Trang

Thứ Tư, 4 tháng 6, 2025

TENS OF THOUSANDS MAKE MARIAN PILGRIMAGE IN VIETNAM

 


More than 10,000 people from the diocese of Da Nang made a pilgrimage to the Shrine of Our Lady of Tra Kieu in Vietnam 

 

Tens of thousands make Marian pilgrimage in Vietnam

To close the month of May and prepare for Pentecost, Catholics from the diocese of Da Nang, Vietnam make a pilgrimage to the site of a Marian apparition.

By Kielce Gussie

To celebrate the conclusion of the Marian month of May, over 10,000 people from the various parishes and communities in the diocese of Da Nang – spanning more than 10,000 square kilometers – made a pilgrimage to the Shrine of Our Lady of Tra Kieu.

An event of faith

According to the Vatican's Fides news agency, the Marian Shrine commemorates an apparition of the Virgin Mary 140 years ago. Local tradition holds that Mary appeared to console, encourage, and help her children in times of difficulty.

Pilgrims took part in the journey on the Solemnity of the Visitation of the Virgin Mary, which Archbishop Joseph Dang Duc, Coadjutor of the Archdiocese of Hue, described as “an event of love, faith, commitment, and service, an opportunity to profess one's faith in the face of the challenges of the present time”.

Double meaning

In addition to marking the end of May, the pilgrimage also served as a means of preparing for the Solemnity of Pentecost on June 8, and it commemorated the Virgin Mary as the “Woman of Pentecost.”

In Vietnam, Catholics make up about 7% of the population (some 7 million people) and boasts a strong devotion to the Virgin Mary. Throughout the month of May, celebrations, prayer vigils, open-air Masses and community rosaries were held at different Marian shrines. 

In honor of Mary’s month, pilgrims visit places where the Virgin appeared to save Catholics during the harsh persecutions throughout the country’s history. For example, people travel to Our Lady of La Vang in the Diocese of Hue, Our Lady of Nui Cui in the Diocese of Xuan Loc, or Our Lady of Tra Kieu in the Diocese of Da Nang asking for Mary’s intercession and protection.

Cradle of Catholicism

Archbishop Dang Duc described the pilgrimage to the Marian shrine of Tra Kieu as “not only an individual act, but a communal act to renew our vocation and mission, since we are all the people of God and we are all walking together in faith, in love, toward evangelization."

The Diocese of Da Nang has long been considered the cradle of Catholicism in southern Vietnam as it has roots to three Jesuit missionaries who arrived in Hoi An in 1615 to evangelize.

In the 17th and 18th centuries, the diocese of Da Nang was one of the main centers of the diocese of Cochinchina in southern Vietnam as a place from where missionaries departed. Vietnam now has their first martyr, Blessed Andrew of Phu Yen, a catechist beatified by Pope St. John Paul II.

https://www.vaticannews.va/en/church/news/2025-06/tens-of-thousands-make-marian-pilgrimage-in-vietnam.html

HỘI NGHỊ QUỐC TẾ "PAX ET BONUM" VÀ RƯỚC NẾN CẦU NGUYỆN CHO HÒA BÌNH

 


Hội nghị quốc tế “PAX ET BONUM” và rước nến cầu nguyện cho hoà bình

Trong khuôn khổ Năm Thánh của các Phong trào, Hiệp hội và Cộng đoàn mới, vào Chúa Nhật ngày 08/6 tới đây, tại Sảnh Pio X nằm trên đường Hoà giải dẫn đến Đền thờ Thánh Phêrô, sẽ diễn ra Hội nghị quốc tế "Pax et Bonum - Xây dựng hòa bình vì công ích trên con đường luật quốc tế", và sau đó là cuộc rước nến cầu nguyện cho hoà bình.

Vatican News

Sự kiện được tổ chức bởi Phong trào Công giáo Tiến hành Ý, Diễn đàn Quốc tế Công giáo Tiến hành và Viện Luật Quốc tế Hoà bình “Giuseppe Toniolo”, và được truyền cảm hứng từ sáng kiến “Một phút cho Hoà bình”, bắt đầu từ năm 2014, để nhớ lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa cựu Tổng thống Israel, ông Shimon Peres, và Chủ tịch Nhà nước Palestine, ông Abu Mazen tại Vườn Vatican, theo mong muốn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô và có sự hiện diện của Đức Thượng Phụ Đại kết Bartolomeo

Hội nghị “Pax et Bonum” thảo luận về giải trừ quân bị và các kịch bản chiến tranh, sẽ bắt đầu lúc 17 giờ 30 Chúa Nhật ngày 8/6 tại Sảnh Pio X. Sau bài phát biểu khai mạc của Đức Hồng Y Pierbattista Pizzaballa, Thượng phụ Công giáo Latinh của Giêrusalem, sẽ có các phần thuyết trình về vai trò của luật pháp quốc tế trong cuộc khủng hoảng chính trị toàn cầu, cùng các lời chứng từ các vùng chiến sự như Ucraina, Burundi, Myanmar, Colombia và Thánh Địa.

Trong cuộc rước nến cầu nguyện cho hòa bình sau đó, diễn ra dọc theo đường Hoà giải và kết thúc tại Quảng trường Pia, sẽ có sự tham dự của Thị trưởng Roma Roberto Gualtieri và Đức Hồng Y Fabio Baggio, Phó Tổng Thư ký Phân bộ Di dân và tị nạn của Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện.

Một cây ô liu và bia kỷ niệm sự kiện sẽ được trao tặng cho Chính quyền thành phố Roma, một cử chỉ nhằm tưởng nhớ cây ô liu đã được trồng tại Vatican năm 2014.

Theo một thông cáo, tại buổi họp báo giới thiệu Hội nghị vào ngày 06/6, đề xuất thành lập Bộ Hòa bình, dự kiến sẽ chính thức trình bày vào ngày 24/6, cũng sẽ được công bố. Dữ liệu về Ngân sách dành cho Phát triển Bền vững năm 2025 của Công giáo Tiến hành Ý cũng sẽ được giới thiệu cho mọi người. Đây là một bức tranh toàn diện về sự phục vụ của tổ chức đối với Giáo hội và Đất nước. Trọng tâm của sự kiện năm nay sẽ là sự tham gia và dân chủ, trong mạch suy tư của Tuần lễ xã hội ở Trieste và kỷ niệm 80 năm giải phóng khỏi phát xít Đức quốc xã.

https://www.vaticannews.va/vi/world/news/2025-06/hoi-nghi-quoc-te-pax-bonum.html

POPE: 'A HALLMARK OF MANY ITALIAN IMMIGRANTS TO US WAS THEIR CATHOLIC FAITH'

 


Pope Leo XIV receives members of the National Italian American Foundation  (@Vatican Media)

 

Pope: 'A hallmark of many Italian immigrants to US was their Catholic faith'

Pope Leo XIV welcomes the National Italian American Foundation in the Vatican on Wednesday morning, recalling that "a hallmark of many who immigrated to the United States from Italy was their Catholic faith," which he says sustained them in difficult moments.

By Deborah Castellano Lubov

"A hallmark of many who immigrated to the United States from Italy was their Catholic faith..., which sustained them in difficult moments, even as they arrived with a sense of hope for a prosperous future in their new country."

With this recollection, Pope Leo XIV welcomed the National Italian American Foundation in the Vatican on Wednesday morning. He received them before his weekly General Audience in St. Peter's Square, on the occasion of the Foundation's 50th anniversary.

Warmly greeting the members of the Foundation's Board of Directors in English, the Holy Father commended their efforts.  

Their faith sustained them

"As you well know," he recognized, "tens of millions of Americans proudly claim their Italian heritage, even if their ancestors arrived in the United States of America generations ago."

Pope Leo thanked them for their work to educate young people regarding Italian culture and history, as well as provide scholarships and other charitable assistance in both countries, which, he said, "helps to maintain a mutually beneficial and concrete connection between the two nations."

Italian immigrants' Catholic faith, he said, was rich with popular piety and devotions that they continued to practice in the United States.

"This faith," Pope Leo insisted, "sustained them in difficult moments, even as they arrived with a sense of hope for a prosperous future in their new country." 

 


Pope Leo receives National Italian American Foundation   (@Vatican Media)

 

Cherish your legacy

The Pope observed the group's visit to the Vatican occurs during the Jubilee Year of hope, inviting them to enjoy the spiritual wealth of Rome, which is "marked by the tombs of the Apostles Peter and Paul as well as many saints who strengthened the Church throughout difficult periods of history."

"In an age beset by many challenges, may this," the Holy Father said, "renew your sense of hope and trust in the future."

Before imparting his Apostolic Blessing, Pope Leo XIV reassured, "I pray that each of you and your families will always cherish the rich spiritual and cultural legacy that you have inherited from those who have gone before you."

 


Pope Leo receives National Italian American Foundation   (@Vatican Media)

 

https://www.vaticannews.va/en/pope/news/2025-06/pope-leo-welcomes-national-italian-american-foundation.html

ĐỨC THÁNH CHA TIẾP PHÁI ĐOÀN "TỔ CHỨC QUỐC GIA NGƯỜI MỸ GỐC Ý"

 


Đức Thánh Cha tiếp phái đoàn “Tổ chức Quốc gia Người Mỹ gốc Ý”

Sáng thứ Tư ngày 04/6/2025, trước buổi tiếp kiến chung ở Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã tiếp phái đoàn của “Tổ chức Quốc gia Người Mỹ gốc Ý", nhân dịp 50 năm thành lập. Ngài nói với khoảng 60 người hiện diện rằng nét đặc trưng của nhiều người di cư từ Ý đến Hoa Kỳ chính là đức tin Công giáo, điều đã nâng đỡ họ trong những lúc khó khăn, ngay cả khi họ đến với niềm hy vọng về một tương lai thịnh vượng ở vùng đất mới.

Vatican News

Tổ chức Quốc gia Người Mỹ gốc Ý là một tổ chức phi lợi nhuận có trụ sở tại Washington, D.C., được thành lập vào năm 1975. Mục tiêu chính của tổ chức là bảo tồn, quảng bá và phát triển di sản văn hóa Ý tại Hoa Kỳ, đồng thời tăng cường mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Ý.

Ngỏ lời với các thành viên của Hội đồng Quản trị của Tổ chức, Đức Thánh Cha nói: “Như anh chị em đã biết, hàng chục triệu người Mỹ tự hào nhận mình có nguồn gốc Ý, dù tổ tiên của họ đã di cư đến Hoa Kỳ từ nhiều thế hệ trước. Công việc của anh chị em là tiếp tục giáo dục giới trẻ về văn hóa và lịch sử Ý, cũng như cung cấp học bổng và các hỗ trợ từ thiện khác ở cả hai quốc gia, giúp duy trì một mối liên kết thiết thực và thiện ích giữa hai quốc gia”.

Đức Thánh Cha nhận xét, một nét đặc trưng của nhiều người di cư từ Ý đến Hoa Kỳ chính là đức tin Công giáo, với những truyền thống phong phú về lòng đạo đức bình dân và các hình thức sùng kính, mà họ tiếp tục thực hành nơi quốc gia mới. Đức tin này đã nâng đỡ họ trong những lúc khó khăn, ngay cả khi họ đến với niềm hy vọng về một tương lai thịnh vượng ở vùng đất mới.

Chuyến viếng thăm của phái đoàn đến Vatican diễn ra trong Năm Thánh Hy Vọng, vì thế Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng đây là thời điểm mong muốn và kỳ vọng những điều tốt đẹp sẽ đến, dù chúng ta không biết điều gì đang chờ đợi ở phía trước.

Ngài nói tiếp: “Trong một thời đại nhiều thách đố, mong rằng thời gian anh chị em hiện diện tại nơi đây, một thành phố được đánh dấu bởi các ngôi mộ của các Thánh Tông Đồ và của nhiều vị thánh đã củng cố Giáo hội qua những giai đoạn lịch sử khó khăn, sẽ canh tân nơi anh chị em niềm hy vọng và sự tín thác vào tương lai”.

Cuối cùng, Đức Thánh Cha cho biết ngài cầu nguyện để mỗi người và gia đình của họ luôn biết trân quý di sản văn hóa và tâm linh phong phú mà họ đã thừa hưởng từ những bậc tiền nhân.

https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2025-06/dtc-to-chuc-quoc-gia-nguoi-my-goc-y.html

POPE AT AUDIENCE: LOOKING FOR MEANING IN LIFE? TURN TO GOD

 


Pope Leo XIV at General Audience  (@Vatican Media)

 

Pope at Audience: Looking for meaning in life? Turn to God

During his weekly General Audience, Pope Leo XIV reminds the faithful that God waits for us with open arms, no matter how late we are in responding to His call, and also reminds young people that if they are seeking meaning in Life, God will offer it to them and never disappoint.

By Deborah Castellano Lubov

"God never gives up on us; he is always ready to accept us and give meaning and hope to our lives, however hopeless our situation may seem and however insignificant our merits may appear. "

Pope Leo XIV gave this comforting reminder during his weekly Wednesday General Audience in the Vatican as he continued his catechetical series on 'Jesus Christ Our Hope" for the Jubilee Year.

This week, the Pope recalled Jesus’ Parable of the workers of the last hour, in the Gospel passage according to St. Matthew, in which the landowner who gives the same wage even to the workers of the eleventh hour, to those who arrived much later than the others, illustrating the Lord's immense mercy.

In his catechesis, Pope Leo recalled how the workers hired first are disappointed and unable of seeing the beauty of the landowner’s gesture, but, the Pope explained, "He wasn’t unfair—he was simply generous. He didn’t look only at merit, but also at need."

 


Pope Leo XIV at General Audience   (@Vatican Media)

 

God wants to give everyone full life

The Parable, the Pope suggested, challenges us to examine what is truly just.

For the owner of the vineyard, "that is, for God," the Holy Father expressed, justice means that everyone receives what they need in order to live, while likewise observing that He called the workers personally, knows their dignity, and wants to pay them according to that dignity.

God, Pope Leo went on to marvel, wants to give everyone His Kingdom, with "a life that is full, eternal, and joyful."

"And that," he highlighted, "is exactly what Jesus does with us: He doesn’t rank us." And "to anyone who opens their heart to Him," Pope Leo insisted, "He gives all of Himself."

In light of this Parable, Pope Leo acknowledged that a Christian nowadays might be tempted to think, “Why start working right away? If the reward is the same, why work more?,” observing that St. Augustine responded to these doubt, saying: “Why then do you delay to follow the one who calls you, when you are sure of the reward but uncertain of the day? Be careful not to deprive yourself, through your delay, of what He will give you according to His promise.”

Roll up your sleeves, God won't disappoint you

Before concluding, Pope Leo said he wished to say something to the faithful, and especially the young people.

"Don’t wait, but respond with enthusiasm to the Lord who calls us to work in His vineyard," he underscored, adding, "Don’t postpone—roll up your sleeves, because the Lord is generous and you won’t be disappointed!"

God will answer what is the meaning of your life

By working in God's "vineyard," Pope Leo XIV underscored, "you will find an answer to that deep question you carry within you: what is the meaning of my life?"

Therefore, the Pope stressed, "let’s not be discouraged! Even in the dark moments of life, when time passes without giving us the answers we seek, let us ask the Lord to come out again and find us where we are waiting for Him," for "He is generous, and He will come soon!"

 


Pope Leo XIV blessing baby at General Audience   (@Vatican Media)

 

https://www.vaticannews.va/en/pope/news/2025-06/pope-leo-xiv-general-audience-4-june.html

TIẾP KIẾN CHUNG NGÀY 4/6/2025 - ĐTC LÊ-Ô XIV: ĐÁP LẠI TIẾNG CHÚA KÊU GỌI CHÚNG TA SẼ TÌM THẤY Ý NGHĨA CHO CUỘC SỐNG

 


Tiếp kiến chung ngày 4/6/2025 - ĐTC Lêô XIV: Đáp lại tiếng Chúa kêu gọi chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa cho cuộc sống

Trong buổi Tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 4/6/2025, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu, đặc biệt là những người trẻ tuổi, hãy quảng đại và nhiệt tình đáp lại lời kêu gọi của Chúa để làm việc trong vườn nho của Người với nhận thức rằng khi làm việc cùng Người, chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống và sẽ không phải thất vọng.

Vatican News 

Suy tư về dụ ngôn ông chủ vườn nho, Đức Thánh Cha giải thích rằng những thợ làm vườn nho chưa được thuê giống những người không tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống, những người cảm thấy mình là kẻ thất bại hoặc bị coi thường. Người chủ vườn nho đi ra ngoài rất sớm để đích thân tìm kiếm những người làm công, quan tâm đến nhu cầu của họ hơn là khả năng làm việc của họ là hình ảnh của Chúa Cha, Đấng luôn ra đi tìm kiếm những ai đến với Người.

Tình yêu và lòng quảng đại của Thiên Chúa ban thưởng dồi dào cho những ai, dù muộn màng, đáp lại lời mời gọi của Người để chia sẻ vương quốc của sự sống viên mãn và vĩnh cửu. Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ chúng ta; Người luôn sẵn sàng đón nhận chúng ta và mang lại ý nghĩa và hy vọng cho cuộc sống của chúng ta, dù hoàn cảnh của chúng ta có vẻ vô vọng và công trạng của chúng ta có vẻ tầm thường đến đâu.

Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu, đặc biệt là những người trẻ tuổi, hãy quảng đại và nhiệt tình đáp lại lời kêu gọi của Chúa để làm việc trong vườn nho của Người với nhận thức rằng khi làm việc cùng Người, chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống và sẽ không phải thất vọng.

Tin Mừng Thánh Mátthêu 20,1-7:

[Chúa Giêsu nói:] “Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng chín giờ sáng, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: ‘Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng’. Họ liền đi. Khoảng giữa trưa, rồi khoảng ba giờ chiều, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng năm giờ chiều, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: ‘Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?’ Họ đáp: ‘Vì không ai mướn chúng tôi’. Ông bảo họ: ‘Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!’"

Bài giáo lý của Đức Thánh Cha

Chúa muốn giúp chúng ta nhận ra giá trị cuộc sống của mỗi người

 Anh chị em thân mến,

Tôi muốn suy tư thêm về một dụ ngôn của Chúa Giêsu. Đây cũng là câu chuyện nuôi dưỡng hy vọng của chúng ta. Thực tế là đôi khi chúng ta cảm thấy mình không thể tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống: chúng ta cảm thấy mình vô dụng, bất tài, giống như những người lao động đang chờ đợi ở phố chợ, chờ đợi ai đó thuê họ làm việc. Nhưng đôi khi thời gian trôi qua, cuộc sống trôi qua và chúng ta không cảm thấy được công nhận hoặc trân trọng. Có lẽ chúng ta đã không đến kịp lúc, có người khác đến trước chúng ta, hoặc những vấn đề đã cản trở chúng ta ở nơi nào đó.

Hình ảnh ẩn dụ về phố chợ cũng rất phù hợp với thời đại chúng ta, bởi vì chợ là nơi kinh doanh, nơi mà tiếc thay, cả tình cảm và phẩm giá cũng bị mua bán, với nỗ lực kiếm được lợi nhuận gì đó. Và khi chúng ta không cảm thấy được trân trọng, công nhận, chúng ta thậm chí có nguy cơ bán chính mình cho người trả giá đầu tiên. Ngược lại, Chúa nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống của chúng ta rất đáng giá và Người mong muốn giúp chúng ta khám phá ra điều đó.

Cuộc sống của chúng ta luôn có ý nghĩa bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta

Ngay cả trong dụ ngôn mà chúng ta đang suy ngẫm hôm nay cũng có những người thợ đang chờ đợi ai đó thuê họ làm việc trong ngày. Chúng ta đang ở chương 20 của Phúc Âm Thánh Mátthêu và ở đây chúng ta cũng thấy một nhân vật có cách hành xử khác thường, khiến chúng ta ngạc nhiên và thách đố chúng ta. Đó là ông chủ vườn nho, người đích thân đi ra ngoài tìm kiếm những người thợ. Rõ ràng là ông muốn thiết lập mối quan hệ cá nhân với họ.

Như tôi đã nói, đây là một dụ ngôn mang lại hy vọng, bởi vì nó cho chúng ta biết rằng người chủ vườn nho này đã ra đi nhiều lần để tìm kiếm những người đang chờ đợi mang lại một ý nghĩa cho cuộc sống của họ. Người chủ đi ra ngay từ lúc rạng sáng và sau đó, cứ ba tiếng lại quay lại tìm người làm việc cho vườn nho của mình. Theo trình tự này, sau khi ra ngoài lúc ba giờ chiều, sẽ không có lý do gì để ra ngoài lần nữa, vì ngày làm việc kết thúc vào lúc sáu giờ.

Ông chủ này không biết mệt mỏi, ông muốn bằng mọi giá mang lại giá trị cho cuộc sống của mỗi chúng ta, thậm chí còn đi ra ngoài lúc năm giờ chiều. Những người thợ còn lại ở phố chợ có lẽ đã mất hết hy vọng. Ngày hôm đó thật là lãng phí. Nhưng vẫn có người tin vào họ. Việc chỉ thuê nhân công cho giờ làm việc cuối cùng của ngày có ý nghĩa gì? Làm việc chỉ một giờ thì có ích gì? Tuy nhiên, ngay cả khi có vẻ như chúng ta chẳng làm được gì nhiều trong cuộc sống, thì điều đó vẫn luôn quý giá. Luôn có khả năng tìm thấy ý nghĩa, bởi vì Thiên Chúa yêu cuộc sống của chúng ta.

Công bằng: Mỗi người có đủ những điều cần thiết

Và ở đây, nét độc đáo của ông chủ này cũng được thể hiện vào cuối ngày, khi đến giờ trả công. Với những người làm việc đầu tiên, những người đến vườn nho vào lúc rạng sáng, người chủ đã thỏa thuận trả một quan tiền, là giá thông thường cho một ngày làm việc. Với những người khác, ông nói rằng ông sẽ trả lương cho họ công bằng. Và chính ở đây dụ ngôn này lại đặt câu hỏi với chúng ta một lần nữa: điều gì là công bằng? Đối với người chủ vườn nho, tức là đối với Thiên Chúa, việc mỗi người có đủ những gì cần thiết để sống là điều công bằng. Ông đã đích thân gọi những người thợ, ông hiểu phẩm giá của họ và muốn trả công cho họ xứng đáng. Và ông trả mỗi người một quan tiền.

Câu chuyện kể rằng những người làm việc giờ đầu tiên đã thất vọng: họ không thể nhận thấy được vẻ đẹp trong cử chỉ của người chủ, người không hề bất công mà chỉ đơn giản là rộng lượng, người không chỉ nhìn vào công lao mà còn vào nhu cầu. Thiên Chúa muốn ban cho mọi người Vương quốc của Người, tức là cuộc sống trọn vẹn, vĩnh cửu và hạnh phúc. Và đây chính là điều Chúa Giêsu làm với chúng ta: Người không thiết lập thứ hạng, nhưng trao ban chính mình cách trọn vẹn cho tất cả những ai mở lòng đón nhận Người.

Đừng trì hoãn đáp lại tiếng Chúa

Dựa trên dụ ngôn này, Kitô hữu ngày nay có thể bị cám dỗ mà nghĩ rằng “Vậy tại sao phải bắt đầu làm việc ngay từ sớm? Nếu mức lương vẫn như nhau, thì tại sao phải làm nhiều hơn?” Thánh Augustino đã trả lời cho những nghi ngờ này như sau: "Tại sao bạn lại trì hoãn việc theo Đấng gọi bạn, trong khi bạn chắc chắn về phần thưởng, nhưng lại không chắc chắn về ngày giờ? Hãy chú ý để bạn không bị tước mất những gì Người đã hứa với bạn do sự trì hoãn của bạn"[1].

Tôi muốn nói, đặc biệt với những người trẻ, rằng đừng chờ đợi, nhưng hãy nhiệt tình trả lời Chúa, Đấng kêu gọi chúng ta làm việc trong vườn nho của Người. Đừng chần chừ, hãy xắn tay áo lên, bởi vì Chúa rất rộng lượng và bạn sẽ không phải thất vọng! Khi làm việc trong vườn nho của Người, bạn sẽ tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi sâu sắc mà bạn mang trong lòng mình: cuộc sống của tôi có ý nghĩa gì?

Anh chị em thân mến, chúng ta đừng nản lòng! Ngay cả trong những khoảnh khắc đen tối của cuộc sống, khi thời gian trôi qua mà không mang lại cho chúng ta câu trả lời mà chúng ta tìm kiếm, chúng ta hãy cầu xin Chúa một lần nữa xuất hiện và đưa chúng ta đến nơi mà chúng ta đang chờ đợi Người. Người rất quảng đại và sẽ sớm đến!

[1] Discorso 87, 6, 8.

 

https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2025-06/tiep-kien-chung-04-06-2025.html

JUNE 5, 2025: MEMORIAL OF SAINT BONIFACE, BISHOP AND MARTYR

 

June 5, 2025


 

Memorial of Saint Boniface, Bishop and Martyr

Lectionary: 300

 

Reading 1

Acts 22:30; 23:6-11

Wishing to determine the truth
about why Paul was being accused by the Jews,
the commander freed him
and ordered the chief priests and the whole Sanhedrin to convene.
Then he brought Paul down and made him stand before them.

Paul was aware that some were Sadducees and some Pharisees,
so he called out before the Sanhedrin,
"My brothers, I am a Pharisee, the son of Pharisees;
I am on trial for hope in the resurrection of the dead."
When he said this,
a dispute broke out between the Pharisees and Sadducees,
and the group became divided.
For the Sadducees say that there is no resurrection
or angels or spirits,
while the Pharisees acknowledge all three.
A great uproar occurred,
and some scribes belonging to the Pharisee party
stood up and sharply argued,
"We find nothing wrong with this man.
Suppose a spirit or an angel has spoken to him?"
The dispute was so serious that the commander,
afraid that Paul would be torn to pieces by them,
ordered his troops to go down and rescue Paul from their midst
and take him into the compound.
The following night the Lord stood by him and said, "Take courage.
For just as you have borne witness to my cause in Jerusalem,
so you must also bear witness in Rome."

 

Responsorial Psalm

Psalm 16:1-2a and 5, 7-8, 9-10, 11

R.(1) Keep me safe, O God; you are my hope.
or:
R. Alleluia.
Keep me, O God, for in you I take refuge;
I say to the LORD, "My Lord are you."
O LORD, my allotted portion and my cup,
you it is who hold fast my lot.
R. Keep me safe, O God; you are my hope.
or:
R. Alleluia.
I bless the LORD who counsels me;
even in the night my heart exhorts me.
I set the LORD ever before me;
with him at my right hand I shall not be disturbed.
R. Keep me safe, O God; you are my hope.
or:
R. Alleluia.
Therefore my heart is glad and my soul rejoices,
my body, too, abides in confidence;
Because you will not abandon my soul to the nether world,
nor will you suffer your faithful one to undergo corruption.
R. Keep me safe, O God; you are my hope.
or:
R. Alleluia.
You will show me the path to life,
fullness of joys in your presence,
the delights at your right hand forever.
R. Keep me safe, O God; you are my hope.
or:
R. Alleluia.

 

Alleluia

John 17:21

R. Alleluia, alleluia.
May they all be one as you, Father, are in me and I in you,
that the world may believe that you sent me, says the Lord.
R. Alleluia, alleluia.

 

Gospel

John 17:20-26

Lifting up his eyes to heaven, Jesus prayed saying:
"I pray not only for these,
but also for those who will believe in me through their word,
so that they may all be one,
as you, Father, are in me and I in you,
that they also may be in us,
that the world may believe that you sent me.
And I have given them the glory you gave me,
so that they may be one, as we are one,
I in them and you in me,
that they may be brought to perfection as one,
that the world may know that you sent me,
and that you loved them even as you loved me.
Father, they are your gift to me.
I wish that where I am they also may be with me,
that they may see my glory that you gave me,
because you loved me before the foundation of the world.
Righteous Father, the world also does not know you,
but I know you, and they know that you sent me.
I made known to them your name and I will make it known,
that the love with which you loved me
may be in them and I in them."

 

https://bible.usccb.org/bible/readings/060525.cfm

 


Commentary on Acts 22:30; 23:6-11

We are now coming to the end of Paul’s Third Missionary Journey. Events are moving very fast as we have to finish Acts in the next three days! And a great deal is happening, much of which will have to be passed over. To fully understand, it might be a very good idea to take up a New Testament and read the full text of the last eight chapters of Acts.

As we begin today’s reading let us be filled in a little on what has happened between yesterday’s reading and today’s. After bidding a tearful farewell to his fellow-Christians in Ephesus, Paul and his companions began their journey back to Palestine, making a number of brief stops on the way—Cos, Rhodes, Patara. They by-passed Cyprus and landed at Tyre in Phoenicia. They stayed there for a week, during which time the brethren begged Paul not to go on to Jerusalem. They knew there would be trouble. But there was no turning back for Paul and again there was an emotional parting on the beach.

As Paul moved south, there was a stop at Ptolemais, where they greeted the community. Then it was on to Caesarea where Paul stayed in the house of Philip, the deacon, now called “the evangelist” (earlier we saw him do great evangelising work in Samaria and he was the one who converted the Ethiopian eunuch). Here too there was an experience in which Paul was warned by a prophet in the community of coming suffering. Again they all begged him not to go on, but he replied:

…I am ready not only to be bound but even to die in Jerusalem for the name of the Lord Jesus.

This was accepted as God’s will, and they let him go.

When they arrived in Jerusalem they received a warm welcome from the community there and went to pay a formal visit to James, the leader in the Jerusalem church. They were very happy to hear of all that Paul had done, but they were also concerned (and their concern would seem to indicate that there were some in the city who had not fully accepted the non-application of Jewish law for Gentiles).

The local Jews (including, it seems, the Christians) would have heard how Paul, also a Jew, had been telling Jews in gentile territory to “abandon Moses”, that is, he was not requiring them to circumcise their children or observe other Jewish practices. Some suggested a tactic for Paul to assuage the feelings of these people. On behalf of four members of the Jerusalem community, he was to make the customary payment for the sacrifices offered at the termination of the Nazirite vow (see Numbers 6:1-24) in order to impress favourably the Jewish Christians in Jerusalem with his high regard for the Mosaic Law. Since Paul himself had once made such a vow (when he was leaving Corinth, Acts 18:18), his respect for the law would be publicly known. Paul agreed with this suggestion and did as he was asked.

However, as the seven days stipulated were coming to an end, Paul was spotted by some Jews who had known him in Ephesus. A mob rushed into the Temple and seized him, and might have harmed him, if the Roman commander had not seen the riot. He rescued Paul, then arrested him and put him in chains and thus out of the reach of those wanting to harm him.

It was only after the arrest that the commander realised the Greek-speaking Paul was not an Egyptian rebel. Paul then asked to be allowed to address the crowd and, in a longish speech, told the assembled Jews the story of his conversion on the road to Damascus (the second time the story is told in Acts; it will be told again in chapter 26). At the end of the speech, the crowd bayed for his blood and Paul was about to be flogged in order to find out why the Jews wanted him executed. At this point, Paul revealed to the centurion that he was a Roman citizen and that, unlike the garrison commander who had bought his citizenship, he had been born one. This created great alarm among his captors and he was released.

The Roman commander then ordered a meeting of the Sanhedrin to be convened so that Paul could address them. While those of the high priestly line were mainly Sadducees, the Sanhedrin also now included quite a number of Pharisees. This council was the ruling body of the Jews. Its court and decisions were respected by the Roman authorities. Roman approval was needed, however, in cases of capital punishment (as happened in the case of Jesus). Paul’s being brought before the Sanhedrin was already foretold by Jesus to his disciples (see Matt 10:17-18). Paul, in time, will appear before “councils, governors and kings”.

He began by telling them that everything he had done was with a perfectly clear conscience. On hearing this, the high priest Ananias ordered that Paul be struck in the mouth. It was not unlike his Master being struck on the face during his trial. Paul hit back verbally:

…God will strike you, you whitewashed wall. (Acts 23:2)

He said this because, although Ananias was supposedly sitting in judgement according to Mosaic Law, he was breaking the law by striking the accused. Josephus, the Jewish historian, tells us that Ananias was actually assassinated in AD 66 at the beginning of the First Jewish Revolt. When Paul is accused of reviling the high priest, he said he did not realise Ananias was the high priest and apologised.

It is at this point that today’s reading begins—and it is one of the most dramatic scenes in Acts. Paul knew his audience and he decided at the very beginning to make a preemptive strike. He professed loudly and with pride that he was a Pharisee, knowing that his audience consisted of both Pharisees and Sadducees.

Addressing his words specially to the Pharisees, he said:

I am on trial concerning the hope of the resurrection of the dead.

That was not quite the whole story, of course, as he made no mention of Christ, but it immediately put him on the side of his fellow-Pharisees. As Paul had told the Corinthians in one of his letters, if Christ was not risen from the dead, neither could we rise and there would be no basis for our faith. The hope of a future life was at the very heart of his Christian preaching.

That, of course, is not what the Pharisees heard. They immediately latched on to the fact that Paul, as a fellow-Pharisee held a belief that was denied by the Sadducees. The Sadducees only accepted as divine revelation the first five books of the Bible, what we call the Pentateuch. The resurrection of the body (in 2 Maccabees) and the doctrine of angels (in the book of Tobit) did not become part of Jewish teaching until a comparatively late date. On both these issues, however, Paul (a Pharisee himself) and the Pharisees were in full agreement.

In the first five books of the Old Testament, there is no mention of a future resurrection, nor spirits, nor angels. It was on the basis of this belief that the Sadducees had challenged Jesus about the fate of a woman who had married seven brothers (see Luke 20:27-38 and Matt 22:25-32). If there is a resurrection, which of the seven would be her husband? For those who did not believe in life after death, the question was nonsense.

Paul’s words on resurrection immediately diverted attention from him to this contentious dividing point between the Pharisees and the Sadducees.

All of a sudden the Pharisees made an about-turn saying:

We find nothing wrong with this man.

And, in a deliberate provocation to the Sadducees who also did not believe in angels, the Pharisees said:

What if a spirit or an angel has spoken to him?

This could be a reference to Paul’s account to them earlier of his experience on the road to Damascus.

All objectivity was forgotten and the Pharisees, despite their earlier protestations, sided with Paul, ‘their man’, and a brawl ensued. It got so serious—and, remember, these were all ‘religious’ men!—that the tribune, fearing Paul would be torn to pieces, came to his rescue and put him back in the fortress.

That night, Paul received a vision in which he was assured that he would be protected in Jerusalem because it was the Lord’s wish that he give witness to the gospel in Rome.

Perhaps Paul’s behaviour in this situation is a good example of Jesus’ advice to his disciples to be simple as doves and as wise as serpents! Paul was more than ready to suffer for his Lord, but he was no pushover.

While we, too, are to be prepared to give witness to our faith even with the sacrifice of our lives, and never to indulge in any form of violence against those who attack us, we are not asked to go out of our way to invite persecution or physical attacks. That is not the meaning of the injunction to carry our cross. Jesus himself often took steps to avoid trouble.

Joan of Arc defended herself as did Thomas More and, indeed as Jesus himself did during his trial:

If I have spoken wrongly, testify to the wrong. But if I have spoken rightly, why do you strike me? (John 18:23)

But, like them, we will try never to evade death or any other form of hostility by compromising the central teaching of our faith.

Comments Off

 


Commentary on John 17:20-26

In this final part of Jesus’ prayer during his discourse to his disciples at the Last Supper, Jesus now prays for all those who came to believe in Christ as Lord through the influence of these very disciples down through the ages. Each one of us is among those Jesus is praying for here.

In this prayer, Jesus prays above all for unity among his disciples as the most effective sign of witness. As he had told his disciples earlier on in the discourse:

By this everyone will know that you are my disciples, if you have love for one another. (John 13:35)

He now prays that we may display the same unity among ourselves and with Jesus as that which binds Jesus and the Father.  It is through the love that Christians, coming as they do from so many ethnic groups and all classes of people, show for each other that they give the most effective witness to the message of Christ. He asks:

…that they may become completely one, so that the world may know that you have sent me and have loved them even as you have loved me.

It is said that, in the early Church, people marvelled, “See those Christians, how they love each other.”  In a world divided along so many lines, people were amazed to see Jews and Greeks, men and women, slaves and freemen, rich and poor sharing a common community life in love and forgiveness and mutual support.  It clearly would lead people to ask what was the secret of this group.

Is that the witness that we are giving today? What do people see when they look at our parishes? What do they see when they look at our families? What are they to think of the painful divisions of so many groups who claim Jesus as their Lord?  How can we maintain such divisions in the face of these words of Jesus?

Obviously, we all have much to think and pray about regarding our ‘spiritual’ life and the impact we make in drawing people to Christ (and that includes bringing back many who have left in confusion and disillusionment).

So let us make our own the last words of Jesus’ prayer today:

I made your name known to them [his disciples], and I will make it known, so that the love with which you have loved me may be in them and I in them.

Comments Off

 

https://livingspace.sacredspace.ie/e1075g/

 


Thursday, June 5, 2025

Opening Prayer

Father of our Lord Jesus Christ and Father of all people, we believe in You

and we know that You loved Jesus with a deep and trusting, lasting love. Let Your Holy Spirit pour out this love into the hearts of all those who believe in Jesus, our Savior and shepherd.

Let this love unite us in one common bond of understanding and respect for one another and let that love lead us

to live for one another and to serve one another for the sake of Jesus Christ our Lord.

Gospel Reading - John 17: 20-26

Lifting up his eyes to heaven, Jesus prayed saying: "I pray not only for these, but also for those who will believe in me through their word, so that they may all be one, as you, Father, are in me and I in you, that they also may be in us, that the world may believe that you sent me. And I have given them the glory you gave me, so that they may be one, as we are one, I in them and you in me, that they may be brought to perfection as one, that the world may know that you sent me, and that you loved them even as you loved me. Father, they are your gift to me. I wish that where I am they also may be with me, that they may see my glory that you gave me, because you loved me before the foundation of the world. Righteous Father, the world also does not know you, but I know you, and they know that you sent me. I made known to them your name and I will make it known, that the love with which you loved me may be in them and I in them."

Reflection

Today’s Gospel gives us the third and last part of the Priestly Prayer, in which

Jesus looks toward the future and manifests His great desire for unity among us, His disciples, and that all may remain in the love which unifies, because without love and without unity we do not deserve credibility.

           John 17: 20-23: So that the world may believe it was You who sent Me. Jesus expands the horizon and prays to the Father: “I pray not only for these but also for those who through their teaching will come to believe in Me. May they all be one, just as, Father, You are in Me and I am in You, so that they also may be in Us, so that the world may believe it was You who sent Me.” Behold, here emerges Jesus’ great concern for unity which should exist in the communities. Unity does not mean uniformity, but rather to remain in love, in spite of tensions and conflicts. A love which unifies to the point of creating, among all, a profound unity like the unity which exists between Jesus and the Father. The unity in love revealed in the Trinity is the model for the communities. For this, through love among people, the communities reveal to the world the most profound message of Jesus. People said of the first Christians, “See how they love one another!” The present-day division among the three religions which came from Abraham is really tragic: the Jews, the Christians and the Muslims. And even more tragic is the division among us Christians who say that we believe in Jesus. If we are divided, we do not deserve credibility. Ecumenism is at the center of the last prayer of Jesus to the Father. It is His testament. To be a Christian and not be ecumenical is a contradiction. It means to contradict the last Will of Jesus.

           John 17: 24-26: “So that the love with which You loved Me may be in them.” Jesus does not want to remain alone. He says, “Father, I want those You have given Me to be with Me where I am so that they may always see My glory, which You have given Me, because You loved Me before the foundation of the world.” Jesus is happy when we are all together with Him. He wants His disciples to have the same experience of the Father which He had. He wants us to know the Father and that He knows us. In the Bible, the word to know is not limited to a rational theoretical knowledge but presupposes the experience of the presence of God living in love with the people of the community.

           That they may be one as We are one. (Unity and Trinity in the Gospel of John) The Gospel of John helps us to understand the mystery of the Trinity, the communion among the three Divine Persons: the Father, the Son and the Spirit. Of the four Gospels, John is the one which puts more stress on the profound unity among the Father, the Son and the Spirit. From the text of John (Jn 17: 6-8) we see that the mission of the Son is the supreme manifestation of the love of the Father. And this unity between the Father and the Son makes Jesus exclaim, “The Father and I are one” (Jn 10: 30). Between the Son and the Father there is such an intense unity that one who sees the face of one also sees the face of the other. And fulfilling this mission of unity received from the Father, Jesus reveals the Spirit. The spirit of Truth comes from the Father (Jn 15: 26). At the bidding of the Son (Jn 14: 16), the Father sends the Spirit to each one of us in such a way that He will remain with us, encouraging us and giving us strength. The Spirit also comes to us from the Son (Jn 16: 7-8). Thus, the Spirit of Truth, who journeys with us, is the communication of the profound unity which exists between the Father and the Son (Jn 15: 26-27). The Spirit cannot communicate a truth which is different from the truth of the Son. Everything which is in relationship with the mystery of the Son, the Spirit makes known to us (Jn 16: 13-14). This experience of unity in God was very strong in the communities of the Beloved Disciple. The love which unites the Divine Persons - Father, Son and Holy Spirit - allows us to experience God through union with the people in a community of love. This was also the experience of the community, where love should be the sign of God’s presence in the midst of the community (Jn 13: 34-35). This love builds unity in the community (Jn 17: 21). They looked at the unity in God in order to understand the unity among themselves.

For Personal Consideration

           Bishop Don Pedro Casaldáliga said, “The Trinity is truly the best community.” In the community of which you are a part, can you see any human sign of the Divine Trinity?

           Ecumenism: Am I interested in ecumenism? How do I approach it with others?

           Do I know the doctrine and beliefs of the Church well enough to enter into ecumenical discussion with others without misleading myself or others?

           What limits do I put on ecumenical activity in my life? Should there be limits?

Concluding Prayer

Lord, You will teach me the path of life, unbounded joy in Your presence, at Your right-hand delight forever. (Ps 16: 11)

www.ocarm.org

 

05.06.2025: THỨ NĂM TUẦN VII PHỤC SINH - THÁNH BÔ-NI-PHÁT, GIÁM MỤC, TỬ ĐẠO - Lễ Nhớ

 

05/06/2025

 Thứ Năm đầu tháng, tuần 7 Phục Sinh.

 Thánh Bôniphát, giám mục, tử đạo.

 Lễ nhớ


 

Bài Ðọc I: Cv 22, 30; 23, 6-11

“Con phải làm chứng về Ta tại Rôma”.

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, toà án muốn biết đích xác người Do-thái tố cáo Phaolô về tội gì, nên cởi trói cho ngài, và truyền lệnh cho các thượng tế và toàn thể công nghị họp lại, rồi dẫn Phaolô đến đứng trước mặt họ. Phaolô biết có một số người thuộc phe Sađốc, và một số khác thuộc phe biệt phái, nên kêu lớn tiếng giữa công nghị rằng: “Thưa anh em, tôi là biệt phái, con của người biệt phái, tôi bị xét xử vì niềm hy vọng và vì sự sống lại của những người đã chết”. Ngài vừa nói thế, thì xảy ra sự bất đồng ý kiến giữa các người biệt phái và Sađốc, và hội đồng đâm ra chia rẽ. Vì các người Sađốc cho rằng không có sự sống lại, không có thiên thần và thần linh; còn các người biệt phái thì tin tất cả điều đó. Tiếng la lối inh ỏi, và có mấy người biệt phái đứng lên bênh vực rằng: “Chúng tôi không thấy người này có tội gì; và nếu thần linh hay thiên thần nói với người này thì sao?” Cuộc tranh luận đã đến hồi gây cấn, viên quản cơ sợ Phaolô bị phân thây, nên sai lính xuống kéo ngài ra khỏi họ và dẫn về đồn.

Ðêm sau, Chúa hiện đến cùng ngài và phán: “Hãy can đảm lên! Con đã làm chứng về Ta tại Giêrusalem thế nào, thì cũng phải làm chứng về Ta tại Rôma như vậy”.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11

Ðáp: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng:  Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là chúa tể con; Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con. – Ðáp.

Xướng: Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. – Ðáp.

Xướng: Bởi thế, lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy điều hư nát. – Ðáp.

Xướng: Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa, tới muôn muôn đời! – Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 18

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui mừng”. – Alleluia.

(Hoặc đọc: Alleluia, alleluia! Chúa nói: “Lạy Cha, xin cho tất cả nên một, như Cha ở trong con và Con ở trong Cha, để thế gian tin rằng Cha đã sai con”. Alleluia

 

Phúc Âm: Ga 17, 20-26

“Xin cho chúng nên một”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con. Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa”.

Ðó là lời Chúa.

 


Chú giải về Tông Đồ Công vụ 22,30; 23,6-11

Chúng ta đang đi đến hồi kết của Hành trình truyền giáo thứ ba của Phao-lô. Các sự kiện đang diễn ra rất nhanh vì chúng ta phải hoàn thành Tông Đồ Công vụ trong ba ngày tới! Và có rất nhiều điều đang diễn ra, nhiều điều trong số đó sẽ phải bỏ qua. Để hiểu đầy đủ, có lẽ sẽ rất hay nếu cầm một cuốn Tân Ước và đọc toàn bộ văn bản của tám chương cuối cùng của Tông Đồ Công vụ.

Khi chúng ta bắt đầu bài đọc hôm nay, hãy cùng chúng ta tìm hiểu đôi chút về những gì đã xảy ra giữa bài đọc hôm qua và bài đọc hôm nay. Sau khi tạm biệt những người đồng đạo Ki tô ở Ê-phê-sô trong nước mắt, Phao-lô và những người bạn đồng hành của ông bắt đầu hành trình trở về Palestine, dừng lại một số lần trên đường—Cô, Rô-đô, Pa-ta-ra. Họ đi qua đảo Síp và cập bến tại Tia ở Phê-nê-xi. Họ ở lại đó một tuần, trong thời gian đó, các anh em đã cầu xin Phao-lô đừng đi đến Giê-ru-sa-lem. Họ biết rằng sẽ có rắc rối. Nhưng Phao-lô không thể quay lại và một lần nữa có một cuộc chia tay đầy cảm xúc trên bãi biển.

Khi Phao-lô di chuyển về phía nam, có một điểm dừng tại Pơ-tô-lê-mai, nơi họ chào đón cộng đồng. Sau đó, họ đến Xê-da-rê, nơi Phao-lô ở trong nhà của Phi-líp-phê, một phó tế, hiện được gọi là "người truyền bá phúc âm" (trước đó chúng ta đã thấy ông thực hiện công việc truyền bá phúc âm lớn ở Sa-ma-ri và ông là người đã cải đạo hoạn quan người Ê-thi-ô-pi). Ở đây cũng có một trải nghiệm mà Phao-lô được một nhà tiên tri trong cộng đồng cảnh báo về sự đau khổ sắp tới. Một lần nữa, tất cả họ đều cầu xin ông đừng tiếp tục, nhưng ông trả lời:

… Tôi sẵn sàng không chỉ bị trói mà thậm chí còn chết tại Giê-ru-sa-lem vì danh Chúa Giê-su.

Điều này được chấp nhận là ý muốn của Chúa, và họ để ông đi.

Khi họ đến Giê-ru-sa-lem, họ nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ cộng đồng ở đó và đến thăm chính thức Gia-cô-bê, người lãnh đạo trong hội thánh Giê-ru-sa-lem. Họ rất vui mừng khi nghe về tất cả những gì Phao-lô đã làm, nhưng họ cũng lo lắng (và mối lo lắng của họ dường như chỉ ra rằng có một số người trong thành phố không hoàn toàn chấp nhận việc không áp dụng luật Do Thái đối với người ngoại bang).

Người Do Thái địa phương (bao gồm cả những người theo đạo Thiên chúa) hẳn đã nghe Phao-lô, cũng là người Do Thái, đã nói với người Do Thái ở vùng đất của người ngoại bang rằng hãy “từ bỏ Môi-se”, nghĩa là ông không yêu cầu họ cắt bì cho con cái hoặc tuân theo các tập tục khác của người Do Thái. Một số người đã gợi ý một chiến thuật để Phao-lô xoa dịu cảm xúc của những người này. Thay mặt cho bốn thành viên của cộng đồng Jerusalem, ông sẽ thực hiện khoản thanh toán thông thường cho các lễ vật được dâng khi kết thúc lời thề Na-xi-rê [nghi lễ tẩy uế] (xem Dân số 6,1-24) để gây ấn tượng tốt với những người theo đạo Do Thái ở Jerusalem về lòng tôn trọng cao cả của ông đối với Luật pháp Môi-se. Vì bản thân Phao-lô đã từng thề như vậy (khi ông rời Cô-rinh-tô, Tông Đồ Công vụ 18,18), nên sự tôn trọng của ông đối với luật pháp sẽ được công khai. Phao-lô đồng ý với đề xuất này và làm theo yêu cầu.

 

Tuy nhiên, khi bảy ngày quy định sắp kết thúc, Phao-lô bị một số người Do Thái quen biết ông ở Ê-phê-sô phát hiện. Một đám đông xông vào Đền thờ và bắt ông, và có thể đã làm hại ông, nếu viên chỉ huy La Mã không nhìn thấy cuộc bạo loạn. Ông đã giải cứu Phao-lô, sau đó bắt ông và xiềng ông lại, do đó tránh xa những kẻ muốn làm hại ông.

Chỉ sau khi bị bắt, viên chỉ huy mới nhận ra Phao-lô nói tiếng Hy Lạp không phải là một phiến quân Ai Cập. Sau đó, Phao-lô xin được phát biểu trước đám đông và trong một bài phát biểu dài, ông kể cho những người Do Thái tập trung lại câu chuyện về sự cải đạo của mình trên đường đến Đa-mát (lần thứ hai câu chuyện được kể trong Tông Đồ Công vụ; sẽ được kể lại trong chương 26). Vào cuối bài phát biểu, đám đông gào thét đòi lấy máu của ông và Phao-lô sắp bị đánh đòn để tìm hiểu lý do tại sao người Do Thái muốn xử tử ông. Vào thời điểm này, Phao-lô tiết lộ với viên đại đội trưởng rằng ông là công dân La Mã và không giống như viên chỉ huy đồn trú đã mua quyền công dân của ông, ông sinh ra đã là công dân La Mã. Điều này đã gây ra sự lo lắng lớn trong số những người bắt giữ ông và ông đã được thả.

Sau đó, viên chỉ huy La Mã đã ra lệnh triệu tập một cuộc họp của Tòa công luận để Phao-lô có thể phát biểu trước họ. Trong khi những người thuộc dòng dõi thầy tế lễ thượng phẩm chủ yếu là người Xa-đốc, thì Tòa công luận lúc này cũng bao gồm khá nhiều người Pha-ri-sêu. Hội đồng này là cơ quan cai trị của người Do Thái. Tòa án và các quyết định của hội đồng được chính quyền La Mã tôn trọng. Tuy nhiên, cần có sự chấp thuận của La Mã trong các trường hợp tử hình (như đã xảy ra trong trường hợp của Chúa Giêsu). Việc Phao-lô bị đưa ra trước Tòa Công luận đã được Chúa Giêsu báo trước với các môn đồ của Ngài (xem Mát-thêu 10,17-18). Sau này, Phao-lô sẽ phải ra trước “các hội đồng, các quan thống đốc và các vua”.

Ông bắt đầu bằng cách nói với họ rằng mọi việc ông đã làm đều xuất phát từ lương tâm trong sạch. Khi nghe điều này, thầy tế lễ thượng phẩm Kha-na-ni-a đã ra lệnh đánh vào miệng Phao-lô. Điều này không khác gì việc Thầy của ông bị đánh vào mặt trong phiên tòa xét xử. Phao-lô đáp trả bằng lời nói:

… Đức Chúa Trời sẽ đánh ngươi, hỡi bức tường trắng kia. (Tông Đồ Công vụ 23,2)

Ông nói như vậy vì, mặc dù Kha-na-ni-a được cho là đang ngồi xét xử theo Luật pháp Môi-se, nhưng ông đã vi phạm luật pháp khi đánh bị cáo. Josephus, sử gia Do Thái, cho chúng ta biết rằng Kha-na-ni-a thực sự đã bị ám sát vào năm 66 sau Công nguyên khi bắt đầu Cuộc nổi loạn đầu tiên của người Do Thái. Khi Phao-lô bị buộc tội lăng mạ thầy tế lễ thượng phẩm, ông nói rằng ông không biết Kha-na-ni-a là thầy tế lễ thượng phẩm và đã xin lỗi.

Đúng vào thời điểm này, bài đọc hôm nay bắt đầu—và đây là một trong những cảnh ấn tượng nhất trong Tông Đồ Công vụ. Phao-lô biết khán giả của mình và ông đã quyết định ngay từ đầu sẽ tấn công phủ đầu. Ông tuyên bố lớn tiếng và đầy tự hào rằng mình là người Pha-ri-sêu, biết rằng khán giả của ông bao gồm cả người Pha-ri-sêu và người Xa-đốc.

Khi nói những lời này với người Pha-ri-sêu, ông nói:

Tôi đang bị xét xử liên quan đến hy vọng về sự sống lại của người chết.

Tất nhiên, đó không phải là toàn bộ câu chuyện, vì ông không đề cập đến Chúa Kitô, nhưng điều đó ngay lập tức đưa ông vào phe của những người Pha-ri-sêu đồng hương của mình. Như Phao-lô đã nói với người Cô-rinh-tô trong một trong những lá thư của mình, nếu Chúa Kitô không sống lại từ cõi chết, chúng ta cũng không thể sống lại và sẽ không có cơ sở cho đức tin của chúng ta. Hy vọng về một cuộc sống tương lai là cốt lõi trong bài giảng Ki tô của ông.

Tất nhiên, đó không phải là điều mà những người Pharisêu nghe được. Họ ngay lập tức nắm bắt được sự thật rằng Phao-lô, với tư cách là một người Pharisêu, đã giữ một niềm tin bị những người Xa-đốc phủ nhận. Những người Xa-đốc chỉ chấp nhận năm cuốn sách đầu tiên của Kinh thánh, mà chúng ta gọi là Ngũ kinh, là sự mặc khải thiêng liêng. Sự phục sinh của cơ thể (trong 2 Ma-ca-bê) và giáo lý về các thiên thần (trong sách Tobia) không trở thành một phần của giáo lý Do Thái cho đến một thời điểm tương đối muộn. Tuy nhiên, về cả hai vấn đề này, Phao-lô (bản thân cũng là một người Pharisêu) và những người Pharisêu đều hoàn toàn đồng ý.

Trong năm cuốn sách đầu tiên của Cựu Ước, không có đề cập nào đến sự phục sinh trong tương lai, cũng không có linh hồn hay thiên thần. Chính trên cơ sở niềm tin này mà những người Xa-đốc đã thách thức Chúa Giê-su về số phận của một người phụ nữ đã kết hôn với bảy anh em (xem Lu-ca 20,27-38 và Mát-thêu 22,25-32). Nếu có sự phục sinh, ai trong bảy người sẽ là chồng của bà? Đối với những người không tin vào cuộc sống sau khi chết, câu hỏi này thật vô nghĩa.

Những lời của Phao-lô về sự phục sinh ngay lập tức chuyển hướng sự chú ý khỏi ông sang điểm chia rẽ gây tranh cãi này giữa những người Pha-ri-sêu và những người Xa-đốc.

Đột nhiên, những người Pha-ri-sêu quay ngoắt lại và nói:

Chúng tôi không thấy người này có gì sai.

Và, trong một hành động khiêu khích cố ý đối với những người Xa-đốc, những người cũng không tin vào thiên thần, những người Pha-ri-sêu nói:

Nếu một linh hồn hoặc một thiên thần đã nói chuyện với ông ta thì sao?

Điều này có thể ám chỉ đến lời kể của Phao-lô với họ trước đó về trải nghiệm của ông trên đường đến Đa-mát.

Mọi sự khách quan đã bị lãng quên và những người Pha-ri-sêu, bất chấp những lời phản đối trước đó của họ, đã đứng về phía Phao-lô, 'người của họ', và một cuộc ẩu đả đã xảy ra. Sự việc trở nên nghiêm trọng đến mức—và hãy nhớ rằng, tất cả những người này đều là những người 'tôn giáo'!—vị quan chỉ huy, sợ rằng Phao-lô sẽ bị xé xác, đã đến giải cứu ông và đưa ông trở lại đồn.

Đêm đó, Phao-lô nhận được một thị kiến ​​trong đó ông được bảo đảm rằng ông sẽ được bảo vệ tại Giê-ru-sa-lem vì Chúa muốn ông làm chứng cho phúc âm ở Rô-ma.

Có lẽ hành vi của Phao-lô trong tình huống này là một ví dụ điển hình về lời khuyên của Chúa Giê-su dành cho các môn đồ của ngài là hãy đơn sơ như chim bồ câu và khôn ngoan như rắn! Phao-lô đã sẵn sàng chịu đau khổ vì Chúa của mình, nhưng ông không phải là người dễ bị bắt nạt.

Trong khi chúng ta cũng phải chuẩn bị để làm chứng cho đức tin của mình ngay cả khi phải hy sinh mạng sống, và không bao giờ được sử dụng bất kỳ hình thức bạo lực nào đối với những người tấn công chúng ta, chúng ta không được yêu cầu phải ra khỏi con đường của mình để mời gọi sự ngược đãi hoặc tấn công về thể xác. Đó không phải là ý nghĩa của lệnh truyền phải vác thập tự giá của chúng ta. Chính Chúa Giê-su thường thực hiện các bước để tránh rắc rối.

Joan of Arc đã tự bảo vệ mình như Thomas More đã làm và thực sự giống như chính Chúa Giê-su đã làm trong phiên tòa xét xử ngài:

Nếu tôi đã nói sai, hãy làm chứng về điều sai trái. Nhưng nếu tôi đã nói đúng, tại sao bạn lại đánh tôi? (Gioan 18,23)

Nhưng giống như họ, chúng ta sẽ không bao giờ cố gắng trốn tránh cái chết hoặc bất kỳ hình thức thù địch nào khác bằng cách thỏa hiệp với giáo lý cốt lõi của đức tin chúng ta.

 


Chú giải về Gioan 17,20-26

Trong phần cuối cùng của lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong bài giảng của Ngài với các môn đồ tại Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu cầu nguyện cho tất cả những người đã tin vào Chúa Kitô là Chúa thông qua ảnh hưởng của chính những môn đồ này qua nhiều thời đại. Mỗi người chúng ta đều nằm trong số những người mà Chúa Giêsu đang cầu nguyện ở đây.

Trong lời cầu nguyện này, Chúa Giêsu cầu nguyện trên hết cho sự hiệp nhất giữa các môn đồ của Ngài như là dấu hiệu làm chứng hiệu quả nhất. Như Ngài đã nói với các môn đồ của mình trước đó trong bài giảng:

Nhờ điều này mà mọi người sẽ biết rằng các con là môn đồ của Ta, nếu các con yêu thương nhau. (Gioan 13,35)

Bây giờ Ngài cầu nguyện rằng chúng ta có thể thể hiện sự hiệp nhất tương tự giữa chúng ta và với Chúa Giêsu như điều ràng buộc Chúa Giêsu và Chúa Cha. Chính thông qua tình yêu mà các Kitô hữu, đến từ rất nhiều nhóm dân tộc và mọi tầng lớp, thể hiện với nhau để họ làm chứng hiệu quả nhất cho sứ điệp của Chúa Kitô. Ngài cầu xin:

…để họ có thể trở nên hoàn toàn một, để thế gian biết rằng Cha đã sai Con và đã yêu thương họ như Cha đã yêu thương Con.

Người ta nói rằng, trong Giáo hội sơ khai, mọi người đã kinh ngạc, “Hãy xem những người theo đạo Thiên chúa, họ yêu thương nhau biết bao.” Trong một thế giới bị chia rẽ theo nhiều đường lối, mọi người đã kinh ngạc khi thấy người Do Thái và người Hy Lạp, đàn ông và phụ nữ, nô lệ và người tự do, người giàu và người nghèo cùng chia sẻ một cuộc sống cộng đồng chung trong tình yêu thương, sự tha thứ và hỗ trợ lẫn nhau. Rõ ràng điều đó sẽ khiến mọi người tự hỏi bí quyết của nhóm này là gì.

Đó có phải là lời chứng mà chúng ta đang đưa ra ngày nay không? Mọi người nhìn thấy gì khi nhìn vào các giáo xứ của chúng ta? Họ nhìn thấy gì khi nhìn vào các gia đình của chúng ta? Họ nghĩ gì về sự chia rẽ đau đớn của rất nhiều nhóm người tuyên bố Chúa Giêsu là Chúa của họ? Làm sao chúng ta có thể duy trì sự chia rẽ như vậy trước những lời này của Chúa Giêsu?

Rõ ràng, tất cả chúng ta đều có nhiều điều để suy nghĩ và cầu nguyện về cuộc sống ‘tâm linh’ của mình và tác động mà chúng ta tạo ra trong việc thu hút mọi người đến với Chúa Kitô (và điều đó bao gồm cả việc đưa nhiều người đã rời đi trong sự bối rối và vỡ mộng trở về).

 

Vậy chúng ta hãy lấy những lời cuối cùng trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu hôm nay làm của riêng mình:

Con đã cho họ [các môn đồ của Người] biết danh Cha, và Con sẽ còn cho họ biết nữa, để tình yêu mà Cha đã yêu thương Con ở trong họ và Con ở trong họ.

 

 

https://livingspace.sacredspace.ie/e1075g/

 

 


Suy niệm: Tình yêu và sự sống

Hợp nhất là sự sống trong tình yêu. Chúa Ba Ngôi chính là nguồn mạch tình yêu và sự sống trong sự hợp nhất trọn vẹn. “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”. “Cha và Con là Một”. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Kết hợp sâu xa trong một tình yêu hoàn hảo được biểu lộ trong chuyển động dâng hiến trọn vẹn: “Mọi sự của Cha là của Con. Và mọi sự của Con là của Cha”. Sự dâng hiến làm nên sự sống. “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy”. “Thầy sống nhờ Cha”. Cuộc trao đổi dâng hiến làm cho tình yêu không bao giờ vơi cạn. Và sự sống ngày càng sung mãn.

Tình yêu và sự sống đó lan tràn đến nhân loại. Nhưng để lãnh nhận con người phải hòa mình vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Hình ảnh rất đẹp mà Chúa Giê-su đã dùng là cây nho: “Thầy là cây nho. Anh em là nhành nho”. Như cành cây phải gắn liền với thân cây. Muốn nhận lãnh sự sống từ Thiên Chúa ta phải gắn liền vào Thiên Chúa. Muốn gắn liền vào Thiên Chúa ta phải có tình yêu. Tình yêu làm cho ta ở trong Chúa và Chúa ở trong ta. Khi ta ở trong Chúa Giêsu thì Chúa Cha ở trong ta: “Con ở trong chúng và Cha ở trong Con”. Tình yêu đó phất sinh sự sống trong ta. Một sự sống dồi dào sung mãn.

Khi hợp nhất với Thiên Chúa, người ta tự nhiên hợp nhát với nhau. Đó chính là hình ảnh của cộng đoàn tín hữu sơ khai. Yêu mến Thiên Chúa nên bỏ của cải làm của chung. Vì thế cộng đoàn có một sức sống mãnh liệt. Và đó là một cộng đoàn chứng nhân. Thế gian thấy họ mà tin vào Chúa: “Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con”.

Thế gian tin và muốn gia nhập cộng đoàn tín hữu sơ khai. Vì từ thâm tâm ai cũng hướng về tình yêu và sự sống. Trong hợp nhất tình yêu và sự sống được biểu lộ. Trở thành sức hấp dẫn với mọi người.

Phao-lô có sức hấp dẫn vì ông luôn kết hợp với Chúa: “Tôi sống nhưng không còn là tôi, nhưng là chính Đức Kitô sống trong tôi”. Chúa hài lòng về điều đó nên mời gọi ông: “Con hãy tiếp tục làm chứng cho ta tại Rô-ma nữa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)