Trang

Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2015

22-11-2015 :(phần I) CHÚA NHẬT XXXIV MÙA THƯỜNG NIÊN - CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, VUA VŨ TRỤ

22/11/2015
Chúa Nhật 34 Quanh Năm Năm B
Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ
(phần I)

Bài Ðọc I: Ðn 7, 13-14
"Quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong một thị kiến ban đêm, tôi đã ngắm nhìn, và đây tôi thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời, Ngài tiến đến vị Bô Lão, và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị nầy ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc: tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài; quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất; vương quốc của Ngài không khi nào bị phá huỷ.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 92, 1ab. 1c-2. 5
Ðáp: Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai (c. 1a).
Xướng: 1) Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai; Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai. - Ðáp.
2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở, tự đời đời vẫn có Chúa. - Ðáp.
3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin, lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn thuở. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Kh 1, 5-8
"Người là thủ lãnh các vua trần thế: Người đã làm cho chúng ta nên vương quốc".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an của Chúa Giêsu Kitô, là chứng tá trung thành, là trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các vua trần thế, là Ðấng đã yêu thương chúng ta, Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người. Nguyện chúc Người được vinh quang và quyền lực muôn đời. Amen.
Kìa, Người đến trong đám mây, mọi con mắt đã nhìn thấy Người, và cả những kẻ đã đâm Người cũng nhìn thấy Người, các chủng tộc trên địa cầu sẽ than khóc Người. Thật như vậy. Amen.
Chúa là Thiên Chúa, Ðấng đang có, đã có, và sẽ đến, là Ðấng Toàn Năng phán: "Ta là Alpha và Ômêga, là nguyên thuỷ và là cứu cánh".
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Mt 11, 10
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước Ðavít tổ phụ chúng ta đã đến! - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 18, 33b-37
"Quan nói đúng: Tôi là Vua".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" Chúa Giêsu đáp: "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?"
Philatô đáp: "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?" Chúa Giêsu đáp: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này".
Philatô hỏi lại: "Vậy ông là Vua ư?"
Chúa Giêsu đáp: "Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm: Ðấng Thiên Sai là Vua
Bài Tin Mừng theo thánh Yoan hôm nay cho chúng ta thấy rõ Ðức Yêsu đã xưng mình là Vua trong một hoàn cảnh rất đặc biệt, không thể tưởng tượng được khiến chúng ta cũng phải thay đổi hết mọi quan niệm thông thường khi nghĩ đến tước hiệu làm Vua của Chúa Yêsu Kitô. Làm như vậy chúng ta không ngại mừng lễ Chúa Yêsu Kitô Vua trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nhưng đồng thời nhờ vậy chúng ta cũng biết phải tránh những gì có thể gây nên những sự hiểu lầm về mầu nhiệm Chúa Yêsu là Vua.
Ðể nắm vững vấn đề, chúng ta hãy sáng suốt nghe Lời Chúa dạy bảo hôm nay.

1. Một Thị Kiến
Daniel kể lại một thị kiến ban đêm. Thực ra thị kiến này đi sau một thị kiến khác. Nhà tiên tri trên giường nằm đã thấy chiêm bao. Ông đã viết lại và đại khái ông nói như thế này:
Tôi thấy bốn gió trời khuấy động biển cả. Và bốn mãnh thú to lớn khác nhau từ biển đi lên... Mãnh thú thứ tư dễ sợ đáng kinh và mạnh quá đỗi... Tôi mãi nhìn cho đến khi ngai được đặt hành và Ðấng cao niên ngồi xuống... Pháp đình an tọa và sổ sách mở ra Mãnh thú kia bị giết và thây nó bị hủy và phó cho lửa thiêu. Còn những mãnh thú khác, chúng bị tước hết quyền bính.
Nếu chúng ta đã nhớ những điều đã nói trong Chúa nhật trước về sách Daniel, chúng ta có thể dễ nhận ra ngay ý nhà tiên tri đang muốn nói gì. Biển cả trong quan niệm của các dân miền Cận Ðông là nơi phát xuất ra nhiều sinh vật, nhưng lại toàn là các mãnh thú, tượng trưng cho sự dữ. Bốn mãnh thú ở đây là những sức mạnh chính trị thời bấy giờ, thay lượt nhau thống lãnh các dân tộc và đặc biệt dân riêng của Chúa. Mãnh thú thứ tư dữ dằn hơn hết chính là Antiôkô, vị vua bắt đạo làm đổ máu người lành. Sự dữ tung hoành như vậy cho đến khi trời mở ra. Ngày của Chúa đến. Người ngự trên ngai; tổ chức pháp đình; sổ sách công tội được mở ra. Các kẻ dữ lần lượt chịu tội.
Ðó là thị kiến thứ nhất. Nói đúng ra đó là phần đầu của một chiêm bao còn tiếp diễn. Nó diễn tả các sự dữ xảy ra ở đời này, cho đến khi Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Lúc này sẽ là phần thị kiến sau.
Daniel thấy với mây trời như thể một Con Người đến. Ngài tiến lại Ðấng cao niên và được ban tặng quyền bính, vinh dự và vương triều.
Ngài là ai mà quyền bính sẽ không bị hủy và tất cả các dân phải làm tôi Ngài? Theo Daniel, đó là dân thánh của Chúa. Họ không sinh ra từ biển, tức là không bởi sự dữ mà có. Trái lại, họ đến với mây trời, ám chỉ họ bởi chính Thiên Chúa mà ra vì mây trời vẫn là một trong những hình ảnh để chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Có lẽ theo Daniel nữa, thì họ là những người lành thánh đã "giữ mình" trong thời bắt bớ của Antiôkô, và là các thánh nhân đã đổ máu vì Thiên Chúa trong cuộc bắt đạo này. Ðến ngày của Người, họ sẽ được đưa lên gần Thiên Chúa. Và Người sẽ ban tặng họ vinh dự, quyền uy, vương triều. Họ được chia sẻ quyền cai trị của Thiên Chúa và quyền bính của họ sẽ vô tận.
Ðó là cái nhìn đức tin của Daniel về thời cuộc lúc bấy giờ. Về sau, người ta có thói quen lấy vinh dự của toàn thể đặt nơi vị thủ lãnh của mình. Và danh từ Con Người không được hiểu về toàn dân thánh nữa, nhưng được dành riêng cho Ðức Kitô, vị Thiên Sai cứu thế. Là vì theo quan niệm thời xưa, cái gì vị thủ lãnh được cũng là để toàn thể hưởng. Dù sao cũng vì quan niệm này mà bài sách hôm nay đã được dùng để gợi lên vương triều của Chúa Yêsu Kitô. Chúng ta chấp nhận, nhưng không được quên ý của Daniel. Vương triều chỉ được ban cho những ai đã có công phấn đấu, đến cả thí mạng mình nữa. Và chỉ được ban trong ngày của Chúa, tức là trên bình diện Nước Trời, chứ không phải ở trần gian này. Những điều này rất cần để hiểu bài Tin Mừng hôm nay.

2. Một Cuộc Tra Hỏi
Thánh Yoan cho chúng ta thấy Ðức Yêsu bấy giờ đang ở trước tòa Philatô. Ông này rất lúng túng. Người Dothái không chịu vào phủ đường vì sợ mắc uế không ăn lễ vượt qua chiều hôm ấy được. Do đó Philatô lúc phải ra gặp họ ở ngoài phủ đường, lúc lại phải đi vào trong, tra hỏi riêng Ðức Yêsu. Ông lúng túng lúc ra lúc vào. Nhất là ông không biết phải xử vụ này ra sao. Người Dothái đòi xử tử Ngài... Còn Ngài nào có tội lỗi gì? Ðứng về quan điểm hành chính Rôma, chỉ có việc họ cáo Ngài là Vua là đáng kể. Nhưng không lẽ một con người như vậy mà lại là vua? Thành ra ông bắt đầu hỏi Ngài:
- Ông mà lại là Vua dân Dothái sao? Ông hỏi mà không tin ở lời mình. Rõ ràng ông rất lúng túng. Có lẽ vì vậy mà thay vì trả lời, Ðức Yêsu lại hỏi ông:
- Tự mình ông, ông nói thế, hay đã có ai khác nói với ông về tôi?
Dường như Người muốn giúp ông biện phân ra sự thật. Nhưng ông lại không muốn. Ông vừa muốn nói sự thật vừa không. Ông lấp lửng trả lời theo kiểu nghi vấn: "Tôi là Dothái hay sao?". Có nghĩa là người Dothái nào nói với tôi điều đó? Thế thì sao ông không nhận quách đi, chính ông nghĩ như vậy. Nhưng thật sự ông không có ý tưởng như thế. Và nếu có, ông không hỏi nữa, hay có hỏi cũng sẽ có giọng tra hỏi hơn. Ðàng này, ông đã hỏi chỉ vì người Dothái đã cáo Ngài là Vua... mà như ông thấy, điều đó không thật được. Thế nên ông lúng túng...
Ðể ra khỏi thế khó xử này, Philatô chuyển sang chuyện khác. Ông nói rằng người Dothái đã nộp Ngài cho ông, thì hỏi Ngài để làm gì? Nhưng Ðức Yêsu không muốn bước sang chuyện ấy. Không gỡ được nghi vấn lúc đầu cho ông, lương tâm ông chỉ có thể cứ rối thêm mãi. Ðàng khác Ngài cần thực hiện mọi lời Kinh Thánh. Mà Kinh Thánh bảo: Ðấng Thiên Sai là Vua. Cho đến nay Ngài từ chối danh hiệu này kẻo người ta hiểu lầm. Nay đến lúc phải làm trọn lời sách thánh. Daniel không tiên báo Con Người là Vua trước pháp đình, như chúng ta đã thấy ở trên sao?
Do đó, Ðức Yêsu đã tuyên bố: "Nước Tôi không thuộc về thế gian này..." để nói lên rằng Người không phủ nhận mình là Vua, nhưng đồng thời lại khẳng định Người không là Vua theo kiểu thế gian. Philatô có thể đã giựt mình. Ông hỏi lại cho chắc: "Vậy thì Ông là Vua sao?". Ðức Yêsu khẳng định một lần nữa: "Ông nói đó: Tôi là Vua". Tức là Người thấy Philatô không còn hoài nghi như lúc đầu nữa. Ông đã bắt đầu tin Ngài là Vua. Nhưng để ông đừng hiểu lầm, Ngài đã nói thêm: Ngài không làm Vua theo kiểu thế gian để cai trị trên người ta, nhưng để làm chứng cho sự thật. Philatô chắc chắn hiểu được phần đầu trong câu trả lời; vì ông vẫn nghĩ rằng theo quan điểm thế gian Ngài không thể nào là Vua được. Ngài không có bá quan văn võ, cũng chẳng có binh lính. Và chẳng thiết đến vấn đề này. Có bao giờ Ngài lộ ra ý tưởng muốn tổ chức một triều đình đâu? Vua gì mà để mình bị bắt nộp như thế này? Ðàng khác, Ngài uy nghi, sáng suốt, không thể có đầu óc điên đến nỗi tưởng mình làm Vua theo nghĩa bình thường được. Philatô đồng ý Ngài không là Vua theo kiểu thế gian.
Còn câu Ngài xác định sứ mệnh làm Vua của Ngài là làm chứng về sự thật, thì Philatô vừa không hiểu vừa không muốn hiểu. Người ta nói rằng ông có quan điểm triết học hoài nghi, tức là không nghĩ rằng có sự thật, vì theo ông sự thật chẳng là gì cả.
Tiếc thay, ông không nhớ mình đang đứng trước một Con Người tôn giáo, chứ không phải con người triết học. Ðức Yêsu không nói triết lý, nhưng nói tư tưởng Thánh Kinh. Thế mà sách Samuel quyển 2 chương 14 khẳng định Salomon, con Ðavít không những có quyền trị dân mà còn được ơn khôn ngoan. Vị hoàng đế lý tưởng là người biết được ý Thiên Chúa để đem ra cai trị. Thế nên sáng sáng ngài phải có tấm lòng của môn đệ để đón nhận Lời khôn ngoan của Chúa để biết đàng biện phân phải trái cho dân. Ở đây, Ðức Yêsu còn muốn nói xa hơn nữa vì Người còn hơn Salomon và là Con Ðavít sâu xa hơn vua này. Người sinh ra để đem chân lý, tức là sự thật trọn vẹn xuống mạc khải cho loài người. Người đem sự khôn ngoan của Thiên Chúa đến. Người là chính sự khôn ngoan ấy. Người là mạc khải của Ðức Chúa Cha để cứu chuộc và nuôi sống người ta. Người là Vua khi đưa người ta vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Và việc này chỉ xảy ra trong mầu nhiệm thập giá, là sự điên rồ trước mắt thế gian nhưng lại là sự khôn ngoan cao cả được giấu kín cho đến thời sung mãn.
Những ý tưởng này Philatô làm sao nhận được? Nhưng ông đã nhận Ngài là Vua. Ông để cho lính tráng chế diễu Ngài là Vua. Ông không nói gì khi chúng đội triều thiên gai và khoác áo đỏ hoàng đế cho Ngài. Chính ông sẽ còn đặt Ngài ngồi trên tòa ở nơi gọi là Gabbata và giới thiệu Ngài với dân Dothái: này là Vua các ngươi. Và cuối cùng chính ông truyền đóng bản án "Yêsu Vua Do Thái" lên đầu thập giá và khăng khăng bảo phải cứ để như vậy. Ông đã thi hành nhiều việc theo ý Chúa mà ông không biết. Chính Ðức Yêsu nói: Ngài sẽ kéo mọi người lên khi được treo lên. Thế mà Philatô lại đặt Ngài ngồi trên tòa và kéo Ngài lên cây thập tự. Ông đã giúp Ngài làm Vua trong mầu nhiệm Thánh giá theo như sách Daniel đã gợi lên.
Nhà tiên tri này đã mô tả Con Người được trao vương triều khi sự dữ đã bị đánh bại và Con Người đã ở trong mây trời. Những điều đó đã xảy ra trong mầu nhiệm Vượt qua của Ðức Yêsu cứu thế, là mầu nhiệm tiêu diệt tội lỗi và đi vào vinh quang Thiên Chúa.
Chúa Yêsu Kitô làm Vua theo nghĩa đó... Nhưng không phải để cho mình, mà là để cho mọi người. Ðó là điều mà bài sách Khải huyền muốn nói lên.

3. Một Dân Vương Ðế
Thật ra thì bài sách Daniel đã nói rồi.
Con người được lãnh vương quyền trong bài tiên tri đọc hôm nay thoạt đầu là toàn dân thánh của Thiên Chúa. Về sau người ta mới đặt nó nơi Vị Thủ Lãnh như nơi kết tinh mọi vinh dự tập thể. Ở đây tác giả sách Khải huyền cho thấy sự thật thì chính Vị Thủ Lãnh của đạo mới thông đạt vương quyền của Ngài cho toàn dân.
Chắc chắn quan điểm của ông đúng hơn. Vì vương quyền nói đây không phải là cái gì của trần gian, nhưng là một đặc quyền của Thiên Chúa mà người ta được tham dự. Chính Ngài mới là Vua theo nghĩa tuyệt đối và cao siêu. Ngài chủ sự tất cả, và nhất là cứu thế là công trình của Ngài. Người ta chỉ có thể tham dự vào vương quyền của Ngài khi được giải thoát khỏi tội lỗi, để được đưa ra khỏi Nước tối tăm mà vào trong Nước sáng láng, thánh thiện của Ngài. Thế mà mọi người chỉ có thể được tha tội nhờ Ðức Yêsu và trong Ðức Yêsu . Chính Máu Ngài đã cứu thoát chúng ta khỏi tội lỗi và đã làm ta thành một vương quốc tư tế cho Thiên Chúa.
Chúng ta đội ơn Ngài nhưng không được quên kết hiệp với Ngài. Ðó là điều kiện tiên quyết để được tham dự quyền bính của Ngài. Người ta đã khởi sự kết hiệp với Ngài trong bí tích Rửa tội là mầu nhiệm thánh giá Chúa Kitô. Nhưng còn phải ở trong mầu nhiệm ấy không ngừng để có thể mãi mãi là Con Người của sách Daniel, đang tiến lại gần Thiên Chúa để được trao ban vương triều.
Giờ đây cả cộng đoàn tín hữu cũng làm thành người Con Người ấy. Chúng ta tiến lên mầu nhiệm bàn thờ để được Con Người là Ðức Yêsu Kitô Cứu thế kéo lên. Chúng ta được ra khỏi Nước tối tăm của tội lỗi để được đưa vào Nước sáng láng của ân sủng. Chúng ta có thể và phải giữ ơn "làm Vua" ấy trong tất cả đời sống, khi chúng ta sống mầu nhiệm thánh giá trong mọi sinh hoạt của cuộc đời. "Con Người" mà Daniel đã nhìn thấy trong chiêm bao, thật sự đang hiện thân nơi chúng ta, nhờ ơn của Chúa Yêsu Kitô là Vua trên thánh giá đã kéo chúng ta lên gần Thiên Chúa để chúng ta được trao ban Vương triều. Chúng ta hãy suy nghĩ những điều ấy và đem ra thi hành... Cuộc đời của chúng ta sẽ là tiếng tung hô không ngừng: Chúa Yêsu Kitô Vua muôn năm!

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 34 Thường Niên,
Lễ Chúa Kitô Vua, Năm B
Bài đọc: Dan 7:13-14; Rev 1:5-8; Jn 18:33b-37.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức Kitô là Vua sự thật.
Con người ao ước được biết sự thật, nhưng bị vây quanh bởi những giả dối của thế gian: đồ giả, vàng giả, người giả, cha giả, sư giả, thần giả. Con người mong muốn được đối xử chân tình, nhưng lòng người lắm nẻo quanh co và khó đoán như bài toán đố; hứa đó rồi thất hứa vì những lợi nhuận vật chất làm con người thay đổi còn nhanh hơn chong chóng... Làm sao để học biết sự thật và cảm nhận được tình yêu chân thành?
May mắn cho con người, các Bài Đọc hôm nay chỉ đường cho con người để biết đâu là nguồn gốc của sự thật; con người không thể tìm đâu khác ngoài Đức Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tiên tri Daniel tường thuật thị kiến một Con Người lãnh quyền vương đế, vinh quang, và thống trị vĩnh cửu muôn đời từ Thiên Chúa. Tất cả mọi người trên vũ trụ sẽ phải tuân phục quyền bính của Người Con này. Trong Bài Đọc II, tác giả Sách Khải Huyền xác tín Đức Kitô là Vua muôn thuở và muôn đời; ngay cả lúc Ngài hy sinh chịu chết vì con người. Mọi người đã giết và từ chối Đức Kitô sẽ đấm ngực than khóc khi nhìn thấy triều đại Người trị đến trong vinh quang. Trong Phúc Âm, cuộc đàm thoại giữa Đức Kitô và quan Tổng Trấn Philatos nêu bật sự khác biệt giữa vua thế gian và vua Nước Trời. Philatos hiểu Đức Giêsu muốn làm vua kiểu của thế gian như phần đông người Do-thái; trong khi Chúa Giêsu mặc khải Ngài là Vua của Nước Trời, Vua của sự thật. Tất cả những ai biết lắng nghe và sống theo sự thật là con dân của Nước Trời, dưới quyền cai trị của Đức Kitô.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị.
1.1/ Chúa Cha đặt Ngài làm Vua cai trị muôn đời: Tiên-tri Daniel tường thuật thị kiến phong vương xảy ra trên trời cho một nhân vật đặc biệt: Người có hình dạng của một con người; nhưng lại đến từ trời. Người được dẫn tới trình diện Đấng Lão Thành, và Đấng này trao cho Người "quyền thống trị, vinh quang và vương vị." Sau đó, muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Con Người đây chính là Đức Kitô, và Đấng Lão Thành chính là Thiên Chúa Cha. Thị kiến muốn nói lên quyền làm Vua của Đức Kitô trên tất cả mọi tạo vật của Thiên Chúa. Trước thị kiến này là thị kiến 4 con vật, tượng trưng cho sự chóng qua của các 4 đế quốc trên mặt đất: Babylon, Ba-tư, Hy-lạp, và Rôma.
1.2/ Vương quyền và vương quốc của Ngài sẽ tồn tại muôn đời: Thị kiến cũng nói lên "quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; và vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong."
Con người luôn khát khao những gì vĩnh cửu, trường tồn. Trong lãnh vực cai trị, họ ước ao có được một vị anh quân cai trị họ đến muôn đời; nhưng thực tế chứng minh niềm khao khát này không bao giờ được đáp ứng vì các đế quốc tiếp tục đổi ngôi, và những nhà cai trị nổi danh cũng hết thời. Có 3 lý do tại sao ước mơ của con người không thành tựu: (1) Vua chúa và các thủ lãnh thế gian là những con người bất tòan. Họ sống bất công và không lo lắng cho dân; họ lợi dụng niềm tin của dân để vơ vét của cải cho mình. (2) Vuơng quốc trần gian luôn thay đổi: Hết triều đại này đến triều đại kia, hết đế quốc này tới đế quốc khác. Kiếm mỏi mắt được một người biết thương yêu lo lắng cho dân, lại bị ám sát hay chết sớm. (3) Dân chúng hỗn hợp nhiều lọai khác nhau: cả người lành lẫn kẻ dữ, cả chiên lẫn dê; vì thế, rất khó cai trị.
Nhưng đối với các Kitô hữu, thiên đàng chỉ có được ở đời sau, nơi mà cả 3 điều kiện trên đều có thể tìm được: (1) Vua duy nhất là Đức Kitô: Ngài sẽ chiến thắng tất cả, và các thủ lãnh thế gian phải qui phục Ngài. Ngài sẽ qui tụ tất cả về cho Thiên Chúa; sẽ cai trị trong tâm hồn; sẽ cai trị trong sự thật, công bằng, và thương yêu. (2) Vương quốc của Ngài là Nước Trời, sẽ tồn tại muôn đời. (3) Dân của Vua Kitô: chỉ tòan chiên (những người công chính), dê (những kẻ gian ác) bị lọai ra ngòai. Họ sẽ không bao giờ phải chết nữa. Điều kiện để thuộc về vương quốc: nghe tiếng sự thật và tin vào Đức Kitô.
2/ Bài đọc II: Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người.
2.1/ Những gì Đức Kitô làm cho con người:
(1) Đức Kitô là nguồn mạch của mọi ân sủng và bình an: Tác giả Sách Khải Huyền đề cập đến ba danh xưng của Đức Kitô, và những danh xưng này đều có liên hệ với nhau. Thứ nhất, Đức Giêsu Kitô là vị Chứng Nhân trung thành. Tất cả những gì Ngài nói đều ứng nghiệm và Ngài đã làm chứng sự trung thành với Thiên Chúa bằng cách chấp nhận ngay cả cái chết để chuộc tội cho con người. Thứ hai, Ngài là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy. Trước Ngài, chưa có một ai sống dậy từ cõi chết và không bao giờ chết nữa. Ngài là người đầu tiên đã chết, đã sống lại, và sống muôn đời. Thứ ba, Ngài là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, tất cả các vương quốc trần gian đều thuộc quyền của Ngài. Theo Phaolô, chính vì sự vâng lời Thiên Chúa và chấp nhận cái chết trên Thập Giá của Ngài, mà khi nghe danh hiệu Giêsu, mọi loài trên trời, dưới đất, và trong nơi âm phủ, phải bái quì và tuyên nhận "Đức Kitô là Chúa" (Phi 2:11). Nhờ cái chết của Ngài mà con người nhận được hết ân sủng này đến ân sủng khác. Nhờ sự tin tưởng và sống theo những gì Đức Kitô dạy, mà con người tìm được bình an thực sự cho tâm hồn.
(2) Đức Kitô làm cho chúng ta thuộc về vương quốc và trở thành hàng tư tế: Ngài làm cho con người thuộc về vương quốc Nước Trời bằng cách đổ máu trên Thập Giá để rửa sạch tội lỗi và giao hòa con người với Thiên Chúa. Chúng ta cần chú ý đến cách dùng hai phân từ khác nhau trong câu này: Phân từ "yêu mến" được dùng ở thời hiện tại, vì Đức Kitô luôn yêu mến con người. Phân từ "rửa sạch" được dùng ở thời quá khứ, vì biến cố Đức Kitô đổ máu chỉ xảy ra một lần trên đồi Golgotha, và có sức để rửa sạch mọi tội lỗi con người.
Trong Cựu Ước, chỉ có tư tế mới được vào gặp Thiên Chúa trong nơi cung thánh, mọi người Do-thái đều phải dừng lại ở khu vực của họ. Bằng cái chết của Chúa Giêsu, bức màn trong Đền Thờ xé ra làm hai, để từ nay mọi tín hữu đều có thể cầu nguyện trực tiếp với Thiên Chúa. Qua bí-tích Rửa Tội, người tín hữu trở được thành "tư tế phổ quát'' (universal priesthood) để ''phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. A-men!''
2.2/ Họ sẽ nhìn xem Đấng họ đã giết chết hay từ chối: Sách Khải Huyền tường thuật thị kiến khi Đức Kitô đến lần thứ hai để phán xét nhân loại: "Kìa, Người ngự đến giữa đám mây. Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người. Đúng thế! Amen!"
Điều này không những áp dụng cho quân lính Rôma và những người Do-thái đã kết tội và giết Chúa Giêsu; nhưng cũng đúng cho mọi người qua mọi thời đã từ chối không tin vào Đức Kitô. Họ phải đấm ngực ăn năn, vì họ đã từ chối Người mang ơn cứu độ đến cho họ. Họ phải đấm ngực than khóc, vì Đức Kitô là sự thật. Ngài như một tấm gương soi; khi nhìn vào Ngài, mọi gian dối và mưu mô quanh co của họ bị lột tẩy ra tất cả. Con người nghĩ không ai có thể thấu hiểu những gì họ giấu kín trong tâm tư để đánh lừa Thiên Chúa và tha nhân; nhưng mọi ý nghĩ và việc làm của họ sẽ bị mọi người nhìn thấy trong Ngày Phán Xét.
Tác giả Sách Khải Huyền liệt kê ba danh xưng của Thiên Chúa: Thứ nhất, Ngài là Alpha và Ômêga: Đây là hai mẫu tự đầu tiên và cuối cùng của Hy-lạp, có ý muốn nói Thiên Chúa là khởi nguyên vì nhờ Ngài mà muôn vật được tạo thành, và là tận cùng vì muôn vật muốn tìm được ý nghĩa cuộc đời phải qui hướng vào Ngài. Thứ hai, Ngài là Đấng đã có, hiện có, và đang đến: Đối với Đức Kitô, không có quá khứ, hiện tại, hay tương lai, vì Ngài là Thiên Chúa; mọi sự đều xảy ra như trong hiện tại và liên tục đối với Ngài. Ngài không bao giờ thay đổi như con người. Sau cùng, Ngài là Đấng Toàn Năng, vì Ngài làm được mọi sự; và không có gì là không thể đối với Ngài.
3/ Phúc Âm: Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật.
3.1/ Âm mưu gian tà của những người trong Thượng Hội Đồng: Để hiểu cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Philatos trong trình thuật hôm nay, chúng ta cần hiểu hoàn cảnh lịch sử chung quanh cái chết của Chúa Giêsu. Những người trong Thượng Hội Đồng của người Do-thái không có quyền giết Chúa Giêsu, vì họ đang bị cai trị bởi đế quốc Rôma. Vì thế, họ bắt Chúa Giêsu và trao nộp cho quan Tổng Trấn Philatos. Để có thể luận tội Chúa, Philatos cần biết lý do rõ ràng Ngài phạm tội gì. Lúc đầu người Do-thái buộc tội Chúa Giêsu phạm thượng (Jn 19:7), vì là người mà dám xưng mình là Con Thiên Chúa. Sau này họ biết được Philatos không muốn lên án tử hình Chúa Giêsu vì lý do tôn giáo (Jn 19:6), họ họp nhau lại tìm một lý do chính trị để làm áp lực với Philatos. Họ tố cáo Chúa Giêsu dám xưng mình là "Vua dân Do-thái;" và bất cứ ai xưng mình là vua, là chống lại Caesare (Jn 19:12).
3.2/ Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Philatos: Quan Tổng Trấn chỉ quan tâm đến một điều là làm sao cho Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là vua để có lý do luận tội Ngài; vì thế, ông cho gọi Đức Giêsu tới và hỏi Người: "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" Đức Giêsu biết rõ tà ý của những người trong Thượng Hội Đồng và Philatos, Ngài hỏi ngược lại: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?" Chúa Giêsu có ý nhắc nhở Philatos về bổn phận của ông như một người cầm quyền là phải điều tra kỹ lưỡng trước khi luận tội, chứ không chỉ nghe những gì người khác tố cáo mà luận tội người khác cách bất công. Để tránh né, Philatô trả lời: "Tôi là người Do-thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?"
3.3/ Chúa Giêsu giải thích cho Philatos về vương quốc và cách cai trị của Ngài: Chúa Giêsu không sợ đương đầu với sự thật và tìm cách tránh né, người Do-thái hiểu đúng phần nào về Đấng Thiên Sai sẽ đến để cai trị họ trong công bằng và sự thật; nhưng họ không hiểu về phương cách dùng để chinh phục con người của Đấng Thiên Sai. Chúa Giêsu cắt nghĩa cho Philatos hiểu hai điều quan trọng:
(1) Vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này: Người Do-thái tin khi Đấng Thiên Sai tới, Ngài sẽ dùng sức mạnh để dẹp tan mọi quyền lực ngoại bang để giải thoát dân chúng và lên ngôi cai trị họ. Đức Giêsu giải thích quan niệm sai lầm này: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái; nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này."
(2) Phương cách chinh phục dân của Chúa Giêsu: Khi vừa giải thích về vương quốc thựa sự của Ngài, ông Philatô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao?" Đức Giêsu đáp: "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi." Lần chất vấn thứ hai này Chúa Giêsu xác nhận với Philatos Ngài là vua, không theo cách hiểu của vua và vương quốc trần gian; nhưng theo cách hiểu Ngài là Vua của Nước Trời và cách chinh phục dân là thuyết phục họ biết nghe theo và sống cho sự thật. Philatos không hiểu lời cắt nghĩa của Chúa Giêsu hay không có can đảm sống theo sự thật, vì sau đó ông trao Chúa Giêsu cho họ đem Ngài đi đóng đinh.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chỉ có Đức Kitô mới đem lại cho chúng ta ý nghĩa và hạnh phúc của cuộc đời, vì Ngài được Thiên Chúa trao ban mọi uy quyền, vinh quang, và vương vị. Chúng ta hãy mời Ngài vào tâm hồn để làm vua hướng dẫn, cai trị, và bảo vệ chúng ta.
- Thế gian đầy dẫy những gian trá và mưu mô đen tối để lừa lọc con người. Sự thật chỉ có nơi Đức Kitô vì Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Nếu muốn tìm hiểu sự thật, chúng ta hãy đến học với Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

22/11/15 CHÚA NHẬT TUẦN 34 TN – B 
Đức Giê-su Ki-tô, Vua Vũ Trụ
Ga 18,33b-37


Suy niệm: Chuyện kể rằng, có một ông lão lang thang dựng lều trú ngụ trước hoàng cung. Nhà vua triệu vào chất vấn: đây đâu phải là trạm nghỉ chân? Trước hoàng thượng, ai sở hữu hoàng cung này, ông lão hỏi. Đức vua trả lời: phụ vương của trẫm, người đã băng hà. Thế vậy, ai đã sở hữu chỗ này trước phụ vương của hoàng thượng? Tiên đế của phụ vương trẫm, ông ấy cũng đã qua đời. Ông lão liền nói: Thế thì đây cũng chỉ là một trạm nghỉ chân; ai cũng chỉ ở chỗ này một thời gian ngắn rồi đi. Vua chúa trần gian dù có trị vì đến “muôn tuổi” thì rồi cũng có lúc ra đi. Chỉ có Chúa Giê-su mới là Vua muôn đời. Nước của Ngài “không thuộc về là thế gian này;” đó là vương quốc của sự thật: Ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Chúa; đó là vương quốc của sự sống: Ai tin vào Ngài thì không bị xét xử nhưng được sự sống đời đời (x. Ga 5,24).
Mời Bạn: Chúa Giê-su là Vua quyền năng của bạn, vị Vua mà bạn có thể gặp gỡ và trở nên bạn hữu thân tình. Bạn đã tôn nhận Vua Giê-su để Ngài giải thoát bạn khỏi sợ hãi, buồn phiền, bất an, và bao lo toan trong cuộc sống chưa? Bạn và tôi hãy qui phục Vua Giê-su, để Người thi thố quyền năng của Người trên cuộc đời chúng ta.
Sống Lời Chúa: Quì gối trước thánh giá Chúa Ki-tô để tôn nhận Ngài là Vua, là Chúa cuộc đời bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, chúng con thật hạnh phúc có Chúa là Vua vũ trụ yêu thương con. Chúng con xin lỗi Vua Giê-su của chúng con, vì đã không tôn thờ, yêu mến cho phải đạo. Từ nay, chúng con chỉ thờ lạy một mình Chúa là Vua chúng con mà thôi. Amen.

ĐỨNG VỀ PHÍA SỰ THẬT
Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Chúa mau đến, mà còn đưa tinh thần Ðức Kitô vào mọi cơ cấu trần gian: chính trị, xã hội, nghệ thuật, giáo dục, thể thao, giải trí... 

Suy nim:
Từ sau vụ nổ big-bang, vũ trụ được thành hình,
và càng ngày càng bành trướng.
Trái đất chỉ là một hạt bụi nhỏ xíu trong vũ trụ,
nhưng nó lại lớn lao vô cùng,
vì là hành tinh được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc.
Con Thiên Chúa đã ghi dấu chân mình trên mặt đất,
đã sống trọn phận người bên cạnh nhân loại anh em.
Mừng lễ Ðức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ,
chúng ta được mời gọi ngắm nhìn trái đất tròn.
Ðây là vũ trụ của hơn 7 tỉ người đang sống.
Vũ trụ này sẽ đi về đâu? Lịch sử này sẽ đi về đâu?
Tất cả sẽ được hội tụ và biến đổi nơi Ðức Kitô,
để rồi Ngài sẽ dâng lại tất cả cho Thiên Chúa Cha.
Tuy Ðức Giêsu không nói rõ mình là vua,
cũng không chịu để dân chúng tôn vương mình,
nhưng Ngài lại nói nhiều về Nước của Ngài.
Nước đó, Philatô chẳng có gì phải sợ.
Một nước không có quân đội để chiến đấu,
không có lãnh thổ trên bản đồ, không thuộc về thế gian.
Nhưng Nước đó lại có những công dân thực sự.
Bất cứ ai đứng về phía sự thật thì thuộc về Nước này.
Họ bắt gặp sự thật nơi lời chứng của Ðức Giêsu.
Họ đã nghe tiếng Ngài và theo Ngài tiến bước.
Có những người chưa biết Ðức Giêsu, nhưng đã ở rất gần Ngài.
Nước của Vua Giêsu là Nước của sự thật.
Sống theo sự thật chẳng bao giờ dễ dàng.
Kẻ trung thực thường thua thiệt, lại bị coi là dại dột.
Sự dối trá nhiều khi được coi là khôn ngoan.
Người ta dối trá một cách trơn tru, không chút áy náy.
“Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Chúng ta không nghe được tiếng Chúa,
chỉ vì ta sợ sự thật, sợ nói thật, sợ sống thật,
như Philatô muốn giữ ghế ngồi hơn là cứu người vô tội.
Lương tâm bị băng hoại, lòng tin vào nhau bị đổ vỡ.
Cuối cùng chính chúng ta là nạn nhân của mình,
của một thế giới xây dựng trên những đồ giả.
Mừng lễ Ðức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ,
ta đặt mình trước một thế giới bề bộn bao vấn đề:
ô nhiễm môi trường, tăng dân số, aids, thất nghiệp, ma tuý,
mafia, tham nhũng, nghèo đói, lạc hậu, bất công...
Thế lực của sự dữ và tội ác có vẻ thắng thế,
ích kỷ, hận thù, bạo lực tung hoành khắp nơi.
Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Chúa mau đến,
mà còn đưa tinh thần Ðức Kitô vào mọi cơ cấu trần gian:
chính trị, xã hội, nghệ thuật, giáo dục, thể thao, giải trí...
Càng làm cho sự thật và tình yêu thắng thế
thì Nước Chúa càng lớn dần lên
cho đến lúc thành tựu viên mãn vào ngày tận thế.
Xin Ðức Giêsu làm vua cả vũ trụ loài người
nhờ làm vua tiểu vũ trụ là cõi lòng từng Kitô hữu.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.

Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.

Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...

Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.

Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
22 THÁNG MƯỜI MỘT
Đồng Cảm Với Những Nỗi Khó Khăn Của Người Khác
Giáo Hội không thể chỉ đóng khung mình trong những gia đình Kitôhữu gắn bó với mình. Không, Giáo Hội phải mở rộng các chân trời của mình ra để bao gồm tất cả mọi gia đình, nhất là những gia đình đang ở trong những hoàn cảnh bi đát nhất.
Tất cả chúng ta đều biết rõ những hoàn cảnh khó khăn đang đè nặng trên nhiều gia đình. Có những gia đình của người tị nạn, những gia đình của người phục vụ trong quân ngũ, những gia đình của các thủy thủ hay của những người rày đây mai đó thuộc đủ mọi lý do. Có những gia đình của các tù nhân, của những người trốn tránh sự bách hại … Tất cả những gia đình ấy đều phải chịu sự chia cách lâu dài. Có những gia đình có con cái bị khuyết tật hoặc có người nghiện rượu hay ma túy. Có những gia đình chỉ còn đôi vợ chồng cao niên sống cô quạnh lẻ loi. Mọi người đều biết rõ bi kịch của các gia đình thường xuyên xảy ra bất hòa và cãi vã kịch liệt. Có những gia đình có con cái vô ơn và bướng bỉnh chống cưỡng lại cha mẹ. Có những gia đình mà người vợ hay người chồng mất đi, kẻ ở lại phải sống cô đơn suốt đời. Có những gia đình mà cái chết bi đát của một thành viên xuân trẻ phủ trùm trên mọi người một nỗi tiếc thương da diết khôn nguôi.
Cuối cùng, có những gia đình là sào huyệt của tội lụy, theo góc nhìn của người Kitôhữu. Tất cả những bối cảnh đó đặt ra những vấn đề mục vụ gay go cho Giáo Hội. Giáo Hội phải ý thức những hậu quả nghiêm trọng mà chúng gây ra. Giáo Hội không thể dửng dưng với con người trong các hoàn cảnh khó khăn đó, vì Giáo Hội phải cảm thông và quan tâm đến phần rỗi của họ.
Chúng ta hãy cầu nguyện khẩn thiết cho các gia đình, nhất là cho các gia đình đang vướng mắc trong những hoàn cảnh khó khăn.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 22-11
Chúa Nhật XXXIV Thường Niên
Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ
Đn 7, 13-14; Kh 1, 5-8; Ga 18, 33b-37.

LỜI SUY NIỆM: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.”
Đứng về sự thật, là điều ai cũng muốn và còn lấy làm hãnh diện nữa, nhưng rồi mấy ai dám đứng về sự thật và làm chứng cho sự thật giữa một thế gian đầy dẫy sự gian ác và trả thù của những kẻ xấu, núp trong bóng tối và những thế lực đen. Người đứng về phía sự thật, làm chứng cho sự thật phải là người có tâm hồn tin yêu Chúa Giêsu. Nhận được sức mạnh nơi Người với tâm tình phó thác mọi sự trong Người. Trong Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội đang kêu mời người tín hữu, cũng như những người có thiện chí ngoài Giáo Hội: “Mọi người có nghĩa vụ đặc biệt là phải luôn hướng tới sự thật, tôn trọng sự thật và làm chứng về sự thật một cách có trách nhiệm”
Lạy Chúa Giêsu. Quan Phi-la-tô, người có quyền tha hay kết án, thế mà khi biết Chúa vô tội, ông đã không dám bênh vực sự thật, không dám đứng về sự thật vì quyền lợi của riêng mình. Xin ban cho chúng con được sống trong một xã hội có những người lãnh đạo biết tôn trọng và bảo vệ sự thật. Để mọi người được sống trong ấm no hạnh phúc đúng với phẩm giá của mình.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 22-11
Thánh CÊCILIA
Đồng Trinh Tử Đạo

Cuộc tử nạn của thánh CÊCILIA rất được nhiều người biết đến, quí chuộng thán phục và ưa lập lại.
Nhưng những thế kỷ đầu không thấy nói gì tới vị thánh này cả. Thánh Ambrôsiô. Hierônimô rất kính các trinh nữ tử đạo, nhưng không nhắc đến tên Ngài. Ba trăm năm sau cuộc tử đạo giả định này, câu chuyện của thánh nữ xem ra là một trong những áng văn đẹp nhất làm say mê tín hữu và phổ biến rộng rãi lạ thường. Câu chuyện tưởng tượng về thánh nữ Cêcilia được chen vào giữa hai vị tử đạo có thật là Valêriô và Tiburtiô. Truyện đó như sau:
Cêcilia thuộc gia đình quí phái sống tại Roma dưới thời vua Alexander Sêvêrô. Cuộc bách hại thật dữ dằn. Một mình trong gia đình là Kitô hữu, Ngài luôn mang theo cuốn Phúc âm và sống đời cầu nguyện bác ái. Mỗi khi tới hang toại đạo là nơi Đức giáo hoàng Urbanô bí mật cử hành thánh lễ, đoàn người ăn xin đợi chờ Ngài trên đường đi Roma chìa tay xin Ngài phân phát của bố thí. Dưới lớp áo thêu vàng, Cêcilia mặc áo nhậm mà vẫn tỏ ra bình thản dịu dàng.
Trong khi tuổi trẻ ngoại giáo mê say nhạc trần tục, lòng Cêcilia hướng về Chúa và ca tụng một mình Ngài thôi. Đáp lại lòng đạo đức của Ngài, Thiên Chúa cho Ngài được đặc ân được thấy thiên tnần hộ thủ hiện diện bên mình.
Cha mẹ Cêcilia gả Ngài cho một nhà quí phái tên là Valêriô yêu Cêcilia nồng nhiệt, ông không biết Ngài theo Kitô giáo, nhưng ông có một tâm hồn ngay thẳng.
Ngày cưới, Cêcilia mặc chiếc áo nhặm duới lớp áo ngoài sang trọng và khẩn cầu Chúa giữ cho mình được trinh nguyên. Giữa những tiếng ca vui nhộn, Cêcilia vẫn theo thói quen cùng với các thiên thần ca hát những khúc thánh thi. Bởi đó mà các người Kitô hữu hay nhận Ngài là bổn mạng của các nhạc sĩ. Chúa Giêsu khấng nghe lời ca trong trắng tự lòng vị hôn thê trẻ dâng lên Ngài. Khi chiều về, Cêcilia nói với Valêriô:
- Thưa Chúa công, em có điều này muốn nói với anh, không bàn tay trần tục nào được động tới em, vì em có một thiên thần bảo vệ. Nếu anh tôn trọng em, Ngài cũng yêu mến anh và ban ân phúc cho anh.
Ngạc nhiên và rất cảm kích, Valêriô đã ao ước nhìn thấy thiên thần. Cêcilia mới nói rằng: ông phải chịu phép rửa tội đã, rồi nàng giải thích mầu nhiệm cứu rỗi các linh hồn do đức Kitô cho ông nghe. Ngài đề nghị: - Anh hãy tới đường Appianô. Anh sẽ gặp những người nghèo khổ và lấy danh nghĩa em để xin họ dẫn anh tới gặp cụ già Urbanô đang ẩn náu trong hang toại đạo. Vị giám mục này sẽ dạy dỗ anh hay hơn em, Ngài sẽ chúc bình an cho anh, sẽ mặc cho anh bộ áo trắng tinh. Rồi trở lại đây anh sẽ thấy thiên thần của em.
Valêriô theo lời vị hôn thê của mình, đến đường Appianô và được dẫn tới vị giám mục. Ngài dạy đạo và rửa tội cho ông. Trở về với Cêcilia . Ông gặp nàng đang cầu nguyện, có thiên thần bên cạnh, khuôn mặt thiên thần rực sáng, tay cầm hai triều thiên kết bằng hoa huệ và hoa hồng. Ngài đặt một chiếc trên đầu Cêcilia và một chiếc trên đầu Valêriô và nói:
- "Hãy giữ lòng trong trắng để xứng đáng bảo vệ những triều thiên này, chúng từ vườn của Thiên Chúa, không bao giờ tàn tạ, chẳng hề lạt hương".
Thiên thần còn nói thêm: - "Hỡi Valêriô, bởi vì anh đã biết nghe lời hiền thê của anh, vậy anh xin điều gì anh muốn".
Valêriô có người em ông yêu thương lắm tên là Tiburtiô, ông xin: - "Con muốn em con cũng biết đạo thật như con"
Thiên thần trả lời: - Điều anh xin rất đẹp lòng Chúa. Vậy hãy biết rằng: Tiburtiô và anh sẽ lên trời với ngành vạn tuế tử đạo".
Ngay lúc ấy Tiburtiô xuất hiện. Ông thấy mùi hoa huệ và hoa hồng và muốn biết từ đâu mà có hương thơm như vậy giữa mùa này, thứ hương thơm như làm con người ông trẻ lại. Cêcilia đã nói cho Cêcilia ông hiểu sự hư không của các ngẫu thần, đã tỏ cho ông thấy sự rực rỡ của đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Tiburtiô muốn được sự chỉ dạy, và đến lượt ông, cũng đã lãnh nhận bí tích rửa tội do đức giáo hoàng Urbanô.
Cêcilia, Valêriô và Tiburtiô cùng nhau sống đời thánh thiện. Họ phân phát của bố thí cho các Kitô hữu bị bắt bớ, bí mật cầu nguyện với những người bị kết án và khuyến khích họ can đảm chịu cực hình. Đêm về hai anh em lo chôn cất xác các vị tử đạo.
Chẳng bao lâu họ bị phát giác. Tổng trấn Almachiô ngac nhiên hỏi: - Các người quan tâm tới các tử tội bị ta kết án hay sao ?
Cêcilia trả lời: - Thật đẹp lòng Chúa biết bao, nếu chúng tôi xứng đáng được làm nô lệ cho những người mà Ngài kết án là tử tội.
Quan tổng trấn nhún vai cho rằng: người đàn bà này mất trí. Ông tách riêng Valêriô và Tiburtiô và cũng hỏi như vậy. Nhưng các Ngài đã khinh thường danh vọng với sang giàu mà Almachiô rất coi trọng. Ông liền kết án trảm quyết các Ngài. Tác giả kể lại cuộc tử nạn các Ngài đã nói: - Người ta thấy các Ngài chạy xô tới cái chết như tới dự một đại lễ.
Cêcilia thu lượm và chôn cất xác các Ngài. Nàng vẫn tiếp tục bao bọc cho các Kitô hữu bị bách hại. Almachiô liền tống giam các Ngài. Bị vấn danh Ngài nói: - Tôi tên là Cêcilia, nhưng Kitô hữu là tên đẹp hơn nhiều của tôi.
Quan tổng trấn bắt nộp tài sản của Valêriô và Tiburtiô. Cêcilia trả lời để tất cả đã được phân phát cho người nghèo rồi. Tức giận Almachiô truyền cho Cêcilia phải dâng hương tế thần ngay nếu không sẽ phải chết. Cêcilia cười trả lời: - Chư thần của ông chỉ là đá, đồng chì, và Ngài tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô mà thôi. Các binh sĩ xúc động nghị rằng Ngài sắp phải chết nên nài nỉ: - Cô sang trọng và trẻ đẹp, hai mươi tuổi đầu hãy dâng hương tế thần đi, đừng để chết uổng.
Nhưng Cêcilia trả lời họ rằng: - Các ông không biết rằng chết vào tuổi tôi, không phải là đánh mất tuổi trẻ, nhưng là đổi chác vì Thiên Chúa sẽ trả lại gấp trăm cái người ta dâng cho Ngài sao ? Nếu người ta đưa quí kim để đổi lấy vật tầm thường, các ông có ngập ngừng không ?
Nghe Ngài các binh sĩ hoán cải. Almachiô mất bình tĩnh truyền giam Ngài vào phòng tắm. Căn phòng đầy hơi nóng. Cêcilia không hề thấy khó chịu. Almachiô truyền chém đầu Ngài lý hình ba lần dùng gươm mà chỉ gây nên được một vết thương ghê rợn. Thánh nữ đã cầu xin để được gặp Đức Giáo hoàng Urbanô đến lo linh hồn mình. Ngài còn sống được 3 ngày, được gặp Đức Urbanô, rồi lãnh triều thiên thiên thần đã hứa.
Các Kitô hữu chôn táng Ngài và tôn trọng thái độ lúc Ngài tắt hơi, đầu không cúi gục như bông hoa không tàn.
Hơn một nghìn năm sau, người ta thấy trong hang toại đạo một thi thể được coi như là của Cêcilia, huyền thoại kể lại và nghệ sĩ trẻ Maderna tạc tượng đã nghĩ đây là tuyệt phẩm của ơn thánh.
Vào thế kỷ thứ V, một nhà quí phái trùng tên đã dâng nhiều dinh thự làm nhà thờ đặt tên là Cêcilia danh hiệu bà đã được mang.
(daminhvn.net)


22 Tháng Mười Một
Nồi Cháo Tuyệt Vời
Một hôm, có một người lạ mặt đến gõ cửa nhà của một bà góa nghèo để xin ăn. Nhưng người đàn bà cho biết trong nhà bà không còn gì để ăn cả. Người lạ mặt mới nói: "Bà đừng lo, tôi có mang theo một hòn đá có thể biến nước thành một thứ cháo tuyệt vời nhất trần gian. Nhưng trước tiên bà hãy cho tôi mượn một cái nồi lớn".
Thấy người lạ mặt đề nghị một cách nghiêm chỉnh, cho nên người đàn bà mới cho nước vào cái nồi lớn nhất và đặt lên bếp. Khi nước vừa sôi, thì người đàn bà chạy đến các nhà láng giềng để mời sang chứng kiến điều lạ lùng sắp xảy ra. Trước đôi mắt mở to của mọi người, người khách lạ mới cho viên đá vào nồi, rồi dùng muỗng lấy nước đưa lên miệng nếm, ông vừa hít hà: "Thật là tuyệt diệu! Nhưng giá có thêm một ít khoai thì tốt hơn". Nghe thế, một người đàn bà có mặt bèn sốt sắng đề nghị: "Trong bếp tôi còn một ít khoai". Nói xong, bà đon đả chạy về nhà mang khoai sang. Người khách lạ cho những miếng khoai tây được thái nhỏ vào trong nồi. Một lát sau, ông nếm thử và nói: "Tuyệt! Nhưng giá có thêm chút thịt thì chắc chắn phải ngon hơn".
Nghe thế , một người đàn bà khác chạy về mang thịt đến. Người lạ mặt cũng cho thịt vào nồi, đảo lên trộn xuống một hồi rồi nếm thử và nói: "Bây giờ thì quý vị thưởng thức nồi cháo của tôi, nhưng nếu có thêm một chút rau cỏ cho vào thì là hoàn hảo". Dĩ nhiên, ai cũng muốn nếm thử nồi cháo, cho nên ai cũng hăm hở đi tìm rau. Có người mang đến nguyên một giỏ củ cà rốt và hành. Người lạ mặt cho các thứ rau vào nồi rồi ra lệnh cho người đàn bà chủ nhà: "Bây giờ tôi cần một ít muối và tiêu nữa là có được một nồi cháo ngon nhất trần gian". Khi nồi cháo đã sẵn sàng, ông hối thúc mọi người đi tìm chén bát đến. Có người mang cả bánh mì và trái cây.
Mọi người vui vẻ ngồi vào một bàn tiệc bất ngờ. Trong khi mọi người nói cười rộn rã, thì người khách lạ lẻn đi. Ông vẫn để lại hòn đá mà mỗi khi cần đến, những người hàng xóm có thể sử dụng để cùng nấu chung với nhau một nồi cháo ngon nhất thế giới.
Một hòn đá, cộng với một ít thực liệu và gia vị sẽ tạo nên một nồi cháo ngon nhất trần gian: đó là hình ảnh của sự đóng góp vào phép lạ mà Thiên Chúa không ngừng thực thi cho con người.
Bà góa thành Sarepta đã dâng cúng một ít bột mì cho tiên tri Êlia để từ đó được lương thực hằng ngày trong suốt mùa hạn hán. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhân bánh và cá cho hơn năm ngàn người ăn từ năm chiếc bánh và hai con cá của một cậu bé...
Với một chút đóng góp từ lòng quảng đại của con người, Thiên Chúa có thể làm những phép lạ cả thể. Tất cả những công trình bác ái và giáo dục trong Giáo Hội đều bắt nguồn một cách khiêm tốn: Chúng ta hãy nhìn vào công trình của Mẹ Têrêxa thành Calcutta, của cha Pierre, sáng lập cộng đồng Emmaus, của cha Van Straatten, sáng lập Hội trợ giúp các Giáo Hội đau khổ: một căn nhà nhỏ, một miếng thịt mỡ, một công việc vô danh... Phép lạ của Thiên Chúa thường bắt đầu bằng những đóng góp nhỏ và âm thầm của con người.
Thiên Chúa luôn ban cho mỗi người chúng ta cơ may để đón nhận phép lạ của Ngài. Ngài chỉ cần một chút lòng quảng đại của cúng ta. Nếu chúng ta sẵn sàng dâng tặng cho Ngài một chút những gì chúng ta có thì có biết bao nhiêu người chung quanh sẽ được chung hưởng phép lạ của Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét