22/11/2015
Chúa Nhật 34
Quanh Năm Năm B
Lễ Chúa Giêsu
Kitô Vua Vũ Trụ
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa:
Chúa Nhật XXXIV Thường Niên B - Lễ Chúa Giêsu Kitô - Vua vũ trụ
CHÚA NHẬT XXXIV MÙA THƯỜNG NIÊN
– B
LỄ CHÚA GIÊSU KITÔ – VUA VŨ TRỤ
LỄ CHÚA GIÊSU KITÔ – VUA VŨ TRỤ
Đn 7,13-17; Kh 1,5-8; Ga
18,33b-37
VƯƠNG QUỐC CỦA VỊ MỤC TỬ GIÊSU
“Chính
ngài nói rằng tôi là vua.
Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian
chính là để làm chứng cho sự thật.
Phàm ai phát xuất từ sự thật
thì nghe tiếng tôi”
(Ga 18,37)
Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian
chính là để làm chứng cho sự thật.
Phàm ai phát xuất từ sự thật
thì nghe tiếng tôi”
(Ga 18,37)
Trước
một thế giới đang chứng kiến nhiều cảnh hận thù, đổ vỡ, tang thương – chiến sự
khốc liệt tại Syria, dòng người đổ xô tìm đường tị nạn tại Châu Âu, máy bay Nga
bị cài bom khủng bố, những vụ khủng bố dã man tại Paris – vốn là những vấn nạn
có thể châm ngòi cho các cuộc xung đột trên bình diện toàn cầu, chúng ta mới
thấy thấm hơn lời khẳng định của Thánh Vịnh:
“Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời,
thì hơn tin cậy ở người trần gian.
Cậy nhờ thần thế vua quan,
chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời” (Tv 118,8-9)
thì hơn tin cậy ở người trần gian.
Cậy nhờ thần thế vua quan,
chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời” (Tv 118,8-9)
Chúng ta nghiệm thấy nói cho cùng chúng ta chỉ còn biết cậy dựa
vào Thiên Chúa mà thôi: “Chỉ
trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn. Ơn cứu độ tôi bởi
Người mà đến, duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi, là thành lũy chở che:
tôi chẳng hề nao núng ”
(Tv 62, 2-3). Tất cả các định chế chính trị trần gian đã không thể mang lại cho
chúng ta sự bình an đích thực. Sự bình an đích thực mà con người hằng khao khát
chỉ có thể là quà tặng từ vị vua nhân ái, khoan hậu, từ bi là Chúa Giêsu Kitô,
Đấng đã bẻ gẫy xiềng xích của tội lỗi và sự chết, vốn là căn nguyên của mọi đổ
vỡ mà chúng ta đang bắt gặp trong thế giới và trong chính chúng ta.
Giáo
Hội tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Vua Vũ Trụ, là vị vua đích thực của toàn thế
giới và của từng người chúng ta. Ngài là vị vua ngự trị nơi tâm hồn những ai đang
khao khát chân lý đích thực. Những ai biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa thì
chân nhận Ngài là vua tối cao của lòng mình.
Nhưng
Chúa Giêsu Kitô là vua theo nghĩa nào? Vương quyền của Ngài có ý nghĩa gì đối
với chúng ta? Chúng ta phải làm gì để trở thành “thần dân” của Ngài? Chúng ta
phải làm gì để xây dựng Vương Quốc của Ngài ngay tại trần gian này? Ba bài đọc
hôm nay sẽ giúp làm sáng tỏ những câu hỏi mà chúng ta vừa nêu ra.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. BÀI ĐỌC 1: Đn
7,13-17
Bài
đọc 1 nói đến một Đấng như “Con Người” đang ngự giá mây trời mà đến. Người xuất
hiện trước Đấng Lão Thành. Nếu đọc đoạn Kinh Thánh này dưới con mắt đức tin của
người Kitô hữu thì chúng ta sẽ nhận ra Đấng như “Con Người” là hình ảnh tiên
trưng về Chúa Giêsu Kitô, còn Đấng Lão Thành là Thiên Chúa Cha. Từ bài đọc này,
chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu Kitô đã tiếp nhận “vương quyền” của Người từ
Thiên Chúa Cha. Thật vậy, từ Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu Kitô đã tiếp nhận
“quyền thống trị, vinh quang, và vương vị”. Khi được Thiên Chúa Cha tôn phong
Người làm vua, Chúa Giêsu Kitô trở thành vua muôn vua, vua của hết thảy mọi
người, mọi dân tộc, mọi quốc gia và mọi ngôn ngữ; tất cả đều phụng sự vị vua
Giêsu Kitô tối cao này. Nhưng Người không phải là một vị vua trong giây lát,
trong một thời hạn nhất định như các vị vua trần thế khác, hay triều đại Người
tồn tại trong một khoảng thời gian mà thôi. Trái lại, Người là vua vĩnh cửu,
vương quyền của Người là vương quyền vĩnh cửu, và vương quốc của Người sẽ không
hề suy vong.
2. BÀI ĐỌC 2: Kh
1,5-8
Bài
đọc hai giúp chúng ta hiểu hơn về vương quyền của Chúa Giêsu Kitô, hiểu hơn về
tác động của vương quyền ấy đối với từng người chúng ta, và hiểu hơn về vai trò
của chúng ta trong Vương Quốc của Người. Đức Giêsu Kitô làm vua sau khi đã trải
qua cuộc khổ nạn, Người như Con Chiên bị đem sát tế. Nếu như người Do-thái đã
nhờ máu con chiên bôi lên khung cửa nhà của họ, nên các con đầu lòng của họ
không bị sát hại (x. Xh 12,1-34), thì “muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn
ngữ, thuộc mọi nước mọi dân” (Kh 5,9) đã được “cứu thoát” khỏi tội lỗi và quyền
lực sự chết nhờ máu châu báu của Con Chiên Vô Tội là Đức Giêsu (Kh 1,5).
Chúa
Giêsu Kitô là Vua vì Người là “thủ lãnh mọi vương đế trần gian”, Người là
“Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy”. Vì yêu thương chúng ta,
Người đã bước vào Cuộc Thương Khó. Nhờ Phục Sinh, Người đã chiến thắng tử thần.
Người là vị vua giải thoát chúng ta khỏi ách thống trị của tội lỗi, trao ban
cho chúng ta sự sống mới, cho chúng ta được quyền tham dự vào Vương Quốc của
Người, và trở thành hàng tư tế của Thiên Chúa Cha (x. Kh 5,6).
3. BÀI TIN MỪNG: Ga
18,33b-37
Bài Tin Mừng đưa chúng ta trở lại khung cảnh Chúa Giêsu ra trước
tòa tổng trấn Philatô. Như 3 sách Tin Mừng Nhất Lãm (Mátthêu, Marcô, và Luca),
Tin Mừng Gioan thuật lại: khi Philatô gặp mặt Chúa Giêsu, câu hỏi đầu tiên mà
ông đặt ra cho Người là “Ông có phải là vua dân Do-thái không?” (Ga 18,33b; cf. Mt 27,11; Mc
15,2; Lc 23,3). Trước câu hỏi này, Chúa Giêsu đã trả lời bằng một câu hỏi: “Tự
Ngài nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” Philatô bèn trả
lời, hàm ý rằng tước hiệu “vua dân Do-thái” là do dân Do-thái, hay chính xác
hơn, do các thượng tế đã nói với quan. Nhưng thực sự họ có nói như vậy không?
Thực ra, trong suốt quãng thời gian thi hành sứ vụ công khai của
mình, Chúa Giêsu chưa bao giờ được người Do-thái gọi bằng tước hiệu “vua dân
Do-thái”. Tước hiệu này đúng ra do “dân ngoại” gán cho Ngài. Theo Tin Mừng
Mátthêu, tước hiệu này xuất hiện lần đầu tiên, khi các vị chiêm tinh, lúc đặt
chân đến Giêrusalem, đã hỏi: “Vua
dân Do-thái mới sinh,
hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên
chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2, 2).
Cũng không có chỗ nào trong Tân Ước nói các kinh sư, những người
biệt phái, hay các thượng tế gọi Chúa Giêsu bằng tước hiệu “vua dân Do-thái”.
Trái lại là đàng khác, khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, chính họ đã xin với
Philatô: “Xin Ngài đừng viết ‘vua
dân Do-thái’, nhưng viết: ‘Tên này đã nói: Ta
là vua dân Do-thái’(Ga 19, 21).
Theo Tin Mừng Luca, những kẻ nộp Chúa Giêsu cho quan Philatô đã
tố cáo Người như thế này: “Chúng tôi đã phát giác ra tên này sách động dân tộc
chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho Xêda, lại còn xưng mình là Đấng
Kitô, là vua
nữa” (Lc 23, 2). Như thế, các vị thượng tế và dân Do-thái khi trao
nộp Chúa Giêsu cho Philatô, đã cố thuyết phục Philatô rằng họ đem nộp Người cho
quan vì Người là một tên tội phạm chính trị chống lại hoàng đế Roma. Họ có nói
đến khái niệm “vua”, nhưng không phải là “vua dân Do-thái”. “Vua dân Do-thái” là
do Philatô đã hiểu như vậy từ những lời dân Do-thái tố cáo Chúa Giêsu.
Kế đến, trước câu hỏi của Philatô: “Ông đã làm gì?”, Chúa Giêsu
đã cho chúng ta hiểu Người làm vua, không phải theo kiểu thế gian, Người không
phải là vị vua của một thể chế chính trị, của một triều đại trần thế: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian
này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái. Thế
nhưng Nước
tôi không thuộc chốn này” (Ga 18,36). Rồi Chúa Giêsu
minh nhiên nói đến sứ mạng làm vua của Người: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế
gian chính là để làm
chứng cho sự thật”. Sự thật mà Ngài muốn làm chứng được
diễn tả trước đó ở Ga 17,2-3: “Cha đã ban cho Người [Chúa Giêsu Kitô] quyền
trên mọi phàm nhân [có thể hiểu là vương quyền] để Người ban sự sống đời đời
cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời, đó là họ nhận
biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là
Đức Giêsu Kitô”.
Chúa
Giêsu đã khẳng định với Philatô: vương Quốc của Người không thuộc về thế gian
này. Nhưng Vương Quốc ấy thực ra lại bắt đầu từ giữa thế giới này. Và đây chính
là điểm có liên hệ đến chúng ta: vương Quốc ấy bao gồm những ai biết lắng nghe
tiếng Người và đi theo Người để trở nên một đàn chiên duy nhất dưới quyền một
chủ chiên (x. Ga 10,16; 18,37). Vương quốc ấy có vua Giêsu là Người Mục Tử Nhân
Lành, Đấng không chỉ chăm lo cho các con chiên đã thuộc vào ràn của Người để
chúng được sống dồi dào, nhưng Đấng ấy còn lo đi tìm những con chiên khác chưa
thuộc ràn này, để cả chúng cũng sẽ được sự sống nhờ Người.
II. CÂU HỎI
PHẢN TỈNH
1/ Điểm
nào trong 3 bài đọc trên đây giúp cho bạn cảm nghiệm cụ thể nhất, thiết thân
nhất, cá vị nhất về vua Giêsu Kitô? Người là vị vua như thế nào đối với bạn?
2/ Theo
bạn, người Kitô hữu chúng ta cần phải làm gì cụ thể để xây dựng Nước vua Giêsu
trên trần gian này?
3/ Làm
thế nào chúng ta có thể giới thiệu người khác đến với vua Giêsu Kitô, hay nói
đúng hơn, làm thế nào để vua Giêsu Kitô có thể dễ dàng đến với chúng ta, đến với
những “con chiên” chưa thuộc ràn của Người? Chúng ta nên đóng vai trò gì cho
cuộc gặp gỡ giữa vua Giêsu Kitô với những người khác?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh
chị em thân mến! Đức Giêsu là vua, nhưng vương quốc của Ngài không thuộc về thế
gian này, và vương quyền của Ngài đặt nền tảng trên sức mạnh của tình yêu và sự
thật. Chúng ta cùng tôn vinh Chúa và tha thiết cầu nguyện:
1. “Tôi
đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật.” Chúng ta cùng cầu xin cho
mọi thành phần trong Hội Thánh luôn nhiệt tâm chu toàn sứ mạng làm chứng cho
Thiên Chúa là sự thật tuyệt đối bằng chính đời sống gương mẫu của mình.
2. “Ai
thuộc về sự thật thì nghe tiếng tôi.” Chúng ta cùng cầu xin Chúa soi chiếu ánh
sáng chân lý trên những người thành tâm thiện chí đang miệt mài tìm kiếm, để họ
nhận biết và qui phục Đức Giêsu Kitô là vua sự thật và tình thương.
3. “Nước
của tôi không thuộc về thế gian này.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi Kitô hữu
luôn ý thức mình thuộc về Chúa Kitô, để khi sống giữa thế gian, họ biết sử dụng
những ân huệ và khả năng Chúa ban nhằm đạt tới nước trời.
4. Chúa
Kitô đã làm cho chúng ta trở nên dân tư tế của Thiên Chúa. Xin Chúa thanh luyện
và ban ơn Thánh Thần giúp mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn hết lòng thờ
phượng Chúa và nỗ lực thực thi giới răn yêu thương đối với mọi người.
Chủ tế: Lạy
Chúa Giêsu Kitô là Vua vũ trụ và là Đấng cứu độ chúng con. Chúa đã chịu chết và
sống lại để cho chúng con được sống đời đời trong Nước Chúa. Xin nhậm lời chúng
con cầu nguyện và giúp chúng con luôn sống xứng đáng là thần dân của Chúa. Chúa
hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
Chủ đề :
Đức Giêsu là vua
"Philatô hỏi : Vậy ông là vua sao ?
Đức Giêsu đáp : Chính Ngài nói rằng Tôi là Vua"
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I (Đn 7,13-14) : Đaniên thấy một thị kiến trong
đó Con Người được trao quyền thống trị mọi người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và
ngôn ngữ.
- Tin Mừng (Ga 18,33b-37) : Đức Giêsu tuyên bố với Philatô
"Tôi là vua"
- Bài đọc II (Kn 1,5-8) : Đức Giêsu là thủ lãnh mọi vương đế
trần gian.
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Hôm nay là Chúa nhựt cuối cùng của năm phụng vụ. Lời Chúa vạch
cho chúng ta thấy lúc tận cùng của thời gian Đức Giêsu sẽ làm vua ngự trị trên
toàn thể mọi sự và mọi người. Nhưng từ nay cho đến lúc đó, Chúa vẫn làm vua
trong lòng những người tin cậy và yêu mến Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta nhận
thức vị trí và vai trò làm vua của Chúa trên cuộc đời chúng ta, đồng thời xin
Chúa cũng giúp chúng ta phụng thờ Ngài cho xứng đáng.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta đã tôn thờ những "vua" khác không phải là
Chúa, như tiền bạc, danh vọng, lạc thú v.v.
- Chúng ta không sống theo sự dẫn dắt của Chúa.
- Chúng ta không sống theo luật của Nước Chúa là luật yêu
thương.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Đn 7,13-14)
Trong sách Đaniên, có một nhân vật rất đặc biệt được gọi là Con
Người. Con Người đã phải chịu rất nhiều đau khổ. Tuy nhiên trong thị kiến của
đoạn này, Đaniên thấy Đấng Lão Thành (tức Thiên Chúa) trao cho Con Người quyền
thống trị tất cả loài người.
Nhân vật Con Người ấy chính là hình ảnh tiên báo Đấng Messia. Và
Đức Giêsu chính là Đấng Messia hoàn thành lời tiên tri ấy.
2. Đáp ca (Tv 92)
Thánh vịnh này thuộc loại Thánh vịnh vương giả : ca tụng
Thiên Chúa là vua. Ngai vàng Người kiên cố tự ngàn xưa và triều đại Người tồn tại
mãi qua muôn thế hệ.
3. Tin Mừng (Ga 18,33b-37)
Đoạn Tin Mừng này là một phần cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và
Philatô. Philatô hỏi "Vậy ông là vua ư ?". Đức Giêsu vừa đáp vừa
giải thích :
- "Quan nói đúng, tôi là vua."
- "Nhưng nước tôi không thuộc thế gian này." : Nước
của Chúa không giống nước trần gian.
- "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này chỉ để làm chứng về
Chân lý" : Chúa làm vua cũng không giống cách làm vua của trần gian.
Ngài làm vua để phục vụ chân lý.
- "Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi" : Công
dân của Nước Chúa là những kẻ yêu chuộng chân lý.
4. Bài đọc II (Kn 1,5-8)
Đoạn sách Khải huyền này cũng mô tả Đức Giêsu là Vua : (1)
Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã lấy máu mình rửa sạch mọi tội lỗi của chúng
ta ; (2) Sau khi chịu nạn chịu chết, Ngài được tôn lên làm Vua mọi
loài ; (3) Ngài làm cho chúng ta trở thành vương quốc của Ngài.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Đức Kitô là Vua
Một triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi quan :
"Homo homini lupus" : con người là lang sói của con người. Lang
sói là một loài thu dữ, bản tính thích tấn công, cắn xé và giết chóc. Thế mà
loài người lại giống với loài thú dữ đó, luôn luôn tấn công nhau, cấu xé và giết
chóc nhau.
Bởi vậy một sử gia đã đưa ra một kết luận tương tự với nhận định
bi quan của triết gia trên : lịch sử loài người là một chuỗi những cuộc
chiến tranh liên tiếp nhau. Từ khi có loài người trên mặt đất này cho đến nay,
có mấy khi mà loài người được hưởng thái bình ? Hầu hết thời gian lịch sử
của loài người đều là chiến tranh. Gần đây nhất là 2 cuộc thế giới đại chiến,
cuộc thứ nhất kéo dài từ năm 1914 đến 1918, làm cho 8.700.000 người chết ;
cuộc thứ hai từ năm 1939 đến năm 1945, giết chết thêm 40 triệu sinh mạng nữa.
Và hiện nay cả loài người đều phập phòng lo sợ sẽ xảy ra một cuộc đại chiến lần
thứ 3 với những vũ khí hạt nhân. Lần này không phải chỉ có 8.700.000 người chết,
hay 40 triệu người chết mà là tất cả mọi người, trái đất sẽ nổ tung, toàn thể
loài người sẽ bị tiêu diệt.
Tại sao loài người chúng ta, một loài người có trí khôn, biết
suy nghĩ, một loài cao hơn tất cả mọi loài vật khác mà lại cư xử với nhau một
cách ngu xuẩn như vậy ? Tôi nghĩ rằng trong con người chúng ta vừa có tính
thú vừa có tính người : tính thú thì giống như loài lang sói hung dữ cấu
xé lẫn nhau, còn tính người là có trí khôn biết suy nghĩ biết tính toán. Khi
buông trôi theo tính thú thì loài người chiến tranh với nhau ; và nếu con
người lại dùng cái trí khôn ngoan của tính người để phục vụ cho cái tính thú
kia thì con người lại càng dã man hung dữ làm hại nhau còn hơn loài sang sói
đích thực nữa. Điều đáng tiếc là trong hầu hết lịch sự quá khứ, con người đã
buông theo cái tính thú đó. Vì thế mà lịch sử loài người đã là lịch sử của một
chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau.
Cho nên trong bối cảnh giữa 2 cuộc chiến tranh thế giới làm chết
hàng mấy chục triệu sinh mạng con người như thế, ngày 11.12.1925, Đức Giáo
Hoàng Piô XI đã thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu nguyện cho loài
người thôi đừng buông theo tính thú mà cấu xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng
bá chủ hoàn cầu mà chinh chiến với nhau ; nhưng mọi người hãy suy phục
vương quyền Chúa Kitô và xây dựng vương quốc của Ngài, ĐGH coi đó là chấm dứt
chiến tranh
Vương quyền của Chúa Kitô không xây dựng trên sức mạnh, không củng
cố bằng bạo lực theo kiểu các nước trần gian. Bởi thế CG đã nói : "Nước
tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc
hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị bắt như thế này". Nói cách khác,
CG không thích chiến tranh, không muốn có phe phái, phe này chiến đấu chống lại
phe kia. Vương quyền của Chúa xây dựng trên sự thật, như Lời Chúa nói "Tôi
sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật". Nhưng sự
thật là gì ? Là cái làm cho con người đúng là con người chứ không phải là
lang sói. Con người phải phát huy cái tính người của mình và đồng thời dần dần
loại bỏ đi cái tính thú trong mình. Con người cố gắng sống cho ra người, mọi
người biết tôn trọng nhân phẩm nhân quyền của nhau, mọi người nhắc nhở nhau và
giúp nhau làm những việc tốt mà lương tâm chân chính của con người dạy phải
làm. Người nào sống như vậy thì là người sống trong vương quốc của Chúa ;
người nào, cố gắng làm cho nhiều người khác cũng sống như vậy thì là đang xây dựng
vương quốc của Chúa.
Nhưng xin được nói thêm cho rõ kẻo có người hiểu lầm : để
làm công dân của Nước Chúa, điều cốt yếu là cố gắng theo Lời Chúa dạy để sống
cho đúng là một con người, sống theo tính người chứ không phải theo tính thú.
Do đó, xây dựng Nước Chúa, hay mở mang Nước Chúa cũng là cố gắng làm cho có
thêm nhiều người biết theo Lời Chúa dạy mà sống theo tính người như vậy. Không
nhất thiết người ta phải rửa tội, phải theo đạo, phải gia nhập Giáo Hội. Điều cốt
yếu là người ta phải theo những giá trị mà Tin Mừng Chúa đã đề ra : sống
theo lương tâm ngay chính, sống hoà thuận, thương yêu, làm những việc lành...
Càng có thêm nhiều người sống như thế thì Nước Chúa càng mở rộng ; và khi
nào tất cả loài người biết sống như thế thì là lúc Nước Chúa đã trị đến. Và khi
đó là thời thái bình, hạnh phúc.
Sở dĩ loài người cứ luôn làm hại làm khổ lẫn nhau là vì loài người
còn sống theo cái tính thú trong mình. Vậy nếu muốn cho loài người hoà thuận với
nhau để cùng nhau chung hưởng thái bình thì loài người phải sống theo cái tính
người, gồm có những đức tính mà Chúa đã dạy chúng ta trong Tin Mừng. Con người
sống đúng là con người. Đức Giêsu gọi đó là Sự Thật ; còn ngôn ngữ phụng vụ
hôm nay thì gọi đó là vương quyền, vương quốc của Chúa Kitô. Nước Chúa. Ai sống
theo những giá trị Tin Mừng để thành người hơn thì người đó thuộc về Nước
Chúa ; ai giúp cho người khác sống theo những giá trị Tin Mừng ấy thì người
đó đang mở mang Nước Chúa ; và khi mọi người, dù có đạo hay không có đạo,
đều sống theo những giá trị Tin Mừng ấy, thì đó là thời Nước Chúa đã trị đến.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Tuần sau là Mùa
Vọng, bắt đầu một năm Phụng vụ khác rồi. Giáo hội đặt lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa
Nhật cuối cùng này, cũng có ý nghĩa : đó là ước nguyện sao cho cuối cùng tất
cả mọi người đều ở trong Nước Chúa, một nước chỉ có hoà thuận yêu thương, một
nước thái bình hạnh phúc.
Phần mỗi người chúng ta, hãy cố gắng xứng đáng là một công dân
Nước Chúa, nghĩa là biết sống đúng tính người, sống theo lương tâm, sống hoà
thuận, yêu thương, làm việc lành theo lời dạy của Tin Mừng. Chúng ta cũng hãy cố
gắng mở mang Nước Chúa bằng cách làm cho thêm nhiều người khác cũng biết sống
hoà thuận yêu thương sống theo lương tâm và làm việc lành như vậy.
* 2. Một tước hiệu không xứng hợp
Trong số những tước hiệu mà ta có thể gọi Đức Giêsu, có lẽ tước
hiệu "vua" là không xứng hợp nhất.
Khi nói tới "vua" là ta nghĩ đến ngai vàng, vương miện,
hoàng cung, quyền lực, kẻ hầu người hạ, quan quân, vũ khí v.v. Thế mà khi
nhìn vào Đức Giêsu ta chẳng thấy có gì cả. Ngược lại, ta chỉ thấy Ngài lang
thang trên những nẻo đường bụi bậm xứ Palestine, với một nhúm môn đệ ít ỏi, vây
quanh là những người nghèo nàn, tật bệnh, tội lỗi và những người bị xã hội loại
trừ.
Tuy nhiên, nhìn trên bình diện siêu nhiên thì Đức Giêsu đúng thật
là vua. Ngài là vua và là Vua trên tất cả các vua, bởi vì Ngài là Thiên Chúa, Đấng
thống trị vũ trụ.
Ngay cả trên bình diện tự nhiên, Đức Giêsu cũng xứng đáng là
Vua, Vua của mọi người : Ngài là con người tuyệt vời nhất với đầy đủ
những đức tính hoàn hảo nhất. Ngài đến với ai là vận mạng của người đó được
thay đổi thành tốt hơn. Có những người tưởng rằng mình là người lớn bằng cách
khiến cho mọi người cảm thấy nhỏ trước mặt mình. Nhưng người lớn đích thực là
người làm cho ai nấy đều cảm thấy lớn lên. Theo nghĩa này, Đức Giêsu đích thực
là Vua.
Chúng ta nên phân biệt quyền lực và ảnh hưởng. Philatô có quyền
lực trên dân, nhưng kẻ có ảnh hưởng trên dân chính là Đức Giêsu. Ảnh hưởng của
Ngài đem lại cho con người ơn tha thứ, sự phục hồi nhân phẩm, bình an, yêu
thương, hạnh phúc. (Viết theo Flor McCarthy)
Đại Hội Trẻ Thế giới tại Pháp, hàng trăm ngàn thanh niên nô nức,
tiến về thủ đô Paris dự đại hội để gặp gỡ, lắng nghe, và hiệp thông với Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II, đấng thay mặt Đức Kitô ở trần gian.
Hệ thống xe điện ngầm Métro nổi tiếng của Paris dường như lúc
nào cũng chật ních người. Hôm ấy, một cụ già ăn xin mù loà cũng cố chen lên một
toa xe nhờ chú chó dẫn đường. Cụ vừa đi, vừa chìa cái đĩa nhôm để kêu gọi lòng
hảo tâm của giới trẻ. Tuy ồn ào nhưng người ta cũng nghe được những tiếng kêu
loảng xoảng của những đồng cắc rơi vào đĩa.
Đi ngược chiều với cụ, một cô bé xanh xao gầy còm cũng ngửa nón
xin mọi người giúp đỡ. Khi hai người bất hạnh gặp nhau, cô bé tránh qua một bên
cho người hành khất mù loà tiến bước. Và đầy kinh ngạc, các bạn trẻ không thể
tin vào mắt mình, cô bé đã dốc hết số tiền kiếm được của mình đổ tất cả vào cái
đĩa nhôm kia.
*
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn
ngắm thế giới : gồm 6 tỷ người đang sống trên đó. Với bao cảnh thất nghiệp,
nghèo đói, lạc hậu, bất công. Với bao tệ nạn tham nhũng, ma tuý, mafia, sida. Với
bao nhiêu thiên tai lũ lụt, động đất, cháy rừng… Thế lực của sự dữ và tội lỗi
đang tung hoành khắp nơi.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn
lên Vua của chúng ta. Một vị vua không ngồi trên ngai vàng, nhưng treo trên thập
giá. Một vị vua không cai trị bằng quyền uy vũ lực, nhưng dựa trên tình yêu
thương. Một vị vua không có lãnh thổ trên bản đồ thế giới, nhưng nằm sâu trong
trái tim mọi người.
Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của Sự thật :
"Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi" (Ga.18,37). Sống theo sự
thật chẳng dễ dàng chút nào, vì người thành thật thường thua thiệt, và kẻ dối
trá lại được coi là khôn ngoan. Nhưng chỉ có những ai dám nói sự thật, chấp nhận
sự thật, và sống theo sự thật mới được sống trong vương quốc của Người.
Vương quốc của Vua Giêsu còn là vương quốc của Tình yêu :
"Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ hiến mạng sống cho
nhiều người" (Mc.10,45). Yêu mình, yêu thân nhân bạn bè thì dễ dàng ;
yêu người xa lạ, yêu kẻ thù, mới thật là khó. Nhưng Chúa chính là vua Tình yêu,
nên chỉ những ai sống yêu thương mới đích thực là thần dân của Người.
Cô bé ăn xin trên xe điện ngầm trong câu chuyện trên đây, đã biết
cho đi tất cả những gì mình có, những gì cần thiết nhất để sống mà không tính
toán so đo. Đó mới thật là công dân của Nước Trời, là thần dân đích thực của
Giêsu, Vua Tình yêu.
Đối với người tín hữu, công dân tương lai của Nước Trời, thì yêu
thương là lẽ sống của mọi cá nhân, gia đình, và cộng đoàn. Dường như sống yêu
thương sẽ thấy đời đơn giản, cuộc sống nhẹ nhàng thênh thang. "Đâu có tình
yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời". Có Chúa trong tâm hồn họ luôn cảm thấy
bình an, hạnh phúc. Còn mọi thứ khác chỉ là kiểu cách, rườm rà, câu nệ, phô
trương, là thanh la, não bạt, là tiếng muỗi vo ve.
*
Lạy Chúa, chúng con là đôi tay và đôi chân của Chúa, là miệng lưỡi
và trái tim yêu thương của Người.
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa, xây dựng một thế giới
yêu thương và chân thật, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến trong vinh
quang là một ngày vui trọn vẹn, một ngày hội lớn cho toàn thể nhân loại. Amen.
(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
4. Vua tình yêu
Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa…
Lê Quang Độ (Ricardo Conelo) từ nhỏ vẫn được ba má yêu
quí, đến trường tỏ ra là người học trò xuất sắc. Nhưng bầu khí nơi trường học
không được lành mạnh. Ở tuổi lên 10, em Độ đã ghiền xì ke. Em nhớ không có lý
do gì để ghiền cả ngoài tính tò mò.
Khởi sự em hút cần sa. Kế đến em nhập băng nhóm đi cướp giật.
Lên 12 tuổi Độ đã được cảnh sát thành phố Sao Paolo của nước Braxin biết đến. Bố
em tưởng có thể nhốt em trong phòng nhưng vô ích vì Độ luôn tìm ra cách thoát
khỏi bàn tay của bố, với những gì có thể ăn cắp được nơi gia đình để tiếp tục
hút. Chưa thất vọng, bố em dời gia đình đi nơi khác, nhưng Độ vẫn tìm cách nhập
vào một băng nhóm ghiền Cocaine và những thứ nặng hơn nữa. Bố em hết chịu nỗi
đành phải đuổi em đi để cứu nguy cho gia đình.
Không chỗ tựa, Độ càng sa lầy. Nhưng nếu người thiếu niên
đáng thương này có cơ may làm lại cuộc đời thì nhờ sức mạnh nào ? Ai là
người cuối cùng sẽ hoán cải được em để em nên người hữu ích cho xã hội ?
Bị đuổi khỏi gia đình, Độ trở nên mồi ngon cho tổ chức
buôn ma tuý bất hợp pháp trong vùng. Tối đầu tiên đến với nhóm, Độ được mời tới
dự bữa ăn, trong đó kẻ tố cáo bạn với cảnh sát đã bị bắn ngay nơi bàn ăn khiến
Độ cũng bị bắn lây vào cẳng. Chàng liền chạy vào bệnh viện. Tưởng thoát khỏi sự
truy lùng nhưng cảnh sát đã xuất hiện ngay bên giường. Họ chuyển Độ sang nhà tù
dành cho thanh thiếu niên.
Chính ở đây Độ may mắn nhận sự giúp đỡ của Trung Tâm Hy Vọng,
là tổ chức thiện nguyện giúp phục hồi niềm hy vọng nơi người ghiền ma tuý. Sau
này Độ mới biết đó là tổ chức do linh mục Hoàng Tâm Phú (Haus Stapelp) là thân
hữu của phong trào Focolare điều khiển. Độ được an ủi nhiều do bầu khí đón tiếp
nồng hậu của Trung Tâm ngay tối hôm đầu tiên đến đó.
Độ sống chung với mười hai người trẻ khác, mà Độ là người
trẻ nhất, nhưng lại là kẻ cứng đầu nhất, luôn gây chuyện và chơi khăm người
khác, luôn hành động thiếu đắn đo.
Hãy còn có Chúa đón nhận con
Ba tháng sau người ta phải đưa Độ tới trung tâm dành cho
thanh thiếu niên ghiền nặng hơn. Chính ở đây Độ khám phá những điều cơ bản nhất
về bản thân. Lần đầu tiên Độ thốt lên lời than thở với Đấng em gọi là Thiên
Chúa nhưng thực ra chưa bao giờ em được học biết Ngài. Cha mẹ em chỉ là người
Công Giáo theo danh xưng mà thôi vì chưa bao giờ họ đi nhà thờ. Vậy em đã xin
Chúa cho em cơ hội để bỏ hút xì ke, đổi mới cuộc đời và nên giống những người
trẻ mà Độ biết là đã thành công theo lý tưởng sống vì người khác.
Quả thật, em đã được ban cho cơ hội giúp người khác là Lâm
Đình Ái (Claudio). Đó là một bạn trẻ mắc bệnh AIDS ngủ cùng phòng với Độ. Bệnh
nhân chỉ còn chờ chết, không thể tự mình lo lấy mình nữa. Ngày kia Độ đã xin
Chúa để được thấy dung mạo Chúa nơi dung mạo bệnh nhân trẻ này. Thế rồi em được
giao việc tắm rửa, cạo râu và giúp người bệnh này ăn uống. Điều em không thể cắt
nghĩa được là em nghiệm thấy sự sống mới đang lớn lên nơi tâm hồn em nhờ mối
tương quan sống động giữa em và Thiên Chúa.
Từ từ em khám phá ra nơi bản thân một tấm lòng quảng đại
như thuộc bản năng đang được triển nở. Những người chung quanh em khó lòng tin
được rằng điều gì đó thực sự đang xảy ra khiến em trở nên con người khác trước
kia. Chẳng hạn, buổi tối hôm ấy em muốn đưa lời Tin Mừng ra thực thi, lời Tin Mừng
mà Trung Tâm này sử dụng để chữa trị bệnh nhân, là "Hãy làm cho người khác
điều bạn muốn người khác làm cho bạn." Vậy tối hôm ấy em sắp bàn tử tế, đặc
biệt để mừng sinh nhật một bạn trẻ ở Trung Tâm. Khi bạn ấy xuất hiện, em Độ đã
niềm nở đưa bạn ấy ra ngoài và tặng chiếc áo mà chính Độ rất thích mặc để diện.
Người nhận được quà cảm động đến rơi lệ khiến Độ cũng rưng
rưng hai hàng lệ. Đó là những con người chưa bao giờ nghiệm được tình yêu Thiên
Chúa, nay khám phá ra điều đó qua cử chỉ cho và nhận quà.
Em Độ nghiệm thấy ơn bình an như được gia tăng mỗi khi em
làm điều này điều kia cho người khác. Tự nhiên em sốt sắng tham dự thánh lễ mỗi
ngày.
Khi ấy em lên 17 và được giao việc chăm sóc bệnh nhân mới
được Trung Tâm tiếp nhận để chữa trị. Trong nhóm này có một người đã 40 tuổi mà
ai cũng nhìn nhận là người khó tính. Thế mà Độ đã thành công trong việc chinh
phục người ấy.
Nhiều lần Độ trở về thăm gia đình nhưng chưa ai tỏ ra chú
ý tới sự kiện là em không còn như trước nữa, kể cả mẹ em là người đã quá khổ vì
em. Nhưng lần kia người anh của Độ đã trách mắng Độ cách thậm tệ trước mặt mọi
người trong một cuộc họp mừng của gia đình. Người anh ấy rất ngỡ ngàng thấy Độ
điềm tĩnh khác thường. Hơn nữa, còn xảy ra là khi Độ dọn đồ mà người anh ấy tỏ
dấu ưa thích thứ thuốc thơm thoa xức sau khi cạo râu, em liền tặng lọ thuốc đó
cho anh ấy !
Cứ như vậy Độ tìm lại được tình thương của gia đình để
không còn phải trở về với Trung Tâm nữa. Nhưng quan trọng hơn vẫn là ơn Chúa
thúc đẩy lòng em khiến em được thanh lọc khỏi những đam mê hầu sống sự sống
hoàn toàn mới của Tin Mừng, để trở nên người hữu ích cho xã hội. Hiện em sống
bình thường trong nghề giáo viên.
Cuộc hoán cải của Lê Quang Độ làm nổi bật tình thương của
Thiên Chúa và sự ưu ái của Ngài dành cho những kẻ bé mọn. Thiên Chúa không bỏ
rơi một ai, ngược lại, kẻ càng bị người đời khinh chê và gạt sang bên lề, thì
Ngài càng ưu ái tìm kiếm và đưa vào Vương Quốc của Ngài.
Cựu Ước không thiếu lời khẳng định về tình yêu trước sau
như một của Thiên Chúa đối với thọ tạo. Thánh vịnh gia nói : "Dầu cha
mẹ có bỏ con đi nữa, thì hãy còn có Chúa đón nhận con" (Tv 26,10). Tác giả
sách Huấn Ca còn nói "Thiên Chúa nhân từ và biết vật Người nắn lên. Người
không huỷ, không bỏ, nhưng dung tha" (17,21). Còn sách Khôn Ngoan dạy :
"Quả thật những gì có trong vạn vật, Người đều yêu mến. Vì Người nắn nên
gì Người không ghét bỏ. Vả lại có gì tồn tại được nếu Người không muốn ?
Làm sao nó được bảo tồn điều Người đã không gọi (đến tên) ? Với mọi vật,
Người xử khoan dung vì chúng là của Người, lạy Chúa Tể hiếu sinh !"
(12,24-26).
Thực ra Nước của Thiên Chúa là Nước mang lại cảnh hoà bình
cho trăm họ, nhưng sự công chính của Thiên Chúa chủ yếu không khởi đi từ việc
phân phối của cải để ai nấy nhận được những gì thuộc về mình. Tất cả những gì
mà con người có cũng đều do Thiên Chúa ban nhưng không, dù là ngang qua cha mẹ
hay do chính mình làm nên, cuối cùng cũng do chính Chúa là cội nguồn. Vậy sự
công chính của Thiên Chúa khởi đi từ lòng ưu ái của Người dành cho dân nghèo.
Cho nên Thánh Vịnh gia khi nói tới việc xét xử dân theo công lý thì nói ngay tới
việc bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn và ra tay cứu độ kẻ nghèo khó (x. Tv
71,1-4)
Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đoàn chiên
Với Đức Giêsu trong Tân Ước, sự ưu ái của Thiên Chúa dành
cho người nghèo càng khiến ta phải ngỡ ngàng. Một trăm con chiên chỉ có một con
bị lạc, chủ chiên cũng tập trung hết sự chăm chú của mình vào chiên lạc đó cho
tới khi tìm được ; người đó sẽ vác nó lên vai đưa về và mở tiệc mừng. Mười
đồng bạc mà một đồng bị mất thì người mất cũng thắp đèn tìm cho kỳ được ;
người đó còn mời bạn bè xóm ngõ tới mừng vì đã tìm thấy. Phương chi người cha
có hai con mà một đứa đi bụi đời này về, nào người cha đó lại không mở tiệc ăn
mừng con trở về hay sao ? Đó là ba dụ ngôn trong Tin Mừng Luca (15,1-32) về
lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với tội nhân, là người nghèo cần Chúa thương
xót. Tin Mừng Gioan cũng cho thấy lòng thương xót đó của Thiên Chúa, nhưng nhấn
mạnh về cái giá Người sẵn sàng trả là chính mạng sống của Con Thiên Chúa làm
người. Sau khi chữa người bại liệt, Đức Giêsu bị người Do Thái tìm cách giết
(x. Ga 5,18). Khi người mù từ tuổi mới sinh được Đức Giêsu chữa lành, người đó
liền bị cha mẹ bỏ rơi và giới lãnh đạo Do Thái giáo trục xuất (x. Ga 9,21 và
34) Nhưng Đức Giêsu đã không bỏ rơi anh, Người đã tìm đến với anh và tự mạc khải
bản thân Người cho anh (cc 35-38). Người còn tuyên bố "Tôi chính là Mục Tử
nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga
10,11). Đó chính là ý nghĩa mà Tin Mừng Gioan hiểu về lời tuyên bố của thượng tế
Caipha khi nói "thà một người chết thay cho dân còn hơn toàn dân bị tiêu
diệt" (Ga 11,50).
Bài Tin Mừng hôm nay với lời tuyên bố của Đức Giêsu là
"Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi." (c.37). Tin Mừng Gioan
cho biết phản ứng của ông Philatô là nêu câu hỏi "Sự thật là
gì ?" (c.38). Nhưng ông đã không muốn nghe Đức Giêsu trả lời. Ông đã
ra ngoài để gặp người Do Thái nên ông đã không đứng về phía sự thật là chính Đức
Giêsu Vua Tình Yêu, hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa đối với cả
loài người. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, hôm nay Hội thánh suy tôn Đức
Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, vua hiền hậu, vua mà uy quyền là tình yêu tự hiến.
Chúng ta cùng dâng lên Người lời cầu nguyện khiêm tốn sau đây :
1. Đức Giêsu là Vua đến trần gian để làm chứng về sự thật, là
chính Thiên Chúa / xin cho Hội thánh luôn tuân lệnh Người để làm chứng cho
mọi người rằng Thiên Chúa là tình yêu.
2. Đức Giêsu là Vua nhưng Nước Người không thuộc về thế gian
này / Xin cho các nhà lãnh đạo các nước trần gian hiểu rằng : Nước
Chúa không cạnh tranh với nước của họ / nhưng đem lại sự thật, công lý và
hòa bình cho các nước trần gian.
3. Đức Giêsu là Vua tự hiến để cứu độ mọi người / Xin cho
những người đang bị áp bức, bóc lột, tù đày / và những người nghèo đói, dốt
nát / sớm được Người giải thoát để sống như công dân trong Nước Chúa.
4. Đức Giêsu là Vua tình yêu, Người cai trị bằng phục vụ /
Xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta là công dân Nước Chúa / biết noi
gương phục vụ của Người.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, chúng con đã được Chúa mời gọi
vào Nước Chúa, làm công dân của Nước Chúa, Xin giúp chúng con luôn hăng say hoạt
động để Nước Chúa mở rộng đến mọi tâm hồn. Chúa là Đấng hằng sống...
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha : Trong ngày lễ kính Đức Giêsu là Vua
hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến trong cõi lòng
mọi người.
- Trước rước lễ : Vua Giêsu đã thương mời chúng ta đến dự
tiệc của Ngài. Chúng ta hãy đến dự tiệc thánh trong tâm tình biết ơn và cảm mến.
"Đây Chiên Thiên Chúa…"
VII. Giải tán
Trong khi chờ đợi ngày Đức Giêsu hoàn toàn làm Vua toàn thể nhân
loại, mỗi người chúng ta hãy cố gắng làm một công dân xứng đáng của Nước Chúa,
đó là hằng ngày thực hiện giới luật yêu thương.
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa
Nhật XXXIV Thường Niên (B)
Chúa Nhật, 22 Tháng 11, 2015
Đức Giêsu là Vua Cứu Thế
Người đưa chúng ta cùng với Người bước vào
vương quốc đời sau
Chúng ta lắng nghe sự thật, đứng bên cạnh ngai
tòa của Người,
Đó là cây thập giá
Ga 18:33-37
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Cha, Ngôi Lời của Cha đã gõ cửa nhà con trong
đêm. Người đã bị bắt, bị trói, nhưng Người vẫn nói, vẫn gọi mời, và
như mọi khi, Người đang nói với con: “Hãy trỗi dậy, nhanh lên và đi
theo Thầy!” Vào lúc bình minh, con nhìn thấy Người là một tù nhân của
quan Philatô và, mặc dù với tất cả những đau khổ của cuộc Thương Khó, với sự ruồng
bỏ Người đã chịu, Người biết con và chờ đợi con. Lạy Cha, xin hãy để
con đi với Người vào trong dinh tổng trấn nơi Người bị buộc tội, bị kết án tử
hình. Đây là cuộc sống của con hôm nay, thế giới nội tâm của
con. Vâng, mỗi lần Ngôi Lời của Cha mời gọi con, thì giống như đang
đi vào dinh tổng trấn của trái tim con, một nơi bị ô nhiễm và làm ô nhiễm, đang
chờ sự hiện diện thanh tẩy của Chúa Giêsu. Cha biết rằng con đang sợ,
nhưng có Chúa Giêsu đang ở với con, con không phải sợ hãi nữa. Lạy
Cha, con ở lại, và chăm chú lắng nghe sự thật về Con Cha đang nói với
con. Con ngắm nhìn và chiêm ngưỡng các cử chỉ của Người, những bước
đi của Người. Con đi theo Người, như con đang đi, trong suốt cuộc đời
Cha đã ban cho con. Xin hãy ôm con vào lòng và ban cho con tràn đầy
Chúa Thánh Thần.
2. Bài Đọc
a) Đặt đoạn Tin Mừng này trong bối cảnh của nó:
Một ít câu Tin Mừng này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về câu chuyện
cuộc Thương Khó và hầu như dẫn chúng ta vào một mối quan hệ mật thiết với Chúa
Giêsu, ở một nơi kín đáo, biệt lập, nơi mà chỉ có mình Người, đối mặt với
Philatô: dinh tổng trấn. Người bị tra khảo, Người trả lời, rồi hỏi
trở lại, tiếp tục mặc khải mầu nhiệm ơn cứu độ của Người và mời gọi mọi người đến
với Người. Chính nơi đây Chúa Giêsu cho thấy Người là vua và là mục
tử; Người bị trói và bị đội mão gai đang khi bị kết án tử hình. Tại
đây, Người dẫn dắt chúng ta đến đồng cỏ xanh rì Lời chân lý của Người. Đoạn
Tin Mừng này là một phần của một đoạn dài hơn, các câu 28-40, cho chúng ta biết
về cuộc xét xử của Chúa Giêsu trước quan tổng trấn. Sau một đêm dài
thẩm vấn, tra tấn, nhạo báng và phản bội, Chúa Giêsu bị giao lại cho nhà đương
cuộc La mã và bị kết án tử hình, nhưng chính vì cái chết này Người đã mặc khải
mình là Chúa, là Đấng đã đến để thí mạng sống mình, là Đấng đem công lý vì
chúng ta là những kẻ bất công, là Đấng vô tội vì chúng ta là những kẻ tội lỗi.
b) Phần trợ giúp để đọc bài Tin Mừng:
Các câu 33-34: Philatô trở lại vào dinh tổng
trấn và bắt đầu tra hỏi Chúa Giêsu. Câu hỏi đầu tiên của ông ta
là: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?” Chúa Giêsu
không đáp lại trực tiếp mà tạo cớ cho Philatô phải nói rõ ràng tuyệt đối ông ta
có ý gì khi đề cập đến vương quyền như thế, Người hướng dẫn cho Philatô phải
suy nghĩ thêm. Vua dân Do Thái có nghĩa là Đấng Cứu Thế, và vì là Đấng
Cứu Thế mà Đức Giêsu bị xét xử và bị kết án.
Câu 35: Trong câu trả lời của mình,
Philatô dường như có vẻ xem thường người Do Thái, những kẻ rõ ràng là đang buộc
tội Chúa Giêsu, các thượng tế và dân chúng, mỗi người cùng chịu trách nhiệm,
như chúng ta đọc trong đoạn mở đầu: “Người đã đến nhà mình, nhưng chính
dân của Người đã chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:11). Sau đó đến câu hỏi
thứ hai của Philatô dành cho Chúa Giêsu: “Ông đã làm gì?” nhưng quan
đã không nhận được câu trả lời cho câu hỏi này.
Câu 36: Trong câu trả lời của Chúa Giêsu
cho câu hỏi đầu tiên của Philatô, ba lần Người dùng chữ “nước tôi”. Ở
đây chúng ta có một lời giải thích tuyệt vời về những gì thực sự là vương quốc
và vương quyền của Chúa Giêsu: nó không thuộc về thế gian này, mà
là thuộc về đời sau, Người không có ngự lâm quân hay vệ
sĩ để chiến đấu cho Người, chỉ có tình yêu hiến
dâng mạng sống của Người trong tay Chúa Cha.
Câu 37: Phần thẩm vấn trở lại với câu hỏi
đầu tiên và Chúa Giêsu vẫn trả lời cách khẳng định: “Quan nói đúng,
Tôi là vua”, nhưng tiếp tục giải thích gốc tích và sứ vụ của Người. Chúa
Giêsu đã sinh ra vì chúng ta, Người được sai đến cho chúng ta, để mặc khải chân
lý của Chúa Cha là Đấng mà chúng ta có ơn cứu rỗi và cho phép chúng ta lắng
nghe tiếng Người và đi theo Người bằng cách trung thành với Người suốt đời
chúng ta.
c) Tin Mừng:
33 Khi ấy, Philatô hỏi Chúa
Giêsu rằng: "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" 34 Chúa
Giêsu đáp: "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về
tôi?" 35 Philatô đáp: "Ta đâu phải là người
Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm
gì?" 36 Chúa Giêsu đáp: "Nước tôi không thuộc về
thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã
chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc
chốn này". 37 Philatô hỏi lại: "Vậy ông là Vua
ư?" Chúa Giêsu đáp: "Quan nói đúng. Tôi là
Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về
Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi". 38 Philatô
nói với Người: “Chân lý là gì?”
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Như bước vào Dinh tổng trấn và lắng nghe cẩn thận mỗi lời phán
ra từ miệng Chúa Giêsu.
4. Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp tôi tiến gần đến vị quân vương và trao cho Người tất cả
con người tôi.
a) Tôi nhìn vào các cử động của Philatô, ông ta ước muốn
tiếp xúc với Chúa Giêsu, mặc dù ông ta không ý thức mình đang làm như thế. Trong
đời sống của riêng tôi, tại sao lại khó khăn cho tôi để bước vào, yêu cầu, gọi
và tạo một cuộc đối thoại với Chúa?
b) Chúa muốn có một mối quan hệ riêng với
tôi. Liệu tôi có khả năng để tham phần hoặc cho phép bản thân mình
được tiến vào một mối quan hệ chân chính, quan trọng, mãnh liệt với Chúa
không? Và nếu tôi sợ phải làm điều ấy thì tại sao? Điều gì đã
ngăn cách tôi với Người, đã khiến tôi giữ khoảng cách với
Chúa?
c) “Giao nộp”. Tôi dừng tại những chữ
này và cố gắng nghĩ về chúng, giữ chúng trong lòng và đối diện chúng với cuộc đời
tôi, với thái độ hằng ngày của tôi.
d) Chúa Giêsu ba lần lặp lại rằng nước của Người “không
thuộc về thế gian này”, và do đó, mời gọi tôi một cách tha thiết tiến sang
một thực tại khác. Một lần nữa Người làm tôi bối rối, đặt trước mặt
tôi một thế giới khác, một vương quốc khác, một quyền năng khác. Tôi
đang ước vọng loại vương quyền nào?
e) Sự hé mở cuối cùng của đoạn Tin Mừng thật là tuyệt vời: “Nghe
tiếng tôi”. Tôi, là kẻ bị cuốn hút trong hàng ngàn công việc,
cam kết, họp hành, tôi sẽ để cho tai mình nghe ở nơi nào đây? Ai là
người tôi sẽ lắng nghe? Ai là người tôi sẽ nghĩ đến? Mỗi
buổi sáng, tôi nhận được một sức sống mới, nhưng thực sự tôi nghĩ tôi nợ ai về
việc tái sinh này?
5. Chìa khóa dẫn đến bài đọc
Chúa Giêsu, vị vua bị trói và bị giao nộp
Trong những dòng này là một động từ mạnh mẽ nổi bật, được lặp đi
lặp lại từ đầu câu chuyện về Cuộc Thương Khó: đó là động từ giao
nộp, được nói ở đây lần đầu tiên bởi Philatô và sau đó bởi Chúa
Giêsu. “Đem giao nộp Chúa Kitô” là một thực tại thần học,
thế nhưng cũng là thời điểm quan trọng, về tầm quan trọng tối thượng, bởi vì nó
dẫn chúng ta vào cuộc hành trình của sự khôn ngoan và đào tạo ưu tú. Có thể
hữu dụng khi người ta đi tìm động từ này trong các trang Kinh
Thánh. Lần đầu tiên nó xuất hiện khi chính Chúa Cha giao nộp Chúa
Giêsu, Con của Người, như là một tặng phẩm cho tất cả mọi người và mọi thế hệ. Trong
thư gửi tín hữu Rôma 8:32, chúng ta thấy: “Đến như chính Con Một,
Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một
khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng
ta”. Tuy nhiên, tôi cũng thấy rằng chính Chúa Giêsu, trong hiệp nhất
thân mật nhất với thánh ý của Chúa Cha, đã tự giao nộp, dâng hiến mạng sống của
Người vì chúng ta, trong một hành động của tình yêu tự do ban cho cao cả nhất. Thánh
Phaolô nói rằng: “Hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu
thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên
Thiên Chúa…” (Êp 5:2,25), và tôi cũng nhớ lại những Lời của Chúa
Giêsu: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên…Mạng sống của tôi,
không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga
10:15,18). Do đó, vượt ra khỏi tất cả việc giao nộp, có sẵn việc tự
nguyện giao nộp, đó hoàn toàn là tặng phẩm của tình yêu. Trong các
sách Tin Mừng, chúng ta thấy việc giao nộp tội lỗi của Giuđa, gọi một cách
chính xác là kẻ phản bội, đó là kẻ “giao nộp”, là kẻ đã nói với các thượng tế: “Tôi
nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu?” (Mt
26:15); cũng xem Tin Mừng Gioan 12:4; 18:2,5. Sau đó là việc người
Do Thái giao nộp Chúa Giêsu cho Philatô: “Nếu ông này không làm điều
ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan” (Ga 18:30,35) và chính Philatô kẻ
đại diện cho dân ngoại, như Chúa Giêsu đã nói trước: “Con Người… sẽ
bị nộp cho dân ngoại” (Mc 10:33). Cuối cùng, Philatô giao Đức Giêsu
cho dân Do Thái đem đi đóng đinh vào thập giá (Ga 19:16). Tôi chiêm
niệm những đoạn Tin Mừng này, tôi thấy vua của tôi bị trói, bị xiềng xích, như
Thánh sử Gioan nói với tôi trong các câu 18:12 và 18:24. Tôi quỳ xuống,
tôi cúi đầu trước Người và xin Chúa cho tôi sự can đảm để theo dõi những đoạn
Tin Mừng thương cảm nhưng lại tuyệt vời này giống như bài thánh ca về tình yêu
của Chúa Giêsu dành cho chúng ta, lời “xin vâng” của Người được lặp lại đến vô
tận cho sự cứu rỗi của chúng ta. Sách Tin Mừng nhẹ nhàng đưa tôi vào
trong đêm duy nhất này, khi mà Chúa Giêsu bị giao nộp bởi vì tôi, như Bánh, như
Sự Sống được làm bằng xác thịt, như tình yêu toàn vẹn. “Trong đêm bị
nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh… và nói: ‘Anh em cầm lấy mà
ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em’” (1 Cr 11:23). Lúc ấy tôi bắt
đầu hiểu được rằng niềm hạnh phúc dành cho tôi được ẩn dấu ngay cả trong những
xích xiềng này, những dây thừng này, với Chúa Giêsu, với vị quân vương tuyệt vời,
và nó được ẩn dấu trong những đoạn Tin Mừng này, nói về việc giao nộp này sang
giao nộp khác, theo ý muốn của Thiên Chúa và tình yêu của Chúa Cha.
Đức Giêsu, vị vua Cứu Thế
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Philatô: trong cuộc
tra vấn bí ẩn và lạ lùng này, những gì nổi bật là, thoạt đầu, Philatô gọi Đức
Giêsu là “vua dân Do Thái” và sau đó chỉ còn là “vua”, như thể có một quá
trình, nhờ đó ông ta trở nên hiểu biết đúng hơn và đầy đủ hơn về Chúa
Giêsu. Vào thời ấy, “Vua dân Do Thái” là một thể thức được sử dụng với
một ý nghĩa rất phong phú bởi người Do Thái, và nó chứa đựng nền tảng, tâm điểm
của đức tin trong sự kỳ vọng của dân Israel: nó cho biết rõ ràng là
Đấng Thiên Sai. Đức Giêsu bị thẩm vấn và bị xét đoán xem Người có phải
là Đấng Thiên Sai hay không. Đức Giêsu là Đấng được Thiên Chúa sai đến,
Đấng được xức dầu, Đấng được Thánh Hiến, Người là người tôi tá được sai đến thế
gian vì điều này, để chính bản thân Người và mạng sống của Người làm viên mãn tất
cả những gì mà các ngôn sứ, luật Môisen và các Thánh Vịnh đã nói về Người. Những
lời nói về sự bách hại, về đau khổ, khóc lóc, về các vết thương và máu, về cái
chết của Chúa Giêsu, đối với Đấng được Đức Chúa xức dầu, và từng là lẽ sống của
chúng ta đã nói “giữa chư dân, ta núp bóng Người”, như tiên tri Giêrêmia đã nói
trong sách Aica 4:20; những lời nói về các cạm bẫy, những nổi dậy, mưu đồ và
mưu chước (Tv 2:2). Chúng ta thấy Người bị mất dáng vẻ con người,
như một người chịu nhiều đau khổ, không thể nhận ra được ngoại trừ tình yêu,
cũng giống như Người, chỉ biết chịu đau khổ quá nhiều. “Vì lý do
này, toàn thể Nhà Israel phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh
em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng
Kitô!” (Cv 2:36). Vâng, vị vua của tôi là một vị vua bị trói, vị vua
bị giao nộp, bị loại bỏ sang bên, bi khinh khi; Người là vị vua được xức dầu
cho chiến trận, nhưng được xức dầu để bại trận, để hy sinh chính mình, bị đóng
đinh vào thập giá, bị hiến tế như chiên con. Đây là Đấng Cứu Thế: vị
vua mà ngai vàng là cây thập giá, có màu tím hoàng gia là do máu của Người đổ
ra, có cung điện là trái tim của người ta, những kẻ nghèo khó như Người, nhưng
được phong phú hóa và an ủi bởi sự sống lại liên tục. Đây là thời
gian của chúng ta, thời gian của sự an ủi bởi Thiên Chúa, khi Người sai Chúa
Giêsu đến tất cả mọi lúc, Chúa Giêsu Đấng được dành riêng là Đấng Cứu Thế của
chúng ta.
Chúa Giêsu, vị vua tử đạo
Chúa Giêsu nói: “Ta đến để làm chứng cho sự thật”,
dùng một thuật ngữ mạnh mẽ, theo tiếng Hy Lạp, chứa đựng ý nghĩa tử đạo. Nhân
chứng là người tử đạo, Đấng xác nhận bằng chính mạng sống mình, máu và tất cả
những gì Người là và thuộc về Người, sự thật mà Người tin tưởng. Chúa
Giêsu làm chứng cho sự thật, đó là Lời của Chúa Cha (Ga 17:17) và Người thí mạng
sống mình cho Lời này. Sự sống đáp trả sự sống, lời dành cho lời,
tình yêu đáp trả tình yêu. Chúa Giêsu là Đấng Amen, là Chứng Nhân
trung thành và chân thật, là Khởi Nguyên của mọi loài Thiên Chúa tạo dựng (Kh
3:14); trong Người, chỉ có một lời “xin vâng”, đến muôn đời và ngay từ ban đầu,
và trong lời “xin vâng” này Người ban cho chúng ta toàn bộ sự thật về Chúa Cha,
về chính Người, về Chúa Thánh Thần, và trong sự thật này, trong ánh sáng này,
Người làm cho chúng ta thuộc về vương quốc của Người. Những ai trông cậy
Người, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Người yêu thương” (Kn
3:8-9). Tôi không tìm kiếm những lời nào hơn, tôi chỉ ở gần Chúa, tựa
đầu vào lòng Người, như Gioan vào đêm ấy. Vì thế, Người trở thành
hơi thở của tôi, thị lực của tôi, lời “xin vâng” của tôi được nói với Chúa Cha,
với anh chị em tôi, trong sự làm chứng tình yêu của tôi. Người là Đấng
trung thành, Đấng hiện hữu, Sự Thật mà tôi lắng nghe và bởi Người, tôi đã để
cho mình được biến đổi.
6. Thánh Vịnh 21 (20)
Bài thánh ca tạ ơn cho sự chiến thắng,
Đến từ Thiên Chúa
Đáp ca: Lạy Chúa, tuyệt vời thay tình yêu của Chúa
dành cho chúng con!
Lạy CHÚA, Ngài tỏ uy lực khiến nhà vua sung sướng,
Ngài đã chiến thắng, vua hoan hỷ dường nào!
Lòng vua ước nguyện sao, Chúa đã ban như vậy,
miệng vua khấn xin gì, Ngài cũng không từ chối.
Chúa đã ân cần ban muôn phúc lộc,
vương miện vàng, Ngài đội cho vua.
Vua xin được sống, Ngài cho được sống,
năm tháng dài lâu, tuổi thọ miên trường.
Vì Ngài chiến thắng, nên nhà vua rực rỡ vinh quang,
Ngài cho vua được oai phong lẫm liệt.
Ngài đặt vua làm nguồn hạnh phúc đến muôn đời
và cho vua được hớn hở vui mừng trước Nhan Thánh.
Quả thế, vua tin tưởng vào Chúa Tối Cao,
và nhờ CHÚA yêu thương, vua không hề lay chuyển.
Lạy CHÚA, xin đứng lên mạnh mẽ oai hùng,
chúng con sẽ đàn ca chúc tụng quyền năng Chúa.
Ngài đã chiến thắng, vua hoan hỷ dường nào!
Lòng vua ước nguyện sao, Chúa đã ban như vậy,
miệng vua khấn xin gì, Ngài cũng không từ chối.
Chúa đã ân cần ban muôn phúc lộc,
vương miện vàng, Ngài đội cho vua.
Vua xin được sống, Ngài cho được sống,
năm tháng dài lâu, tuổi thọ miên trường.
Vì Ngài chiến thắng, nên nhà vua rực rỡ vinh quang,
Ngài cho vua được oai phong lẫm liệt.
Ngài đặt vua làm nguồn hạnh phúc đến muôn đời
và cho vua được hớn hở vui mừng trước Nhan Thánh.
Quả thế, vua tin tưởng vào Chúa Tối Cao,
và nhờ CHÚA yêu thương, vua không hề lay chuyển.
Lạy CHÚA, xin đứng lên mạnh mẽ oai hùng,
chúng con sẽ đàn ca chúc tụng quyền năng Chúa.
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Cha, con ngợi khen Cha, con chúc tụng Cha, con cảm tạ Cha vì
Cha đã dẫn con đến cùng với Con Cha, Chúa Giêsu, vào trong dinh quan Philatô,
vào trong miền đất xa lạ và thù nghịch này, nhưng là miền đất về sự mặc khải và
ánh sáng. Chỉ có Cha, trong tình yêu vô biên của Cha, có thể chuyển đổi mọi
khoảng cách và mọi tối tăm thành nơi của sự gặp gỡ và sự sống.
Con cảm tạ Cha vì Cha đã mang lại thời gian an ủi, khi Cha sai
Chiên Con của Cha, ngự trên ngai tòa, nhưng là một vị vua hằng sống hiến tế. Máu
của Người là những giọt sương ban sự sống, xức dầu với sự cứu rỗi. Con
xin cảm tạ Cha bởi vì Người hằng luôn nói và ca ngợi với con về sự thật của
Cha, tất cả là tình yêu và lòng thương xót. Con muốn được là một khí
cụ trong tay vua của con, Đức Giêsu, để truyền đạt tất cả các câu an ủi của Lời
Cha.
Lạy Cha, hôm nay con đã lắng nghe Cha trong đoạn Phúc Âm
này. Xin hãy ban cho con đôi tai không bao giờ chán lắng nghe lời
Cha, lời Con Một Cha, lời của Chúa Thánh Thần. Xin hãy ban cho con
có thể được tái sinh từ sự thật để con có thể làm chứng cho sự thật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét