03/04/2016
Chúa Nhật 2 Phục Sinh
Chúa Nhật về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa
(phần I)
Bài Ðọc I: Cv 5, 12-16
"Số
người tin vào Chúa ngày càng gia tăng".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Khi ấy,
các Tông đồ làm nhiều phép lạ và nhiều việc phi thường trong dân, và tất cả mọi
người tập họp tại hành lang Salômôn; nhưng không một ai khác dám nhập bọn với
các tông đồ. Nhưng dân chúng đều ca tụng các ngài. Số những người nam nữ tin
vào Chúa ngày càng gia tăng, đến nỗi họ mang bệnh nhân ra đường phố, đặt lên
giường chõng, để khi Phêrô đi ngang qua, ít nữa là bóng của người ngả trên ai
trong họ, thì kẻ ấy khỏi bệnh. Ðông đảo dân chúng ở những thành phụ cận
Giêrusalem cũng tuôn đến, mang theo bệnh nhân và những người bị quỷ ám. Mọi người
đều được chữa lành.
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 2-4. 22-24. 25-27a
Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo
tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở (c. 1).
Hoặc đọc:
Alleluia.
Xướng:
1) Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi
nhà Aaron, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi những
người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". -
Ðáp.
2) Phiến
đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do
Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Ðây là ngày Chúa đã thực hiện,
nên chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Ðáp.
3)
Thân lạy Chúa, xin gia ơn cứu độ; thân lạy Chúa, xin ban cho đời sống phồn
vinh. Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến; từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc
cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa và đã soi sáng chúng tôi. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Kh 1, 9-11a, 12-13.
17-19
"Ta
đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời".
Trích
sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là
Gioan, anh em của chư huynh, đồng phần chia sẻ sự gian truân, vương quyền và
kiên nhẫn trong Ðức Giêsu Kitô, tôi đã ở đảo Patmô vì lời Chúa và vì làm chứng
Ðức Giêsu. Một Chúa Nhật nọ, tôi xuất thần và nghe phía sau tôi có tiếng phán lớn
như tiếng loa rằng: "Hãy viết những điều ngươi thấy vào sách và gởi đến bảy
giáo đoàn ở Tiểu Á". Tôi quay lại để xem coi tiếng ai nói với tôi. Vừa
quay lại, tôi thấy bảy chân đèn bằng vàng, và ở giữa bảy chân đèn bằng vàng đó
tôi thấy một Ðấng giống như Con Người, mặc áo dài và ngang lưng thắt một dây nịt
bằng vàng. Vừa trông thấy Người, tôi ngã xuống như chết dưới chân Người; Người
đặt tay phải lên tôi và nói: "Ðừng sợ, Ta là Ðấng trước hết và là Ðấng sau
cùng, Ta là Ðấng hằng sống; Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời. Ta
giữ chìa khoá sự chết và địa ngục. Vậy hãy viết những gì ngươi đã thấy, những
điều đang xảy ra và những điều phải xảy ra sau này".
Ðó là
lời Chúa.
Alleluia: Ga 20, 29
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin.
Phúc cho những ai đã không thấy mà tin". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 20, 19-31
"Tám
ngày sau Chúa Giêsu hiện đến".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi
chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ
người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình
an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn
Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo
các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các
con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy
nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm
tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có
ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các
môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng
ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay
Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào
cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Tám
ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi
các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho
các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và
hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng
lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của
con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con
đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!"
Chúa
Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép
trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa
Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm: Chúa sống lại đang ở giữa Hội Thánh
Chúng
ta vừa nghe đọc một bài sách Công vụ các Tông đồ, một bài sách Khải huyền và một
bài Tin Mừng theo thánh Gioan. Ðó là ba quyển sách mà Phụng vụ sẽ trích đọc
trong tất cả các Chúa nhật Phục sinh năm nay; và cũng theo thứ tự trên. Không
nhất thiết mỗi lần ba bài đọc ấy đều ăn ý với nhau; nhưng luôn luôn cả ba đều
nói về mầu nhiệm Phục sinh. Cứ chung mà nói, các Tin Mừng sẽ cho chúng ta thấy
Chúa sống lại hiện ra với các tông đồ. Các bài sách Công vụ nói Tin Mừng Phục
sinh đã xây dựng Hội Thánh thế nào; và các bài sách Khải huyền mở cửa trời cho
chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Phục sinh ở trên ấy. Như vậy, trong suốt mùa Phục
sinh này, chúng ta sẽ được hiểu biết mầu nhiệm Chúa sống lại ở những bình diện
khác nhau và bù đắp cho nhau. Chúng ta sẽ thấy nhờ việc sống lại từ kẻ chết,
Chúa Giêsu còn hiện diện và hoạt động hơn trước nơi tâm hồn tín hữu, trong Hội
Thánh của Người và hướng dẫn lịch sử các dân tộc nữa.
Chúng
ta sẽ cố gắng tiếp thu giáo huấn của phụng vụ trong mùa này để làm sống động ơn
Phục sinh mà Chúa đã ban cho chúng ta một cách đặc biệt trong ngày kỷ niệm việc
Người sống lại. Và chúng ta sốt sắng đón nhận thêm ơn ấy mỗi khi tham dự thánh
lễ. Ðó là những công việc chúng ta bắt đầu làm ngay từ trong thánh lễ này, để
hiểu biết hơn và đón nhận nhiều hơn ơn phục sinh của Chúa.
Vậy
trước hết, các bài Kinh Thánh đọc hôm nay, nói gì với chúng ta? Chúng ta nên gọi
Chúa nhật này là Chúa nhật của thánh Tôma hay là Chúa nhật của Hội Thánh? Thiết
tưởng, tuy câu chuyện về thánh Tôma hôm nay rất nổi, chúng ta vẫn không thấy
hình ảnh của ông che hết được những sự kiện khác đã xảy đến cho Hội Thánh sau
ngày Chúa sống lại. Cả ba bài đọc dường như đều chú trọng đến việc Chúa sống lại
đang ở giữa Hội Thánh và chúng ta nên gọi Chúa nhật này là Chúa nhật của Hội
Thánh được Chúa sống lại viếng thăm. Ngay cả câu chuyện về thánh Tôma cũng nằm
trong bối cảnh chung này. Và vì nó rất nổi, chúng ta hãy bắt đầu với nó.
1. Chúa Sống lại Hiện Ra Với Các
Tông Ðồ
Câu
chuyện Tôma xảy ra vào ngày thứ 8 sau hôm Chúa sống lại tức là vào chính ngày
hôm nay, sau khi chúng ta đã mừng lễ Phục Sinh của Chúa vào Chúa Nhật trước. Vì
lý do ấy, năm nào phụng vụ cũng đọc bài Tin Mừng này vào Chúa Nhật II Phục
Sinh. Nhưng sở dĩ có việc Chúa hiện ra với Tôma là vì 8 hôm trước Chúa đã hiện
ra với các môn đệ. Hôm ấy Tôma không có mặt. Ðược anh em nói cho biết Thầy đã sống
lại và hiện ra, ông thấy thiệt thòi và thua kém. Nhất nữa ông là người đã giục
anh em: "Nào chúng ta hãy lên Giêrusalem với Thầy và chịu chết với Thầy".
Ông nghĩ mình có quyền được xem thấy Chúa sống lại ít là như mọi anh em.
Thế
nên ông cương quyết không chịu tin lời anh em kể lại về việc Chúa đã hiện ra và
ông đòi phải được sờ vào Người. Tên của ông lại có nghĩa là "sinh
đôi", nên ông muốn được Chúa lập lại cho ông thấy việc Người đã làm cho
anh em.
Chúng
ta có quyền nghĩ về tâm lý Tôma như vậy, vì Thánh Kinh đã khẳng định một điều
chắc chắn các tông đồ đã được xem thấy Chúa sống lại. Thế mà Tôma cũng là một
tông đồ. Ông phải được Chúa sống lại hiện ra để chứng của ông cũng chắc chắn
như chứng của mọi anh em. Và rất có thể trong câu chuyện này, tác giả Gioan
cũng đã theo thói quen của mình, lấy trướng hợp một cá nhân để làm sáng tỏ việc
xảy đến cho nhiều người. Việc Tôma vắng mặt lúc Chúa hiện ra lần đầu tiên với
các môn đệ, là hữu ý để người ta lại được thấy Chúa hiện ra nữa và rõ hơn, để
không ai còn có thể nghi ngờ được nữa.
Quả vậy,
đọc kỹ bài tường thuật hôm nay, chúng ta thấy tác giả Gioan kể hai lần Chúa hiện
ra dường in hệt như nhau. Lần sau như chỉ "lập lại" lần trước, chỉ cá
biệt và rõ ràng hơn thôi. Chúng ta thấy hai lần đều xảy ra vào ngày Chúa nhật,
ngày của Chúa sống lại, ngày Hội Thánh gặp nhau, ngày Chúa phục sinh đến gặp gỡ
Hội Thánh. Ðiều đáng để ý là cả hai lần nhà cửa các môn đệ đều đóng kín. Như vậy,
lần hiện ra trước chưa đủ làm cho họ trở thành những con người mới sao? Hay là
tác giả Gioan còn muốn giữ họ ở lại trong nhà cho đến ngày Chúa Thánh Thần hiện
xuống? Chúng ta có thể nghiêng về ý nghĩa sau, vì hôm Chúa hiện ra có mặt cả
Tôma, cửa nhà các môn đệ còn đóng kín nhưng không thấy nói "vì sợ người Do
Thái" nữa.
Rồi
Chúa cũng đột xuất đứng giữa họ và nói: "Bình an cho các ngươi". Người
ta có thể nghĩ Người đã dùng công thức chào hỏi thông thường của người Do Thái,
nhưng đang lúc các môn đệ còn ở trong nhà đóng kín cửa, lời chào ấy có một ý
nghĩa khác. Nó có tác động trấn an thật sự, nếu chúng ta chưa muốn gán cho nó
hiệu lực của mầu nhiệm thập giá đã đem bình an này mới là sự bình an mà Ðức
Giêsu trước đây đã hứa với môn đệ rằng: "Thầy để bình an lại cho các con;
Thầy ban bình an của Thầy cho các con, sự bình an mà thế gian không thể ban được".
Dù
sao, sau đó Người đã cho môn đệ thấy tay và cạnh sườn của Người. Và riêng hôm
nay, Người bảo Tôma hãy đem ngón tay đặt vào đấy. Trong cả hai lần cũng là một
việc, tuy lần sau có rõ hơn lần trước nhưng cũng chỉ có một ý nghĩa. Chúa làm
như vậy không phải để trấn an môn đệ, vì tính cách đột xuất của việc hiện đến
có thể khiến họ tưởng Người là ma. Không, ma không thể có thân thể như Người có
đây.
Tuy
nhiên, Chúa đã nhằm cho môn đệ tin Người đã sống lại. Người đã chết thật, nhưng
đã sống lại. Các vết thương làm chứng Người đã chết; nhưng con người đã chịu những
vết thương đó bây giờ đang sống giữa họ đây. Người đã sống lại thật. Họ phải
tin như vậy.
Lần
trước, niềm tin ấy đã khiến họ mừng rỡ. Hôm nay, niềm tin đã được đào sâu và tiến
bộ. Họ như nói trong lời tuyên xưng của Tôma: "Lạy Chúa tôi và là Thiên
Chúa của tôi". Chúng ta thường để ý đến lời Tôma phát biểu trước đây khi
nghe anh em nói rằng Thầy đã sống lại và hiện ra. Nhưng chúng ta lại hay quên lời
tuyên xưng của ông hôm nay.
Ðó là
lời tuyên xưng đầu tiên và căn bản của Hội Thánh về Ðức Giêsu Kitô sau khi đã ý
thức việc Người sống lại. Chính niềm tin về sự Phục Sinh của Người đã khiến Hội
Thánh thấy Người là Chúa và là Thiên Chúa của mình. Và Hội Thánh bắt đầu tuyên
xưng Người như vậy. Tác giả Gioan đã cho Tôma được vinh dự nói lời tuyên xưng ấy
lần đầu tiên ở trong Hội Thánh. Như vậy, tác giả đâu có muốn cho Tôma bị tiếng
là cứng lòng tin? Chúng ta phải nghĩ rằng Gioan đã dành cho Tôma vinh dự tiêu
biểu cho Hội Thánh: trước chưa tin, rồi đã tin và mỗi ngày càng tin sâu xa hơn,
đến nỗi trước mới chỉ vui mừng vì đã tin và đã được cứu độ; sau đã sốt sắng
tuyên xưng niềm tin ấy và muốn chia sẻ ơn cứu độ cho mọi người.
Thật vậy,
hôm trước thấy môn đệ đã tin thì Chúa Giêsu đã thở hơi ban Thánh Thần cho họ để
họ có thể tha tội cho người ta. Hôm nay chúng ta thấy ý tưởng truyền giáo ấy được
gói trong câu Chúa bảo Tôma: "Bởi thấy Ta, ngươi đã tin; phúc cho những ai
không thấy mà tin". Cả hai hôm đều có sự phân biệt giữa đoàn môn đệ và người
ta. Môn đệ nhận được Thánh Thần và đức tin là để người ta được khỏi tội và được
tin. Hạng trước phải phục vụ hạng sau. Chúa sống lại hiện ra với các tông đồ là
để họ trở thành nhân chứng về sự Phục Sinh của Người ở trước mặt các dân tộc;
và để họ thành lập cộng đồng các tín hữu. Chúng ta hãy xem họ có làm nổi công
việc này không?
2. Các Tông Ðồ Xây Dựng Hội Thánh
Bài
sách Công Vụ Các Tông Ðồ hôm nay là một trong ba bản văn tóm tắt tình hình
chung của Hội Thánh ở buổi đầu tiên (xem chương 2,42 và 4,32). Thật ra mỗi bản
văn đã làm nổi bật một số điểm trên một cái nền chung. Ở đây, tác giả chú trọng
đến việc các tông đồ đã làm được nhiều dấu lạ điềm thiêng. Và điều này khá phù
hợp với tư tưởng của hai bài Kinh Thánh khác trong thánh lễ hôm nay, nhất là
bài Tin Mừng chúng ta vừa đọc.
Nhưng
trước hết chúng ta hãy để ý đến nền ảnh chung. Tác giả viết: "Bấy giờ họ đồng
tâm nhất trí thường họp với nhau hết thảy nơi trụ lang Salomon". Ðiều này
làm chứng cho những lời tác giả nói trước đây. Các tín hữu của Chúa thời bấy giờ
hiệp nhất như chỉ có một linh hồn. Và cũng phải nói: họ như chỉ có một thân thể
nữa, vì họ không thể nào chịu để cho trong họ có người thiếu thốn. Thế nên ai
có sở hữu nhiều thì đã đem bán đi, lấy tiền, đem lại cho các tông đồ để chia sẻ
cho những người túng thiếu hơn.
Tuy
nhiên, điều đáng để ý nhất ở nơi họ, vẫn là sự đồng tâm nhất trí về tinh thần,
biểu lộ đặc biệt trong những khi họ hội họp nhau để nghe giáo huấn các tông đồ
và cử hành phụng vụ. Ở đây, chúng ta thấy họ đang có mặt ở tất cả ở các trụ
lang Salomon là chỗ khá rộng rãi thuộc đền thờ để tín hữu làm công việc thờ phượng.
Chính tại nơi này, xưa kia Chúa Giêsu đã đi đi lại lại (Ga 10,23); và cách đây lít
lâu, Phêrô đã làm cho một người què được khỏi tức thì.
Hôm
nay, tín hữu của Chúa cũng họp nhau lại đây để nghe giáo huấn và cầu nguyện.
"Không ai dám sát lại gần họ". Vì sợ người Do Thái ư? Chắc không phải,
vì như sau sẽ nói, số tín hữu cứ mỗi ngày mỗi tăng. Nhưng người ta chưa dám lại
gần cộng đoàn dân Chúa chỉ vì đang là giờ phụng vụ riêng của Hội Thánh mà người
ta chưa thể tham dự được. Cũng rất có thể những lúc như vậy người ta thấy họ được
dồi dào các ơn Thánh Thần và sốt sắng đặc biệt, như tác giả sách Công vụ đã nhiều
lần nói (vd. 4,31).
Dù sao
không dám lại gần, nhưng người ta cũng ca tụng họ vì quả thật họ đáng ca tụng
khi hội họp nhau đồng tâm nhất trí và sốt sắng như vậy. Dĩ nhiên sự ca tụng này
cũng bao gồm cả những lần khác khi người ta thấy các tín hữu ăn ở tốt lành và
có lòng bác ái chia sẻ trong đời sống xã hội.
Chính
những hình ảnh đẹp đẽ này đã lôi kéo nhiều người gia nhập dân Chúa, mỗi ngày mỗi
đông, đoàn đoàn lũ lũ, đàn ông đàn bà. Và gia nhập có nghĩa là tin theo Chúa
khiến chúng ta thấy các môn đệ đã thi hành được sứ mạng Chúa giao cho mình. Sau
khi sống lại, như bài Tin Mừng hôm nay viết, Chúa đã hiện ra với họ, ban Thánh
Thần để họ tha tội, ban đức tin để họ làm cho có nhiều người không thấy Chúa mà
vẫn tin. Thế thì bài sách Công vụ hôm nay cho thấy ơn Thánh Thần và đức tin của
các môn đệ càng ngày càng lan sang cho đoàn đoàn lũ lũ. Hội Thánh đã thành hình
và phát triển nhờ ơn Chúa Phục Sinh vậy.
Ở giữa
Hội Thánh này, các tông đồ đóng một vai trò quan trọng, và đặc biệt là Phêrô.
Chúa làm cho họ được nhiều dấu lạ điềm thiêng để củng cố lời rao giảng của họ,
như Người đã từng hứa; và như họ vẫn thường xin (4,30). Họ biết khả năng tự
nhiên của họ quá ít; họ còn ý thức hơn nữa tính cách siêu việt của Lời Chúa và
sự khó đoán nhận tự nhiên của xác thịt về phía người nghe. Chúa có trợ sức, lời
giảng về Mầu nhiệm Thập giá mới trở thành thần lực. Và khi có dấu lạ điềm
thiêng kèm theo, lời giảng Tin Mừng mới có sức mạnh.
Chúng
ta hãy chú ý: các dấu lạ điềm thiêng ở đây không hề có tính cách phô trương mê
hoặc, nhưng hoàn toàn chỉ bày tỏ ơn Thánh Thần và bác ái. Ðặc biệt hôm nay
chúng ta thấy toàn là việc chữa bệnh tật để nói lên ơn tha tội và sự sống Phục
Sinh của lời giảng. Và khi nhìn thấy quang cảnh người ta từ khắp nơi khiêng bệnh
nhân đến và đặt la liệt trên đường đi cho bóng của Phêrô đi ngang qua rợp trên
những người đau yếu, làm sao tự nhiên chúng ta lại không nhớ lại Chúa Giêsu
ngày trước đã nhiều lần như thế. Phêrô bây giờ là hình ảnh của người, và là hiện
thân của Chúa Phục Sinh, nếu chúng ta nói được như vậy. Nhất là khi Phêrô xua
trừ được tà thần, thì rõ rệt sức mạnh của Chúa Giêsu sống lại đang ở với ông và
ở trong Hội Thánh. Chúa Giêsu đang ở cùng Hội Thánh hằng ngày cho đến tận thế.
Và điều này cũng được bài sách Khải Huyền hôm nay nói lên.
3. Hội Thánh Của Chúa Sống Lại
Tác giả
Gioan tự giới thiệu mình như là một phần tử đang ở giữa cộng đoàn dân Chúa. Người
là anh em với mọi người; và đang đồng hành với anh em. Một thân phận chung đang
trùm lên mọi người. Hội Thánh của Chúa ở trần gian đang trong cơn thử thách;
nhưng đó là thử thách mang lại vương quyền như cuộc tử nạn của Chúa Giêsu trước
đây. Và vì thế Hội Thánh đang kiên nhẫn ở trong Người.
Nói một
cách cụ thể hơn, Gioan đang chia sẻ sự bắt bớ mà Hội Thánh đang chịu. Ông, bị đày
ra đảo Patmos vì Lời Chúa và vì chứng của Chúa Giêsu. Ông đã thi hành sứ mạng
Tông đồ, rao giảng Lời Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu, nên người ta đày ông
ra đảo này.
Nhưng
cho dù bị tách rời anh em về phần xác, Gioan vẫn ở giữa cộng đồng Hội Thánh bằng
tinh thần và ngày Chúa nhật hôm ấy, ngày Hội Thánh gặp nhau, ngày Chúa viếng
thăm Hội Thánh cách đặc biệt, Gioan được "ngất trí" để sống giữa Hội
Thánh và phục vụ Hội Thánh với cương vị tông đồ của mình.
Ông
nghe thấy có tiếng nói lên ở đàng sau tựa tiếng loa. Ðó là tiếng "thần
thánh" nói trong "đầu óc" ông. Tiếng đó bảo ông phải viết những
điều ông trông thấy để gởi các giáo đoàn, tức là cho cả Hội Thánh. Ông phải làm
vai trò rao giảng Lời Chúa như ơn Chúa đã kêu gọi ông.
Và ông
thấy gì? Có 7 trụ đăng vàng, tiêu biểu cho 7 giáo đoàn sẽ nhận được thư ông. Và
giữa các trụ đăng ấy có ai giống như Con Người, mình bận áo chùng, lưng thắt
đai vàng. Chẳng thể hồ nghi gì nữa, đó là Chúa Giêsu ở giữa Hội Thánh, mặc áo
tư tế và thắt lưng đai vua. Cảnh tượng ấy khiến Gioan lập tức sấp mình kính sợ
thờ lạy. Nhưng Chúa Giêsu đã đặt tay hữu lên ông và bảo: đừng sợ! Rồi Người cho
ông biết: Người là Ðầu hết và là Sau hết; là Ðấng Hằng Sống, nắm giữ chìa khóa
sự chết và âm phủ. Người bảo ông hãy viết những điều này và những điều sau này
nữa mà gửi cho Hội Thánh.
Chúng
ta hãy hiểu ý của Người, khi xưng mình là Ðầu hết và Sau hết, Chúa Giêsu đã đồng
hóa mình với Thiên Chúa theo công thức mà Isaia đã viết trong Cựu Ước. Người ta
đừng tưởng Người đã chết trên thập giá. Không, Người đã sống lại và là Ðấng Hằng
Sống. Người đã chết và sống lại để nắm được chìa khóa (tức quyền hành) của sự
chết và của âm phủ). Những lời mạc khải này quan trọng biết bao! Nó củng cố niềm
tin của Hội Thánh về việc Chúa chết và sống lại. Và được nghe trong lúc bị bắt
bớ, đày ải, những lời ấy tăng thêm sức mạnh kiên nhẫn cho Hội Thánh hơn hết mọi
liều thuốc hồi sinh.
Bài
sách Khải huyền, vì thế, rất phù hợp với Hội Thánh thời thánh Gioan. Và đối với
chúng ta đang sống trong thân phận lữ khách trần gian, mạc khải vừa nghe cũng
đem lại nhiều an ủi. Nhưng nhất là chúng ta phải thấy rõ Chúa Giêsu Phục Sinh hằng
ở giữa Hội Thánh như vị Thượng Tế của đạo mới, như vị thủ lãnh có vương quyền
và như Thiên Chúa đang nắm giữ vận mạng của lịch sử. Người không ở xa Hội
Thánh, nhưng ở giữa. Người không bỏ rơi một phần tử nào, nhưng ban sức cho cả
người lưu đày cũng được khả năng thi hành chức vụ. Hoạt động của Người không giảm
đi, theo việc Người chịu chết. Trái lại, cả ba bài Kinh Thánh hôm nay đều cho
thấy, từ sau ngày sống lại, Chúa Giêsu đã hoạt động hơn trước với quyền lực mới,
nắm giữ cả chìa khóa sự chết và âm phủ, khiến tà thần và bệnh tật cũng phải lui
mau khi các Tông đồ và Hội Thánh của Người đến gần...
Trong
thánh lễ cử hành bây giờ, Chúa Giêsu cũng đến với quyền lực như thế. Người có
thể làm ra những Tôma mới; Người ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và sức mạnh mới;
Người tỏ ra vẫn hiện diện mới mẻ giữa Hội Thánh. Ước gì chúng ta biết đón nhận
Người với lòng tin của Tôma; cộng đoàn phụng vụ chúng ta muốn chứng tỏ tình hiệp
nhất và khả năng đổi đời nhiều hơn, để chứng tỏ Ðức Giêsu hôm qua, hôm nay và
mãi mãi, là Ðấng Hằng Sống, hằng trị, và hằng cứu độ mọi người. Amen.
(Trích dẫn từ tập sách Giải
Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô
Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật
2 Phục Sinh, Năm C, Chúa Thương Xót
Bài đọc: Acts 5:12-16; Rev 1:9-11a, 12-13, 17-19;
Jn 20:19-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phúc cho ai không thấy mà tin.
Nhiều
người nghĩ họ chỉ tin khi nào thấy tận mắt hay có thể hiểu được; nếu không, họ
kết luận tin mà không thấy, không hiểu là mê tín, dị đoan. Họ quên đi họ cũng
đã tin rất nhiều thứ không thấy và không hiểu được; chẳng hạn như: tin lịch sử,
giòng điện, gió hay hơi thở. Khi tin những điều này, họ dựa vào thế giá của các
nhân chứng hay hiệu quả của những gì họ không thấy được. Trong lãnh vực niềm
tin cũng thế, con người tin không phải vì đã thấy Chúa; nhưng vì đã nhìn thấy
hiệu quả của uy quyền và tình yêu của Ngài trong vũ trụ, qua đời sống của các
chứng nhân, hay cảm nghiệm của chính cá nhân họ trong cuộc đời.
Các
bài đọc hôm nay nêu bật những sự kiện con người phải dựa vào để tin Thiên Chúa
và Đức Kitô. Trong bài đọc I, tác giả Sách Công Vụ Tông Đồ nhấn mạnh đến việc
tuy không thấy việc Chúa Giêsu Phục Sinh từ ngôi mộ hay nhìn thấy Ngài cách
nhãn tiền; nhưng qua lời làm chứng của các tông đồ và những phép lạ các ông
làm, rất nhiều người đã tin vào Ngài. Trong bài đọc II, tác giả Sách Khải Huyền
ghi chép lại những gì ông đã thấy về những gì sắp xảy ra cho bảy giáo đoàn tại
Tiểu Á. Mục đích là để các tín hữu của giáo đoàn xét mình, nhận ra những ưu và
khuyết điểm để kịp thời sửa chữa. Trong Phúc Âm, tông đồ Thomas từ chối không
tin vào lời chứng của 10 tông đồ và ông xác tín ông chỉ tin khi nhìn thấy Chúa
Giêsu tận mắt. Chúa Giêsu hiện ra cho ông thấy tận mắt; nhưng khuyến cáo ông:
chỉ tin khi thấy là điều tầm thường, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Nhiều dấu lạ điềm
thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các tông đồ.
1.1/
Phêrô và các tông đồ làm cho nhiều người tin vào Đức Kitô: Bằng chứng rõ ràng nhất của sự Phục
Sinh là sự thay đổi hầu như hoàn toàn nơi các tông đồ, từ những con người yếu
đuối, nhát đảm, sợ sệt, chạy trốn trong Cuộc Thương Khó; nay các ông thành những
người can đảm, mạnh dạn, và sẵn sàng làm chứng cho Chúa Giêsu, đến nỗi Thượng Hội
Đồng cũng phải sợ các ông. Chứng kiến sự thay đổi và nghe những lời làm chứng của
các ông, “càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa, cả đàn ông đàn bà rất
đông.”
Chúa
Giêsu đã thấy trước những hiệu quả này khi Ngài chọn, huấn luyện và sai các ông
đi rao giảng và chữa lành ngay cả trước biến cố Phục Sinh (x/c Mt 10:7-9; Mk
3:13-15, 6:12-13, 16:17-18; Lk 9:1-2). Các môn đệ đã vâng lời ra đi và trở về
tường thuật cho Ngài những kết quả họ thu nhận được. Sau biến cố Phục Sinh, họ ra
đi với niềm tin được xác tín mạnh mẽ hơn, và hậu quả họ thu nhận được nhiều
hơn.
1.2/
Phêrô và các tông đồ được Đức Kitô ban quyền chữa bệnh: Trừ quỉ và chữa lành là những gì Đức
Kitô đã làm để khơi dậy niềm tin nơi khán giả, các tông đồ của Người cũng được
trao quyền làm những phép lạ như vậy để khơi dậy niềm tin trong con người vào Đức
Kitô.
Giống
như Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật sự kiện mọi người chen lấn nhau để mong chạm
được gấu áo của Chúa Giêsu, tác giả Sách CVTĐ cũng tường thuật: “Người ta còn khiêng
cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng, để khi ông
Phêrô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó.
Nhiều người từ các thành chung quanh Jerusalem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo
những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa
lành.”
2/ Bài
đọc II: Ta là Đấng Hằng Sống,
Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời.
2.1/ Các
giáo đoàn cần trung thành với đức tin và những lời dạy dỗ của Đức Kitô.
Tục
ngữ Việt Nam có câu để mô tả sự yếu đuối của con người: “Chầu lâu gối mỏi.” Sau
thời gian nhiệt thành của giây phút ban đầu, nồng độ của đức tin và đức mến của
các tín hữu sẽ từ từ suy giảm với thời gian; nhất là khi con người phải đương đầu
thường xuyên với các cám dỗ của ba thù. Tác giả của Sách Khải Huyền được lệnh của
Thiên Chúa trong thị kiến đầu tiên viết những lời cảnh giác cho bảy giáo đòan tại
Tiểu Á. Mục đích là để giúp họ biết xét mình, nhận ra những tội lỗi và sửa chữa
kịp thời; nếu không, họ sẽ phải chịu những kết quả của tội đem lại khi Đức Kitô
đến lần thứ hai.
Đọc
chi tiết những gì ông Gioan viết bảy Hội Thánh tại Tiểu Á: Êphêsô, Myrna,
Pergamô, Thyatira, Sardis, Philadelphia và Laodicea; chúng ta có thể nhận ra những
cám dỗ của ba thù nơi chính chúng ta. Mọi người cần phải thường xuyên xét mình
để nhận ra mức độ tin yêu họ dành cho Đức Kitô.
2.2/ Các
danh xưng trong trình thuật muốnnói lên uy quyền của Đức Kitô:
- Ta
là Đầu và là Cuối: Đức Kitô là khởi nguyên và là chung cuộc; không có gì có thể
thay đổi được Ngài hay thay đổi những gì Ngài dạy dỗ. Người tín hữu cần trung
thành với đức tin và những giáo huấn của Đức Kitô; chứ đừng chạy theo những hệ
thống tư tưởng và trào lưu nhất thời của thế gian, kẻo phải lãnh nhận những thiệt
hại cho bản thân, gia đình, và cộng đoàn.
- Ta
là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời: Đức Kitô
vẫn đang sống trong các tín hữu và trong Giáo Hội qua sự hiện diện của Chúa
Thánh Thần. Các tín hữu cần lắng nghe và tuân theo những gì Ngài hướng dẫn và dạy
bảo.
- Ta
giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ: Đức Kitô có quyền trên cả sự chết ở đời
này và sự chết đời đời. Người tín hữu không được sợ hãi và lùi bước trước bất cứ
quyền lực nào của thế gian hay của quỉ thần. Họ chỉ cần vững tin vào Ngài là sẽ
thắng vượt được tất cả các quyền lực này.
3/
Phúc Âm: "Vì đã thấy
Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"
3.1/
Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ không có ông Thomas: Theo Tin Mừng Gioan, các tông đồ đã được
chuẩn bị để đón nhận Tin Mừng Phục Sinh bởi lời của các phụ nữ ra thăm mộ, và
nhất là lời chứng của Mary Magdala về sự hiện ra của Chúa Giêsu với bà; nhưng
các ông vẫn còn hồ nghi về những lời chứng của các phụ nữ.
Trong
trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu thân hành hiện đến với các tông đồ để kiện toàn
niềm tin của các ông. Có ba sự kiện của lần hiện ra này chúng ta cần để ý:
(1)
Chúa Giêsu Phục Sinh có thể đi qua cửa đang đóng kín: Trình thuật nói rõ: “Vào
chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng
kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói:
"Bình an cho anh em!"”
(2)
Ngài mang một thân xác thật, chứ không phải là hồn người chết hay ảo ảnh: “Người
cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.” Mười
môn đệ đều chứng kiến biến cố này một lúc; nên không ai có thể chối cãi lời chứng
của họ được.
(3)
Chúa Giêsu thổi hơi và ban Thánh Thần cho các tông đồ: “Nói xong, Người thổi
hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” Trước khi chịu
Thương Khó, Chúa Giêsu đã hứa sẽ không để các ông mồ côi, Người sẽ ban cho các
ông một Đấng Bảo Trợ khác là Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu cũng đã mặc khải cho
các ông về Thánh Thần như sau: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh
em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những
gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy
đến. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho
anh em” Jn (16:13-14). Với sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong các tông đồ,
các ông sẽ không còn chút nghi ngờ nào về sự phục sinh của Chúa Giêsu.
3.2/
Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ có cả ông Thomas: Vì tông đồ Thomas không có mặt trong lần
hiện ra trước, nên các tông đồ nói với ông: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa.” Tác
giả dùng động từ của câu này ở thời “hoàn hảo” để chứng minh niềm tin hoàn hảo
của các tông đồ.
Nhưng
ông Thomas từ chối không tin lời của 10 nhân chứng; ông đòi niềm tin đặt căn bản
trên thực nghiệm: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không
xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có
tin."
“Tám
ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Thomas ở đó với
các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình
an cho anh em." Rồi Người bảo ông Thomas: "Đặt ngón tay vào đây, và
hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa,
nhưng hãy tin."
Chúa
Giêsu vẫn đi qua các cửa đóng kín như lần trước. Ông Thomas chắc phải lạnh người
vì không ngờ tất cả những gì mình nói giờ đây được lặp lại từng chữ trên môi miệng
của Chúa Giêsu. Vì thế, ông Thomas sụp xuống thưa Người: "Lạy Chúa của
con, lạy Thiên Chúa của con!" Nhiều tác giả đã phân tích câu tuyên xưng
này và nêu bật niềm tin của Thomas: ông không những tuyên xưng Chúa Giêsu là
Chúa, mà còn là Thiên Chúa của ông nữa.
3.3/ Niềm
tin không dựa trên những gì trông thấy còn tốt hơn: Con người tin vì nhiều cách khác nhau
như nhìn thấy tận mắt, hay cảm thấy hiệu quả, hay vì lời của một, hai, ba, hay
nhiều nhân chứng. Chúa Giêsu xếp loại chỉ tin khi nhìn thấy tận mắt xuống dưới
hàng tin khi không thấy qua lời Ngài tuyên bố với Thomas: "Vì đã thấy Thầy,
nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"
Con
người cần tin vào lời của Kinh Thánh hay lời của các chứng nhân, như tác giả của
Tin Mừng thứ bốn viết: “Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các
môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều
đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên
Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức
Kitô Phục Sinh là căn bản của niềm tin chúng ta; vì thế, chúng ta cần học hỏi
và làm mọi các để hiểu rõ niềm tin này.
-
Chúng ta cần giữ vững niềm tin Phục Sinh trong cuộc đời, nhất là những khi bị
cám dỗ và chịu bách hại bởi ba thù.
- Thấy
và tin là mức độ thấp nhất trong tiến trình đức tin. Chúng ta cần lắng nghe tiếng
của Chúa Thánh Thần và tin vào lời các nhân chứng.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
03/04/16 CHÚA NHẬT TUẦN
2 PS – C
Kính Lòng Thương Xót Chúa
Ga 20,19-31
Kính Lòng Thương Xót Chúa
Ga 20,19-31
Suy niệm: Đức
Thánh Cha Phanxicô kể với tuần báo Croire xuất bản ở Pháp rằng Ngài đã khám phá
ra ơn gọi của Ngài sau khi lãnh ơn tha thứ. Ngài nhớ lại: “Tôi vào nhà thờ và thấy
một linh mục không quen đang đi tới gần. Trong lúc ấy tôi không hiểu điều gì
xảy ra cho tôi, nhưng tôi cảm thấy cần xưng tội. Từ tòa giải tội ra, tôi khác
hẳn, tôi được biến đổi. Tôi trở về nhà với xác tín mình phải dâng mình cho
Chúa.” Chúa Giê-su sau cuộc khổ nạn đau thương và phục sinh vinh hiển, đã trao
cho các môn đệ mệnh lệnh: anh em hãy bắt đầu lại tất cả bằng việc loan báo cho
thế giới này ơn tha thứ của Thiên Chúa. Giáo Hội được sinh ra từ lời rao giảng
sám hối và việc công bố ơn tha thứ theo như mệnh lệnh của Chúa Giê-su.
Mời Bạn: Năm
Thánh Lòng Thương Xót mời gọi người tín hữu bắt đầu tất cả khởi đi từ lòng
thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Bạn hãy bắt đầu thế giới của bạn - những
tương quan, công việc, ngày sống, cả cuộc đời và ơn gọi của bạn - từ điểm khởi
đầu là ơn tha thứ của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót.
Chia sẻ: Hãy
chia sẻ về cảm nhận sau khi lãnh ơn tha thứ.
Sống Lời Chúa: Xét
xem bạn có một tương quan nào đó, một cái gì đó đã bị đổ vỡ trong lòng bạn vì
tội lỗi, bạn hãy lãnh nhận ơn tha thứ nơi tòa giải tội và bắt đầu lại tất cả từ
lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Đọc hoặc hát: Nguyện xin Chúa giúp con bắt đầu và lại bắt
đầu. Này con chiến đấu và con chiến thắng, tươi sáng hy vọng.
HÃY NHÌN XEM
Tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt khỏi cái
thấy. Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma, nhưng chúng ta vẫn được
thấy Chúa theo những kiểu khác.
Suy
niệm:
Thân
xác chúng ta thường mang những vết sẹo,
hậu
quả của những lần bị trầy trụa, té ngã.
Có
những vết sẹo gợi lại cả một vùng kỷ niệm.
Dù
vui hay buồn thì cũng là chuyện đã qua.
Vết
sẹo làm ta kém đẹp, nhưng không làm đau như xưa.
Khi
Ðức Giêsu phục sinh hiện ra thăm các môn đệ,
Ngài
giúp họ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo.
Ngài
cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn.
Những
vết sẹo nói lên một điều quan trọng:
Thầy
chính là Ðấng đã bị đóng đinh và đâm thâu;
Thầy
đã chết nhưng Thầy đã thắng được cái chết.
Chúng
ta ngỡ ngàng khi thấy Chúa phục sinh có sẹo,
dù
điều đó chẳng đẹp gì.
Ngài
không ngượng mà cho các môn đệ xem.
Những
cái sẹo sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc.
Chúng
gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau.
Nhưng
nếu không có chúng thì cũng chẳng có phục sinh.
Chẳng
cần phải xóa đi khỏi ký ức
cuộc
khổ nạn kinh hoàng và cái chết nhục nhã.
Chúng
ta cũng lên thiên đàng với các vết sẹo của mình.
Sống
ở đời sao tránh khỏi những dập gẫy, thương tích.
Nếu
chúng ta đón nhận mọi sự với tình yêu
thì
mọi sự sẽ trở nên nhịp cầu cứu độ.
Tin
Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành.
Có
những vết thương tưởng chẳng thể nào thành sẹo.
Chúng
ta có dám cho người khác thấy sẹo của mình không?
Cuộc
khổ nạn của Thầy đã làm các môn đệ bị thương.
Các
vết sẹo của Thầy sẽ chữa lành những vết thương đó.
Hẳn
Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh.
Chính
lúc đó ông khám phá thật sâu một Tình Yêu.
Tình
yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.
Tình
yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông.
Ông
đâu dám mong Thầy sẽ đích thân hiện đến
để
thỏa mãn những đòi hỏi quá quắt của mình.
Lòng
ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân.
Ông
ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập,
để
bước vào thế giới của lòng tin.
Tôma
đã tin vượt quá điều ông thấy.
Ông
chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy,
nhưng
ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tin
bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt khỏi cái thấy.
Chúng
ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma,
nhưng
chúng ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu khác.
Cần
tập thấy Chúa để rồi tin.
Có
khi phải tập nhìn lại những vết sẹo của mình,
của
Hội Thánh, của cả thế giới,
để
rồi tin rằng Chúa phục sinh vẫn đang có mặt
giữa
những trăn trở và vấp váp, thất bại và khổ đau.
“Phúc
cho những ai không thấy mà tin”,
và
phúc cho những ai biết thấy nên tin.
Cầu
nguyện:
Lạy
Chúa,
xin
cho con luôn vui tươi.
dù
có phải lo âu và thống khổ,
xin
cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;
nhưng
biết nghĩ đến những người quanh con,
những
người -cũng như con- đang cần một người bạn.
Nếu
như con nên yếu đuối,
thì
xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,
thông
cảm và nhân từ hơn.
Nếu
bàn tay con run rẩy,
thì
xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
khi
lâm tử,
xin
cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật
như
một lời kinh.
Ước
chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,
như
một lời xin vâng cuối cùng.
Và
con sẽ về nhà Chúa,
để
dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3
THÁNG TƯ
Qua
Cái Chết – Đến Với Sự Sống
Giáo
Hội, được qui tụ lại bởi ngôi mộ Đức Giêsu, nhìn tội lỗi dưới một ánh sáng mới
khi Giáo Hội dám ca lên rằng : “Ôi tội hồng phúc! Tội đã đem lại cho chúng ta Đấng
Cứu Chuộc quá đỗi cao cả!” Chúng ta có thể thực sự nói về những gì diễn ra đêm
nay rằng “Đây là điều Chúa đã làm ra; thật kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv
118,23).
Chúng
ta được Giáo Hội đặc biệt mời gọi đón nhận mạc khải này về quyền năng Thiên
Chúa, về quyền năng sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa. Mầu nhiệm Vượt Qua của
Chúa Giê-su Kitô luôn luôn hiện diện trong bí tích của Giáo Hội. Quyền năng của
cái chết và cuộc Phục Sinh của Người vẫn không ngừng tác động trong linh hồn
người ta.
Nhờ
tác động của chính quyền năng Thiên Chúa – quyền năng sáng tạo và cứu độ – Giáo
Hội được sinh lại nơi cuộc Phục Sinh của Đức Chúa chịu đóng đanh của mình: “Tảng
đá mà những người thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường” (c.22).
Tất cả
chúng ta đã được sinh ra từ tảng đá ấy: Tất cả chúng ta đều là những viên đá sống
trong tư cách là thành viên của Giáo Hội. Tất cả chúng ta đều được sống nhờ hơi
thở trao ban sự sống của Đức Kitô Phục Sinh. “Chúng ta phải coi như mình đã chết
đi đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Kitô”
(Rm 6,11).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
03-4
Chúa
Nhật II Phục sinh. Cuối tuần Bát Nhật Phục sinh
Chúa
Nhật về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa
Cv
5, 12-16; Kh 1, 9-11a.12-13.18-19; Ga 20, 19-31
Lời
suy niệm: “Bình an cho anh em!” Nói xong, Người
cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.”
Sau
khi Chúa Phục Sinh, Chúa đã không xóa đi những dấu đinh trên chân tay của Người,
không xóa đi dấu đâm ở cạnh sườn Người, để các môn đệ của Người biết được: Chúa
Giêsu chịu Thương Khó cũng chính là Chúa Giêsu Phục Sinh.; là Thầy của mình.
Làm cho các ông vui mừng, đồng thời cùng một lúc các ông nhận được bình an của
Người, và nhận lấy Thánh Thần, để tiếp nối với Người đem ơn tha tội cho nhân loại:
“Anh em tha tội cho ai thì ngươi ấy được tha.”
Lạy
Chúa Giêsu. Chúng con đang mừng Lễ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Xin Chúa cho
tất cả mọi thành viên trong gia đình chúng con chân thành đến với Lòng Thương
xót của Chúa, để giúp chúng con có lòng thương xót như Cha trên trời.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
03-04
Thánh
CASIMIRÔ
(1458
- 1483)
Thánh
Casimirô sinh tại Krakow ngày 5 tháng 12 năm 1458. Ngài là con út trong số 13
anh em của vua Balan và hoàng hậu Elisabeth nước Áo, con người nổi tiếng nhân đức.
Gioan Dugloss thời danh, tổng giám mục Lemberg. Sau này, là thầy dạy của Ngài.
Casimirô
nhiệt thành học hỏi và chỉ nghĩ tới việc làm đẹp ý Chúa. Tâm hồn trong trắng của
Ngài ảnh hường tới mọi người chung quanh. Các gia nhân Ngài quen với với phong
thái tốt đẹp này đến nỗi tại các triều đình ngoại quốc, người ta nhận ra họ bằng
sự cao thượng hơn là bằng sắc phục họ mặc.
Casimirô
cảm thấy nỗi đau khổ của người nghèo như là của mình và giúp đỡ họ tận tình đến
nỗi dân nghèo coi Ngài như một người cha. Người ta trách Ngài đã quá hạ mình
đau khổ săn sóc cho những người cùng khổ, Ngài đã đáp rằng : - Có vinh dự nào lớn
lao hơn là được phục vụ Chúa Kitô trong các chi thể người ?
Vị hoàng tử trẻ tự khắc phục bằng việc sám hối liên tục. Dưới sắc phục sang trọng, Ngài mặc áo nhặm và ngủ trên đất, dưới chân giường. Ngài chỉ muốn ăn bánh và sống trong nghèo khó giữa những vinh dự đến nỗi người ta có thể nói về Ngài như nói về Đức Giám mục Milanô. Thánh Carolô Borrômêô rằng, Ngài chỉ là con chó tội nghiệp trong nhà chủ mình.
Vị hoàng tử trẻ tự khắc phục bằng việc sám hối liên tục. Dưới sắc phục sang trọng, Ngài mặc áo nhặm và ngủ trên đất, dưới chân giường. Ngài chỉ muốn ăn bánh và sống trong nghèo khó giữa những vinh dự đến nỗi người ta có thể nói về Ngài như nói về Đức Giám mục Milanô. Thánh Carolô Borrômêô rằng, Ngài chỉ là con chó tội nghiệp trong nhà chủ mình.
Thời
gian tại nhà thờ là phút giây êm ái quí báu nhất của Ngài, Ngài tới nhà thờ mỗi
tối khi cửa còn đóng, và gục mặt xuống đất cầu nguyện. Trong thánh lễ, người ta
thấy Ngài xuất thần như lúc truyền phép, dường như Ngài thấy Chúa Kitô trong
tay linh mục, Ngài đặc biệt tôn sùng Đức Trinh Nữ mà Ngài gọi là "Mẹ nhân
ái" và hàng ngày đọc thánh thi Ommi die để kính Mẹ. Hai mươi năm sau khi
qua đời, người ta còn tìm thấy bản chép thánh thi trong mộ Ngài. Ngài có óc
phán đoán thật thông minh đến nỗi cha Ngài thường hỏi ý kiến Ngài:
Lúc Casimiro được 13 tuổi, dân Hungarie bất mãn với vua Mathias đã gửi đại diện tới Balan để dâng ngai báu cho Ngài. Vị hoàng tử trẻ không ao ước gì điều này, nhưng vì kính trọng cha, nên đã hướng dẫn binh đội đi nâng đỡ ước nguyện này. Khi tới biên thùy Hungaria, Ngài biết rằng Mathias đã tới chiếm được lòng dân và sẵn sàng chiến đấu cho chính nghĩa. Đức Giáo hoàng cũng ủng hộ vị vua bị truất ngôi. Casimiro vui mừng vì bản tin này và gửi đại diện về cho cha xin bãi bỏ sự việc.
Lúc Casimiro được 13 tuổi, dân Hungarie bất mãn với vua Mathias đã gửi đại diện tới Balan để dâng ngai báu cho Ngài. Vị hoàng tử trẻ không ao ước gì điều này, nhưng vì kính trọng cha, nên đã hướng dẫn binh đội đi nâng đỡ ước nguyện này. Khi tới biên thùy Hungaria, Ngài biết rằng Mathias đã tới chiếm được lòng dân và sẵn sàng chiến đấu cho chính nghĩa. Đức Giáo hoàng cũng ủng hộ vị vua bị truất ngôi. Casimiro vui mừng vì bản tin này và gửi đại diện về cho cha xin bãi bỏ sự việc.
(daminhvn.net)
03
Tháng Tư
Giỗ Tổ Hùng Vương
Ngày
mùng 10 tháng 3 Âm Lịch là ngày giỗ tổ Hùng Vương...
Theo
tục truyền, vua Ðế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến
núi Ngũ Linh (nay thuộc tỉnh Hà Nam) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra một người
con gọi là Lộc Tục. Sau, Ðế Minh truyền ngôi cho con trưởng làm vua phương Nam
xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Ranh
giới nước Xích Quỷ lúc bấy giờ phía Bắc giáp Ðộng Ðình Hồ (tức Hồ Nam), phía
Nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục, phía Ðông giáp bể Nam Hải.
Kinh
Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm Tuất (Tức là năm 2879 trước
Tây Lịch) và lấy con gái Ðộng Ðình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm
vua, gọi là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Ðế Lai tên là Âu Cơ đẻ ra một lần 100 con trai. Sau này, Lạc Long Quân chia cho nàng 50 con để dắt lên núi, còn 50 con, ông đưa về hướng biển Nam Hải.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Ðế Lai tên là Âu Cơ đẻ ra một lần 100 con trai. Sau này, Lạc Long Quân chia cho nàng 50 con để dắt lên núi, còn 50 con, ông đưa về hướng biển Nam Hải.
Lạc
Long Quân phong cho người con trai trưởng sang làm vua nước Văn Lang, xưng là
Hùng Vương, sáng lập ra nước Việt Nam sau này...
"Vật
đổi sao rời, phúc tổ vẫn lưu nền cổ tích
Nước
nguồn cây cối, đạo người nên nhớ đạo Hùng Vương".
Hai
câu thơ khuyết danh này như muốn nhắc nhở chúng ta về công đức của tổ tiên.
Ngày 10 tháng 3 Âm Lịch, chúng ta không biết là ngày húy nhật của vua Hùng
Vương nào, chỉ biết rằng người xưa đã biết chọn một ngày để con cháu về sau
muôn đời có dịp tụ họp nhau lại mà nhớ đến tổ tiên, nhớ đến công đức của người
đã sáng lập ra dòng họ, nhất là sáng lập ra quốc gia.
Cách
đây vài năm, tổng thống Rigan của Hoa Kỳ đã về thăm Ái Nhĩ Lan. Ông muốn nói
lên mối dây liên kết giữa ông, những người da trắng đang sinh sống tại Bắc Mỹ
và tổ tiên của họ... Là người, ai cũng thấy cần có một tổ quốc, một quê hương
trong đó cả một dòng giống được phát sinh và liên kết với nhau.
Cũng
như tất cả những người tha hương, những người Việt Nam đang sống ở hải ngoại
lúc nào cũng hướng về quê hương của họ. Quê hương là một cái gì vô cùng cao quý
và thiêng liêng mà chỉ khi nào mất đi người ta mới cảm thấy luyến nhớ. Nhưng
nói đến quê hương không có nghĩa là gợi lại một mảnh đất, một phong cảnh, một
dòng sông... Nói đến quê hương là nói đến những người cùng bởi một ông tổ mà
ra, những người cùng nói chung một thứ tiếng, những người có cùng một màu da,
hay nói như người Việt Nam chúng ta, những người đồng bào, nghĩa là những người
cùng chung một cái bọc mà sinh ra... Ðó là ý nghĩa của huyền thoại 100 cái trứng,
trong câu chuyện lập quốc của chúng ta.
Nhưng
những người công giáo không chỉ ý thức về tình máu mủ ruột thịt của những người
cùng một dân tộc, họ còn có một gia đình rộng rãi hơn: đó là gia đình nhân loại.
Nhà
vô thần Voltaire đã nói: nếu Thiên Chúa không có thì chúng ta phải tạo ra
Ngài... Vì sao thế? Thưa, để cuộc đời chúng ta có một ý nghĩa, để chúng ta biết
chúng ta có chung một người Cha, và tất cả mọi người, dù không đồng một ngôn ngữ,
dù không đồng một màu da, tất cả chúng ta đều là anh em với nhau. Và kết luận tất
yếu của chân lý đó là: chúng ta phải thương yêu nhau.
Người
trong cùng một nước, có cùng một ông tổ phải thương yêu nhau vượt lên trên tất
cả mọi khác biệt về địa lý, về tôn giáo, về quan điểm chính trị.
Ðó là
tất cả ý nghĩa của ngày giỗ tổ Hùng Vương mà chúng ta cử hành hằng năm. Ngày giỗ
tổ ấy cũng còn mời gọi chúng ta đi xa hơn nữa để nhìn nhận mọi người đều là con
cái Chúa và đều là anh em với nhau.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét