03/04/2016
Chúa Nhật 2 Phục Sinh
Chúa Nhật về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật II Phục Sinh
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH - NĂM C
(Cv 5,12-16; Kh 1,9-11a.12-13.17-19;
Ga 20,19-31)
TIN VÀ LÀM CHỨNG
“Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức
Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh
Người” (Ga
20,31).
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1
Đoạn
sách Công Vụ mô tả tóm tắt hoạt động của các Kitô hữu tại cộng đoàn Giêrusalem
dưới tác động của Chúa Thánh Thần sau khi Đức Giêsu Phục Sinh về trời.
Trước hết, sức mạnh và ân sủng của Đức Kitô Phục Sinh, qua Chúa
Thánh Thần, tác động trên các Tông Đồ khiến họ có khả năng làm được những dấu lạ
và chữa bệnh. Quả vậy, trước khi về trời, Đức Kitô Phục Sinh đã hứa ban cho các
Tông Đồ quyền trừ quỷ và chữa bệnh, theo đó “nếu họ đặt tay trên những người
bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ” (Mc 16,18). Giờ đây, khi Đức Kitô Phục
Sinh đã về trời, các Tông Đồ thực thi quyền chữa bệnh bằng việc đặt tay trên
bệnh nhân. Việc đặt tay chữa bệnh không do tự khả năng của các Tông Đồ nhưng là
thừa hành quyền được trao phó cho họ nhờ sức mạnh Thánh Thần và nhân danh Đức
Kitô Phục Sinh (x. Cv 3,6; 16,18).
Sau
nữa, Đức Kitô Phục Sinh còn là điểm nối kết các tín hữu sơ khai, biến họ trở
nên chứng nhân cho Người. Thật vậy, Đức Kitô Phục Sinh đã quy tụ các tín hữu
nhát đảm, rời rạc thành một cộng đoàn “đồng tâm nhất trí”, không chỉ trong việc
cầu nguyện, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và chia sẻ của cải (x. Cv 3,42-46;
4,32-35), mà còn trong việc làm chứng cho Người. Khi nhìn vào đời sống hiệp
nhất và đoàn kết của các tín hữu, toàn dân nể phục và ca tụng họ. Đời sống hiệp
nhất “một lòng một ý”, cả tinh thần lẫn vật chất, là lời chứng hùng hồn về niềm
tin vào Đức Kitô Phục Sinh. Nhờ sức mạnh của Thánh Thần (x. Cv 4,33; 5,32), lời
chứng của các Kitô hữu đã thuyết phục được nhiều người tin theo Đức Kitô (x.
4,5; 5,14; 13,12; 14,1; 15,7).
2. Bài đọc 2
Tác
giả đoạn sách Khải Huyền giới thiệu danh tính và hoàn cảnh của mình, đồng thời
mô tả thị kiến trong đó tác giả được Con Người mạc khải và truyền lệnh hãy viết
những gì được chứng kiến.
Trước
hết, tác giả giới thiệu về mình như là một “người anh em”, được cùng chia sẻ nỗi
gian truân và kiên trì chịu đựng trong Đức Giêsu, để rồi cùng được hưởng vương
quốc. Tác giả đang bị tù đày tại đảo Pátmô vì “đã rao giảng lời Thiên Chúa và
lời chứng của Đức Giêsu Kitô” (Kh 1,9). Như thế, khi bị giam cầm vì Đức Kitô và
vì Tin Mừng, tác giả cho thấy mình đồng cảnh ngộ với các Kitô hữu đang gặp gian
nan, thử trách vì đức tin, nên có đủ tư cách để khích lệ các Kitô hữu kiên trì
giữ vững đức tin.
Hơn
nữa, tác giả không dựa theo ý riêng của mình để viết, nhưng dựa vào lệnh truyền
của Đức Giêsu, Đấng đã hiện ra với ông trong thị kiến vào “ngày của Chúa”, tức
ngày Đức Giêsu Phục Sinh. Quả vậy, từ hình ảnh lờ mờ về “Con Người” trong sách
ngôn sứ Đanien (Đn 7 và 10), tác giả xác định “Con Người” này chính là Đức
Kitô, Đấng vừa là tư tế, mặc áo chùng và đứng giữa các cây đèn (x. Xh 28,4;
29,5), vừa là vương đế, thắt đai bằng vàng (x. 1Mcb 10,89; 11,58). Chính Đức
Kitô Phục Sinh, là tư tế và quân vương, truyền lệnh cho tác giả hãy viết ra
“những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này” (Kh
1,19), nên những gì được viết ra là những lời đáng tin cậy.
Sau
cùng, đứng trước mặc khải lớn lao, tác giả thấy mình nhỏ bé, yếu đuối và sợ
hãi. Tuy vậy, ông được khích lệ hãy can đảm để làm chứng về những điều mình
thấy vì “Con Người” này chính là Đấng đã chết nhưng nay đang sống, Đấng là “Đầu
và là Cuối”. Lời chứng của tác giả khích lệ các Kitô hữu đang bị bách hại hãy
vững tin và nhẫn nại sống chứng tá cho Đức Kitô vì Người là Đấng đã chiến thắng
ma quỷ, tội lỗi và sự chết. Người đã trải qua đau khổ mới đến vinh quang nên
những khó khăn, bách hại hiện tại là con đường dẫn đến gặp Đức Kitô, Đấng đã
chết nhưng nay là sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu.
3. Bài Tin Mừng
Đoạn
Tin Mừng chia làm hai phân cảnh. Phân cảnh thứ nhất nói về việc Đức Giêsu Phục
Sinh hiện ra với các môn đệ trong lúc các ông đang hoang mang sợ hãi. Qua cuộc
hiện ra này, tác giả Tin Mừng thứ tư muốn làm nổi bật bốn yếu tố sau.
Thứ
nhất, Đức Giêsu hiện ra để chứng minh cho các môn để tin rằng Người chính là
Đấng đã chịu đóng đinh, chịu chết nhưng nay đã phục sinh. Người cũng chính là
Đấng đem lại “bình an” và “niềm vui” cho các môn đệ như lời Người đã hứa (x. Ga
16,20).
Thứ
hai, Đức Giêsu Phục Sinh sai các môn đệ đi rao giảng. Tin Mừng thứ tư nhiều lần
nhấn mạnh rằng Đức Giêsu chính là Đấng mà Chúa Cha sai đến. Và trong lời nguyện
hiến tế, Đức Giêsu hé lộ cho biết rằng một trong những mục đích của Người là
sai các môn đệ ra đi rao giảng (Ga 17,18). Giờ đây, sau khi phục sinh, Người
hoàn tất điều đã tiên báo khi sai các môn đệ ra đi để tiếp tục sứ mạng mà Người
đã lãnh nhận từ Chúa Cha.
Thứ
ba, Đức Giêsu Phục Sinh ban Thánh Thần cho các môn đệ. Trong khi theo truyền
thống Luca, các môn đệ phải chờ đợi một thời gian khoảng năm mươi ngày mới được
đón nhận ơn Thánh Thần, thì Tin Mừng Gioan nhấn mạnh việc Thánh Thần được ban
cho các môn đệ gần như ngay sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh. Việc sai các môn đệ
ra đi rao giảng cần đi kèm với ơn Thánh Thần vì chính Thánh Thần là sức mạnh
giúp các ông can đảm làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh.
Thứ tư, các môn đệ được Đức Giêsu Phục Sinh ban cho quyền tha
tội. Đức Giêsu được Gioan Tẩy Giả giới thiệu là “Đấng
xóa bỏ tội trần gian” (Ga
1,29) và việc tha tội là một phần sứ mạng của Người. Nay, Người ban cho các môn
đệ, và qua đó cho Hội Thánh, quyền tha tội để tiếp nối sứ mạng của Người.
Phân
cảnh thứ hai nói về việc Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra để củng cố đức tin cho
thánh Tôma và qua ngài, chúc phúc cho những ai không được thấy mà vẫn vững tin
vào Người.
Trước
hết, như các Tông Đồ khác, thánh Tôma cũng muốn được chứng kiến tận mắt, sờ tận
tay Đức Kitô Phục Sinh, và ngài đã được toại nguyện khi Đấng Phục Sinh đáp ứng
tất cả những điều ngài mong muốn. Việc thánh Tôma tuyên xưng đức tin là hệ quả
tất yếu của một tiến trình kiểm chứng và xác thực bằng các giác quan. Thánh
nhân không thể không tuyên xưng khi mọi sự đã quá rõ ràng.
Hơn
nữa, thánh Tôma đã đi từ trạng thái nghi ngờ đến sự xác quyết mạnh mẽ và chắc
chắn, dựa trên những bằng chứng hiển nhiên xác thực. Và cũng giống như các Tông
Đồ khác, thánh nhân đã dùng cả cuộc đời và mạng sống của mình để làm chứng cho
điều mình xác quyết. Vì thế, lời chứng đầy xác thực của thánh nhân có giá trị
thuyết phục cho những ai đang tìm kiếm đức tin. Quả vậy, Đức Kitô chúc phúc cho
những ai không được chứng kiến tận mắt, sờ tận tay, nhưng chỉ nhờ lời chứng của
các Tông Đồ, cách riêng của thánh Tôma, mà tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.
Sau cùng, tác giả Tin Mừng thứ tư còn cho thấy hiệu quả của việc
tin vào Đức Giêsu. Thật vậy, Tin Mừng Gioan nhiều lần quả quyết rằng đức tin
vào Đức Giêsu mang lại cho con người sự sống đời đời (x. Ga 3,15-16.36;
6,40.47; 11,15; 20,31). Đối với tác giả Tin Mừng thứ tư, mục đích của tất cả
những gì được viết ra là để nhằm cho người ta “tin Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà
được sự sống nhờ danh Người” (Ga
20,31). Sự sống nhờ danh Đức Giêsu là sự sống vĩnh cửu của Đấng đã chiến thắng
sự chết và tất cả những người tin vào Người đều được chia sẻ sự sống thần linh
với Người.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG
1/ Đức
Kitô Phục Sinh trao cho các Tông Đồ năng quyền chữa bệnh, nhờ ơn Thánh Thần ban
cho họ. Chính Thần Khí của Đức Kitô Phục Sinh cũng nối kết các Kitô hữu nên
“đồng tâm nhất trí” trong việc sống và làm chứng cho Đấng Phục Sinh. Nhờ ơn
Thánh Thần ban cho tôi qua Bí trích Rửa tội, Đức Kitô Phục Sinh cũng mời gọi
tôi tiếp nối sứ mạng chữa lành những tâm hồn mệt mỏi, đau khổ, chán nản và thất
vọng. Đồng thời, Thần Khí của Đức Giêsu Phục Sinh cũng liên kết tôi nên “một
lòng một ý” với tất cả các chi thể của Chúa Kitô để làm chứng cho Người bằng
lối sống đoàn kết, yêu thương, chia sẻ và cầu nguyện.
2/ Tác
giả sách Khải Huyền tự thấy mình là một người anh em yếu đuối trong cảnh tù đày
vì đã rao giảng và làm chứng về Đức Giêsu.Nhưng ngài được Đấng Phục Sinh mạc
khải và mời gọi hãy tiếp tục can đảm làm chứng cho Người vì Người chính là Đấng
đã chết mà nay đang sống, là Đấng là khởi đầu và cùng đích mọi sự. Con đường
Giêsu mà tôi chọn dù khởi sự có chông gai, khó khăn thế nào rồi cũng sẽ dẫn đến
vinh quang sự sống trong Đức Kitô Phục Sinh, Đấng đã chết và sống lại vì tôi và
cho tôi (x. 2 Cr 5,15). Tôi có sẵn sàng và can đảm làm chứng cho Đấng đã dám
chết và sống lại cho tôi?
3/ Đức
Giêsu Phục Sinh mang lại bình an và niềm vui cho các môn đệ. Người cũng ban cho
các ông ơn Thánh Thần và quyền tha tội để các ông tiếp tục làm chứng cho Người.
Để có thể làm chứng cho Người, điều kiện căn cốt đối với các môn đệ là tin vào
Đức Kitô Phục Sinh. Thánh Tôma đã thấy và đã tin; đức tin được kiểm chứng cách
rõ ràng của ngài là bằng chứng xác thực và là nền tảng căn bản cho đức tin vào
Đức Kitô Phục Sinh. Tôi được Chúa Kitô chúc phúc khi tin vào lời chứng sống
động của các môn đệ và tôi cũng được mời gọi làm chứng cho đức tin vào Người,
một đức tin đem lại cho sự sống thần linh của Đấng Phục Sinh.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Đức Kitô
Phục Sinh đã hiện ra với các môn đệ để củng cố niềm tin và ban quyền lực Thánh
Thần cho các ông. Người vẫn luôn hiện diện và nâng đỡ sứ vụ của Giáo Hội qua
mọi thời đại. Trong Chúa Nhật kính Lòng Chúa Thương Xót hôm nay, chúng ta cùng
hân hoan ca tụng Chúa và dâng lời cầu nguyện:
1. “Như
Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.” Chúng ta cùng cầu xin cho Đức Giáo
Hoàng Phanxicô, các Đức Giám mục và hàng Linh mục được tràn đầy sức mạnh và ơn
khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, để các ngài chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng
cứu độ và làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh trong thế giới hôm nay.
2. Chúa
nói với ông Tôma: “chớ cứng lòng, nhưng hãy tin.” Chúng ta cùng cầu xin cho con
người thời đại hôm nay đang bị lôi kéo bởi chủ nghĩa hưởng thụ duy vật chất mà
chối bỏ Thiên Chúa, được lòng thương xót của Thiên Chúa chinh phục và biến đổi,
luôn kiếm tìm và tin nhận Chúa là nguồn hạnh phúc đích thực của cuộc đời.
3. “Phúc
cho những ai đã không thấy mà tin!” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi kitô hữu,
cách riêng cho những ai đang gặp khó khăn thử thách trong cuộc sống, luôn vững
tin vào lòng Chúa thương xót, được tràn đầy bình an và sức sống của Chúa Kitô
phục sinh, hầu can đảm sống đức tin giữa những nghịch cảnh của cuộc đời.
4. Các
tông đồ đã hăng hái làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh và trở nên dấu chỉ của
lòng thương xót. Chúng ta cùng cầu xin cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta
cũng biết nỗ lực làm chứng cho Chúa bằng đời sống bác ái và gương lành, hầu cho
nhiều người ngày hôm nay nhận biết và tin tưởng vào lòng thương xót.
Chủ tế: Lạy Đức Kitô Phục Sinh là hiện
thân lòng thương xót của Thiên Chúa, xin nhận lời chúng con cầu nguyện và làm
cho hiệu quả của mầu nhiệm Phục Sinh chúng con đang cử hành đem lại hoa trái
dồi dào trong cuộc sống chứng tá của chúng con. Chúa hằng sống và hằng trị muôn
đời.
"Các môn đệ vui mừng
vì được thấy Chúa"
(Ga 20,20)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Các
môn đệ đang sợ hãi giam mình trong phòng kín, nhưng khi gặp thấy Chúa Giêsu
phục sinh thì các ông vui mừng. Chúa Giêsu phục sinh cũng đang ở giữa chúng ta.
Vậy chúng ta hãy vui mừng cùng Ngài dâng lễ tạ ơn lên Thiên Chúa là Cha toàn
năng của chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
-
Chúa Giêsu phục sinh là bảo đảm cho chiến thắng của sự thiện trên sự ác. Nhưng
chúng ta chưa xác tín điều ấy nên chưa tích cực chiến đấu chống lại sự ác.
-
Chúa Giêsu phục sinh luôn hiện diện bên cạnh chúng ta. Nhưng chúng ta thường
quên điều đó nên sống và làm việc như không có Ngài bên cạnh.
-
Chúa Giêsu phục sinh là nguồn gốc và nền tảng của vui mừng và bình an. Nhưng
chúng ta thường để mình bị giao động bởi những buồn phiền lo lắng thế tục.
III. Lời Chúa
1. Bài
đọc I (Cv 5,12-16)
Trích
đoạn này từ sách Công vụ cho thấy hai tác động lớn của việc Chúa Giêsu phục
sinh trên các tông đồ : (1) Chúa đã thông ban cho các ngài quyền năng đến
nỗi có thể làm nhiều phép lạ ; (2) Chúa làm cho uy tín các ngài tăng cao
trước các tín hữu và cả những người lương.
2. Tin
Mừng (Ga 20,19-31)
Hai
lần hiện ra cách nhau 8 ngày này nhằm những mục tiêu sau :
-
Chúa Giêsu nâng đức tin của các một đệ lên một bậc : từ mức độ thấp là tin
dựa vào bằng chứng mà giác quan kiểm nghiệm được (câu 20 "Ngài cho các ông xem tay
và cạnh sườn Ngài" ; câu 25, Tôma đòi điều kiện "Nếu tôi không thấy dấu
đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và
không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài...) lên mức độ cao là tin
chỉ vì nghe bởi vì mình đã an tâm về uy tín của người nói cho mình nghe (câu
29 : "Phúc cho những ai không thấy mà tin")
-
Chúa Giêsu ban bình an cho các môn đệ để rồi các ông lại ban bình an cho người
khác qua việc tha tội. Sự bình an này là hoa trái của Thánh Thần, và đặt nền
tảng trên việc tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
4. Bài
đọc II (Kh 1,9-13.17-19)
Thị
kiến đầu tiên trong sách Khải huyền :
-
Hoàn cảnh của người được thấy thị kiến : Thánh Gioan Tông đồ đang sống
trong cảnh gian truân vì bị bắt bớ : "Tôi cùng chia xẻ nỗi gian
truân… cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Chúa Giêsu. Lúc ấy tôi đang ở
đảo gọi là Pátmô vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và lời chứng của Chúa
Giêsu".
-
Thị kiến nhằm an ủi và khích lệ kẻ đang bị bắt bớ : "Đừng sợ… Ta là Đấng hằng sống. Ta đã chết và nay Ta sống đến
muôn thuở muôn đời ; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ"
IV. Gợi ý giảng
1. Đấng
chữa lành vẫn còn mang thương tích
Khi
hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu phục sinh vẫn còn mang những thương tích của
cuộc thụ nạn. Điều này có ý nghĩa gì ? Câu chuyện sau đây có thể cung cấp
vài tiêu điểm giúp chúng ta tìm hiểu.
Chuyện
kể về một góa phụ lao động ở thành phố New York. Trong khoảng thời gian 6 năm,
bà đã chứng kiến cảnh 3 đứa con của mình bị bắn chết, đứa nhỏ nhất bị bắn ngay
trước cửa nhà bà. Những cảnh ấy đã để lại một vết thương sâu đậm trong lòng bà,
và vết thương ấy cứ như sống lại làm bà nhức nhối mỗi lần bà nghe tin có một ai
đó bị giết chết. Tuy nhiên bà không để mình bị trói buộc trong nỗi sợ hãi. Trái
lại bà tìm cách đến với người khác. Bà đi diễn thuyết khắp nơi và trở thành một
nhà hùng biện tranh đấu cho việc kiểm soát vũ khí. Bà lập một hiệp hội gồm
những phụ nữ cùng hoàn cảnh với Bà. Mỗi khi có một đứa con bị giết chết, bà đến
thăm và an ủi cha mẹ chúng. Bà cho biết ban đầu bà ước sao cho những đứa trẻ vô
tội ấy đừng sinh ra còn hơn. Nhưng bây giờ thì bà nói : "Hẳn nhiên
trong cái chết của chúng có một nỗi buồn phiền, thế nhưng cũng có một niềm vui
không thể tin được. Nếu tôi đã không có 3 đứa con bị giết thì tôi đã không là
một con người như hôm nay. Chúng giúp tôi mạnh mẽ, chúng giúp tôi sống không
ích kỷ". Khung cửa nhà bà vẫn còn lại những vết đạn đã bắn chết đứa con út
của bà. Tuy nhiên bà không cho sửa lại khung cửa ấy. Tại sao ? Bà nói
"Tôi muốn những lỗ đạn ấy còn mãi ở đấy để nhắc cho mọi người nhớ là có
người đã bị giết chết ngay chỗ ấy. Nếu sửa lại thì người ta sẽ quên".
"Khi
sửa lại thì người ta sẽ quên". Có lẽ đó là lý do tại sao Chúa Giêsu phục
sinh vẫn giữ lại những vết thương của cuộc chịu nạn. Trước hết, những vết
thương ấy giúp các môn đệ nhận ra Ngài : Đấng hôm nay chiến thắng sự dữ
vẫn là một với Đấng hôm trước đã chịu nạn chịu chết để nhờ đó Thiên Chúa chiến
thắng cái chết. Thứ hai, những vết thương ấy là bằng chứng tình yêu của Ngài.
Chúa Giêsu không chỉ nói suông về tình yêu, Ngài đã chịu đau khổ để làm chứng
cho tình yêu. Đó là những thương tích mà Người mục tử chịu đựng để bảo vệ đàn
chiên yêu quý của mình.
Chúa
Giêsu không dấu những thương tích. Ngài cho Tôma thấy và mời ông chạm vào. Khi
Tôma chạm vào đấy, nỗi hoài nghi của ông tan biến và đức tin của ông sống lại.
Những
thương tích thánh thiện của Chúa Giêsu là nguồn an ủi, nguồn can đảm và nguồn
hy vọng của chúng ta. Chúng giúp ta chịu đựng đến cùng những thương tích của
chúng ta. Chúng bảo ta đừng sống ích kỷ. Nhờ những thương tích của Ngài, chúng
ta được chữa lành khỏi chứng bệnh tự thương xót mình và mặc cảm là nạn nhân.
Người
ta có khuynh hướng che dấu những thương tích vì nghĩ rằng người khác mà thấy
được sự yếu ớt của mình thì sẽ không còn kính trọng mình. Tuy nhiên những kẻ
dám cho người khác biết những cuộc chiến đấu của mình thì sẽ là một nguồn an ủi
cho người khác. (FM)
2. Tần
số tình yêu
Người
Cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh của thành phố. Đứa bé
chỉ ngọn tháp cao vút hỏi người cha :
- Ba
ơi ! Cái tháp đó để làm gì vậy ?
Người
cha giải thích :
-
Con ạ ! Đó là ăng-ten của đài phát thanh, hàng giây hàng phút nó phát đi
những tin tức, âm nhạc và các chương trình hữu ích cho đại chúng.
-
Nhưng thưa ba, con có nghe thấy gì đâu !
-
Muốn nghe được những thông tin và các chương trình bổ ích đó, con chỉ cần có
một cái máy thu thanh thật tốt, mở đúng tần số là con sẽ nghe rõ ràng, như cha
con mình đang nói chuyện với nhau đây !
*
Chiều
Phục Sinh đầu tiên, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, vắng mặt Tôma, một con
người thực tế, muốn kiểm chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ thì mới tin. Tám
ngày sau, Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các ông, có cả Tôma. Người gọi đích
danh ông : "Tôma, hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay vào
cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin" (Ga 20,27).
Ông chỉ còn biết run sợ mà thưa với Người : "Lạy Chúa của
con, lạy Thiên Chúa của con" (Ga 20,28).
Tại
sao Gioan chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ trống và tấm khăn liệm xếp gọn gàng là ông
đã tin Thầy sống lại, còn Tôma đã được các môn đệ làm chứng Thầy đã phục sinh
mà ông lại không tin. Vậy điều khác nhau cơ bản giữa Gioan và Tôma chính là
chiếc máy thu thanh của Tôma không mở đúng tần số. Đó là tần số tình yêu, tần
số của con tim. Tôma đòi phải xỏ tay vào lỗ đinh ở chân tay Thầy ông mới
tin ; còn Gioan, không cần thấy Thầy bằng con mắt thịt nhưng bằng con mắt
đức tin, con mắt tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Gioan chạy đến mộ Thầy nhanh
hơn Phêrô, chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra Thầy đầu tiên trên bờ
biển Galilê, chính tình yêu đã làm cho ông trở nên "người môn đệ
Chúa Giêsu thương mến" (Ga 21,7).
Tại
sao Phêrô và Gioan đều thấy ngôi mộ trống và khăn liệm, mà Phêrô thì "rất
đỗi ngạc nhiên"còn Gioan thì "ông đã thấy và ông đã
tin" ? (Ga 20,8). Vì thế, Phêrô phải cố gắng vượt qua những
dấu chỉ khả giác để đến với niềm tin, và Tôma cũng phải vượt qua cái nhìn của
giác quan để đến với cái thấy của đức tin. Nhưng Chúa Giêsu đã nói : "Phúc
thay những người không thấy mà tin !"(Ga 20,29). Đó cũng chính là
phần thưởng của đức tin.
Sở
dĩ Gioan nhận ra sự kiện ngôi mộ trống và khăn liệm như dấu chỉ của sự phục
sinh, là vì ông đã nhớ lại lời Kinh Thánh : "Ngày thứ ba,
(Người) sẽ cho chúng ta chỗi dậy" (Hs 6,2) và phép lạ"ông
Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm" (Ga 2,1). Vâng, chính Kinh
Thánh sẽ soi sáng, hướng dẫn chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa
trong mỗi biến cố hằng ngày.
Niềm
tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của chúng ta hôm nay không phải là một niềm tin mơ
hồ, mà là một niềm xác tín vào lời chứng chắc chắn của các Tông đồ qua Kinh
Thánh. Trong bài giảng đầu tiên của ngày lễ Ngũ Tuần ; Phêrô đứng chung
vớt mười một Tông đồ lớn tiếng tuyên bố rằng : "Chính Chúa
Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại, về điều nầy, tất cả chúng tôi xin làm
chứng" (Cv 2,32). Vâng, chính sự phục sinh của Chúa Giêsu đã bảo
đảm cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô viết : "Nếu Đức
Ki tô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn
còn sống trong tội lỗi của mình" (1Cr 15,17).
*
Lạy
Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu nhiều hơn nữa, để chúng con tin Chúa mãnh
liệt hơn.
Xin
dạy chúng con biết siêng năng suy niệm Lời Chúa, để Lời Chúa mãi là đèn soi cho
chúng con bước, là ánh sáng chỉ đường chúng con đi. Amen. (TP)
3. Bình
an
Sau
khi sống lại, mỗi lần hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu đều chào các ông
"Bình an cho các con". Đây là lời chào thông thường của người Do thái
"Shalom". Giáo hội cũng bắt chước lối chào đó, trong Thánh lễ, Chủ tế
chào giáo dân "Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em", và giáo dân
chào lại "Và ở cùng Cha", nghĩa là "Và cũng xin bình an của Chúa
hằng ở cùng Cha". Xét ra lời chào này hơi lạ so với những kiểu chào mà
chúng ta quen biết, nhưng có ý nghĩa nhiều hơn. Quả thực. Bình an là điều quý
nhất mà chúng ta cần có và cũng là điều tốt nhất mà chúng ta cầu chúc cho nhau.
Nhưng bình an là gì mà quý như vậy ? và làm thế nào để có được bình
an ? Đó là điều mà chúng ta sẽ đưa vào bài Tin Mừng hôm nay để tìm hiểu.
Khi
ấy các môn đệ đang sợ : Thầy đã bị bắt và bị giết chết rồi. Rất có thể tới
phiên các ông cũng sẽ bị bắt và bị giết như vậy. Cho nên họ sợ, và họ trốn
trong nhà đóng kín cửa lại. Rồi Chúa Giêsu hiện đến ở với họ, trò chuyện với
họ, cho họ xem các vết thương, ăn uống với họ, khích lệ họ… Thế là họ không còn
sợ nữa. Họ được bình an. Nhưng do đâu mà họ được bình an ? Có phải là vì
nguy hiểm đã qua đi rồi chăng ? Thưa không, nguy hiểm vẫn còn đó, kẻ thù
vẫn còn vẫn đang tìm cách hãm hại các ông. Nhưng nay họ không sợ nữa là vì họ
biết đã có Chúa ở bên cạnh họ. Có Chúa bên cạnh thì mọi nguy hiểm không còn làm
họ nao núng nữa. Thực ra họ chưa hoàn toàn bình an đâu. Sau khi Chúa Giêsu biến
đi thì họ lại sợ, lại đóng cửa trốn. Có lần họ cũng đánh bạo cùng nhau đi đánh
cá. Nhưng mới thấy có một cái bóng đen tiến đến là họ lại sợ, họ tưởng là ma.
Và khi biết đó là Chúa thì họ lại hết sợ. Mãi tới khi Chúa Giêsu nói với họ
trước khi về trời rằng : "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận
thế", thì họ mới hết sợ hoàn toàn, họ mới hoàn toàn được bình an. Kể từ đó
trở đi, các môn đệ mạnh dạn ra đi rao giảng. Người ta bắt, họ cũng không sợ,
người ta tra tấn, họ không sợ mà còn vui mừng vì được chịu khổ vì Thầy ;
người ta xử tử, họ vẫn bình an vui sướng vì được giống như Thầy.
Như
vậy, Bình an tức là một sức mạnh, một nơi nương tựa, một nguồn an ủi khiến ta
không nao núng sợ sệt dù phải đứng trước bất cứ gian truân nguy hiểm nào. Bình
an ấy có được khi ta ý thức có Chúa vẫn ở bên cạnh mình.
Giống
như một em bé. Em đang chơi vui vẻ thì trời đổ mưa lớn. Sấm chớp ầm ầm, em
hoảng sợ khóc thật lâu. Nhưng mẹ em đã đến, bế em vào lòng, em cuộn mình trong
lòng mẹ và ngủ thiếp đi. Sau đó dù mưa vẫn cứ rơi, sấm chớp vẫn cứ ầm ầm, nhưng
em vẫn ngủ yên vì em đang ở trong vòng tay che chở của mẹ. Đó là một hình ảnh
rất đẹp giúp ta hiểu thế nào là sự bình an.
Phần
chúng ta, nếu chúng ta luôn ý thức có Chúa ở bên cạnh mình, và ta luôn nương
tựa vào Chúa như em bé nương tựa vào mẹ nó thì chúng ta cũng sẽ luôn được bình
an.
Có
một gia đình nọ, nhà nghèo, lao động thật là vất vả, tính toán làm ăn rất là lo
âu. Nhưng chiều về, vợ chồng con cái đều quây quần trước bàn thờ gia đình và
cùng đọc kinh tối chung. Họ dâng lên Chúa những lao nhọc trong ngày, họ xin
Chúa thứ tha những vấp váp lỗi lầm đã phạm, họ phó dâng cuộc sống cùng tất cả
mọi âu lo cho Chúa. Sau đó họ lên giường ngủ. Bình an ! Biết bao gia đình
khác cũng lao động vất vả như họ, cũng lo âu toan tính như họ, nhưng các gia
đình đó không có được một giấc ngủ bình an. Chỗ khác nhau là một bên có Chúa và
biết sống với Chúa, còn một bên thì không.
Hay
như một cụ già kia đang hấp hối, cái chết gần kề mà vẫn bình thản sẵn sàng
buông tay nhắm mắt ra đi không hề sợ sệt, vì cụ già ấy biết rằng mình ra đi là
ra đi trong tay Chúa. Trong khi có biết bao nhiêu người khác đối diện với cái
chết mà lòng hoang mang sợ hãi, họ sợ không dám ra đi, vì họ không biết đi về
đâu, họ không có Chúa cùng đi với họ.
Kinh
nghiệm mà các môn đệ đã trải qua là một bài học quý giá cho chúng ta. Sau khi
Chúa Giêsu bị quân thù bắt giết đi, các ông đã sợ hãi trốn kín trong phòng đóng
cửa lại, sợ vì cảm thấy cô thế không có Thầy nâng đỡ. Nhiều lần chúng ta gặp
cảnh túng thiếu, gian truân, hiểm nguy, chúng ta cũng sợ hãi như thế, chúng ta
muốn rút lui trốn tránh, chúng ta muốn ngã lòng, là vì chúng ta không có Chúa ở
với mình. Nhưng khi các môn đệ đã biết có Chúa ở bên cạnh họ, cho dù Chúa chỉ
hiện diện một cách vô hình sau khi Chúa đã về trời, các ông không còn sợ nữa mà
lòng luôn bình an dù phải đối diện với bất cứ hiểm nguy nào. Thì chúng ta cũng
thế : Chúa hằng ở bên cạnh chúng ta nếu chúng ta ý thức được điều đó, nếu
chúng ta biết tin yêu phó thác vào Chúa và làm việc gì chúng ta cũng nghĩ là có
Chúa cùng làm với chúng ta thì chúng ta cũng sẽ luôn được bình an.
Nguyện
chúc bình an của Chúa hằng ở cùng chúng ta luôn mãi. Amen.
4. Bài
học từ Tôma
Thật
là sai lầm khi tưởng rằng tin là chuyện dễ dàng đối với những kẻ may mắn được
thấy Chúa Giêsu hơn là đối với chúng ta ngày nay. Tin Mừng đã cho thấy có nhiều
người đã được thấy Chúa Giêsu nhưng họ vẫn không tin. Vậy "thấy"
không nhất thiết sẽ dẫn tới "tin". Muốn tin thì phải có một quyết
định.
Thực
thế, các sách Tin Mừng đã kể rằng ngay cả các tông đồ mà cũng gặp khó khăn
trong việc tin. Tôma không phải là người duy nhất đã hồ nghi về việc Chúa Giêsu
sống lại, mọi tông đồ khác cũng thế. Tin Mừng Thánh Mác cô kể rằng khi Chúa
Giêsu hiện ra với họ vào buổi chiều ngày phục sinh thì Ngài đã "trách họ
vì sự không tin và cứng lòng bởi họ đã không tin theo lời của những người đã
từng thấy Ngài sau khi Ngài sống lại" (Mc 16,14)
Chúng
ta có thể thông cảm với các tông đồ. Việc Chúa Giêsu bị đóng đinh quả là một
gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt họ. Họ đã đầu tư rất nhiều vào Ngài. Họ đã bỏ
nghề nghiệp và bỏ hết mọi sự để theo Ngài. Rồi bỗng nhiên Ngài bị giết chết.
Thực tế về cái chết của Ngài càng rõ ràng bao nhiêu thì họ càng cảm thấy mất
mát bấy nhiêu. Giá trị và ý nghĩa của mọi thứ đều bị đe dọa : tình thân
với Ngài, niềm tin vào Ngài, và cả cuộc đời của họ nữa.
Đang
lúc đó thì một chuyện không thể tin được xảy ra : đột nhiên họ nhìn thấy
Ngài đang đứng ở giữa họ. Việc đầu tiên Ngài làm là chỉ cho họ thấy các vết
thương của Ngài. Tại sao Ngài làm thế ? Thứ nhất là vì những vết thương ấy
giúp họ nhận dạng được Ngài, xác định Ngài vẫn là người trước đó đã bị đóng
đinh. Thứ hai là những thương ấy là bằng chứng rằng Ngài yêu thương họ, một
tình yêu chứng tỏ bằng hành động. Kế đó Chúa Giêsu mời họ hãy xem và hãy sờ vào
những vết thương ấy.
Thái
độ của Tôma rất đáng làm gương cho chúng ta. Đó là một thái độ thẳng thắn vì
không dấu diếm nỗi hồ nghi của mình. Hồ nghi thường là dấu chỉ của sự yếu kém.
Khi chúng ta hồ nghi ai thì đồng thời chúng ta cảm thấy như mình có lỗi với
người ấy. Tuy nhiên hồ nghi cũng có thể là một bước khởi đầu tốt, dẫn tới một
sự hiểu rõ hơn và sâu hơn. Đây là trường hợp của Tôma : nhờ hồ nghi nên
sau đó Tôma đã đạt tới một lời tuyên xưng đức tin cao nhất trong sách Tin Mừng
"Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con".
Ở
thế gian này, chẳng có gì là tuyệt đối chắc chắn về những sự thiêng liêng, vì
nếu có thì đâu cần tới đức tin nữa. Những sự tuyệt đối chắc chắn có thể dẫn tới
thái độ ngạo mạn, bất khoan dung và ngu xuẩn. "Người có đức tin mà không
bao giờ cảm thấy hồ nghi thì thực ra không phải là người có đức tin"
(Thomas Merton)
Mỗi
cộng đoàn đều cần có một con người như Tôma, tức là con người dám đặt ra những
câu hỏi mà không ái khác dám đặt ra. Người như thế là người đáng tin, người như
thế còn giúp những khác trở thành những kẻ đáng tin, bởi vì người như thế giúp
cho những người đang tin nhận ra đức tin của họ còn yếu kém lắm, và đồng thời
cũng làm cho những kẻ hồ nghi cảm nhận được nỗi ray rứt khi không có niềm tin.
Sau
khi vượt qua cơn khủng hoảng đức tin, Tôma đã mạnh dạn làm chứng cho Chúa Giêsu
và trở thành một trong những vị thừa sai vĩ đại nhất của Giáo Hội sơ khai. Theo
thánh truyền, ngài đã mang Tin Mừng đến các xứ Ba Tư, Syria và Ấn Độ, nơi ngài
chịu tử đạo. Tôma là vị tông đồ đầu tiên chết vì đức tin.
Chúa
Giêsu mời chúng ta đến gần Ngài trong đức tin và chạm vào các vết thương của
Ngài. Mặc dù chúng ta không thể chạm tới Ngài một cách thể lý, nhưng chúng ta
có thể đến gần Ngài một cách thiêng liêng. Chúa Giêsu cũng mời chúng ta làm
chứng cho Ngài trước mặt những người khác. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho
Chúa Giêsu trở thành hữu hình trong thế giới hôm nay. Đó cũng là nhiệm vụ của
các tông đồ ngày xưa. Ngày xưa khi các tông đồ đã nhìn thấy Chúa rồi thì các
ông cảm thấy được thúc đẩy phải làm cho nhiều người khác cũng biết và tin vào
Ngài.
Thế
giới hôm nay đầy dẫy những hoài nghi và những người không tin. Cách duy nhất
khiến họ tin là làm sao cho họ "thấy" được Ngài, "chạm"
được Ngài nơi những môn đệ của Ngài. Thế nhưng, nếu các môn đệ của Chúa Giêsu
không có những vết thương để chỉ cho người ta thấy và cho người ta chạm vào thì
làm sao mà người ta tin được !
Ước
gì chúng ta được ở trong số những người được Chúa Giêsu công khai chúc phúc
"Phúc cho những ai tuy không thấy mà vẫn tin" (FM)
5. Khủng
hoảng đức tin
Khủng
hoảng đức tin là chuyện thường gặp. Tôma đã gặp, và Tolstoy cũng đã gặp, như
câu chuyện sau đây :
Năm
1879, Tolstoy 51 tuổi. Khi đó ông có đầy đủ mọi lý do để thỏa mãn về đời mình.
Ông đã viết nhiều tác phẩm, đặc biệt hai bộ "Chiến tranh và Hòa bình",
và "Anna Kerenina". Những tác phẩm ấy đã khiến ông nổi tiếng và bảo
đảm cho ông một vị trí nổi bật trong lịch sử văn chương thế giới. Ai cũng công
nhận ông là người có thiên tài và đầy óc sáng tạo. Lẽ ra Tolstoy phải rất hạnh
phúc. Thế nhưng ông lại cảm thấy bất hạnh. Ông thấy đời mình thật vô nghĩa lý.
Một câu hỏi luôn ám ảnh ông : "Liệu trong dời mình có cái gì có ý
nghĩa mà không bị sự chết hủy diệt đi không ?". Khoảng thời gian ấy
thật khủng khiếp đối với Tolstoy, đến nỗi ông đã tính đến việc tự tử. Ông đi
tìm câu trả lời trong mọi lãnh vực kiến thức loài người. Ông tìm kiếm suốt ngày
suốt đêm, giống như một người sắp chết đi tìm đường sống. Nhưng tìm mãi mà ông
chẳng gặp gì cả.
Thế
rồi ông tìm nơi những niềm tin Kitô giáo. Thực ra ông đã được sinh ra và lớn
lên trong đức tin Kitô giáo nhưng ông cũng đã bỏ nó từ lâu, lý do là ông thấy
nó quá vô nghĩa trong môi miệng những người sống ngược hẳn với đức tin của họ.
Tuy nhiên cũng chính đức tin ấy lại thu hút ông khi ông nhìn những tín hữu sống
đức tin ấy. Ông viết : "Tôi đã nghĩ rằng chẳng có sự thật chắc chắn
nào trong đời. Nhưng rồi tôi đã tìm thấy một nguồn sáng chắc chắn, ấy là Tin
Mừng. Tôi đã loá mắt vì sự sáng ngời của Tin Mừng. Những lời dạy của Chúa Giêsu
quả thực là một giáo huấn tinh tuyền nhất và trọn vẹn nhất cho đời sống. Từ
2000 năm nay, những lời dạy cao quý ấy đã tác động lên biết bao người một cách
tuyệt vời không thể tìm được nơi bất cứ ở nào khác. Từ đó một ánh sáng đã bừng
chiếu trong tôi và quanh tôi, và ánh sáng ấy không bao giờ rời xa tôi
nữa".
Có
nhiều người được sinh ra trong đức tin, và trải qua bao năm tháng đức tin ấy
vẫn cứ vững mạnh. Thật là một ơn ban vô cùng quý giá. Nhưng cũng có nhiều người
mà đức tin luôn là một cuộc chiến đấu liên lỉ. Họ phải trải qua những cơn khủng
hoảng đức tin rồi mới có được một đức tin sâu sắc và xác tín.
Nói
cách lý thuyết, chỉ có đức tin mới trả lời được cho những câu hỏi sâu xa về
cuộc đời. Nhưng trên thực tế, chúng ta không nên hy vọng rằng đức tin sẽ giải
quyết hết mọi vấn đề của chúng ta. Không phải chỉ vì chúng ta tin mà chúng ta
có được mọi câu trả lời. Tuy nhiên chúng ta đâu cần biết hết mọi câu trả lời,
vì tin là tín nhiệm chứ không phải là chắc chắn.
Câu
chuyện của văn hào Tolstoy giúp chúng ta nhận thức rằng đức tin được chứa đựng
trong một chiếc bình dễ vỡ như thế nào. Nó cũng giúp ta hiểu thêm rằng đức tin
kitô giáo chủ yếu không phải là tin vào một mớ giáo điều, mà là tin vào một
Đấng đã yêu thương chúng ta – những thương tích của Ngài chứng tỏ điều đó. Hơn
nữa, Thánh Kinh còn cho ta biết điều quan trọng không phải là niềm tin chúng ta
đặt vào Thiên Chúa mà là niềm tin mà Thiên Chúa đặt vào chúng ta. (FM)
6. Chuyện
minh họa
Có
một vị hoàng đế kia trị vì một đất nước giàu có hùng mạnh. Nhưng tâm hồn ông
không thoải mái an vui vì ông luôn bị ray rứt bởi những tội lỗi tàn bạo đã phạm
trong thời quá khứ. Một hôm ông bỏ hoàng cung đi vào rừng, cất một túp lều đơn
sơ. Trong rừng có một vị ẩn sĩ. Nhà vua tìm đến và nói : "Thưa Ngài,
tôi muốn từ bỏ kinh thành ồn ào náo nhiệt vào đây để tìm được một sự bình an
như Ngài đang hưởng". Ẩn sĩ đáp : "Tâu đức vua, ở đây cũng không
hơn gì nơi khác, vì bình an phải ở trong lòng người". Nhà vua trở về lều
mình. Khi thì quỳ gối tha thiết đọc kinh, khi thì thơ thẩn trong rừng, chỉ ăn
lương khô và uống nước lã. Chiều đến nhà vua mệt lả ngả mình xuống đất có trả
một mớ là khô. Nhưng suốt đêm cứ trằn trọc không ngủ được. Sáng hôm sau ông tìm
đến vị ẩn sĩ : "Thưa ngài, lương tâm tôi cắn rứt làm tôi không ngủ
được. Xin ngài nghe lời thú tội của tôi". Ẩn sĩ đáp : "Chỉ có
Thiên Chúa mới có quyền tha tội thôi". Nhà vua cãi : "Nhưng tôi
không nghe được tiếng Chúa". Ẩn sĩ trả lời : "Tiếng Chúa chỉ
nghe được trong thinh lặng, mà thinh lặng chỉ có ngay trong lòng ta. Người nào
chỉ biết kêu cầu than rên rỉ mãi mà không biết thinh lặng lắng nghe thì sẽ
không nghe được tiếng Chúa". Nhà vua trở về. Vài hôm sau ông đến chào vị
ẩn sĩ : "Tôi đã nghe lời ngài, tôi không kêu than rên rỉ nữa mà tập
thinh lặng lắng nghe, và tôi đã được nghe tiếng Chúa. Nhưng đó không như tiếng
loài người, tôi chỉ nhận thấy như một cảm xúc êm dịu là lỗi lầm của tôi đã được
tha thứ. Xin cám ơn ngài, hôm nay tôi sẽ trở về triều đình".
Vài
năm sau nhà vua lại trở vào rừng, và cũng tìm đến vị ẩn sĩ : "Thưa
ngài không bao giờ tôi quên được tâm trạng an bình khi sống trong rừng này. Hôm
nay tôi muốn trở lại đây ít lâu để cầu xin Chúa cất bớt những gánh nặng mà hằng
ngày tôi phải vác". Ẩn sĩ đáp : "Tâu Bệ Hạ, khi chúng ta phàn
nàn với Chúa về các gánh nặng của mình thì cách đáp ứng tốt nhất của Chúa là
không phải cất những gánh nặng đó đi, nhưng là tăng cường đôi vai của ta để ta
có thể vác nổi những gánh nặng đó". Nhà vua thắc mắc : "Nhưng
làm sao biết được Chúa đang tăng cường sức mạnh cho ta ?" Ẩn
sĩ : "Bao lâu ta còn dãy dụa chiến đấu thì ta chưa nhận biết được
điều đó. Cần phải thinh lặng, ngưng chiến đấu mà chờ đợi sự trợ giúp của Chúa
thì khi đó ta mới cảm thấy được bàn tay uy quyền của Chúa đang giúp sức cho
ta". Nhà vua cám ơn lui về. Vài ngày sau trở lại chào biệt vị ẩn sĩ :
"Thưa ngài tôi đã cảm nghiệm rằng Đấng đã làm cho cỏ cây xanh tốt và nuôi
nấng chim trời cũng đang dang tay tăng sức mạnh cho đôi vai tôi. Xin cám ơn
ngài và chào ngài".
Thế
là nhà vua trở về triều đình. Mấy năm sau ông lâm trọng bệnh, sai người đi mời
vị ẩn sĩ đến. Khi ẩn sĩ đến, nhà vua nói : "Thưa ngài đã hai lần ngài
giúp tôi tìm thấy bình an. Bây giờ là lần thứ ba mà cũng là lần chót, vì tôi
sắp từ giã cõi đời này". Ẩn sĩ hỏi : "Bệ Hạ có còn nhớ cái ngày
mà cơn khủng khiếp đầu tiên rời xa Bệ Hạ ?" Vua đáp :
"Không bao giờ tôi quên, đó là ngày tôi biết lắng nghe tiếng Chúa trong
thâm tâm". Ân sĩ hỏi tiếp : "Bệ hạ còn nhớ cái ngày mà cơn khủng
khiếp thứ hai rời xa Bệ Hạ không ?" Nhà vua đáp : "Cũng
không bao giờ quên, đó là ngày tôi biết chờ đợi trong thinh lặng ơn Chúa đến
tăng sức cho tôi". Ẩn sĩ bây giờ cao giọng : "Tâu Bệ Hạ, Bệ Hạ
đã được nghe tiếng Chúa, Bệ Hạ đã được thấy bàn tay Chúa tăng sức cho Bệ Hạ.
Bây giờ Bệ Hạ sắp được chiêm ngưỡng Chúa". Nhà vua sung sướng như đang
mơ : "A, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Chúa. Nhưng làm sao được ?"
Ẩn sĩ giải thích : "Chỉ khi ở trong yên lặng tuyệt đối, khi cái nhìn
của chúng ta không còn nhìn vào cõi đời đầy những sầu thương tang tóc, không
còn ngó nhìn về những tương lai với những ước mơ hay sợ sệt, không còn ngó vào
bên trong mình để ngắm chính cuộc đời mình, mà chỉ nhìn về hướng duy nhất là
Chúa thôi, thì khi ấy chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng Chúa". Nhà vua thì
thầm : "Yên lặng tuyệt đối. Người ta có thể yên lặng tuyệt đối
không ?" Ẩn sĩ đáp : "Ở đời này thì không. Nhưng trong sự
chết thì được". Nhà vua sung sướng thì thầm : "Thế thì tôi muốn
chết". Và ông sai sứ giả đi khắp nơi trong nước ra lệnh cho thần dân đừng
cầu nguyện cho ông khỏi chết nữa. Còn trong phòng của nhà vua thì cả ngày hôm
đó rất yên tĩnh. Khi bình minh ló rạng thì nhà vua ra đi an bình. Cái nhìn của
ông như chìm vào một cõi xa xăm, một nụ cười tươi sáng rạng ngời trên gương mặt
của nhà vua. Ông đã chiếm hữu được sự an bình vĩnh cửu (Vị Ẩn sĩ)
7. Thơ
Tagore
"Vào
hôm thần chết đến gõ cửa, anh sẽ lấy gì biếu hắn hở anh ?
Ồ,
tôi sẽ đặt trước mặt khách cốc rượu đời mình tràn đầy, tôi sẽ chẳng chịu để
khách ra đi tay không.
Lúc
năm tháng đời tôi khép lại, khi thần chết đến gõ cửa mời đi, tôi sẽ đặt trước
hắn tất cả trái nho thơm dịu của những ngày mùa thu, những đêm mùa hè, những gì
kiếm được, những gì chắt chiu trong suốt cuộc đời cực nhọc.
Ôi
thần chết, ngươi làm cuộc đời tràn đầy lần cuối. Thần chết của ta ơi, hãy lại
và thì thầm cùng ta chứ (…)
Tôi
biết ngày ấy thế nào cũng đến, lúc tôi nhắm mắt thôi không nhìn trái đất này,
rồi cuộc đời sẽ thầm lặng ra đi, kéo manh che kín mắt tôi lần cuối (…)
Khi
tôi nghĩ đến phút giây cuối cùng ấy (…) nhờ ánh sáng lâm chung tôi thấy thế
giới Ngài trần trề châu ngọc. Ở đó, chỗ nương thân tầm thường nhất cũng thú vị,
ở đó cuộc đời hèn mọn nhất cũng thơm tho (…)
Tôi
đã được phép giã từ. Chúc tôi ra đi may mắn nhé, anh em ! Tôi cúi đầu chào
tất cả trước khi lên đường !"
V. Lời nguyện cho mọi
người
Chủ
tế : Anh chị em thân mến, Đức Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Chúng ta hãy tôn vinh Người và dâng lời cầu xin :
1. Chúa luôn hiện diện
trong Hội thánh cho đến ngày tận thế / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các
giám mục / linh mục / phó tế / biết luôn chu toàn sứ mạng dẫn
dắt Dân Chúa trên con đường lữ thứ trần gian.
2. Khát vọng sâu xa nhất
của hết thảy mọi người trên trái đất này / là được sống trong hòa bình và
thịnh vượng / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho thế giới được bình
an / và mọi người thoát được cảnh đói nghèo.
3. Khi sống lại từ cõi
chết / Chúa đem niềm hy vọng đến cho những ai tin Chúa / Chúng ta
hiệp lời cầu xin Người thương nâng đỡ những kẻ tật nguyền đau yếu / cho họ
mau bình phục / để họ sống mạnh khỏe an vui.
4. Lạy Chúa / Lạy
Thiên Chúa của con / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng
ta / cũng biết noi gương thánh Tôma mà tuyên xưng niềm tin của mình /
bằng đời sống mến Chúa yêu người.
Chủ
tế : Lạy Chúa Giêsu, sau khi Phục sinh vinh hiển, Chúa đã hiện ra cho các
tông đồ được thấy tỏ tường. Xin củng cố niềm tin còn quá yếu kém của chúng con.
Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Chúc
bình an : Khi Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, Ngài đã
chúc bình an cho họ. Giờ đây, trong niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh, chúng ta
cũng hãy chúc cho nhau được bình an.
VII. Giải tán
Chúa
Giêsu phục sinh đã mang lại bình an cho những kẻ tin Ngài. Chúc anh chị em ra
về và luôn sống trong bình an của Chúa.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật II Mùa Phục Sinh (C) Kính Lòng Thương Xót Chúa
Chúa Nhật, 3 Tháng 4, 2016
Sứ vụ của các môn đệ và
lời chứng của tông đồ Tôma
Ga 20:19-31
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Cha, trong Chúa Nhật hôm nay con cái Cha đang tề
tựu để ca tụng Đấng là Trước Hết mọi sự và là Sau Hết mọi loài, Đấng Hằng Sống
đã chiến thắng sự chết, xin ban cho chúng con sức mạnh của Chúa Thánh Linh,
Đấng đã chế ngự được sự dữ, làm trầm tĩnh các nỗi lo sợ và do dự của chúng con,
để chúng con có thể mạnh dạn đáp trả với sự vâng lời và lòng yêu mến của chúng
con, Đấng ngự trị trong vinh quang với Đức Kitô.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Chúng ta đang ở trong “cuốn sách nói về sự phục sinh”,
trong đó chúng ta được cho biết, không nhất thiết theo một thứ tự lý lẽ nào,
một số vấn đề liên quan đến Đức Kitô phục sinh và đã được chứng minh là có
thật. Trong quyển Tin Mừng thứ tư, những sự kiện này đã được xảy ra vào buổi
sáng (20:1-18) và buổi tối ngày đầu tiên sau ngày Thứ Bảy, và tám ngày sau đó,
tại cùng một địa điểm và cùng một ngày trong tuần. Chúng ta đang đứng
trước một sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử loài người, một sự kiện thách
đố từng cá nhân chúng ta. “Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì việc rao
giảng của chúng tôi là vô ích và đức tin của anh em cũng trống rỗng … và anh em
vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1Cr 15:14,17) như thánh Phaolô tông đồ
đã nói, ông đã không biết Đức Giêsu trước khi Người sống lại, nhưng lại là
người sau này đã hăng say rao giảng trọn cả quãng đời còn lại của ông.
Chúa Giêsu đã được sai đi bởi Đức Chúa Cha. Và Người cũng sai chúng ta.
Sự sốt sắng của chúng ta để “đi” đến từ chiều sâu đức tin mà chúng ta có nơi Đấng
Đã Sống Lại Từ Cõi Chết. Chúng ta có sẵn sàng để nhận lãnh “sự ủy thác”
của Người và dâng hiến cuộc đời chúng ta cho Nước Trời của Người chưa?
Đoạn Tin Mừng này không chỉ nói về đức tin của những kẻ không thấy mà tin (lời
chứng của thánh Tôma), mà còn nói về sứ vụ được ủy thác cho Giáo Hội bởi Đức
Kitô.
b) Phân đoạn bài Tin Mừng để
trợ giúp cho bài đọc:
Ga 20:19-20: Chúa hiện ra với các môn đệ và cho
các ông xem những vết thương
Ga 20:21-23: Ân sủng của Chúa Thánh Thần cho sứ
vụ
Ga 20:24-26: Việc Chúa hiện ra đặc biệt cho ông
Tôma tám ngày sau đó
Ga 20:27-29: Cuộc đối thoại của Chúa với ông
Tôma
Ga 20:30-31: Mục đích Tin Mừng theo thánh Gioan
c) Tin Mừng
19 Vào buổi chiều ngày
thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do
Thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho các
con”. 20 Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và
cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. 21 Chúa
Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã
sai Thầy, Thầy cũng sai các con “. 22 Nói thế rồi, Người
thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, 23 các
con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội
người ấy bị cầm lại”.
24 Bấy giờ trong mười hai
tông đồ, có ông Tôma goi là Điđymô, không cùng ở với các ông, khi Chúa Giêsu
hiện đến. 25 Các môn đệ khác đã nói với ông rằng:
“Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia
rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc
ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi
không tin”.
26 Tám ngày sau, các môn
đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn
đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. 27 Đoạn
Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy;
hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. 28 Tôma
thưa rằng: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!” 29Chúa
Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin.
Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
30 Chúa Giêsu còn làm
nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này; 31 nhưng
các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, con
Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
3. Giây phút thinh lặng
Để cho Lời Chúa đi vào trong tâm hồn chúng ta
4. Suy
niệm
a) Một vài câu hỏi gợi ý để giúp
cho việc suy niệm của chúng ta:
Người nào hoặc điều gì trong bài Tin Mừng đã tạo cho
tôi sự chú ý và thắc mắc? Có thể nào một người tự nhận là Kitô hữu mà lại
chưa tin vào sự Phục Sinh của Chúa Giêsu được chăng? Việc tin vào sự phục
sinh quan trọng đến mức như thế sao? Chuyện gì sẽ thay đổi nếu chúng ta
dừng lại ở giáo lý của Chúa và làm chứng nhân cho đời? Ân sủng của Chúa
Thánh Thần cho sứ vụ mang ý nghĩa gì đối với tôi? Sứ vụ của Đức Giêsu
trên thế gian sau khi Chúa Phục Sinh đã được tiếp tục như thế nào? Nội
dung của việc công bố sứ vụ truyền giáo là gì? Việc làm chứng của ông
Tôma mang một giá trị gì đối với tôi? Tôi có sự nghi ngờ nào về tín lý
không? Nếu có, đó là những điều gì? Tôi sẽ đối diện và vượt qua
những nghi ngại ấy bằng cách nào? Tôi có khả năng đưa ra những lý lẽ cho đức
tin của tôi không?
b) Lời chú giải:
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần: Các môn đệ đang
trải qua một ngày đặc biệt. Đối với cộng đoàn giáo hữu, vào lúc quyển Tin
Mừng thứ tư được viết, ngày sau ngày Sabbát đã là “ngày của Chúa” (Kh 1:10),
Chúa Nhật (Dies Domini), và nó còn quan trọng hơn cả ngày Sabbát trong
truyền thống của người Do Thái.
Những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng
kín: Một chi tiết cho thấy rằng thân thể của Đức Giêsu phục sinh, dù rằng
vẫn có thể nhận ra, đã không bị chi phối bởi các điều kiện vật lý như người
phàm.
Bình an cho các con: Đây không phải
là một lời chúc tụng, nhưng đó chính là sự bình an thực sự đã được hứa hẹn với
các ông khi các ông buồn rầu vì sự ra đi của Chúa (Ga 14:27; 2Tx 3:16; Rm 5:3),
sự bình an cứu chuộc, việc hoàn thành các lời hứa của Thiên Chúa, giải thoát khỏi
mọi sợ hãi, chiến thắng tội lỗi và sự chết, giao hòa với Thiên Chúa, hoa trái
của cuộc khổ nạn của Người, tặng phẩm cho không của Thiên Chúa. Sự bình
an này được lặp lại ba lần trong đoạn Tin Mừng này cũng như trong phần dẫn nhập
(20:19) và tiếp theo sau đó (20:26) trong cùng một thể cách.
Người cho các ông xem tay và cạnh sườn
Người: Chúa Giêsu cung cấp bằng chứng hiển nhiên và cụ thể rằng chính
Người là kẻ đã bị đóng đinh trên thập giá. Chỉ có thánh sử Gioan đã ghi
lại chi tiết về vết thương nơi cạnh sườn Người là do ngọn giáo của một tên lính
La-mã đâm vào, trong khi ấy Phúc Âm của Luca lại nhắc đến vết thương nơi chân
(Lc 24:39). Khi cho các môn đệ xem các vết thương, Chúa Giêsu muốn nói
rằng sự bình an mà Người ban cho các ông đến từ cây thập giá (2Tm
2:1-13). Những vết thương này là một phần căn tính của Người là Đấng đã
Sống Lại từ cõi chết (Kh 5:6).
Các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa: Niềm vui mừng
này giống như niềm vui mừng được diễn tả bởi tiên tri Isaia khi ông mô tả về
bữa tiệc của Thiên Chúa (Is 25:8-9), nỗi vui ngày tận thế đã được báo trước
trong lời từ biệt và rằng không ai có thể cất đi được (Ga 16:22, 20:27).
(Xin xem thêm Lc 24:39-40; Mt 28:8; Lc 24:41).
Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các
con: Chúa Giêsu là nhà truyền giáo đầu tiên, “chúng tôi tuyên xưng là vị
tông đồ và thày cả của đức tin” (Kh 3:1). Sau khi trải qua kinh nghiệm
của thập giá và sự phục sinh, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cùng Chúa Cha đã
trở thành sự thật (Ga 13:20; 17:18; 21:15,17). Đây không phải là một sứ
vụ mới, nhưng là sứ vụ của Đức Giêsu mở rộng đến những ai là môn đệ của Người,
gắn liền với Người như các cành nho gắn liền với cây nho (15:9), vì thế họ cũng
gắn liền với Giáo Hội của Người (Mt 28:18-20; Mc 16:15-18; Lc 24:47-49).
Con Thiên Chúa hằng sống đã được sai đến để “thế gian, nhờ Người, mà được cứu
độ” (Ga 3:17) và tất cả sự hiện diện của Người trên thế gian này, đã được xác
định đầy đủ với ý định cứu chuộc của Chúa Cha, là sự biểu hiện liên tục về
thánh ý của Chúa là tất cả được cứu rỗi. Người để lại dự án lịch sử này như một
di sản cho toàn thể Giáo Hội và, đặc biệt là những thừa tác viên đã được tuyển
chọn trong Giáo Hội.
Người thổi hơi vào các môn đệ: Cử chỉ này gợi
nhớ lại việc Thiên Chúa đã thổi hơi ban sức sống vào con người (St 2:7), điều
này đã không thấy xảy ra bất cứ nơi nào khác trong Tân Ước. Nó đánh dấu
sự bắt đầu của một tác tạo mới.
Hãy nhận lấy Thánh Thần: Sau khi Đức
Giêsu đã được tôn vinh, Thần Khí Chúa đã được trao ban (Ga 7:39). Ở đây
Thần Khí Chúa được truyền đến cho một sứ vụ đặc biệt, trong khi tại ngày Lễ Ngũ
Tuần (Cv 2) Chúa Thánh Thần hiện xuống trên toàn thể dân Thiên Chúa.
Các con tha tội ai, thì tội người ấy
được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại: Chúng ta cũng
có thể tìm thấy quyền năng tha tội hoặc không tha tội trong sách Phúc Âm của
thánh Mátthêu dưới một hình thức có vẻ pháp lý hơn (Mt 16:19; 18:18).
Theo những người Kinh Sư và Biệt Phái (Mc 2:7), và theo truyền thống (Is
43:25), chỉ có Thiên Chúa là Đấng có quyền tha tội. Chúa Giêsu có quyền
này (Lc 5:24) và truyền nó lại cho Giáo Hội của Người. Trong lúc suy
niệm, tốt hơn hết là chúng ta không nên dừng lại với sự phát triển về thần học
trong giáo hội truyền thống của văn bản này và những cuộc tranh cãi về thần học
theo sau đó. Trong quyển Phúc Âm thứ tư, lời diễn đạt có thể được hiểu
theo một ý nghĩa rộng lớn. Ở đây nó là vấn đề của quyền tha tội trong
Giáo Hội như là cộng đoàn cứu rỗi và một cách đặc biệt cho những ai đã được
thiên phú với quyền lực này là những ai thừa kế và chia sẻ sứ vụ tông đồ.
Trong quyền năng tổng hợp này được bao gồm cả quyền tha tội sau khi đã rửa tội,
điều mà chúng ta gọi là “bí tích hòa giải” được nói đến qua nhiều hình thức
khác nhau trong suốt chiều dài lịch sử của Giáo Hội.
Bấy giờ một trong Nhóm Mười Hai, có ông
Tôma goi là Điđymô: Ông Tôma là một trong những nhân vật chính trong Quyển Phúc Âm thứ
tư và lòng hoài nghi của ông, dễ bị hoang mang nản lòng, đã được làm nổi bật
(11:16; 14:5). “Một môn đệ trong nhóm mười hai” vào lúc này là một lời
nói khuôn sáo (6:71), bởi vì thật ra họ chỉ còn lại mười một người. “Điđymô” có
nghĩa là “Sinh Đôi”, và chúng ta có thể là “anh em song sinh” của ông bởi vì sự
cứng lòng tin của chúng ta vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng đã chết và đã
sống lại.
Chúng tôi đã xem thấy Chúa!: Khi các ông
Anrê, Gioan, và Philípphê đã gặp được Đấng Cứu Thế, họ liền chạy đi báo tin cho
các người khác (Ga 1:41-45). Giờ đây lại có lời tuyên bố chính thức bởi
những người chứng tận mắt (Ga 20:18).
Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay
Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào
cạnh sườn Người, thì tôi không tin: Ông Tôma không tin lời những
người chứng. Ông muốn chính mình sờ tận mặt bắt tận tay. Quyển Phúc
Âm thứ tư ý thức rằng có một số người có thể có lòng hoài nghi về việc Chúa
Phục Sinh (Lc 24:34-40; Mc 16:11; 1Cr 15:5-8), đặc biệt là những kẻ chưa được
gặp Đấng Phục Sinh. Ông Tôma là người diễn đạt cho họ (và cho cả chúng
ta). Ông Tôma đã sẵn sàng để tin, nhưng ông muốn làm sáng tỏ tất cả những
hoài nghi trong lòng, vì lo rằng sẽ bị sai. Chúa Giêsu đã không nhìn Tôma
như một người hoài nghi không tin, mà xem ông như một người muốn đi tìm chân lý
và Người đáp ứng ông trọn vẹn. Tuy nhiên, điều này là một dịp để thể hiện
sự cảm kích về các tín hữu trong tương lai. (Câu 29)
Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem
tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng
hãy tin!: Chúa Giêsu lặp lại những lời của Tôma và bắt đầu cuộc đối thoại với
ông. Người hiểu lòng hoài nghi của Tôma và muốn giúp ông. Chúa
Giêsu biết rằng Tôma yêu mến Chúa và vì vậy Người động lòng trắc ẩn bởi vì Tôma
chưa tận hưởng được sự bình an đến từ đức tin. Chúa Giêsu giúp ông lớn
lên trong đức tin. Để đi sâu hơn vào trong chủ đề này, chúng ta có thể
đọc thấy những tương đồng trong: 1Ga 1-2; Tv 78:38; 103:13-14; Rm 5:20; 1Tm
1:14-16.
Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!: Đây là lời
tuyên xưng đức tin vào Đấng Đã Sống Lại và vào thiên tính của Người như đã được
công bố ở chương đầu của Phúc Âm theo thánh Gioan (1:1). Trong phần Cựu
Ước, nhưng chữ “Chúa” và “Thiên Chúa” được tương ứng với các chữ “Gia-vê” và
“Elohim” (Tv 35:23-24; Kh 4:11). Đây là lời tuyên xưng đức tin vào Chúa
Giêsu Phục Sinh một cách đầy đủ và trực tiếp nhất. Đối với nền văn hóa Do
Thái, các từ ngữ này mang một ý nghĩa giá trị hơn vì họ đã dùng trong các văn
bản liên quan đến Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã không chỉnh sửa những chữ
dùng bởi ông Tôma như Người đã hiệu chỉnh những chữ mà người Do Thái đã dùng để
buộc tội Người là đã mong muốn được “bằng Thiên Chúa” (Ga 5:18); do đó Chúa đã
xác nhận việc mang bản tính Thiên Chúa của Người.
Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con
đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!: Chúa Giêsu
không thể dung thứ cho những ai chỉ biết đi tìm những dấu lạ và điềm thiêng để
mà tin (Ga 4:48) và Người đã dùng ông Tôma để làm việc ấy. Ở đây, chúng
ta nên nhớ đến một đoạn Phúc Âm khác nói về một đức tin chân chính hơn, một “phương
cách hoàn hảo” hướng về một đức tin mà chúng ta phải khao khát nhưng không có
các đòi hỏi của Tôma, một đức tin được nhận lãnh như một ân sủng và như là một
hành động của lòng tín thác, giống như gương đức tin của cha ông chúng ta (Kh
11) và của Mẹ Maria (Lc 1:45). Chúng ta, những người sống sau Chúa Giêsu
hai ngàn năm, đã được bảo cho biết về Người, dù rằng chúng ta chưa hề gặp
Người, nhưng chúng ta vẫn có thể yêu mến và tin tưởng vào Người để chúng ta có
thể hân hoan chan chứa với “một niềm vui khôn tả và rực rỡ vinh quang” (1Pr
1:8).
Các điều (dấu lạ) này đã được ghi chép
để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, con Thiên Chúa, và để anh em tin mà
được sống nhờ danh Người: Quyển Phúc Âm thứ tư, giống như các
quyển Phúc Âm khác, không phải là một cuốn tiểu sử đầy đủ về Chúa Giêsu, nhưng
được viết chỉ để cho thấy rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Đấng Cứu Thế toàn dân
đang mong đợi, Đấng Giải Thoát, và Người chính là Con Thiên Chúa. Tin
tưởng vào Người có nghĩa là chúng ta có được sự sống đời đời. Nếu Đức
Giêsu không phải là Thiên Chúa, thì đức tin của chúng ta trở nên vô ích!
5. Đáp Ca
Thánh Vịnh 118 (117)
Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ;
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương!
Ít-ra-en hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Nhà A-a-ron hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Ai kính sợ CHÚA hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương!
Ít-ra-en hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Nhà A-a-ron hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Ai kính sợ CHÚA hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Chúng xô đẩy tôi, xô cho tôi ngã,
nhưng Chúa đã phù trợ thân này.
Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi,
chính Người cứu độ tôi.
Kìa nghe tiếng reo mừng chiến thắng trong doanh trại chính nhân:
Tảng đá mà người thợ xây loại bỏ
lại trở nên tảng đá chính góc tường.
Đó chính là công trình của Chúa;
công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.
Đây là ngày Chúa đã làm ra,
nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.
Lạy Chúa, xin ban ơn cứu độ, lạy Chúa!
Ôi lạy Chúa, xin thương giúp thành công.
6. Chiêm Niệm
Lời nguyện kết
Lạy Chúa Giêsu, con xin cảm tạ Chúa, Người là Chúa và
là Thiên Chúa của con, Chúa đã yêu thương con và đã cất tiếng gọi con, đã cất
nhắc con trở nên người môn đệ của Chúa. Chúa đã ban cho con Thần Khí
Chúa, Đấng được sai đến để công bố và làm chứng cho sự phục sinh của Chúa, cho
lòng thương xót của Chúa Cha, cho ơn cứu độ và tha thứ cho tất cả mọi người
trên thế giới. Chúa chính là đường, là sự thật và là sự sống, Chúa là
bình minh không bao giờ xế tà, là vầng thái dương của công lý và hòa
bình. Xin ban cho con được cư ngụ trong tình yêu của Chúa, xin ràng buộc
con vào Chúa như cành nho gắn liền với cây nho. Xin hãy ban cho con sự
bình an của Chúa để con có thể khắc phục được những yếu đuối, đối mặt với những
nghi ngại của con và mạnh dạn bước theo ơn gọi của Chúa và để con sống trọn vẹn
với sứ vụ Chúa đã giao phó cho con và con ca tụng Chúa muôn đời. Con cầu
xin vì Chúa là đấng hằng sống, hằng trị muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét