18/12/2016
Chúa Nhật tuần 4 mùa vọng năm A.
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa:
Chúa Nhật 4 Mùa Vọng, năm A
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG A
(Is 7,10-14; Rm 1,1-7; Mt 1,18-24)
Chủ đề:
EMMANUEL, THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA
“Người con bà cưu mang là do quyền năng
Chúa Thánh Thần” (Mt
1,20)
I.
CÁC BÀI ĐỌC
Thiên Chúa hứa đến và ở với con người hầu kế hoạch yêu
thương của Ngài được thực hiện. Lời hứa ấy đã được thực hiện từ xa xưa, nay ứng
nghiệm qua Đức Giêsu Kitô, Đấng Emmanuel. Chúng ta được mời gọi đón nhận Đức Giêsu
vào trong cuộc đời của mình để chúng ta được tham dự vào mầu nhiệm tình yêu của
Ba Ngôi Thiên Chúa.
1.
Bài đọc I (Is 7,10-14)
Vương quốc Giuđa đang ở trong tình thế khó khăn trước
sự đe dọa xâm chiếm của liên minh hai nước Aram và Israel. Acaz, vua Giuđa, muốn
chạy sang cầu cứu với Assur. Ngôn sứ Isaia yêu cầu vua xin một dấu chỉ từ Thiên
Chúa: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một
dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh”. Nhưng Acaz đã từ chối lời đề
nghị của Thiên Chúa, bởi vì, Acaz đã tin tưởng vào Assur. Acaz đã dối lòng khi
thưa với ngôn sứ: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa”.
Quả thực, Acaz đã chạy theo Assur để tìm kiếm sự ổn định chính trị. Đứng trước
sự chối từ của Acaz, Thiên Chúa vẫn không từ bỏ kế hoạch của Ngài. Ngài vẫn yêu
thương dân mình và ban một dấu chỉ để minh chứng Ngài ở với họ: “Chính
Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ sẽ mang thai,
sẽ sinh hạ con trai và đặt tên là Emmanuel”. Thiên Chúa vẫn luôn can thiệp
vào trong lịch sử vì phần rỗi con người. Ngài đi bước trước dù con người có chối
từ kế hoạch của Ngài.
2.
Bài đọc II (Rm 1,1-7)
Phaolô khẳng định với các tín hữu Rôma rằng ngài được
Thiên Chúa kêu gọi để trở nên Tông Đồ rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa: “Tôi,
Phaolô, tôi tớ của Đức Giêsu Kitô; tôi được gọi là Tông Đồ và dành riêng để
loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa”. Tin Mừng mà Phaolô loan báo chính là Tin
Mừng về Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Người là Đấng mà Thiên Chúa đã hứa ban
qua miệng các ngôn sứ. Người mang lấy và chia sẻ thân phận con người. Người là
sự hiện hữu cụ thể của Thiên Chúa giữa con người; Người quả thật là “Emmanuel”.
Người yêu thương con người cho đến cùng, bằng chính cái chết và phục sinh hầu đem
ơn cứu độ cho nhân loại. Phaolô cảm nghiệm điều này và mời gọi các tín hữu hãy
sống kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu Kitô, vì trong Người chúng ta tìm được
nguồn bình an và hiệp nhất với Thiên Chúa.
3.
Tin Mừng (Mt 1,18-24)
Tin Mừng Matthêu tường thuật cho chúng ta việc truyền
tin cho thánh Giuse và qua đó tác giả Matthêu cho thấy lời hứa của Thiên Chúa
nay được hiện thực hóa. Giuse đã thành hôn với Maria. Tuy nhiên, trước khi hai
người về chung sống với nhau, Maria thụ thai bởi quyền năng của Thiên Chúa.
Giuse là một người công chính. Ông không muốn hạ nhục Maria cách công khai, nên
đã tìm cách lìa bỏ Maria. Có lẽ Giuse đã phải đau khổ, chiến đấu với những nỗi
day dứt nội tâm trước sự việc của Maria. Cả Giuse và Maria đều có kế hoạch riêng
cho mình, họ muốn xây dựng một tổ ấm gia đình như bao bạn trẻ cùng trang lứa.
Thế nhưng, Thiên Chúa muốn họ cộng tác vào kế hoạch lớn lao của Ngài. Thiên Chúa
đã mặc khải kế hoạch này qua giấc mộng cho Giuse: “Này Giuse, con cháu
Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng
Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu,
vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Những điều này là lời
ứng nghiệm lời hứa của Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia rằng Thiên Chúa yêu
thương con người và muốn ở với họ. Giuse đón nhận kế hoạch của Thiên Chúa và
mau mắn cộng tác: “Khi tỉnh giấc, Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón
vợ về nhà”.
II.
GỢI Ý MỤC VỤ
1. “Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một
dấu: Này đây người thiếu nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai và đặt tên là
Emmanuel”. Thiên Chúa luôn luôn yêu thương con người và đi bước trước để thực
thi kế hoạch cứu độ, dù con người có khước từ. Tôi có nhận ra tình yêu thương của
Thiên Chúa, cách riêng qua đời sống của tôi? Tôi có đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức
Giêsu Kitô, Đấng Emmanuel?
2. “Tôi, Phaolô, tôi tớ của Đức Giêsu Kitô;
tôi được gọi là Tông Đồ và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa”.
Tôi có biết rằng tôi cũng được mời gọi trở nên vị tông đồ loan báo Tin Mừng của
Thiên Chúa cho những người khác? Tôi có là người tôi tớ trung thành của Đức Giêsu?
3. “Này Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón
bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.
Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ
cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Giuse mau mắn đón nhận thánh ý Thiên Chúa
khi được Ngài mặc khải. Tôi có can đảm và mau mắn cộng tác vào kế hoạch của Thiên
Chúa qua việc Ngài mời gọi tôi sống và thực thi sứ điệp của Ngài trong cuộc sống
mình? Thái độ sống của tôi đáp trả thế nào trước những dấu chỉ, biến cố yêu thương
mà Thiên Chúa trao ban cho tôi trong từng ngày sống?
III.
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa
đã đến và ở với nhân loại để thực hiện kế hoạch yêu thương của Người qua Đức Giêsu
Kitô, Đấng Emmanuel. Tin tưởng vào tình thương cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta
hãy cầu nguyện cho mọi người biết sẵn sàng đón nhận ơn thánh:
1. “Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần.” Chúng
ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh biết mở lòng đón nhận ơn
Chúa và cộng tác với Chúa Thánh Thần, tích cực đem Tin mừng cứu độ cho con người
trong thế giới hôm nay.
2. “Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là
Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho những dân tộc chưa nhận
biết Chúa, được nghe loan báo Tin mừng nước trời và khám phá nguồn hạnh phúc đích
thực nơi Thiên Chúa.
3. “Chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội.” Chúng ta
cùng cầu nguyện cho những ai đang lầm đường lạc lối, biết ý thức tình trạng tội
lỗi của bản thân, nhận ra tình thương tha thứ của Thiên Chúa, và thành tâm quay
về với Người để sống trong ân sủng và bình an.
4. “Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền.”
Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, biết tìm kiếm
và thực hiện ý Chúa trong cuộc sống hằng ngày, qua việc tận tâm chu toàn mọi bổn
phận mà Chúa đã trao phó.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu,
Chúa đã yêu thương và ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Xin nhận lời chúng
con cầu nguyện và giúp chúng con biết dấn thân cộng tác vào công trình yêu thương
của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
ĐG KITÔ CHÍNH LÀ EMMANUEL "THIÊN
CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA"
"Giuse đón vợ về nhà" (Mt
1,24)
Sợi
chỉ đỏ :
-
Ngôn sứ Isaia báo cho vua Achaz về một nhân vật mệnh danh là Emmanuel (Bài đọc
I)
- Tv
23 bày tỏ niềm tin tưởng Thiên Chúa sẽ đến như một vị Vua vinh hiển (Đáp ca)
- Đức
Giêsu chính là Emmanuel mà Isaia đã tiên báo (Tin Mừng)
-
Thánh Phaolô khẳng định Đức Giêsu thực hiện những lời tiên tri xưa (Bài đọc II)
Trong
suốt Mùa Vọng, chúng ta mong chờ Đức Giêsu đến. Nhưng chúng ta mong chờ Ngài
mang gì đến cho chúng ta : Tiền bạc chăng ? Thành công chăng ? Sức
khoẻ chăng ?
Lời
Chúa hôm nay trả lời rằng : Ngài mang đến cho chúng ta chính bản thân Ngài,
bởi vì Ngài là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đó là điều quý báu
nhất và bao gồm tất cả mọi điều báu.
Trong
Thánh lễ này, chúng ta hãy nguyện "ở với" Chúa cũng như Ngài đã
"ở với" chúng ta.
- Đức
Giêsu đã bỏ trời xuống thế để ở với loài người chúng ta. Nhưng lắm khi chúng ta
quên mất Ngài, không hề nhớ tới Ngài.
- Đức
Giêsu ngự trong Nhà Tạm để chúng ta dễ đến với Ngài. Nhưng rất ít khi chúng ta đến
đó để gặp Ngài.
-
Chúng ta không "cùng ăn, cùng ở, cùng làm" với Đức Giêsu trong cuộc sống
hằng ngày.
Khi ấy
vương quốc Giuđa đang bị đế quốc Assyria đe dọa. Ngôn sứ Isaia khuyên vua Achaz
đừng sợ, hãy trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa. Nhưng vua Achaz hoài
nghi. Để khuyến khích nhà vua thêm tin tưởng, Isaia cho nhà vua một dấu chỉ :
"Này đây một phụ nữ sẽ thụ thai, sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ là
Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở với chúng ta".
Lời
tiên tri này trước tiên ứng vào hoàn cảnh của vua Achaz : Quả thực sau đó
hoàng hậu vợ vua Achaz ("phụ nữ") đã thụ thai và sinh cho nhà vua một
thái tử. Việc sinh ra thái tử là dấu chỉ chứng minh rằng Thiên Chúa sẵn sàng phù
hộ cho vua Achaz nếu ông thực lòng trông cậy nơi Ngài ("Thiên Chúa ở cùng
chúng ta").
Về
sau người ta đã hiểu rộng hơn và coi đây là lời tiên tri về Đấng Messia sẽ đến.
Người ta còn tin rằng Đấng Messia ấy sẽ do một trinh nữ sinh ra. Vì thế bản dịch
70 bằng tiếng hy lạp đã dùng chữ "trinh nữ" thay vì chữ "phụ nữ".
Tv 23
được dùng trong những cuộc hành hương lên đền thờ Giêrusalem. Người ta ý thức rằng
Thiên Chúa chính là Vua vinh hiển ; và chỉ những ai có bàn tay vô tội và tâm
hồn trong sạch mới xứng đáng đến trước nhan Ngài.
Quan
niệm này đúng. Nhưng đến thời Tân Ước (như bài Tin Mừng sẽ cho ta thấy), Thiên
Chúa sẽ ưu ái loài người đến nỗi bỏ qua đòi hỏi trên : chẳng những không
đòi những người muốn đến với Ngài phải có tay sạch lòng thanh, Ngài còn hạ cố
xuống với loài người để thành Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Đức
Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa đã sinh ra, làm một con người như mọi người : có
mẹ là một người nữ mang tên Maria, cha là một bác thợ mộc tên là Giuse.
Nhưng
thiên thần Gabriel cho thánh Giuse biết những đặc tính thiêng linh của Đức Giêsu :
Ngài được thụ thai là "bởi phép Chúa Thánh Thần", Ngài đến trần gian
là "để cứu dân mình khỏi tội".
Thánh
Matthêu hiểu rằng việc này làm ứng nghiệm lời tiên tri của ngôn sứ Isaia :
Đức Giêsu chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Thánh
Phaolô muốn tín hữu Rôma hiểu rõ về Đức Giêsu : Tuy Ngài đã sinh ra
"theo huyết nhục", nhưng nguồn gốc của Ngài rất cao sang vì Ngài
"bởi dòng Đavít", "đã được tiền định là Con Thiên Chúa", và
"đã sống lại từ cõi chết".
Từ ý
thức đó, Thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy sung sướng vì được thuộc về một Đấng
cao sang như thế : "Đó chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta", đồng
thời cũng hãy sung sướng với ơn gọi của mình : "Anh em là những người
mà Chúa Giêsu Kitô đã kêu gọi".
Đức
Giêsu là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Chỉ cần
một so sánh rất tầm thường, chúng ta sẽ thấy đó là một ơn rất to lớn mà Thiên
Chúa ban cho chúng ta :
Tôi
có một người bạn vừa tốt vừa đa tài đa năng. Mỗi khi có chuyện gì cần, tôi gọi
thì anh đến và anh giúp tôi giải quyết rất tốt đẹp. Tôi sung sướng lắm. Nhưng
nhiều khi tôi đang cần mà anh lại đang đi vắng xa nên không giúp gì cho tôi được.
Khi đó tôi ao ước : phải chi người bạn ấy luôn ở với tôi !
Chúa
Giêsu hơn người bạn ấy rất nhiều : Ngài không chỉ là một con người mà còn
là Thiên Chúa. Ngài không chỉ đa tài đa năng mà còn là toàn tài toàn năng. Ngài
nói "Này Ta ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế". Ngài đúng là
Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Còn gì quý hơn !
Một
tin chỉ là Tin Mừng khi nó đáp ứng một ước mong mà người ta chờ đợi. Thí dụ chén
cơm là tin mừng cho người đang đói, mùa gặt bội thu là tin mừng cho người nông
dân đã khổ công cấy cày. Nếu không ước mong đợi chờ thì chẳng có tin mừng :
chén cơm không phải là tin mừng cho người đã no, mùa gặt cũng chẳng là tin mừng
cho người không làm ruộng.
Thánh
Phaolô nói với tín hữu Rôma rằng ngài mang đến cho họ một Tin Mừng, đó là Thiên
Chúa đã ban Con của Ngài cho loài người. Và tín hữu Rôma đã vui mừng vì họ có được
một Đức Chúa cao cả quyền năng hơn các thần thánh nhan nhãn trong các đền thờ ở
Rôma.
Lẽ ra
sống trong Mùa Vọng thì phải mong chờ Chúa. Nếu ta không mong chờ Chúa thì việc
Chúa Giáng sinh không là Tin Mừng cho ta gì cả.
Lạy
Chúa, tên Chúa là Emmanuel, Chúa ở cùng chúng con.
Nhưng
đã có biết bao người lấy danh thánh Chúa khắc vào dây lưng, hùng hùng hổ hổ xông
ra trận để chém giết anh em đồng loại ! Biết bao người đã đi tàn sát nhân
danh Chúa, tuy họ không xâm tên Chúa vào ngực hay khắc vào dây nịt.
Chúa ở
với chúng con để kéo chúng con ra khỏi tội lỗi, chứ không phải làm cớ cho chúng
con bênh vực mình, bênh vực những hành vi tội lỗi của mình.
Chúa ở
với chúng con để giúp chúng con vượt qua những chướng ngại trên con đường đi tìm
công lý và tình huynh đệ, chứ không phải để dẫn chúng con đến những quần đảo
thoát ly.
Chúa
hãy ở với chúng con những khi vì sợ hãi, chúng con ngừng bước hay lui bước. Chúa
hãy ở với chúng con khi vì lơ đễnh chúng con đi lạc đàng chính nẻo ngay.
Thân
lạy Emmanuel, xin Chúa hãy luôn ở cùng chúng con ! (Trích Công giáo và Dân
tộc, số đặc biệt giáng sinh 1998)
Ngày
nay thói quen mừng lễ Giáng sinh có thể nói là rất phổ biến : hầu hết mọi
người trên thế giới, dù là người có đạo hay không có đạo, cũng đều quen mừng lễ
Giáng sinh. Tuy nhiên, hầu như ai ai cũng coi đây là một dịp lễ vui, có nhiều
hoa đèn, nhiều tiếng thánh ca. Trong dịp lễ Giáng sinh người ta cũng sáng tác
nhiều tiêu phẩm văn nghệ rất cảm động nhưng qua đó ta thấy được khía cạnh mỉa mai
là lễ Giáng sinh đã không được mừng đúng ý nghĩa. Có một tiểu phẩm kể chuyện một
em bé gái nghèo, đêm Giáng sinh phải co ro lặn lội trong sương tuyết để bán từng
hộp que diêm, trong khi đó thì xa xa vọng lại tiếng hát thánh ca réo rắt ;
một tiểu phẩm khác kể chuyện một tên ăn trộm coi lễ Giáng sinh là dịp tốt để hành
nghề, nó biết đêm đó nhà giàu nào cũng có nhiều bánh trái, cho nên nó đợi đến lúc
người ta di dự lễ ở nhà thờ để lẻn vào ăn trộm, và xa xa vọng lại cũng những hồi
chuông giáng sinh rộn rã.
Cũng
có một tác phẩm tuy không nói về lễ Giáng sinh nhưng cũng mang cùng một ý nghĩa.
Đây là một chuyện phim tưởng tượng. Đạo diễn tưởng tượng có một Đức Giáo hoàng
vì chán cảnh lễ nghi rườm rà trong Tòa Thánh Vatican nên nhân một dịp đi lạc khỏi
Tòa Thánh, đã đi luôn vào sống ở một ngôi làng nghèo. Làng này đang bị bệnh dịch
hoành hành nên bị cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài, lương thực khan hiếm.
Trong làng có một cái cối dùng sức gió để cung cấp nước, nhưng cối gió đã hư và
không ai sửa. Nếp sống quá khổ cực khiến người ta không đến nhà thờ nữa, nhà thờ
bị hoang phế, và chính vị Linh mục coi sóc nhà thờ đó cũng chán nản hồi tục đi
làm nghề chăn cừu. Đức Giáo hoàng đã cùng với dân làng đi moi đống rác, tiếp xúc
với những trẻ em lang thang bụi đời, và động viên người ta cùng Ngài sửa lại cái
cối xay nước. Sau một thời gian làm việc vất vả với rất nhiều khó khăn, cái cối
xay gió ấy đã được sửa chữa và hoạt động lại. Cho tới lúc đó dân làng mới biết
Ngài chính là Giáo hoàng. Và Ngài giã từ họ trở về Tòa Thánh. Cuốn phim kết thúc
với cảnh Đức Giáo hoàng chủ tọa một Thánh lễ có rất đông người tham dự, đặc biệt
trong số đó có dân chúng của cái làng nghèo khổ kia và cả vị Linh mục nữa, vị
Linh mục này đã trở về với đoàn chiên giáo dân của mình. Chắc chúng ta hiểu được
ngụ ý của đạo diễn : Nếu giáo hội chỉ thu mình trong các lễ nghi ở nhà thờ
thì dần dần Giáo hội sẽ xa lìa quần chúng và quần chúng cũng xa lìa Giáo hội. Còn
Giáo hội dấn thân phục vụ những nhu cầu thiết thực của quần chúng thì quần chúng
sẽ đến vây quanh Giáo hội.
Ngôi
Hai Thiên Chúa giáng sinh là Emmanuel, nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng
ta". Giáo Hội cũng phải là Emmanuel. Và mỗi tín hữu cũng phải là Emmanuel.
CT :
Sau lời truyền tin của sứ thần Gabriel và lời đáp "Xin vâng" của
Trinh nữ Maria, Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Mẹ. Tin tưởng vào tình
thương của Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1-
Hội Thánh là dấu chỉ tình thương cứu độ của Chúa đối với nhân loại. / Chúng ta
hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh / biết luôn cố gắng sống bác
ái yêu thương / để trở nên khí cụ Chúa dùng đem tình thương đến cho mọi người.
2-
Hiện tại / sự xuất hiện của nhiều giáo phái kỳ bí là một thảm họa cho nhân loại
/ vì họ dạy những điều sai trái. / Nhưng đáng tiếc là có nhiều người gia nhập các
giáo phái này / và bị khống chế chặt chẽ. / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cho
mọi người / cách riêng là những người kitô hữu trẻ / biết luôn cảnh giác trước
những lời quyến rũ đường mật của các giáo phái này.
3-
Khủng hoảng đức tin / đặc biệt trong giới trẻ / là một vấn đề lớn đang khiến các
bậc mục tử lo âu nhiều nhất. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn
tìm được những phương thế thích hợp / nhằm giúp giới trẻ học hỏi sâu rộng giáo
lý của Chúa / nhờ đó giữ vững được đức tin của mình.
4-
"Xin vâng theo Thánh ý Chúa" / Đây phải là câu tâm niệm / là lời nguyện
tắt hằng ngày của người kitô hữu. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo
xứ chúng ta / biết mau mắn đáp "Xin vâng" trong mọi tình huống của cuộc
sống / nhất là khi gặp khó khăn / đau khổ trong đời sống thường ngày.
CT :
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa hứa ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế. Xin luôn
nâng đỡ chúng con trong mọi cơn thử thách, cùng đồng hành với chúng con trong
cuộc sống, nhờ đó chúng con luôn tin yêu, gắn bó và dấn thân theo Chúa đến cùng
dù gặp bao sóng gió phũ phàng trên đường đời. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
-
Kinh nguyện Thánh Thể : Nên dùng mẫu số 4, nhấn mạnh đến vai trò Đức Maria :
. (Đoạn
3) : "Lạy Cha chí thánh, Cha quá yêu thương thế gian… Người đã
nhập thể bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, và được Đức Trinh nữ sinh ra, đã sống
trọn thân phận con người như chúng con…"
- Trước
kinh Lạy Cha : Hợp ý với Đức Giêsu, Đấng là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, chúng
ta hãy dâng lên Thiên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.
- Trước
lúc Rước lễ : "Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng Emmanuel đến ở với
loài người chúng ta để xóa tội trần gian. Phúc cho ai…"
Chúa
Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chúng ta cũng hãy nhớ luôn ở cùng Ngài
trong mọi việc làm, lời nói và ý tưởng.
Lm.
Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật IV Mùa Vọng (A)
Chúa
Nhật, 18 Tháng 12, 2016
Sự
công chính của thánh Giuse đã cứu mạng Mẹ Maria
Mt
1:18-24
1. Lời
nguyện mở đầu
Lạy
Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với
cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong
ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám
phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết
của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng,
đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin
hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa
trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày
và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.
Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau,
chúng con cũng sẽ được hưởng quyền năng sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho
những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của
tình anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu,
con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh
Thần đến với chúng con. Amen.
2.
Bài Đọc
a) Chìa
khóa dẫn đến bài đọc:
Đa số
các thành viên của các Cộng Đoàn Kitô hữu tại Pa-lét-tin và Syria, những người
mà tác giả Mátthêu đã viết sách Tin Mừng cho, là những người Do Thái cải đạo. Họ
chấp nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế và tin tưởng vào Người. Họ đã bị
bách hại vì đức tin của họ. Những người anh em Do-thái của họ đã nói
với họ rằng: “Các bạn Kitô hữu đang bị lừa dối! Ông Giêsu
không phải, và cũng không thể là Đấng Cứu Thế!” Trong đoạn Phúc Âm
mà chúng ta đang suy gẫm trong Chúa Nhật tuần này, cho thấy hiển nhiên mối quan
tâm của Mátthêu, ông muốn khẳng định niềm tin của cộng đoàn. Cũng
như thể ông muốn nói với chúng ta rằng: “Các bạn không hề bị lừa dối! Đức
Giêsu chính thật là Đấng Cứu Thế!” Mục đích của Mátthêu trong các
chương một và hai của sách Tin Mừng của ông là để thông báo cho người đọc về những
điều liên quan đến Chúa Giêsu, Đấng mà hoạt động của Người sẽ được mô tả bắt đầu
từ chương ba. Trong hai chương đầu, Mátthêu giới thiệu về thân thế
Chúa Giêsu, về Lề Luật mới, về một ông Môisen mới. Trong phần gia phả
(Mt 1:1-17) Mátthêu đã cho thấy rằng Chúa Giêsu thuộc dòng dõi vua Đavít và
dòng dõi ông Abraham (Mt 1:1). Trong những câu này (Mt 1:18-25),
Mátthêu tiếp tục giới thiệu Đức Giêsu với chúng ta qua câu chuyện giáng sinh của
Người. Ông kể lại chuyện ông thánh Giuse được cho biết tin về việc Đức
Maria đã thụ thai như thế nào và các lời tiên tri sẽ được ứng nghiệm với sự ra
đời của Đức Giêsu, cho thấy rằng Người là Đấng Cứu Thế đang được mong đợi. Trong
khi đọc, chúng ta nên chú ý đến những gì đoạn Phúc Âm cho chúng ta biết về con
người của Chúa Giêsu, đặc biệt là trong những gì liên quan đến ý nghĩa của hai
cái tên mà Người nhận được.
b) Phân
đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Mt
1:18: Một điều trái với lễ giáo phong tục trong cuộc đời Đức Maria
Mt
1:19: Sự công chính của thánh Giuse
Mt
1:20-21: Lời giải thích hoặc lời làm sáng tỏ bởi thiên thần Chúa
Mt
1:22-23: Giai điệu trong Tin Mừng của thánh Mátthêu
Mt
1:24-25: Sự vâng lời của thánh Giuse.
c) Phúc
Âm:
18 Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau
đây: Mẹ Người là Maria, đính hôn với Giuse; trước khi về chung sống
với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. 19 Giuse,
bạn của bà, là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà một
cách kín đáo. 20 Nhưng đang khi định tâm như vậy thì thiên
thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: “Hỡi Giuse, con
vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai bởi
phép Chúa Thánh Thần. 21 Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông
sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội.”
22 Tất cả sự kiện này đã được thực hiện
để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: 23 Này
đây! Một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ
gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. 24 Khi
tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: ông tiếp nhận bạn
mình; 25 nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh
con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.
3. Giây
phút thinh lặng cầu nguyện
Để
cho Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một
vài câu hỏi gợi ý
Để
giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
i) Điều nào trong bài Tin Mừng
này đã đánh động bạn nhất? Tại sao?
ii) Theo lời Sứ Thần, Con Thiên
Chúa sẽ được sinh bởi Đức Maria là ai?
iii) Theo Phúc Âm của Mátthêu, lời
tiên tri nào trong Cựu Ước được thực hiện trên Chúa Giêsu?
iv) Hai tên mà Con Trẻ Giêsu nhận
lãnh là gì, và Thiên Chúa có ẩn chứa dự án gì trong những tên này?
v) Thái độ của thánh Giuse được
hiểu ra sao? Thái độ này dạy cho chúng ta điều gì?
vi) “Sự công chính” của thánh
Giuse một cách chính xác bao gồm những điều gì?
vii) Sự công chính của chúng ta
ra sao, khi được so sánh với sự công chính của thánh Giuse?
5. Dành
cho những ai muốn đào sâu vào chủ đề
a) Bối
cảnh của bài Phúc Âm:
Dựa
theo gia phả của Chúa Giêsu (Mt 1:1-17) để lại cho chúng ta một câu hỏi. Bên
cạnh tên của bốn mươi hai tổ phụ của Chúa Giêsu (Mt 1:17), Mátthêu chỉ đưa ra
tên bốn tổ mẫu: bà Tamar (Mt 1:3), bà Ra-kháp, bà Rút (Mt 1:4) và vợ ông
Uria (Mt 1:6). Bốn người phụ nữ thụ thai các con trai của họ bên
ngoài phạm trù của sự tinh khiết hoặc ngoài vòng lễ giáo thời bấy giờ. Vì
thế, tình trạng của bốn người phụ nữ này thì bất thường trước Lề Luật
Do-Thái. Sự bất thường của bốn người tổ mẫu này thì hiển
nhiên. Chỉ cần đọc các văn bản của Cựu Ước nơi mà câu chuyện của họ
được kể là đã đủ. Và do đó, tại cuối phần gia phả dấy lên một câu hỏi: “Và
Đức Maria, hiền thê của thánh Giuse, người sinh ra Chúa Giêsu (Mt 1:16), có lẽ
cũng phải chịu một số điều bất thường pháp lý chăng? Đoạn
Phúc Âm mà chúng ta suy gẫm trong Chúa Nhật tuần này nói về điều này.
b) Lời
bình giải về đoạn Phúc Âm:
Mt
1:18: Sự không đúng lễ giáo theo pháp luật trong Đức Maria
Đức
Maria đã thụ thai trước khi về chung sống với ông Giuse, vị hôn phu của
bà. Người ngoài nhìn vào sự việc thì hẳn nhận biết được có điều bất
thường và sẽ nói: “Bà Maria, thật là quá quắt!” Chiếu
theo lề luật của Môisen, thì những tội này đáng bị ném đá cho chết (Đnl
22:20). Để tránh điều lý giải sai lầm về các sự kiện này, Mátthêu đã
giúp người đọc thấy một khía cạnh khác của việc thụ thai của Đức
Maria: “Bà đã thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần”. Dưới
con mắt thế gian, điều này dường như là một sự vi phạm Lề Luật, nhưng trong mắt
của Thiên Chúa điều này thì hoàn toàn trái ngược lại!
Mt
1:19: Sự công chính của thánh Giuse
Việc
mang thai của Đức Maria xảy ra trước khi bà về sống với ông Giuse, không phải
vì một lỡ lầm của con người, mà là vì thánh ý Thiên Chúa. Thiên Chúa
đã trêu ngươi về lề luật khiết tịnh trong cách để cho Đấng Cứu Thế được sinh ra
giữa chúng ta! Nếu thánh Giuse hành động theo như những ràng buộc của
lề luật thời bấy giờ, thì ông đã phải tố cáo Đức Maria và có lẽ bà đã bị ném
đá. Mang thai trước hôn nhân là điều không đúng lễ giáo và không
theo luật khiết tịnh, thì bà phải bị trừng phạt với bản án tử hình (Đnl
22:20). Tuy nhiên, thánh Giuse, bởi vì ông là người công
chính, đã không tuân theo những ràng buộc của luật khiết tịnh. Sự
công chính của ông thì cao cả hơn. Thay vì đi tố cáo, ông
muốn tôn trọng điều bí ẩn mà ông không hiểu và quyết định lìa bỏ Đức Maria
trong sự kín đáo. Sự công chính cao cả nhất của thánh Giuse đã cứu mạng
Đức Maria và cả mạng sống của Chúa Giêsu.
Vì thế,
Mátthêu gửi một sứ điệp quan trọng cho các cộng đoàn tại Pa-lét-tin và
Syria. Như thể nói rằng: “Hỡi anh em, điều gì sẽ xảy ra nếu
việc tuân giữ nghiêm nhặt lề luật được thực hiện, điều mà những người Biệt Phái
đòi hỏi nơi anh em! Chúng sẽ giết chết Đấng Cứu Thế!” Sau
đó Chúa Giêsu sẽ nói: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn những
người Kinh-sư và Biệt Phái, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5:20).
Mt
1:20-21: Lời giải nghĩa hoặc giải thích rõ của Thiên Thần Chúa và
hai tên được đặt cho Con Trẻ của Đức Maria: Giêsu và Emmanuel
“Thiên
thần của Chúa” giúp khám phá ra chiều kích sâu thẳm nhất của đời sống và của
các sự kiện. Người giúp nhìn thấu suốt các sự kiện và nhận thức được
ơn gọi của Thiên Chúa mà với con mắt phàm trần của chúng ta không thể nhận biết
được. Thiên thần khiến cho thánh Giuse hiểu được rằng việc thụ thai
của Đức Maria là kết quả việc làm của Chúa Thánh Thần. Chính Thiên
Chúa, trong ngày tác tạo trời đất, đã thổi hơi qua các vùng biển và đổ đầy với
sức mạnh Lời Tạo Dựng của Chúa (St 1:2). Việc sáng tạo mới được thực
hiện trong Đức Maria. Đó là sự khởi đầu của trời mới và đất mới, được
loan báo bởi ngôn sứ Isaia (Is 65:17). Con của Đức Maria nhận được
hai tên: Giêsu và Emmanuel. Giêsu có nghĩa là “Cứu-Chúa”. Ơn
cứu rỗi không xuất phát từ những gì chúng ta làm mà là từ Thiên Chúa, đúng ra
là từ những gì Thiên Chúa làm cho chúng ta. Emmanuel có
nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Trong sách Xuất Hành, khi giải
thoát dân Do-Thái khỏi đất Ai-Cập, Thiên Chúa hiện xuống với những người dân bị
áp bức (Xh 3:8) và phán bảo cùng ông Môisen: “Ta sẽ ở với
ngươi” (Xh 3:12) và từ giây phút đó Chúa không bao giờ lìa bỏ dân Người. Hai
tên, Giêsu và Emmanuel, đưa ra sự chứng thực, và thậm chí vượt qua hẳn những hy
vọng của người ta.
Mt
1:22-23: Giai điệu Tin Mừng của Mátthêu
“Tất
cả điều này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ”. Câu
này hoặc những câu tương tự khác giống như một giai điệu, những lời được lặp lại
nhiều lần trong Tin Mừng của Mátthêu (Mt 1:23; 2:5,15,17,23; 4:14; 8:17; 12:17;
13:14,35; v.v.). Điều này cho thấy mục đích mà tác giả đã có trong
lòng: để xác nhận với các độc giả gốc Do-Thái của ông sự thật rằng Chúa Giêsu
chính thực là Đấng Mêssia đã được hứa xưa kia. Trong Người, mọi lời
hứa từ các ngôn sứ đã được ứng nghiệm.
Ở đây
Mátthêu trích lời ngôn sứ Isaia: “Người trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ
một con trai và đặt tên trẻ là Emmanuel” (Is 7:14). Danh hiệu Emmanuel không
chỉ đơn thuần là một tên gọi cho chúng ta thấy ý nghĩa tên gọi của Chúa
Giêsu. Chúa Giêsu là bằng chứng rằng Thiên Chúa vẫn tiếp tục ở với
chúng ta. Tên của Con Trẻ là Giêsu (Mt 1:25).
Mt
1:24-25: Sự vâng lời của thánh Giuse
Khi tỉnh
dậy, thánh Giuse đã thực hiện như lời Thiên Thần Chúa truyền và tiếp nhận Đức
Maria vào nhà ông. Và thánh Mátthêu tiếp tục nói rằng ông Giuse đã
không ăn ở với Đức Maria, để xác nhận rằng Chúa Giêsu được sinh ra từ Chúa
Thánh Thần.
c)
Phần phụ chú:
Chìa
khóa cho sách Tin Mừng của Mátthêu – Phúc Âm của Mátthêu được gửi tới cho cộng đoàn người Do
Thái cải đạo, những người sống trong một cuộc khủng hoảng sâu xa về căn tính
liên quan đến quá khứ là người Do Thái của họ. Vào năm 65 sau Công
Nguyên khi cuộc nổi dậy chống lại người Rôma bùng nổ, các Kitô hữu gốc Do-Thái
đã không tham gia và họ lìa bỏ Giêrusalem. Những người Biệt Phái
cũng làm như vậy. Sau khi thành Giêrusalem bị tàn phá vào năm 70, những
người Biệt Phái tái tổ chức những người đã ở lại và họ lập thành hàng ngũ,
trong một cách quả quyết hơn, chống lại các Kitô hữu, những người mà sau cùng họ
đã ra vạ tuyệt thông. Vạ tuyệt thông này đã làm cho vấn
đề về căn tính thậm chí còn tồi tệ hơn. Bấy giờ, chính thức bị vạ
tuyệt thông, họ không còn có thể đi đến đi đến Hội Đường của họ, hay đến các
Giáo-sĩ rabbi của họ. Và một vấn nạn đã dấy lên trong số họ: Những
lời hứa được thuộc về ai: chúng thuộc về Hội Đường hay thuộc về Giáo Hội? Ai
chính là Dân của Chúa, họ hay là chúng ta? Đức Giêsu có thật là Đấng
Cứu Thế không? Mátthêu viết quyển Tin Mừng của ông cho cộng đoàn
này. Tin Mừng của Mátthêu có thể được định rõ bởi ba chữ sau đây:
i) Tin Mừng của sự an ủi cho
những ai bị vạ tuyệt thông và bị ngược đãi bởi người Do-Thái anh em của họ là
những người không chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai (Chúa Kitô); nó giúp họ
vượt qua cơn chấn thương hoặc kích động của sự chia lìa.
ii) Tin Mừng của sự mặc khải: Nó
cho thấy Chúa Giêsu là Đấng Mêssia thật sự, Đấng Mêssia mới, Đấng mà trong đó hội
đủ tất cả mọi lịch sử của Cựu Ước với những lời hứa của nó.
iii) Tin Mừng của sự thực hành mới:
trong đó mô tả sự thực hành của Chúa Giêsu, và cho thấy làm thế nào để đạt được
một nền công lý mới, cao cả hơn so với công lý của những người Biệt Phái.
Điều
này xảy ra để nó có thể được thực hiện – bằng ý nghĩa của những chữ này được lặp
lại nhiều lần trong quyển Tin Mừng của ông, Mátthêu đã đụng chạm đến điểm căng
thẳng lớn nhất giữa các Kitô hữu và người Do Thái. Bắt đầu từ Kinh
Thánh, họ nói rằng: “Ông Giêsu không phải và không thể nào là Đấng
Mêssia!” Cũng bắt đầu từ Kinh Thánh, Mátthêu đã trả lời và khẳng định: “Đức
Giêsu chính thực là Đấng Mêssia!”
Việc
mang thai của Đức Maria – Mátthêu cũng như Luca dẫn trích lời ngôn sứ Isaia “Một trinh nữ
sẽ mang thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên con trẻ là Emmanuel” (Is
7:14). Nhưng có một sự khác biệt. Thánh Luca đặt Đức
Maria tại tâm điểm và cho dấu hiệu của sự trinh tiết thì quan trọng hơn (Lc
1:31). Mátthêu đặt thánh Giuse làm trung tâm và chú ý đến tầm quan
trọng ý nghĩa của tên Emmanuel hơn.
Giấc
mộng của thánh Giuse – Thiên Thần Chúa hiện đến cùng thánh Giuse trong giấc mơ và giúp
ông hiểu thấu. Với sự trợ giúp của Thiên Thần Chúa, thánh Giuse
thành công trong việc khám phá ra việc làm của Thiên Chúa trong sự kiện này, mà
theo định kiến của thời bấy giờ, dường như chỉ là hoa trái của sự lầm đường và
của tội lỗi. Thiên thần có nghĩa người đưa tin. Thiên Thần
Chúa mang tin đến và mang sự trợ giúp đến để nhận thức được công việc của Thiên
Chúa trong đời sống. Ngày nay có nhiều Thiên Thần Chúa hướng dẫn
chúng ta trong cuộc sống. Có khi họ làm việc trong lúc chúng ta ngủ, trong các
giấc chiêm bao của chúng ta, những lúc khác trong các buổi họp, trong các cuộc
đàm luận và trong các cuộc học hỏi Kinh Thánh, trong các sự việc,
v.v. Có rất nhiều Thiên Thần, rất nhiều Thiên Thần!
6.
Cầu Nguyện: Thánh Vịnh 72 (71):
Danh
Thánh Người tồn tại đến muôn đời!
Tâu
Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân.
Người sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
đập tan lũ cường hào ác bá.
Nguyện chúc Người tuổi thọ sánh vầng ô,
như bóng nguyệt đến muôn đời muôn kiếp!
Mong Người xuống tựa mưa sa nội cỏ,
ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.
Dân vùng sa mạc khúm núm quy hàng,
tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, và Saba,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự.
Người giải thoát bần dân kêu khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,
chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ,
giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn,
từng giọt máu họ, Người đều coi là quý.
Tân Vương vạn vạn tuế!
Thiên hạ sẽ đem vàng Ả-rập tiến dâng lên,
và cầu xin cho Người luôn mãi,
ngày lại ngày chúc phúc cho Người.
Mong cho xứ sở đầy dư gạo thóc,
đỉnh non cao sóng lúa rì rào,
trổ bông vàng đẹp tựa núi Li-băng,
thâu lượm được nhiều như cỏ dại.
Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.
Chúc tụng ĐỨC CHÚA
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân.
Người sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
đập tan lũ cường hào ác bá.
Nguyện chúc Người tuổi thọ sánh vầng ô,
như bóng nguyệt đến muôn đời muôn kiếp!
Mong Người xuống tựa mưa sa nội cỏ,
ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.
Dân vùng sa mạc khúm núm quy hàng,
tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, và Saba,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự.
Người giải thoát bần dân kêu khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,
chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ,
giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn,
từng giọt máu họ, Người đều coi là quý.
Tân Vương vạn vạn tuế!
Thiên hạ sẽ đem vàng Ả-rập tiến dâng lên,
và cầu xin cho Người luôn mãi,
ngày lại ngày chúc phúc cho Người.
Mong cho xứ sở đầy dư gạo thóc,
đỉnh non cao sóng lúa rì rào,
trổ bông vàng đẹp tựa núi Li-băng,
thâu lượm được nhiều như cỏ dại.
Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.
Chúc tụng ĐỨC CHÚA
là
Thiên Chúa Israel,
chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu.
Muôn muôn đời xin chúc tụng danh Chúa hiển vinh,
ước gì vinh quang Chúa chiếu toả khắp hoàn cầu!
Amen! Amen!
chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu.
Muôn muôn đời xin chúc tụng danh Chúa hiển vinh,
ước gì vinh quang Chúa chiếu toả khắp hoàn cầu!
Amen! Amen!
7. Lời
nguyện kết
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn
ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm
của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải
cho chúng con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức
Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời
Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự
hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét