Trang

Thứ Bảy, 5 tháng 3, 2016

06-03-2016 : (phần I) CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY năm C

06/03/2016
Chúa Nhật tuần 4 Mùa Chay năm C
(phần I)


Bài Ðọc I: Gs 5, 9a. 10-12
"Dân Chúa tiến vào đất Chúa hứa và mừng Lễ Vượt Qua".
Trích sách Giosuê.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Giosuê rằng: "Hôm nay, Ta đã cất sự dơ nhớp của Ai-cập khỏi các ngươi!" Con cái Israel tạm trú tại Galgali và mừng Lễ Vượt Qua vào ban chiều ngày mười bốn trong tháng, trên cánh đồng Giêricô. Ngày hôm sau Lễ Vượt Qua, họ ăn các thức ăn địa phương, bánh không men và lúa mạch gặt năm ấy. Từ khi họ ăn các thức ăn địa phương, thì không có manna nữa. Và con cái Israel không còn ăn manna nữa, nhưng họ ăn thổ sản năm đó của xứ Canaan.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).
Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.
2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ. - Ðáp.
3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.

Bài Ðọc II: 2 Cr 5, 17-21
"Thiên Chúa đã nhờ Ðức Kitô giao hoà chúng ta với mình".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nếu ai ở trong Ðức Kitô, thì người đó sẽ là một thụ tạo mới, những gì là cũ đã qua đi: này đây tất cả mọi sự đã trở thành mới. Vì mọi sự bởi Thiên Chúa, Ðấng đã nhờ Ðức Kitô giao hoà chúng ta với mình, và trao phó cho chúng tôi chức vụ giao hoà. Thật vậy, Thiên Chúa là Ðấng giao hoà thế gian với chính mình Người trong Ðức Kitô, nên không kể chi đến tội lỗi của loài người, và đặt lên môi miệng chúng tôi lời giao hoà. Nên chúng tôi là sứ giả thay mặt Ðức Kitô, như chính Chúa dùng chúng tôi mà khuyên bảo. Vì Ðức Kitô, chúng tôi van nài anh em hãy giao hoà với Thiên Chúa. Ðấng không hề biết tội, thì Thiên Chúa làm nên thân tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên sự công chính của Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Lc 15, 18
Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha.

Phúc Âm: Lc 15, 1-3. 11-32
"Em con đã chết nay sống lại".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người thu thuế và những kẻ tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng; thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng". Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Người kia có hai con trai. Ðứa em thưa với cha rằng: "Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con". Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó, và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó hồi tâm lại và tự nhủ: "Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói. Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha". Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu... Người con trai lúc đó thưa rằng: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa". Nhưng người cha bảo đầy tớ: "Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy". Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.
"Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: "Ðó là em cậu đã trở về, và cha cậu đã giết bê béo, vì thấy cậu ấy về mạnh khoẻ". Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: "Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó". Nhưng người cha bảo: "Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Vui Với Toàn Thể Hội Thánh
 Chúa nhật trước đã cho chúng ta thấy Chúa là Ðấng đầy lòng thương xót để kêu gọi chúng ta hối cải trở về với Người. Các bài Kinh Thánh hôm nay còn nói về lòng thương xót của Chúa một cách rõ ràng hơn nữa. Chúng cho chúng ta thấy nỗi sung sướng của Người khi có thể thi hành lòng thương xót; và Người kêu gọi chúng ta chia sẻ niềm hân hoan thương xót ấy. Thế nên Chúa nhật hôm nay đáng được gọi là Chúa nhật Vui Mừng trong mùa Chay, để khi phấn đấu theo gương Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thánh giá, chúng ta luôn phấn khởi vì đạo Tin Mừng.

1. Vui Vì Ðược Cứu Ðộ
Bài sách Giôsua hôm nay chỉ có mấy câu, nhưng ghi lại một niên hiệu đáng muôn đời nhớ mãi trong lịch sử dân Chúa. Hôm nay "Chúa lăn nỗi nhục Ai Cập ra khỏi con cái Israen". Người cuộn thời gian ô nhục của họ ở bên Ai Cập lại một cách vĩnh viễn. Vẫn biết họ từ giã đất nô lệ Ai Cập ngay từ khi vượt qua Biển Sậy. Nhưng ròng rã 40 năm nơi sa mạc, con cái Israen vẫn còn mang nhiều tồn tại của thời ô nhục nơi đất khách quê người. Dĩ chí có những kẻ còn chưa cắt bì; và phần lớn còn ăn ở như những kẻ không cắt bì. Tất cả những sự ấy, hôm nay Chúa cuốn lại và không còn mở ra nữa. Nói theo kiểu văn chương ngày nay Chúa đã rỡ một trang sử qua rồi cho dân Người; và từ nay bắt đầu một trang sử mới. Chính vì vậy người ta đã đặt một tên mới cho nơi xảy ra sự việc ngày hôm nay. Nó được gọi là Gilgal và có nghĩa là "cuộn lại", vì Chúa đã cuộn nỗi ô nhục Ai Cập lại xa khỏi dân Người ở nơi chốn này vào ngày hôm nay.
Nhưng người ta chỉ nới cũ khi có mới. Chúa chỉ cuộn thời đại cũ lại vì đã có thời đại mới. Việc "có mới nới cũ" này cũng là một cuộc vượt qua. Thế nên hôm nay con cái Israen cử hành lễ Vượt Qua. Họ không tổ chức nơi đền thờ nhưng nơi hoang dại miền Giêrichô để duy trì tính chất gia đình của lễ này. Dĩ nhiên họ nhớ lại cuộc Vượt Qua Ai Cập ngày xưa; nhưng họ cảm thấy rõ ràng cuộc Vượt Qua bấy giờ, hôm nay mới kết thúc. Hôm nay họ mới được mừng Vượt Qua nơi Ðất Hứa. Và rõ ràng họ đã thôi một nếp sống cũ và chuyển qua một nếp sống mới. Trước đây họ là dạng lang thang, du mục; từ nay họ cư ngụ nơi Ðất chảy sữa và mật. Cuộc vượt qua này không lớn lao sao? Mọi sử gia đều làm chứng có cuộc chuyển biến quan trọng trong nếp sống của con người từ chế độ du mục qua chế độ định canh.
Cũng vì vậy, tác giả bài sách hôm nay không muốn diễn tả tí nào lễ Vượt Qua. Ông bỏ rơi mọi nghi lễ để chỉ chú trọng đến những nét mới mẻ của đời sống mới. Ông nói: con cái Israen đã ăn các thổ sản trong xứ. Ðặc biệt họ không còn ăn Manna nữa nhưng đã ăn cốm rang. Ðúng hơn họ không còn ăn Manna nữa vì đã có thóc lúa của địa phương. Manna không phải là lương thực của người đã về tới quê, mà chỉ là lương thực của kẻ đi đàng. Nó cần thiết cho con người khi trở về Ðất Hứa; nhưng đến nơi rồi nó trở thành vô dụng. Chính vì vậy Manna trở thành hình ảnh của Thánh Thể, cũng chỉ cần cho con cái Chúa khi sống ở trần gian. Sau này trên Nước Trời, chính Chúa sẽ làm cho họ no thỏa mà không cần bí tích nào nữa...
Như vậy, việc con cái Israen đến định canh ở Ðất Hứa hôm nay báo trước việc chúng ta vào Nước Trời sau này, khi đã chấm dứt cuộc hành trình lữ thứ trần gian. Nó khiến chúng ta thèm số phận của con cái Israen ngày xưa ư? Vì sánh với những kẻ đã vào Ðất Hứa, chúng ta còn là lữ hành? Có phần đúng và điều này nhắc nhở chúng ta phải có tu đức và tác phong của lữ khách: không bám víu vào trần gian, nhưng luôn phải lên đường; và nhất là luôn phải nhờ Thánh Thể nuôi sống vì đó là lương thực của dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian.
Tuy nhiên chúng ta phải phấn khởi vì việc con cái Israen vào Ðất Hứa bả đảm việc chúng ta sẽ vào tới Nước Trời. Hơn nữa nó còn nhắc chúng ta nhớ đến hạnh phúc của người Kitô hữu. Họ cũng đã được đưa ra khỏi thế gian để đi vào nước sáng láng của Con Thiên Chúa. Những thực tại thiêng liêng Chúa ban cho họ hằng ngày trong đời sống Kitô hữu vượt xa những nắm "cốm rang" ngày xưa của con cái Israen. Chúng ta hãy vui mừng vì những việc ấy và vì mạc khải lớn lao mà Chúa dành cho chúng ta ở trong Nước Trời mà bài Tin Mừng hôm nay muốn thông tri cho chúng ta.

2. Vui Với Toàn Thể Hội Thánh
Thánh Luca là tác giả duy nhất đã thuật lại dụ ngôn hôm nay. Người kể lại sau hai chuyện cũng cùng một ý tưởng. Chuyện đầu tiên là dụ ngôn một người tìm thấy con chiên lạc của một đàn gần 100 con chiên. Và chuyện thứ hai nói về một người đàn bà tìm thấy đồng tiền đã mất. Cả hai câu chuyện đều kết thúc bằng lời van xin mọi người hãy vui vẻ chia sẻ nỗi vui mừng đã tìm thấy những của đã mất. Và đó cũng là câu kết thúc bài dụ ngôn hôm nay về người con trở về. Như vậy câu chuyện chỉ là cớ, điều mà tác giả Luca muốn diễn tả là niềm vui và kêu gọi mọi người cùng chung vui với kẻ tìm lại được những gì đã mất hoặc đã lạc.
Trong câu chuyện hôm nay, chủ động là một người Cha với hai đứa con. Ðứa trẻ hơn đến xin Cha chia gia tài cho mình, rồi nó đi xa, sống trác táng, phá tan cả sản nghiệp.
Dĩ nhiên người ta có thể đoán nó đã cạn túi vì bọn đĩ điếm như thói thường ở đời. Sạch của rồi, nó phải đi làm thuê ở mướn, và chăn heo cho người ta. Nó thèm đến cả cám heo. Thật đầy tớ ở trong nhà Cha nó cũng còn dư ăn! nghĩ vậy, nó quyết tâm trở về, và sẽ lựa lời để được số phận của những người này.
Với những nét tả như vậy, đứa con hoang này có đáng khen không? Hình như Luca không cho rằng nó đáng thương nữa. Không kể đời sống bê bối của nó; việc nó trở về cũng đầy tính toán và bần tiện. Nó đâu đã muốn hối cải; nó chỉ mong ra khỏi thân phận chết đói, nó chẳng đáng thương, thế mà vẫn được thương. Ðó mới là điều mà tác giả Luca muốn diễn tả. Ông viết về đứa con hư như thế là để làm nổi bật lòng thương lạ lùng của người Cha.
Mà thật vậy, lòng người Cha tốt lành chi lạ! Ðứa con về đang còn ở đàng xa mà ông đã thấy nó. Ông đã chạnh lòng thương nó. Ông quên cả tư cách đạo mạo, dè dặt của một người Cha trong một gia đình nề nếp ở Ðông phương. Ông không nhớ mình đã chân yếu tay mềm. Ông chạy ra đón nó, ôm cổ nó mà hôn. Nó vừa mới bập bẹ vài câu ông đã quay bảo đầy tớ mau mau đem áo quần và trang sức mới ra mặc cho nó; và lập tức hãy đem bò tơ nẫy ra hạ đi để khao ăn vì, ông nói: "Này, con ta đây, nó đã chết mà đã hoàn sinh, đã mất mà tìm lại được".
Chúng ta có thể để ý, ông không nói gì với đứa con. Nó chưa đáng nói, nó chưa hoàn toàn. Nó còn phải thấy lòng Cha thương nó, rồi nó mới thay đổi được. Ít ra ông hy vọng như vậy. Ông đã chỉ nói với tôi tớ và ông muốn nói với mọi người. Ông xin mọi người chia sẻ niềm vui của ông. Ông thật quá tốt.
Nhưng ngay đến đứa con cả trong nhà cũng không hiểu được ông. Cậu ở ngoài đồng về. Cậu thấy trong nhà có đàn ca múa hát. Cậu gọi một tên đầy tớ ra hỏi dò. Biết chuyện đứa em về mà Cha cho bày tiệc mừng như vậy, cậu nổi giận, không thèm vào nhà. Người Cha đi ra dỗ dành cậu. Cậu phân phô lẽ hơn thiệt. Cậu có lý nên người Cha đứng nghe, khác với lúc khi đứa con hoang trở về muốn thưa bẩm. Ông công nhận hết mọi lời cậu nói. Nhưng đây là điều con ông chưa bao giờ nghĩ đến: "Này con, con hằng ở với Cha thì tất cả của Cha đều là của con. Nhưng phải ăn khao mà mừng chứ. Vì em con đó, nó đã chết mà lại sống, đã mất đi mà lại tìm thấy được".
Tác giả Luca đã không viết gì thêm. Ông dừng lại ở đây để độc giả viết nốt câu chuyện. Ðúng hơn Ðức Giêsu đã dừng lại bài dụ ngôn ở chỗ này để thính giả của Người suy nghĩ. Họ là ai, chúng ta có thể đoán được. Họ là người con cả trong câu chuyện mà người Cha vừa nói mấy câu để cho suy nghĩ.
Muốn rõ hơn, chúng ta chỉ cần đọc lại những câu đầu tiên mà Luca đã viết trước khi kể bài dụ ngôn về con chiên lạc, về đồng tiền mất và về lòng thương xót của người Cha. Người viết: "Các người thu thuế, cùng những kẻ tội lỗi hết thảy thường lui tới bên Ngài để nghe Ngài. Và biệt phái kêu trách. Họ nói: Ông tiếp đón quân tội lỗi và ăn uống với chúng". Ngài mới nói cùng họ những dụ ngôn sau này...
Như vậy, người Cha ở đây không cần phải là Cha chúng ta ở trên trời. Lòng thương xót bao la của Người đã nhập thể nơi con người Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đang tiếp đón những người thu thuế và tội lỗi khiến bọn biệt phái phải kêu trách. Họ kêu trách vì họ tưởng mình nhân đức và đòi được đối xử xứng đáng. Thiên Chúa phải dành tất cả sản nghiệp Nước Trời cho họ và cho một mình họ mà thôi; Phường thu thuế, quân tội lỗi không được phép tham dự những của thánh ấy. Thế mà Ðức Giêsu, người tự xưng đã được Chúa Cha sai đến, lại đi tiếp đón bọn thu thuế và tội lỗi... Với bài dụ ngôn hôm nay, phải chăng Ðức Giêsu đã không muốn nói với những kẻ suy nghĩ như vậy, lời mà Người có lần bảo họ: hãy đi mà hiểu lời này: Ta muốn lòng thương xót chứ không phải hy lễ!
Nhưng như vậy dụ ngôn này có còn nói gì với chúng ta không, vì đâu chúng ta còn muốn nghĩ như biệt phái? Thiết tưởng chúng ta vẫn còn có thái độ dửng dưng đứng ngoài niềm vui lớn lao của lòng Chúa thương yêu. Người vẫn tiếp tục kêu gọi và đón nhận những phường thu thuế và tội lỗi, tức là những phần tử xã hội ít được thiện cảm của chúng ta. Người vẫn rộng rãi với họ. Hội Thánh gồm một phần lớn những người như họ. Chúng ta chưa biết chung vui với họ như Chúa đang tỏ lòng quảng đại với họ, khiến trái tim chúng ta chưa giống như trái tim Chúa. Và vì vậy sự thánh thiện của chúng ta cũng chưa có gì đáng kể. Do đó chúng ta hãy nghe Lời Chúa, nhìn anh em đang đến với Chúa trong mùa Chay. Chúng ta hãy nhập hội tham gia, nếu chưa muốn khá hơn nữa là còn đi rao giảng Tin Mừng cứu độ cho anh em như lời Phaolô hôm nay viết.

3. Sứ Vụ Hòa Giải
Thánh tông đồ biết rằng: ai ở trong Chúa Kitô thì là tạo thành mới; cũ đã qua đi và mới đã thành sự. Những lời này trở nên ý nghĩa biết bao trong thánh lễ hôm nay, sau khi đã đọc bài Cựu Ước viết về việc con cái Israen đã được chuyển sang một đời sống mới hoàn toàn sánh với những năm tháng lang thang du mục qua sa mạc. Dân cũ đã phải lao nhọc biết bao để vượt qua được nếp sống cũ và đi vào cuộc sống mới. Ðang khi ấy, nhờ Chúa Kitô, ai kết hợp với Người thì đều trở thành tạo vật mới. Trước đây tội lỗi và ở dưới chế độ thù địch với Thiên Chúa nay họ được trở nên thánh thiện và sống đời làm con yêu dấu của Người. Mọi sự đó đều do Thiên Chúa, vì Người đã thương giảng hòa ta lại với chính Người nhờ Chúa Kitô. Và một lần nữa chúng ta lại thấy lòng thương xót bao la của Thiên Chúa và của Ðức Giêsu Kitô. Lòng thương của người Cha trong bài Tin Mừng đã lớn, nhưng sánh với lời Phaolô viết dưới đây về lòng thương thật sự của Thiên Chúa, chúng ta khó có thể hiểu nổi.
Quả vậy: "Ðấng không hề biết tội thì với ta, Thiên Chúa đã cho làm thành sự tội để trong Ngài ta được trở thành sự công chính của Thiên Chúa". Phaolô có ý nói đến việc Ðức Giêsu Kitô tuy vô tội, nhưng đã chấp nhận mang lấy mọi tội của chúng ta lên cây thập giá theo lệnh của Chúa Cha, để nhờ đó chúng ta được khỏi tội. Lẽ nào chúng ta không biết cảm mến một tình thương như vậy? Chúng ta hãy lo làm hòa lại với Thiên Chúa trong mùa Chay này. Chúng ta hãy chạy đến tòa cáo giải để trút bỏ tội lỗi trên cây thập giá Ðức Kitô và đóng đinh xác thịt vào thánh giá của Người, để ơn công chính hóa lại được ban cho chúng ta. Chúng ta lại trở thành tạo vật mới, có thể cử hành lễ Vượt Qua như con cái Israen ngày trước. Và cho được như vậy, chúng ta hãy nghe lời Hội Thánh rao giảng trong mùa Chay này. Ðây là sứ vụ hòa giải, Thiên Chúa đã trao cho Hội Thánh. Chính Người khuyên bảo, khi Hội Thánh rao giảng vì Hội Thánh chỉ thay mặt Ðức Kitô và tiếp nối sứ mạng của Ngài mà bài Tin Mừng hôm nay đã cho thấy Ngài tha thiết với việc tội nhân trở về như thế nào.
Vậy nếu chúng ta muốn chia sẻ thật sự lòng thương xót của Chúa như các bài Kinh Thánh hôm nay cho biết, chúng ta phải tiếp tay và cộng tác với Hội Thánh trong sứ vụ hòa giải. Chúng ta làm thế nào để nhiều người và hết mọi người trở về với Chúa trong mùa Chay này: có bao nhiêu thói quen xấu trong xã hội mà chúng ta có thể xa tránh hoặc dẹp đi để giáo xứ và gia đình chúng ta trong mùa Chay này tỏ ra thánh thiện đạo đức hơn? Và tạo được bầu không khí đông đủ sốt sắng cho những buổi Phụng Vụ trong mùa Chay cũng là một cách mở hội ăn mừng ngày nhiều con cái Chúa trở về với Người.
Ngay giờ phút này đây, chúng ta có thể bắt đầu làm những công việc như thế. Chúng ta tạo cho thánh lễ này một bầu khí như mở hội bằng thái độ tham gia của chúng ta. Chúng ta sốt sắng ca hát, cầu nguyện và thờ phượng với mọi người. Nhất là chúng ta đang quyết tâm trở về với Chúa, đến rước Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn. Ðang khi ấy chúng ta thêm cảm tình và lòng mến đối với anh em. Chúng ta nhận biết nhau nhiều hơn mọi khi và nhất là nếu có thể được thầm hứa sẽ động viên nhau tạo cho mùa Chay này một tinh thần và một bầu khí mới mẻ như của một cuộc vượt qua, một cuộc đổi mới, một thời đại hội trong ý nghĩ giảng hòa với Chúa và với mọi người. Ðược những tâm tình như vậy, chúng ta xứng đáng cử hành thánh lễ Chúa nhật Vui Mừng của mùa Chay.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật IV Mùa Chay, Năm C
Bài đọc: Jos 5:9a, 10-12; II Cor 5:17-21; Lk 15:1-3, 11-32

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hoà giải với Thiên Chúa và với tha nhân
 Nếu con người biết vâng lời Thiên Chúa và giữ trọn Thập Giới, họ sẽ sống đúng mối liên hệ với Thiên Chúa, với tha nhân, và với thế giới chung quanh. Thiên Chúa sẽ chúc lành cho mọi việc họ làm và bảo vệ họ khỏi mọi điều nguy hiểm hồn xác. Nhưng con người đã không giữ lời Thiên Chúa dạy, họ nghe theo tiếng gọi của ba thù và đảo lộn mọi trật tự của Thiên Chúa. Họ khước từ tình yêu đích thực của Thiên Chúa, cha mẹ, và anh em để chạy theo những tình yêu giả dối và tạm thời. Mùa Chay là mùa Thiên Chúa kêu gọi con người xét lại mối liên hệ của con người đối với Ngài và với nhau, để hòa giải và sống đúng các mối liên hệ trong cuộc đời.
Các Bài Đọc hôm nay đặt trọng tâm trong sự hòa giải giữa con người với Thiên Chúa và với nhau. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa dẫn đưa con cái Israel vào Đất Hứa, sau cuộc Xuất Hành và thanh luyện 40 năm trong sa mạc. Ngài truyền cho ông Joshua phải cắt bì cho tất cả những người nam của Israel tại Ghilgal, như một giao ước phải tuân giữ: Ngài sẽ bảo vệ và chúc lành nếu họ tuân giữ các thánh chỉ và Lề Luật của Ngài. Trong Bài Đọc II, con người tự mình không thể giao hòa với Thiên Chúa vì tất cả đều phạm tội; nhưng vì yêu thương, Thiên Chúa đã cho Đức Kitô, Người Con duy nhất xuống trần để đền tội cho con người. Đức Kitô là lý do con người được giao hòa với Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, người con thứ khước từ tình yêu chân thật của cha để chạy theo những tình yêu gian dối và tạm thời của thế gian; nhưng khi nhận ra tình yêu đích thực, anh đã mạnh dạn trỗi dậy và quay về để hòa giải với cha và với anh của mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: "Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập."
1.1/ Chấm dứt hành trình 40 năm trong sa mạc: Đức Chúa phán với ông Joshua: "Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập." Vì thế, người ta đã gọi tên nơi ấy là Ghilgal cho đến ngày nay. Biến cố Xuất Hành và thanh luyện trong sa mạc suốt 40 năm là thời kỳ Thiên Chúa sống mật thiết với con cái Israel. Ngài theo họ trong suốt cuộc hành trình để hướng dẫn, dạy dỗ, thanh luyện, và bảo vệ; trước khi dẫn đưa họ vào Đất Hứa. Trình thuật hôm nay kết thúc cuộc hành trình, Ngài ký kết với họ giao ước tại Ghilgal qua sự kiện ông Joshua cắt bì cho tất cả các người nam của Israel: Ngài sẽ bảo vệ họ sống hạnh phúc trong Đất Hứa nếu họ tuân giữ cẩn thận các giới răn của Ngài.
1.2/ Bắt đầu cuộc sống trong Đất Hứa: “Con cái Israel đóng trại ở Ghilgal và cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Jericho. Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó. Hôm sau, không còn manna nữa, khi họ dùng thổ sản trong xứ. Năm ấy, họ đã dùng hoa màu của đất Canaan.” Bắt đầu cuộc sống tự do trong Đất Hứa, con cái Israel không còn lý do nào để than phiền và làm nô lệ cho tội lỗi. Họ được hưởng dùng tất cả những của ngon vật lạ trong Đất Hứa, vùng đất chảy sữa và mật. Họ được tự do sống mối liên hệ yêu thương và trung thành với Thiên Chúa.
2/ Bài đọc II: Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người.
2.1/ Đức Kitô đã chịu chết để con người được hòa giải với Thiên Chúa: Theo thánh Phaolô, tất cả mọi người đều đã vi phạm Lề Luật; vì thế, họ phải chịu hình phạt Thiên Chúa ra là phải chết. Không một ai có thể cho mình là công chính trước mặt Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng cuộc sống đời đời; nhưng vì yêu thương, Thiên Chúa đã cho Đức Kitô, Người Con duy nhất xuống trần để đền tội cho con người. Nhờ Máu của Người đổ ra trên Thập Giá, Người đã giao hòa con người với Thiên Chúa và với nhau. Trước khi con người được hòa giải với Thiên Chúa, con người làm nô lệ cho tội lỗi và phải chết. Sau khi con người được hòa giải với Thiên Chúa, họ trở nên một tạo vật mới: tội lỗi không còn thống trị con người nữa; con người được trở nên công chính; và con người không phải chết, nhưng được sống đời đời.
2.2/ Các tông đồ được Đức Kitô trao ban sứ vụ hòa giải: Trong Kế Hoạch Cứu Độ, Đức Kitô chọn các tông đồ và trao ban cho các ông và những người kế vị, sứ vụ giao hòa con người với Thiên Chúa (Mt 16:19; Lk 24:47). Thánh Phaolô cũng được trao ban sứ vụ hòa giải; vì thế, thánh nhân kêu gọi tất cả các tín hữu: “Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải… Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa.
Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.”
3/ Phúc Âm: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha.”
3.1/ Quay mặt đi với tình yêu đích thực: Tại sao người con thứ bỏ đi? Trình thuật không nêu rõ lý do, nhưng chúng ta có thể phỏng đoán những lý do sau: Thứ nhất, cậu nghĩ cuộc sống kỷ luật trong gia đình giới hạn sự tự do của cậu; vì thế, cần thoát ly gia đình để có thể làm tất cả những gì mình muốn. Thứ hai, cậu không cảm nhận được tình yêu của cha dành cho và hạnh phúc khi còn sống trong mái ấm gia đình, và muốn chạy theo những tiếng mời gọi hấp dẫn hơn của xác thịt, bè bạn, và thế gian. Sau cùng, cậu nghĩ có tiền và có tự do là sẽ có hạnh phúc; nhưng cuộc đời không đơn giản nhưng cậu tưởng.
3.2/ Người con thứ nhận ra tình yêu chân thực của cha và hạnh phúc của mái ấm gia đình: Con người thường hay giả định mọi sự phải như vậy thay vì biết suy nghĩ tại sao những sự ấy xảy ra; nhưng khi đã mất rồi, con người mới biết trân quí khi nhận lại. Người con thứ phải trải qua đói khát và đau khổ để nhận ra tình yêu của Thiên Chúa và của cha mình. Khi xa cha, phẩm giá con người của cậu còn thua cả loài heo, là con vật được coi là nhơ bẩn theo truyền thống Do-thái. Là một con người mà muốn ăn thứ heo ăn cũng không ai cho. Cậu hồi tưởng tới những đầy tớ ở nhà cha mình: Đầy tớ của cha còn có cơm gạo dư thừa để ăn, thế mà phận làm con phải chết đói.
Khi đã nhận ra đâu là tình yêu và hạnh phúc đích thực, cậu can đảm bảo mình: Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.”
3.3/ Hạnh phúc khi con người được hòa giải: Người cha tuy đau khổ phải xa con; nhưng ông biết ông không thể giữ con ở nhà, nên ông đã đau khổ chia gia tài cho con. Ông biết có thể ông sẽ mất con vĩnh viễn, nhưng ông hy vọng đói khát và đau khổ sẽ làm cho con ông nhận ra đâu là tình yêu đích thực và quay về với ông. Nhiều người thắc mắc tại sao ông biết lúc nào con trở về và nhận ra cậu ngay khi còn ở đàng xa. Điều này chỉ có thể trả lời bằng tình yêu mà ông dành cho con, ông phải ra đầu ngõ ngóng chờ mỗi ngày để có thể thấy con từ xa như trình thuật hôm nay.
Chúa Giêsu đưa tình phụ tử lên tới tuyệt đỉnh khi mô tả thái độ của người cha đón con về: Không giống như người cha thế gian ngồi đợi con đến trước mặt và nói lời xin lỗi trước khi người cha có thể tha thứ; người cha trong trình thuật chạy ra trước đón con, ông không đòi một điều kiện nào, và cũng chẳng đợi cho con nói hết lời xin lỗi; ông phục hồi tất cả phẩm giá cho con mình khi nói với các đầy tớ: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Và họ bắt đầu ăn mừng.
3.4/ Tính ghen tị là kẻ thù của tình yêu: Người con cả tuy ở nhà với cha luôn; nhưng vẫn không hiểu tình yêu của cha mình. Anh làm việc vất vả không phải vì thương cha; nhưng hy vọng sẽ được thừa hưởng tất cả những gì cha để lại. Anh nghĩ mình có lý do để tức giận vì sẽ phải chia gia tài với em mình lần nữa. Anh đặt giá trị vật chất lên trên tình phụ tử và tình huynh đệ khi nói thẳng vào mặt cha mình: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”
Anh không một chút quan tâm đến tình cảm của cha mình, cho dù anh đã được chứng kiến nỗi đau khổ của cha mỗi ngày ra ngõ ngóng con. Nếu cảm nhận được tình yêu với cha, anh phải vui chung với niềm vui của cha, chứ không để cho niềm vui của cha chưa trọn đã phải đương đầu với một đứa con khác, đứa con cha anh tưởng nó yêu thương mình thật, nhưng nay khám phá ra nó yêu mình vì tài sản. Anh cũng chẳng còn chút tình cảm gì cho em. Khi nói với cha “thằng con của cha đó,” anh coi nó chẳng có chút liên hệ máu mủ ruột thịt gì với mình.
Trình thuật muốn nêu bật tình yêu chân thật, tha thứ, và vô vị lợi của người cha. Tuy bị phản kháng cách tàn nhẫn từ người con cả, ông vẫn hạ mình năn nỉ và khuyên con: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy."
Chúng ta có thể rút ra rất nhiều những bài học khôn ngoan trong dụ ngôn hôm nay:
1.     Tình cha có chỗ tất cả cho mọi người con. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người.
2.     Đừng bao giờ đặt những giá trị vật chất trên tình nghĩa gia đình. Mất của có thể tìm lại được; mất tình yêu gia đình, con người sẽ ôm hận suốt đời.
3.     Tình yêu Thiên Chúa không quan tâm đến tội lỗi con người; nhưng Ngài cung cấp mọi cơ hội để con người nhận ra và đáp trả tình yêu của Ngài cách tự nguyện.
4.     Nếu đã được Thiên Chúa yêu thương, hòa giải và tha thứ cách vô điều kiện; con người cũng phải cư xử như thế cho những ai có lỗi với mình.
5.     Đừng mù quáng chạy theo những tình yêu giả trá hay chóng qua; hãy biết quay về để sống yêu thương và hạnh phúc với những ai yêu thương mình chân thành.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thời gian và việc thanh luyện cần thiết vì chúng giúp con người nhận ra đâu là tình yêu đích thực giữa bao tình yêu ích kỷ và giả trá.
- Chỉ một mình Thiên Chúa là tình yêu đích thực; vì Ngài không quan tâm đến tội lỗi, luôn tìm mọi cách đưa con người trở về, và yêu thương con người đến cùng.
- Càng xa Thiên Chúa bao nhiêu con người càng đau khổ bấy nhiêu, và phẩm giá con người bị hạ giá tới độ không bằng một con vật. Khi quay về với Thiên Chúa, Ngài sẽ phục hồi xứng đáng phẩm giá của chúng ta như các con cái của Ngài.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.


06/03/16 CHÚA NHẬT TUẦN 4 MC – C 
Lc 15,1-3.11-32

Suy niệm: Dụ ngôn Người cha nhân hậu cho thấy lòng Chúa thương xót không mệt mỏi, dẫu trong thinh lặng đợi chờ. Thiên Chúa chạnh lòng trong im lặng khi thấy đứa con lên tiếng cướp quyền của mình, đòi chia gia tài. Thiên Chúa chạnh lòng trong im lặng, như người cha ngày ngày trông chờ con trở về, dõi mắt đăm đăm trông ngóng, nên thấy con trước từ xa, chạy đến ôm lấy con, hôn lấy hôn để như con đã mất nay lại tìm thấy. Sau thời gian đi hoang, đứa con trở về trắng tay! Tài sản đã hết sạch, nhân phẩm cũng mất đến nỗi ăn đồ thừa của heo. Có còn chăng là mùi tanh hôi của một thời khờ dại. Mặc cảm đè nặng khiến nó cũng không thể ngước cao lên nhìn vào mặt cha để nhận ra gương mặt xót thương của cha mình. Nhưng lòng thương của người cha làm cho nó quá bất ngờ, tha thứ cho nó như thể nó không có quá khứ đáng quên, nâng nó dậy và truyền mặc áo đẹp để phục hồi phẩm giá làm con cho nó và vì cho nó làm con, nó được hưởng lại tức khắc gia tài của người con trong nhà. Thiên Chúa xót thương chúng ta như thế đó. Tin Mừng không cho biết người con đáp trả lại tình yêu của cha thế nào, dường như để cho chúng ta thay thế và đáp lại tình Chúa xót thương.
Mời Bạn: Chúng ta hãy bắt chước Chúa diễn tả lòng xót thương cho con cái, bạn hữu, xóm làng của chúng ta.
Sống Lời Chúa: Đến với một người không thích, nở nụ cười thân ái với họ.
Cầu nguyện: Chúa đã thứ tha và đón nhận con, cho con được lại làm con của Chúa. Con xin cám ơn Chúa.

TRỞ VỀ 
Cả hai người con đều ở ngoài nhà cha, chấp nhận chịu đói. Con út không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào.

Suy nim:
Người cha không đi tìm đứa con út như tìm chiên lạc.
Nó đã dùng tự do để quyết định ra đi,
và người cha tôn trọng quyết định đó.
Nhưng ông vẫn ngong ngóng chờ con.
Niềm hy vọng vẫn không ngừng nhen nhúm.
Người cha thấy con trước khi nó kịp thấy cha.
Con ốm yếu, hôi hám, bội bạc, chẳng làm cha xa tránh.
Tình thương trào dâng khiến bước chân cha vội vã.
Vòng tay cha lớn quá, nụ hôn cha nồng nàn.
Áo đẹp, dép mới, nhẫn đeo tay, ca nhạc, tiệc tùng, múa nhảy:
tất cả chỉ để thông báo cho mọi người biết rằng
đây là con tôi, vẫn là con vì chưa bao giờ không là con.
Nhưng người cha không chỉ thương con út.
Con cả mới là đích nhắm của câu chuyện này.
Anh quá hiếu thảo, quá vâng phục cha từng li từng tí.
Anh không đi hoang, không ăn chơi, chỉ chăm lo đồng áng.
Ai cũng thấy anh là người con mẫu mực.
Nhưng biến cố đứa em trở về đã làm lộ con người thật của anh.
Tuy luôn ở trong nhà cha, nhưng anh lại ở ngoài tim cha.
Anh không hiểu được tại sao cha lại nhu nhược đến thế,
bao dung đến độ bất công với anh.
Ðãi tiệc với thịt bê béo để mừng đứa con hoang đàng,
còn anh, một con dê để lai rai với bạn bè cũng không có.
Anh không thể vui với cha, càng không thể vui với em.
Anh tức giận vì thấy quyền lợi mình bị xâm phạm.
Rốt cuộc anh không chịu vào nhà!
Hóa ra cả hai người con vừa khác, lại vừa rất giống nhau.
Cả hai đều ở ngoài nhà cha, chấp nhận chịu đói.
Con út không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi.
Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào.
Sám hối là trở về với tình cha.
Cả hai người con đều cần trở về, trở vào.
Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui, sự sống.
Nhưng trở về chẳng phải là chuyện dễ dàng.
Chẳng ai muốn nhận là mình đã đi lầm đường.
Người anh cả cần dẹp bỏ tự ái để vui vẻ vào nhà.
Người em út cần khiêm tốn mới gặp cha và gia nhân
trong tình trạng thân tàn ma dại.
Ðể trở về cần đứng lên hay bỏ chỗ mình đang đứng.
Từ bỏ thì đớn đau nhưng hạnh phúc thật tuyệt vời.
Hạnh phúc lớn nhất không phải là tài sản vật chất,
mà là khám phá ra mình có chỗ trong trái tim cha.
Cha yêu mình dù mình hư hỏng, bất trung.
Cha yêu mình không phải vì mình ngoan ngoãn, được việc.
Cha yêu mình chỉ vì mình là con.
Cha không muốn mất một đứa con nào.
Trở về với Cha đòi ta giang tay đón lấy người em.
Ðó không phải là “thằng con của cha”, nhưng là “em của con”.
Trở về với Cha, với tha nhân cũng là trở về với mình.
Tôi chợt nhận ra mình quá ư giàu có.
Cầu nguyn:

Lạy Cha,
người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ,
khi coi Cha
như người cản trở hạnh phúc của chúng con.
Chúng con thèm được tự do bay nhảy
ngoài vòng tay Cha,
nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.
Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo.
Như người con thứ,
chúng con bỗng thấy mình tay trắng,
rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.

Lạy Cha đầy lòng bao dung,
xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày,
giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc.
Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui
vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.

Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên,
thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ,
chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

06 Tháng Ba
Những Tác Phẩm Ðể Ðời

Nguyện đường Sixtina trong nội thành Vatican đã được Ðức Giáo Hoàng Sixto thứ 4 cho xây cất vào cuối thế kỷ thứ 15. Không những là nơi các vị Hồng Y tụ tập để bầu Giáo Hoàng hay còn là nơi để tổ chức những buổi họp quan trọng khác có tính chất thượng đỉnh, nguyện đường Sixtina còn là một bảo tàng viện với những tác phẩm nghệ thuật bất hủ, nhất là những bức bích họa của Michelangelo.
Bất cứ du khách nào đến Roma cũng tìm đủ mọi cách để được một lần chiêm ngắm các bức tranh được vẽ trên tường và trên trần nhà này. Người thưởng lãm không những chỉ ngắm nghía dưới khía cạnh lịch sử, nghệ thuật, văn hóa, nhưng còn để hồn hòa nhập vào niềm tin sâu sắc của nhà nghệ sỹ. Thật thế, tất cả những bức tranh mà Michelangelo đã thực hiện trong nhà nguyện Sixtina đều được cảm hứng từ Kinh thánh.
Nhà danh họa của chúng ta đã phải nằm ngửa trên một giàn gỗ hướng mặt về trần bản ròng rã không biết bao nhiêu năm tháng. Nóng lòng chờ đợi các tác phẩm của ông, ngày kia, đức Sixto đã to tiếng hỏi vọng lên từ dưới đất: "Michelangelo, chừng nào ông mới hoàn thành công việc?". Từ trên giàn gỗ, nhà danh họa đáp lại: "Chừng nào con có thể!". Vị Giáo Hoàng dường như mất hết kiên nhẫn: "Thế ông có biết là ông đã bắt đầu mấy năm rồi chưa? Thế mà tôi vẫn chưa thấy gì hết...". Một cách điềm tĩnh, Michelangelo trả lời: "Thưa Ðức Thánh Cha, con không làm việc cho đời tạm này, mà cho đời sau...".
Có những bản nhạc, có những tác phẩm văn chương, có những công trình kiến trúc đã trở thành bất hủ. Nghĩa là, qua dòng thời gian, người ta sẽ không bao giờ quên được những kiệt tác ấy. Nhiều khi chính tác giả của những công trình bất hủ ấy không bao giờ dám nghĩ đến sự trường tồn của tên tuổi mình như thế.
Danh họa và điêu khắc gia Michelangelo đã tiên đoán về những tác phẩm của mình. Quả thực, ông đã để lại muôn thế hệ tên tuổi của ông qua các sáng tác của ông. Tượng Pieta, tượng Maisen, tượng David và các bức bích họa trong nguyện đường Sixtina sẽ không bao giờ mai một với thời gian.
Tuy nhiên, cái bất hủ nơi con người chỉ là một cái bóng mờ đối với cái vĩnh cửu nơi Thiên Chúa. Một cuộc chiến tranh tàn phá, một thiên tai vùi dập: tất cả mọi tên tuổi và dấu vết của con người cũng đều tan biến. Duy chỉ có những gì được xây dựng trên nền tảng của Vĩnh Cửu mới được trường tồn.
Thiên Chúa không tạo dựng tất cả mọi người đều là thiên tài để ai cũng có thể để lại cho hậu thế danh thơm tiếng tốt của mình. Tuy nhiên, tất cả mọi người đều được tạo dựng như một kiệt tác của vũ trụ. Kiệt tác đó sẽ mãi mãi đi vào Vĩnh Cửu của Thiên Chúa. Nhưng mỗi đời người là một công trình cho vĩnh cửu. Mỗi một việc làm vô danh và nhỏ bé nhất cũng đều mang một giá trị vĩnh cửu.
Lẽ Sống


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét