15/07/2016
Thánh Bônaventura, giám mục, tiến sĩ Hội
Thánh.
Lễ nhớ.
* Chào đời khoảng năm
1218 ở Ba-nho-rê-gi-ô, tỉnh Vitécbô, Bônaventura theo học triết lý rồi thần học ở Paris,
sau đó dạy các tu sĩ dòng Anh Em Hèn Mọn. Khi được chọn làm tổng phục vụ, người đã chu
toàn nhiệm vụ một cách khôn ngoan, đã soạn thảo hiến chương nhằm giúp
anh em sống luật dòng thánh Phanxicô. Là một nhà thần học sâu sắc, theo
trường phái thánh Augustinô, người nghiên cứu và giảng dạy lộ trình đưa linh hồn về với Thiên
Chúa. Được đặt làm hồng y giám mục
Anbanô. Người qua đời năm 1274 giữa lúc Công Đồng Lyon đang họp.
Bài Ðọc
I: (Năm II) Is 38, 1-6. 21-22. 7-8
"Ta
đã nghe lời ngươi cầu nguyện, và Ta đã lau sạch nước mắt của ngươi".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Trong
những ngày ấy Êdêkia đau gần chết. Tiên tri Isaia, con ông Amos đến thưa người
rằng: "Chúa phán thế này: Ngươi hãy sắp xếp công việc nhà cửa của ngươi,
vì ngươi sắp chết, không sống được nữa". Êdêkia liền quay mặt vào vách, cầu
nguyện cùng Chúa rằng: "Ôi lạy Chúa, con van xin Chúa, xin Chúa hãy nhớ lại:
con đã sống ngay chính trước mặt Chúa, và đã làm những điều đẹp lòng
Chúa". Rồi Êdêkia than khóc lớn tiếng.
Bấy
giờ Chúa phán cùng Isaia rằng: "Hãy đi nói với Êdêkia rằng: Ðây Chúa là
Thiên Chúa Ðavít, tổ phụ ngươi, phán thế này: Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện,
và Ta đã thấy nước mắt của ngươi. Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm năm nữa.
Ta sẽ cứu ngươi và bảo vệ thành này khỏi tay vua Assyria".
Isaia
sai người đi lấy mẩu bánh trái vả đắp lên mụn ung độc, và vua liền khỏi bệnh.
Bây giờ Êdêkia hỏi: "Có dấu nào cho ta biết coi ta còn lên đền thờ Chúa được
chăng?" Isaia đáp: "Ðây là dấu lạ Chúa ban cho vua, vì Chúa sẽ thực
hiện lời Người đã phán: "Ta sẽ làm cho bóng đã ngả trên bảng độ Acaz lui lại
mười độ". Và mặt trời lui lại mười độ.
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp
Ca: Is 38, 10. 11. 12. 16
Ðáp: Lạy Chúa, xin cứu mạng sống con,
ngõ hầu con khỏi phải chết (c. 17b).
Xướng:
1) Con đã từng nói: Ðến nửa đời con, con sẽ đi đến cửa địa ngục. Con sẽ bị giam
giữ những năm cuối đời con. - Ðáp.
2)
Con đã từng nói: Con sẽ không nhìn thấy Thiên Chúa trong đất nước những kẻ nhân
sinh: con sẽ không còn thấy người ta nữa, không còn trông thấy dân chúng sống
yên vui. - Ðáp.
3)
Miêu duệ con đã xa cách và lìa bỏ con, như chiếc lều của những mục tử. Như người
thợ dệt, con lôi cuốn đời sống con đi; con chặt đứt nó, khi nó còn muốn kéo
dài. - Ðáp.
4) Lạy
Chúa, đời sống con là như thế, và đời sống tinh thần của con cũng như vậy,
nhưng xin Chúa hãy thuyên chữa và cứu sống con". - Ðáp.
Alleluia:
Tv 129, 5
Alleluia,
alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa.
- Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 12, 1-8
"Con
Người cũng là chủ ngày sabbat".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy,
vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi ngang cánh đồng lúa. Các môn đệ của Người đói,
liền bứt bông lúa mà ăn. Thấy vậy, các người biệt phái thưa với Người rằng:
"Kìa, các môn đệ của Ngài làm điều không được phép làm trong ngày
Sabbat". Người nói với các ông rằng: "Các ông không đọc thấy Ðavít và
những người đi với ông đã làm gì khi đói lả sao? Các ông cũng không đọc thấy
Ðavít vào đền thờ Chúa ăn bánh trưng hiến, bánh mà ông và các kẻ theo ông không
được phép ăn, chỉ trừ các tư tế được ăn mà thôi sao? Hay các ông không đọc thấy
trong luật rằng: Ngày Sabbat, các tư tế trong đền thờ vi phạm ngày Sabbat mà
không mắc tội đó sao? Tôi bảo cho các ông biết, đây có Ðấng còn trọng hơn đền
thờ nữa. Vì nếu các ông biết được điều này là, "Ta muốn lòng nhân từ, chứ
không muốn hy lễ", chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội,
vì chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm:
Ngày Hưu Lễ
Chương
12 Tin Mừng Mátthêu qui tụ những tranh luận giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo
Do thái giáo thời Chúa Giêsu về những đặc tính của nếp sống tôn giáo. Cuộc
tranh luận hôm nay liên quan đến việc thực hành đạo đức căn bản của người Do
thái, đó là việc giữ ngày Hưu lễ. Ðây là một thực hành quan trọng đến độ người
Biệt Phái đã dùng việc Chúa Giêsu không tuân giữ luật Hưu lễ để lý luận và nói
với dân chúng rằng Chúa Giêsu không phải là Ðấng đến từ Thiên Chúa, không phải
là Ðấng Mêsia.
Việc
dành riêng một ngày nghỉ cho Thiên Chúa đã bị lạm dụng đến mức việc tuân giữ
ngày Hưu lễ không còn là do tình yêu mến tôn thờ đối với Thiên Chúa, nhưng là một
hình thức ràng buộc con người. Qua cuộc tranh luận với những người Biệt Phái về
việc giữ ngày Hưu lễ, Chúa Giêsu mở rộng cho chúng ta thấy giá trị tôn giáo
đích thực của ngày Hưu lễ, và do đó phải sống tinh thần ngày Hưu lễ đó như thế
nào?
Cuộc
tranh luận của Chúa Giêsu đều được trình thuật đầy đủ trong các Tin Mừng Nhất
Lãm, nhưng nơi Tin Mừng Mátthêu, tác giả lưu ý hai điểm: thứ nhất, quyền hành của
Chúa Giêsu trên các việc thực hành đạo đức; thứ hai, lòng nhân từ có ưu tiên
trên việc thực hành đạo đức. Trả lời cho thắc mắc của những người Biệt Phái tại
sao các môn đệ Ngài không giữ luật Hưu lễ, Chúa Giêsu nhắc lại việc xẩy ra
trong Cựu Ước liên quan đến Ðavít và những người tùy tùng khi đói, tức khi khẩn
thiết, đã làm điều không được phép làm, hoặc việc các tư tế trong Ðền thờ không
nghỉ ngày Hưu lễ mà cũng không mắc tội. Rồi Chúa kết luận: "Nếu các ông hiểu
được ý nghĩa của câu này: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần lễ tế, ắt các
ông sẽ chẳng lên án kẻ vô tội". Lòng nhân từ phải là căn bản cho những
phán đoán của chúng ta đối với anh em; cần phải hành xử theo lòng nhân từ này
hơn là chỉ xét đoán anh em theo những việc bên ngoài.
Vả lại,
những việc đạo đức và việc nghỉ ngày Hưu lễ, là để con người đến gần Thiên
Chúa, thế mà Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã hiện diện giữa họ, thì lòng đạo đức
không còn là một cái gì tuyệt đối phải thi hành nữa. Các tư tế làm việc trong Ðền
thờ ngày Hưu lễ mà không lỗi luật, thì các môn đệ Chúa Giêsu lỗi luật thế nào
được, vì đã có Chúa Giêsu bên cạnh họ. Ngài là Con Thiên Chúa cao trọng hơn Ðền
thờ. Chúa Giêsu muốn nhân dịp này để mạc khải chính Ngài là Ðấng Mêsia cao trọng
hơn Ðền thờ và làm chủ cả ngày Hưu lễ; nhưng các người Biệt Phái không nhìn nhận
điều này.
Xin
Chúa giúp chúng ta vượt qua tinh thần vụ hình thức trong đời sống đức tin. Xin
cho chúng ta tâm hồn nhân từ như Chúa để biết đối xử với người khác mỗi ngày một
tốt đẹp hơn.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 15 TN2, Năm Chẵn - Lễ nhớ
thánh Bonaventura
Bài đọc: Is 38:1-6, 21-22, 7-8; Mt 12:1-8
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa làm chủ mọi ngày.
Thiên
Chúa không những dựng nên mọi sự, Ngài còn quan phòng mọi sự theo một trật tự
Ngài mong muốn. Một trong những trật tự là sự thay đổi của thời gian dựa trên sự
xoay vần của mặt trời và mặt trăng mà con người phân biệt giữa ngày và đêm.
Ngài có quyền thay đổi sự xoay vần của mặt trời và mặt trăng và cũng có quyền đếm
ngày sống của mỗi người. Con người không có quyền thay đổi, họ chỉ có thể chấp
nhận và tuân hành những trật tự Ngài đã thiết lập.
Các
bài đọc hôm nay muốn chú trọng đặc biệt đến uy quyền của Thiên Chúa trong việc
quan phòng vũ trụ. Trong bài đọc I, khi ngôn sứ Isaiah cho vua Hezekiah biết
nhà vua phải sửa soạn để chết vì bệnh, vua Hezekiah kêu khóc lớn tiếng lên
Thiên Chúa để xin Ngài đổi số phận của mình. Thiên Chúa nhận lời cầu xin của
nhà vua, Ngài cho vua sống lại thêm 15 năm và bảo vệ Jerusalem khỏi sự xâm lăng
của Assyria. Trong Phúc Âm, khi các Pharisees tố cáo các môn đệ của Chúa vi phạm
luật ngày Sabbath vì bứt bông lúa ăn cho đỡ đói, Chúa Giêsu trả lời họ: Ngài
làm chủ cả ngày Sabbath. Luật ngày Sabbath chỉ áp dụng cho con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: “Này, bóng mặt trời
đã ngả trên các bậc thang vua Ahaz đã xây, Ta sẽ cho lui lại mười bậc.”
1.1/
Hezekiah ăn năn và tin tưởng nơi quyền năng Đức Chúa: Vua Sennacherib của Assyria sai sứ
giả đến với vua Hezekiah để khuyên nhà vua nên ra đầu hàng với hai lý do như
sau: (1) Cầu viện sức mạnh quân sự với Ai-cập không đủ sức để cứu Judah vì quân
đội của Assyria mạnh hơn nhiều. (2) Vua Hezekiah đã xa rời Đức Chúa của Israel
để chạy theo các thần ngoại, vì thế Ngài sẽ không bảo vệ nhà vua đâu. Hơn nữa,
Ngài còn chỉ thị cho vua Sennacherib tiến đánh Judah nữa.
Bên cạnh
những lời đe dọa này, vua Hezekiah còn được nghe những lời ngôn sứ Isaiah loan
báo: "Đức Chúa phán thế này: Hãy lo thu xếp việc nhà, vì ngươi chết chứ
không sống nổi đâu."
Vua
Hezekiah, phần đang lâm bệnh nguy tử, phần bị bao vây bởi những lời đe dọa của
vua Sennacherib và những lời tiên báo của ngôn sứ Isaiah, chọn để ăn năn và đặt
niềm tin nơi Đức Chúa. Ông quay mặt vào tường và cầu nguyện với Đức Chúa như
sau: "Ôi lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, con đã trung tín và thành tâm bước
đi trước nhan Ngài, đã thi hành điều đẹp mắt Ngài." Rồi vua Hezekiah khóc,
khóc thật to.
1.2/
Thiên Chúa nhận lời cầu xin của vua Hezekiah để chữa bệnh cho vua và bảo vệ
Jerusalem.
+ Phê
bình văn bản: Hai câu 21-22 ở cuối chương không có liên hệ gì với những câu xảy
ra trước đó; và theo Sách 2 Kings 20:1-9, hai câu này nên đem vào giữa Isa 38:6
và 7, thì mới làm sáng tỏ trình thuật hôm nay Isa 38:1-9 hơn.
+ Đức
Chúa cho Hezekiah sống thêm 15 năm nữa và Ngài cũng hứa sẽ bảo vệ Judah khỏi tay
quân thù Assyria. Có lẽ đây là trường hợp duy nhất Đức Chúa nới rộng cuộc sống
của một người mà nói rõ cách cố định là sẽ cho sống thêm 15 năm nữa. Nhiều trường
hợp Thiên Chúa cho sống, như trường hợp của vua David, nhưng không cho biết là
sẽ sống thêm bao lâu.
+ Khi
vua Hezekiah xin một dấu để bảo đảm những gì Đức Chúa hứa, Ngài đã ban cho nhà
vua một dấu: "Đây là dấu Đức Chúa ban cho ngài, chứng tỏ Đức Chúa sẽ thực
hiện điều Người đã phán: Này, bóng mặt trời đã ngả trên các bậc thang vua Ahaz
đã xây, Ta sẽ cho lui lại mười bậc." Quả vậy, bóng mặt trời đã lui lại mười
bậc trong số các bậc thang nó đã chiếu xuống.
+
Chúng ta không hiểu câu “bóng mặt trời lui lại 10 bậc...” có nghĩa làm sao;
nhưng điều này nằm trong quyền năng của Ngài. Trong Sách Jos 10:12-23 cũng thuật
lại một trường hợp tương tự: mặt trời đứng lại, không chuyển vận trong suốt một
ngày.
2/
Phúc Âm: “Quả thế, Con Người
làm chủ ngày Sabbath."
2.1/ Ý
nghĩa của ngày Sabbath: Tranh
cãi về ngày Sabbath là một trong những xung đột chính giữa Chúa Giêsu và những
người Pharisees .
Luật
Lêvi nói rõ: “Trong sáu ngày, người ta sẽ làm công việc của mình; còn ngày thứ
bảy là ngày Sabbath, một ngày nghỉ, có cuộc họp để thờ phượng, các ngươi không
được làm công việc nào. Đó là ngày Sabbath kính Đức Chúa, tại khắp nơi các
ngươi ở” (Lv 23:3). Luật Maisen thứ ba trong Thập Giới cũng nêu rõ “Giữ ngày Chủ
Nhật.” Như thế, hai lý do có ngày Sabbath là để con người nghỉ ngơi và thờ phượng
Thiên Chúa.
Sức
khỏe con người đòi hỏi sự nghỉ ngơi, và Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người ra
lệnh con người không được làm việc trong ngày Sabbath. Ngoài ra, kinh nghiệm
cũng chứng minh cho thấy sự cần thiết của việc trau dồi đời sống tinh thần
trong ngày này. Nếu không có nó, con người sẽ mệt mỏi và không đủ nghị lực để
đương đầu với những khó khăn của cuộc sống.
Thiên
Chúa chỉ đưa ra nguyên tắc: “Ngày Sabbath là một ngày nghỉ, không được làm việc.”
Ngài không đưa ra những luật lệ tỉ mỉ; những luật lệ tỉ mỉ là do con người xác
định. Làm những việc gì và nặng bao nhiêu thì bị kể là vi phạm. Một số người
còn cho rằng ngay cả việc tiêu hóa cũng không được làm trong ngày Sabbath!
Có được
đánh nhau trong ngày Sabbath không? Kẻ thù của người Do Thái biết luật này nên
đem quân giao chiến trong ngày Sabbath và giết được nhiều người Do Thái. Sau biến
cố này, luật cho phép được tự vệ trong ngày Sabbath.
2.2/ Những
người được miễn trừ trong ngày Sabbath
(1)
Các tư tế phục vụ trong Đền Thờ: Nếu các tư tế kiêng việc xác trong ngày
Sabbath, lấy ai cử hành các lễ nghi trong Đền Thờ? Như thế, Chúa vạch ra cho thấy
có những người được miễn trừ; họ có thể nghỉ ngơi những ngày khác.
(2) Bảo
vệ sự sống: Các môn đệ của Chúa bứt bông lúa ăn vì các ông đói. Chúa nhắc lại
việc David và đoàn tùy tùng của ông, khi chạy trốn vua Saul, đã ăn ngay cả Bánh
Chưng Hiến vì đói, thứ bánh mà chỉ có các tư tế mới được phép ăn (1 Sam
21:1-6). Khi đói khát nguy hiểm đến tính mạng, con người phải ăn tất cả những
gì tìm thấy để bảo toàn mạng sống.
(3)
Con Người làm chủ ngày Sabbath: Luật lệ ngày Sabbath áp dụng cho con người;
không áp dụng cho Thiên Chúa. Đấng ra luật và không lệ thuộc vào luật lệ của
con người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Nguyên tắc hướng dẫn luật lệ. Nguyên tắc tại sao con người cần phải nghỉ ngày
Sabbath là để con người có thể phục hồi sức khoẻ, nhất là để phục hồi nghị lực
tinh thần trong mối tương quan với Chúa; chứ không phải để ràng buộc con người.
- Luật
làm ra để bảo vệ con người. Khi có nguy hiểm đến mạng sống (đói khát, bệnh tật,
chiến tranh), con người được quyền bảo vệ mạng sống mà không vi phạm luật.
-
Thiên Chúa là người điều khiển ngày Sabbath và mọi ngày trong cuộc đời. Trật tự
thế giới này sẽ ra sao nếu Ngài ngưng không điều khiển trong ngày Sabbath!
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
15/07/16 THỨ SÁU TUẦN 15 TN
Th. Bô-na-ven-tu-ra, giám mục, tiến sĩ HT
Mt 12,1-8
Th. Bô-na-ven-tu-ra, giám mục, tiến sĩ HT
Mt 12,1-8
Suy niệm: Chỉ có mỗi một việc các môn đệ Chúa Giê-su bứt ít gié lúa, chà xát trong tay
để ăn cho vui miệng quên đói mà các ông
Pha-ri-sêu cũng chộp lấy để dựa vào đó lên án Chúa Giê-su và
các môn đệ vi phạm luật ngày sa-bát. Đối lại, Chúa Giê-su trưng dẫn việc vua Đa-vít và các tuỳ tùng
khi đói được phép ăn
bánh dâng hiến trong đền thờ, bánh chỉ dành riêng cho các thầy tư tế. Trong khi quan điểm của các ông Pha-ri-sêu là con người vì lề luật thì Chúa Giê-su nhấn mạnh lề luật vì con người. Và đã vì con người thì tấm lòng mới là quan trọng: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế.” Quả vậy, Chúa từ chối làm một dấu lạ từ trời theo lời thách thức của người Do Thái vì Ngài muốn họ đến với Thiên Chúa bằng tấm lòng. Ngược lại, tại tiệc cưới Ca-na, Chúa sẵn lòng hoá nước thành rượu cho dù “giờ chưa đến” chỉ vì một tấm lòng biết cảm thông.
Mời Bạn: Nếu bạn hiểu rằng “Chúa muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế” thì tại sao bạn sống giả hình giữ luật cách chi li hình thức mà không yêu mến Chúa lại còn chểnh mảng việc phục vụ tha nhân? Nếu bạn biết Chúa muốn tấm lòng, sao bạn không dâng cho Ngài tất cả tấm lòng trong mỗi việc nhỏ bé bạn làm vì lòng yêu mến Ngài?
Sống Lời Chúa: Bí tích
Thánh Thể chính là phương thế tuyệt hảo để bạn dành cho Chúa tất cả tấm lòng của mình. Bạn đã lãnh nhận Thánh Thể hôm nay chưa?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con ước ao khát khao được Chúa ngự vào lòng con. Dù con không được rước Chúa cách hữu hình lúc này, xin Chúa ngự vào lòng con cách thiêng liêng.
Ta muốn lòng nhân
Khi yêu thì người ta trở nên chi li. Không phải chi li để xét đoán người khác. Nhưng chi li vì thấy những nhu cầu nhỏ bé của tha nhân.
Suy
niệm:
Đức
Khổng Tử đòi người quân tử phải có năm đức tính gọi là ngũ thường.
Đứng
đầu của ngũ thường là lòng nhân.
Ngài
viết: “Người quân tử mà bỏ đức nhân thì làm sao được gọi là quân tử?
Người
quân tử dù trong một bữa ăn cũng không làm trái điều nhân,
dù
trong lúc vội vàng cũng theo điều nhân (Luận Ngữ, IV, 5).
Trong
giáo huấn của Đức Giêsu, lòng nhân có một chỗ đứng đặc biệt.
Hai
lần câu này của ngôn sứ Hôsê được trích dẫn trong Mátthêu:
“Ta
muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế” (9, 13; 12, 7).
Xem
ra câu này không dễ hiểu, nên Ngài khuyên ta học cho biết ý nghĩa.
Giữ
ngày sabát là điều rất quan trọng trong Do thái giáo.
Theo
Luật Chúa, đó là ngày nghỉ ngơi, ngừng mọi công việc.
Đối
với người Pharisêu, bứt lúa được xem như gặt lúa, nên là việc bị cấm làm.
Hành
vi bứt lúa của các môn đệ bị coi là vi phạm ngày sabát.
Thay
vì trách họ theo lời người Pharisêu, Thầy Giêsu lại bênh vực họ.
Ngài
trưng dẫn trường hợp Đavít và các thuộc hạ khi đói bụng
đã
ăn bánh thánh hiến vốn dành riêng cho các tư tế (Lv 24,5-9; 1 Sm 21,1-6).
Hiển
nhiên đây là chuyện vi phạm Lề Luật vì có nhu cầu chính đáng.
Nếu
chấp nhận chuyện Đavít thì càng phải chấp nhận chuyện của các môn đệ,
vì
họ đi theo một Đấng mà Đavít phải gọi là Chúa (Mt 22, 43).
Luật
giữ ngày sabát thật ra không phải là một đòi buộc luân lý tuyệt đối.
Các
tư tế phải làm việc phụng sự Chúa, chuẩn bị các lễ vật vào ngày sabát.
Nếu
họ được phép vi phạm ngày sabát mà không mắc tội (c. 5),
thì
huống hồ là Thầy Giêsu và các môn đệ của Ngài,
những
người làm việc cho Nước Trời, nhưng lại phải chịu đói nên mới bứt lúa.
Đức
Giêsu không có thái độ bất kính với ngày sabát.
Nhưng
Ngài là chủ ngày sabát, Ngài có quyền xác định điều gì được phép làm.
Ngài
thấy gánh nặng đè lên con người bởi những cấm đoán chi li,
khiến
con người ngột ngạt, mệt mỏi.
Giữ
Luật phải đem lại cho con người hạnh phúc,
phải
đi với lòng nhân.
Giữ
Luật mà cứng nhắc, thiếu lòng nhân, lòng bao dung,
thì
đó là thứ hy lễ Chúa không cần (Hs 6, 6).
Thật
ra không có sự đối nghịch giữa luật lệ với lòng nhân.
Giữ
luật là cách biểu lộ lòng nhân, vì luật trên hết là luật yêu thương.
Người
giữ luật thực sự là người có khuôn mặt vui tươi và trái tim rộng mở.
Khi
yêu thì người ta trở nên chi li.
Không
phải chi li để xét đoán người khác.
Nhưng
chi li vì thấy những nhu cầu nhỏ bé của tha nhân.
Chỉ
xin giữ mọi luật lệ nhỏ bé thật chi li, chỉ vì yêu bằng tình yêu quá lớn.
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vì con bé nhỏ,
nên
xin yêu ngài bằng khả năng bé nhỏ của con.
Cho con biết yêu
những
công việc bé nhỏ mỗi ngày,
những
công việc âm thầm,
những
bổn phận mà con làm vì yêu mến.
Cho con biết yêu những hy sinh bé nhỏ mỗi ngày,
vui
lòng đón nhận những thánh giá tuy nhỏ,
nhưng
làm tim con đau đớn.
Cho con biết yêu tinh thần bé nhỏ của trẻ thơ,
đơn
sơ thú nhận mình yếu đuối và bất lực,
sung
sướng nương tựa vào duy một mình Chúa.
Hơn nữa, xin cho con can đảm,
dám
chọn những gì giúp con trở nên bé nhỏ hơn,
nhờ
đó con vui tuoi phục vụ mọi người
và
hạnh phúc khi thấy Chúa lớn lên trong con.
Mỗi lần bị cám dỗ tự cao,
xin
cho con biết ngắm nhìn con đường Chúa đã đi,
con
đường bé nhỏ và khiêm hạ.
Ước gì con được làm bạn của Chúa
trên đường từ Bêlem đến Núi Sọ,
và được ở bên Chúa trong Nước Trời. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
15
THÁNG BẢY
Con
Người Tự Viết Nên Lịch Sử Của Chính Mình
Được
ban cho trí khôn và linh hồn bất tử, con người bắt đầu hành trình của mình
trong thế giới. Con người bắt đầu viết nên lịch sử của chính mình. Thiên Chúa –
trong sự quan phòng của Ngài – luôn luôn sát cánh với con người mọi nơi mọi lúc
trong cuộc hành trình ấy. Cũng trong sách Huấn Ca, chúng ta đọc thấy: “Đường lối
của chúng luôn luôn ở trước mặt Ngài, và không bao giờ giấu mắt Ngài được” (Hc
17,15).
Tác giả
Thánh Vịnh cũng thốt lên cùng ý nghĩa này:
“Dù
chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện,
đến ở
nơi chân trời góc biển phương tây,
tại
đó cũng tay Ngài đưa dẫn,
cánh
tay hùng mạnh giữ lấy con…
Hồn
con đây Ngài biết rõ mười mươi;
xương
cốt con Ngài không lạ lẫm gì” (Tv139, 9-10.14-15).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
15 – 7
Thánh
Bônaventura, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
Is
38,1-8.21-22; Mt 12,1-8.
Lời
suy niệm: “Hôm ấy vào ngày Sabát, Đức Giêsu đi băng
qua một cách đồng lúa; các môn đệ thấy đói và bắt đầu bứt lúa ăn. Người
Pharisêu thấy vậy, mới nói với Đức Giêsu: Ông coi, các môn đệ ông làm điều
không được phép làm ngày Sabát!”
Qua sự
xoi bói của người Pharisêu về việc các môn đệ Chúa Giêsu thấy đói mà bứt lúa
trong ngày Sabát để ăn. Chúa Giêsu đã gợi cho họ nhớ lại những điều mà trong
Sách Thánh đã tường thuật để cho họ ý thức trong việc tuân giữ Lề Luật. Người
đưa ra câu chuyên của vua Đavít và thuộc hạ của ông ăn bánh tiến thứ bánh mà chỉ
các tư tế mới được ăn; (1Sm 21,1-6) thứ đến là câu chuyện những công việc sinh
tế tại Đền Thờ trong ngày Sabát (Ds 28,9) và cuối cùng Người nhắc đến lời của
ngôn sứ Hôsê (Hs 6,6).
Lạy
Chúa Giêsu. Tất cả mọi sự xoi bói đều là tật xấu, đưa đến sự mất đoàn kết và hủy
hoại nhau. Xin Chúa cho chúng con luôn chân thành trong mọi sự góp ý để xây dựng
cho nhau, đừng đem lề luật ra để rồi lên án nhau.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
15-07: Thánh BÔNAVENTURA
Giám
mục, tiến sĩ hội thánh.(1221 - 1274)
Sinh
năm 1221 tại Bagnorea, gần Viterbo, thánh Bonaventura là con ông Giovanni di
Fidanza và bà Ritella. Ngài được đặt tên là Giovanni, lúc lên bốn, Ngài lâm trọng
bệnh vô phương cứu chữa. Người mẹ vội ẵm Ngài tới gặp thánh Phanxicô khó khăn.
Thánh nhân thương cha mẹ dâng lời cầu nguyện và Giovanni hết bệnh. Sung sướng,
người mẹ kêu lên: "Obuona Ventura" (Ôi biến cố phúc hậu). Từ đó Giovanni
mang tên Bônaventura. Ngài theo học tại dòng anh em hèn mọn.
Tới
tuổi 15, Bonaventura theo học tại Paris, trung tâm ánh sáng thời đó. Ngài sống
thanh trong đến nỗi Alexandre de Hales nhận xét: - Anh giống như Adam chưa hề
phạm tội.
Ngài
kết thân với sinh viên tài ba khác là Thomas Aquinô. Ngỡ ngàng về sự hiểu biết
của bạn mình. Thomas hỏi Bonaventura xem Ngài đã học sách nào ? Bonaventura chỉ
cây thánh giá trả lời: - Đây là nguồn mọi hiểu biết của tôi. Tôi học Chúa Giêsu
bị đóng đinh.
Năm
1257, Ngài được chọn làm bề trên cả dòng Phanxicô. Tình thế Ngài phải đối diện
rất là phức tạp. Trong dòng đang có sự phân rẽ giữa những người nhiệt tâm muốn
tuân giữ nghiêm nhặt luật dòng và những người muốn chước giảm. Nhờ sự thánh thiện
và tài khéo léo, Bonaventura đã giải quyết các vấn đề cách ổn thỏa, đến nỗi
Ngài đang được gọi là Đấng sáng lập thứ hai của dòng. Trong kỳ đại hội ở
Narbonne 1250, Ngài đã ban hành hiến pháp đầu tiên cho dòng. Sau đó Ngài liên
tiếp thăm viếng không biết mệt các tỉnh dòng để quan sát việc thực hiện bản quy
luật này.
Chính
Ngài tổ chức việc học hành cho các giáo sĩ trong dòng, làm cho công cuộc tông đồ
được phổ biến rộng rãi đến cả những bậc thức giả lẫn giới bình dân. Chính
Bonaventura là một nhà dòng giảng thuyết có biệt tài. Ngài đã giảng thuyết từ
các tu viện, tới các thành phố ở Au Châu, trước mặt vua Luy IX Đức giáo hoàng.
Luôn luôn Ngài thu phục được cảm tình của thính giả.
Một
thầy dòng khiêm tốn tên là Gilles hỏi Ngài: - Các cha thông thái, được Chúa ban
cho nhiều tài năng. Còn chúng con, chúng con có thể làm gì được ?
Bonaventura
trả lời: - Nếu Chúa ban cho một người tài năng khác là ơn yêu mến Ngài thế là đủ
rồi, và là kho tàng quí báu nhất.
Thầy
dòng hỏi tiếp: - Một người không biết đọc biết viết có thể yêu mến Thiên Chúa
như một nhà thông thái biết mọi sự không ?
Thánh
nhân trả lời: - Chắc chắn rồi, một bà già có thể yêu Chúa hơn cả một nhà tiến
sĩ thần học.
Thày
dòng vui vẻ la lớn: - Một bà già có thể yêu Chúa hơn cả cha Bonaventura của
chúng ta nữa.
Ngài
còn tiếp: - Biết một chút về Chúa còn hơn là biết mọi sự trong trời đất.
Ngoài
những hoạt động bên ngoài ấy. Bonaventura còn lo viết sách để huấn luyện các tu
sĩ và những sách về triết học, thần học và thánh kinh. Chúng ta có thể kể đến
cuốn "chú giải luật dòng Phanxicô", "hạnh tích thánh
Phanxicô" nhất là cuốn "hành trình của linh hồn hướng về Thiên
Chúa".
Trong
nỗ lực xây dựng Hội Thánh, Bonaventura luôn tỏ ra khiêm tốn. Người ta kể rằng:
Đức giáo hoàng Grêgoriô X truyền cho thánh Thomas và thánh Bonaventura soạn thảo
bộ kinh lễ Thánh Thể. Khi hai vị vào yết kiến đức giáo hoàng trình bày công việc,
thánh Bonaventura xé nát bản văn của mình.
Cùng
với lời khiêm tốn ấy, Bonaventura đã từ chối chức Tổng giám mục thành York mà Đức
giáo hoàng Clêment IV đề nghị, lòng khiêm tốn ấy không ngăn cản sự cương quyết
và can đảm của Ngài chống lại thuyết sai lầm của thuyết Aristote và Avéoes...
Nhưng Đức giáo hoàng Grêgoriô X đã quyết định đặt Ngài làm hồng y cai quản giáo
phận Albanô và truyền Ngài về Roma ngay.
Khi
hai sứ thần mang mũ hồng y đến, Ngài còn đang rửa chén. Ngày 28 tháng 5 năm
1273 Ngài nhận chức và là cánh tay đắc lực của đức giáo hoàng. Phần đóng góp của
Ngài vào sự hợp nhất Giáo hội Hy lạp và Roma tại công đồng Lyon thật lớn lao.
Nhưng
khi công đồng Lyon còn đang nhóm họp thì Bonaventura từ trần ngày 14 tháng 7
năm 1274. Đức Sixtô IV phong Ngài lên bậc hiển thánh năm 1482 và đức Sixtô V đã
đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1858. Người ta gọi Ngài là "Tiến sĩ sốt
mến".
(daminhvn.net)
15
Tháng Bảy
Dây Chuyền Của Liên Ðới
Một
người Ả Rập nọ có một con ngựa rất đẹp... Ai thấy cũng gợi lòng tham muốn. Một
người láng giềng tìm đủ mọi cách để mua cho kỳ được con ngựa, nhưng chủ nhân vẫn
một mực từ chối. Không còn biết làm cách nào để thuyết phục chủ nhân, người đó
đành phải nghĩ ra mưu kế để chiếm đoạt.
Biết
người chủ ngựa thường hay đi qua sa mạc, hắn mới cải trang thành một người hành
khất nằm rét run bên vệ đường. Người chủ ngựa là một người tốt bụng, gặp bất cứ
ai hoạn nạn cũng đều ra tay cứu giúp. Vừa thấy người hành khất, người đó cảm thấy
thương hại, mới đề nghị trở về một quán trọ để săn sóc.
Khi
người chủ ngựa vừa mở miệng đề nghị, thì tên bất nhân mới than thở: "Ðã mấy
ngày nay, tôi không có được một hạt cơm trong bụng, lấy sức đâu để leo lên ngựa".
Nghe thế, con người tốt bụng xuống ngựa để giúp người hành khất leo lên lưng ngựa.
Nhưng vừa leo lên lưng ngựa, tên bất lương hiện nguyên hình... Hắn giựt dây
cương và thúc vào hông ngựa mà chạy... Người chủ ngựa đáng thương chỉ còn biết
nhìn theo mà hối tiếc! Nhưng ông cũng cố gắng chạy theo và nói với tên bất
lương như sau: "Ngươi đã ăn cắp con ngựa của ta. Nhưng ta sẵn sàng bỏ qua
cho. Ta chỉ xin ngươi một điều là đừng bao giờ kể cho bất cứ ai nghe mưu mẹo
ngươi đã dùng để cưỡng chiếm con ngựa của ta. Một ngày nào đó, sẽ có những người
bệnh thật sự nằm rên rỉ bên vệ đường và kêu cầu sự giúp đỡ. Ta e ngại rằng sẽ
không còn ai dám dừng lại để cứu giúp kẻ hoạn nạn nữa".
Dè dặt,
thủ thế, nghi kỵ có lẽ là thái độ thường tình của tất cả những ai đang sống dưới
chế độ độc tài. Lừa lọc, phản bội, tố cáo lẫn nhau đã khiến cho lòng người mỗi
ngày một thêm khép kín... Sợi dây chuyền của khép kín mỗi lúc một dài ra và quấn
lấy con người.
Mỗi một
hành động xấu, trong dây chuyền của tình liên đới, đều gia tăng đau khổ cho người
khác. Khi tôi lừa đảo, không những hành động của tôi chỉ trực tiếp hãm hại một
vài người có liên hệ, nhưng nó cũng góp phần giảm thiểu niềm tin của không biết
bao nhiêu người xung quanh. Khi tôi bạo động, không những tôi chỉ xúc phạm đến
người trong cuộc, nhưng hành động của tôi cũng xóa mờ đi phần nào lòng tự ái của
nhân loại... Tôi là một phần của nhân loại. Cả nhân loại sẽ đau đớn rên rỉ vì một
vết thương của tôi cũng như vì một nhát gươm của tôi.
Người
Kitô luôn được mời gọi để nhìn nhận hình ảnh của Chúa nơi mọi người và đón nhận
mọi người như anh em của mình. Trong cái nhìn ấy, cuộc sống của chúng ta phải
luôn hướng đến người anh em của chúng ta: niềm đau của người anh em cũng chính
là niềm đau của chúng ta, hạnh phúc của người anh em cũng chính là hạnh phúc của
chúng ta.
(Lẽ
Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét