lại Ngài trong những tình huống như vậy mới là thử thách thực sự. Đồng thời, chúng ta tạ ơn Chúa vì sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vì đây là môi trường tuyệt vời để cầu nguyện và chiêm nghiệm, và để suy ngẫm về mức độ yêu thương người khác trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

 


Chú giải về Luca 14,25-33

Phúc Âm Luca đáng chú ý vì những điểm cực đoan của nó. Một mặt, nó cho thấy những đòi hỏi triệt để và không khoan nhượng mà Chúa Giêsu đặt ra cho những người muốn theo Người, và đồng thời, nhấn mạnh điều mà không một Phúc Âm nào khác làm được, đó là lòng nhân từ và lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu đối với những người tội lỗi và yếu đuối. Cả hai hình ảnh này luôn phải được nhìn nhận đồng thời và chúng không hề mâu thuẫn với nhau. Hôm nay và ngày mai, chúng ta sẽ thấy cả hai hình ảnh này của Chúa Giêsu liên tiếp nhau.

 

Trong đoạn văn hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu, như thường lệ, được bao quanh bởi một đám đông rất lớn. Họ tràn đầy nhiệt huyết và mong đợi, nhưng Chúa Giêsu rất nhanh chóng rút ngắn khoảng cách. Người nói:

Ai đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em, vâng, và thậm chí cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta.

Đây là một đòi hỏi rất đáng sốc, đặc biệt là trong một xã hội mà toàn bộ cuộc sống của con người chỉ xoay quanh gia đình. Luca là người duy nhất yêu cầu cả người vợ cũng phải từ bỏ, nhưng đây chỉ là một ví dụ về sự cam kết trọn vẹn của chúng ta trong việc theo Chúa Giêsu.

Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý hai điều. Thứ nhất, từ “ghét” là một thành ngữ Semit không được hiểu theo nghĩa đen. Không thể hiểu theo nghĩa đen, vì toàn bộ giáo huấn của Chúa Giêsu đều dựa trên tình yêu thương, không chỉ với người thân huyết thống, mà còn với người lạ và thậm chí cả kẻ thù. Đúng hơn, đây là một cách nói đầy kịch tính rằng bất cứ ai đặt bất kỳ người nào, ngay cả những người thân thiết nhất, lên trên sự cam kết trọn vẹn với Chúa Kitô và sứ mệnh của Người thì chưa sẵn sàng để trở thành môn đệ. Không thể có sự thỏa hiệp ở đây—tất cả hoặc không có gì.

Thứ hai, chúng ta cũng phải nói rằng Chúa Giêsu không khuyến khích việc từ bỏ gia đình theo nghĩa đen. Điều đó sẽ rất vô trách nhiệm và vi phạm điều răn về tình yêu thương phổ quát. Nhưng rõ ràng là, đối với những ai muốn tham gia vào công việc của Chúa Giêsu, họ phải dâng hiến bản thân một cách trọn vẹn và vô điều kiện. Và khi có sự lựa chọn giữa lời kêu gọi rõ ràng của phúc âm và những ràng buộc cá nhân, họ phải từ bỏ những ràng buộc cá nhân.

Điều quan trọng là đám đông phải nghe điều này. Đi theo Chúa Kitô không chỉ giống như những người hâm mộ bóng đá theo chân cầu thủ yêu thích của họ hay những "fan cuồng" theo chân một ngôi sao nhạc pop từ thành phố này sang thành phố khác. Có một cái giá phải trả, và họ cần biết rằng có một cái giá, và đó là gì. Cái giá đó là thập tự giá, một mức độ hy sinh và đau khổ—có lẽ thậm chí là cả mạng sống của một người—mà mỗi người phải sẵn sàng chịu đựng vì lợi ích của phúc âm và việc xây dựng Vương quốc.

Vì vậy, để minh họa điều này, Chúa Giê-su đưa ra hai ví dụ. Ví dụ đầu tiên là về một người đàn ông có kế hoạch xây một tòa tháp. Trước khi bắt đầu, ông đã đảm bảo rằng mình có đủ mọi nguồn lực cần thiết. Nếu không, ông có thể nhận ra rằng, sau khi đặt nền móng, ông không thể hoàn thành công việc và ông sẽ trở thành trò cười cho người khác. "Ha! Ha! Ông ta bắt đầu xây dựng những gì ông không thể hoàn thành."

Trong ví dụ thứ hai, Chúa Giê-su nói về một vị vua có 10.000 binh lính, nhưng ông nhận ra mình sắp đi đánh một vị vua khác có 20.000 binh lính. Nếu ông ta nghĩ rằng không có cách nào để chiến thắng, ông ta sẽ cử một sứ giả đến đàm phán những điều khoản hòa bình tốt nhất có thể. Tương tự như vậy, Chúa Giêsu nói, không ai có thể trở thành môn đồ của Người nếu không sẵn sàng từ bỏ mọi thứ mình có.

Việc theo Người phải tuyệt đối và vô điều kiện. Bao nhiêu người trong đám đông đang lắng nghe đã sẵn sàng cho điều đó? Bao nhiêu người trong chúng ta đã sẵn sàng cho điều đó? Tôi đã sẵn sàng chưa? Tôi đang bám víu vào điều gì? Tôi không thể từ bỏ điều gì? Và tại sao lại như vậy?

Trở thành môn đồ của Chúa Giêsu có nghĩa là hoàn toàn tự do. Điều này làm người ta nhớ đến Thánh Phanxicô Assisi đã rời bỏ gia đình, cởi bỏ tất cả những bộ quần áo sang trọng và xa hoa để thay thế bằng những mảnh giẻ rách của người ăn xin, và tràn ngập một cảm giác vui sướng và giải thoát vô cùng. Tôi có muốn trở thành môn đồ của Chúa Giêsu không? Ở mức độ nào? Tôi có sẵn sàng trả cái giá mà Người yêu cầu không?

Nghịch lý, tất nhiên, là một khi tôi trả giá, tôi sẽ nhận lại được rất nhiều. Cứ hỏi Thánh Phanxicô hoặc Thánh Teresa Calcutta (Mẹ Teresa) về điều này.

 

https://livingspace.sacredspace.ie/o1314g/

 


Suy niệm: Hy Sinh Từ Bỏ

Bài Phúc Âm hôm nay có thể được chúng ta đọc và Suy niệm như là một sự giảng dạy thêm từ phía Chúa Giêsu, vừa là một sự lĩnh hội sâu xa thêm từ phía con người chúng ta. Mỗi người chúng ta được Chúa mời gọi hãy nghiêm chỉnh dấn thân theo Ngài với một tâm hồn đã được tự do khỏi mọi ràng buộc.

Liền sau những lời quả quyết về điều kiện căn bản cần có để theo Ngài: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi thì không thể làm môn đệ Tôi", Chúa Giêsu kể thêm hai dụ ngôn mới để nhấn mạnh thêm với các môn đệ rằng đi theo Chúa không thể nào là một hành động nhẹ dạ, nhất thời, tùy hứng nhưng là một hành động, một quyết định nghiêm chỉnh với tinh thần trách nhiệm sau khi đã suy nghĩ kỹ lưỡng, giống như thể người muốn xây một ngọn tháp hay như nhà vua ra trận. Trên con đường từ bỏ này, chúng ta không lẻ loi một mình mà chúng ta đi theo Chúa. Có Chúa làm gương đi trước chúng ta. Và không phải chỉ làm gương đi trước chúng ta mà Ngài còn đến với chúng ta, sống với chúng ta, kết hợp với chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh của Ngài để có thể thực hiện việc hy sinh từ bỏ. "Không Thầy chúng con không thể làm chi được", hãy sống trong tình yêu Thầy như cành nho kết hiệp với cây nho để trổ sinh hoa trái.

Việc từ bỏ thập giá, đau khổ và cả cái chết nữa không phải là những giá trị riêng rẽ từ nơi chúng, mà là những phương thế để đạt đến mục đích để giúp ta trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Chúa Giêsu có quyền đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta và muốn mỗi người chúng ta đặt Ngài vào chỗ ưu tiên, đòi hỏi chúng ta yêu mến Ngài trên hết mọi sự và với hết sức lực của mình, trên cả tình thân gia đình. Và chỉ khi nào chúng ta dám từ bỏ mọi cản trở để yêu mến Ngài trên hết mọi sự, để được đồng hoá với Ngài cách trọn vẹn, thì khi đó chúng ta mới biết đặt những sự vật và con người vào vị trí đúng, biết tôn trọng và yêu thương những sự vật và con người một cách đúng thật trong tình yêu thánh thiện của Chúa.

Lạy Chúa là Ðấng đã kêu gọi chúng con theo Ngài qua con đường thanh luyện và hy sinh.

Xin ban ơn giải thoát chúng con khỏi những gì đang ngăn cản chúng con đến với Chúa. Xin dạy con theo Chúa mỗi ngày một trọn vẹn hơn, không chùn bước trước những thách thức và hy sinh. Xin cho con được cùng vác thập giá với Chúa để được chia sẻ vinh quang Phục Sinh của Chúa.

(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)