05/07/2017
Thứ tư tuần 13 thường niên.
Bài Ðọc I: (Năm I) St
21, 5.8-20
"Con của người nữ tỳ không được thừa hưởng gia tài cùng với
con tôi".
Trích sách Sáng Thế.
Khi Abraham được một
trăm tuổi, thì Isaac sinh ra.
Ðứa trẻ lớn lên và
thôi bú.
Ngày Isaac thôi bú,
Abraham thết tiệc linh đình.
Bà Sara thấy con của
Agar, người đàn bà Ai Cập, chơi với Isaac, con của bà, liền nói với Abraham rằng:
"Hãy đuổi mẹ con người tì nữ này đi, vì con của người đầy tớ không được thừa
hưởng gia tài cùng với con tôi là Isaac".
Abraham lấy sự ấy làm
đau lòng cho con mình.
Chúa phán cùng Abraham
rằng: "Người đừng buồn vì con trẻ, và con của nữ tì ngươi. Bất cứ Sara nói
gì, ngươi hãy nghe theo vì nhờ Isaac, sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. Nhưng
Ta cũng sẽ cho con trai của nữ tì trở thành một dân tộc lớn, vì nó thuộc dòng
dõi của ngươi".
Sáng sớm, Abraham chỗi
dậy,lấy bánh mì và bầu nước, đặt lên vai người nữ tì, trao con trẻ cho nàng rồi
bảo nàng đi.
Sau khi ra đi, nàng đến
rừng Bersabê.
Và khi đã uống hết bầu
nước, nàng bỏ con trẻ dưới gốc cây trong rừng.
Nàng ra ngồi cách xa
đó khoảng tầm một tên bắn.
Vì nàng nói: "Tôi
chẵng nỡ thấy con tôi chết", và nàng ngồi đó, thì bên trong đứa bé cất tiếng
khóc.
Chúa đã nghe tiếng
khóc của đứa trẻ, và thiên thần Chúa từ trời gọi Agar mà rằng: "Agar,
ngươi làm gì thế? Ngươi đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nghe tiếng đứa trẻ khóc từ chỗ
nó đang nằm kia.
Ngươi hãy chỗi dậy, ẵm
con đi, và giữ chặt tay nó, vì Ta sẽ cho nó trở thành một dân tộc vĩ đại".
Và Thiên Chúa mở mắt
cho Agar, nàng thấy một giếng nước và đến múc đầy bầu nước cho đứa trẻ uống.
Chúa phù trợ đứa trẻ;
nó lớn lên, cư ngụ trong rừng vắng, và trở thành người có tài bắn cung tên.
Ðó là Lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
33,7-8.10-11,12-13
Ðáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe. (7a)
Xướng 1) Kìa người đau
khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. Thiên thần
Chúa hạ trại đồn binh, chung quanh những người sợ Chúa, và bênh chữa họ. - Ðáp.
2) Các thánh nhân của
Chúa hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi. Bọn sang giàu
đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo. - Ðáp.
3) Các đệ tử ơi, hãy lại
đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc
đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia. -
Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 8,28-34
"Ông đến lúc này để hành hạ các quỷ".
Bài trích Phúc Âm theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên
thuyền sang bờ bên kia, đến miền Giêrasa, thì gặp hai người bị quỷ ám từ các mồ
mả đi ra, chúng hung dữ đến nỗi không ai dám qua đường ấy.
Và chúng kêu lên rằng:
"Lạy Ông Giêsu, Con Thiên Chúa, chúng tôi có can chi đến ông? Ông đến đây
để hành hạ chúng tôi trước hạn định sao?"
Cách đó không xa có một
đàn heo lớn đang ăn.
Các quỷ nài xin Người
rằng: "Nếu ông đuổi chúng tôi ra khỏi đây, thì xin cho chúng tôi nhập vào
đàn heo".
Người bảo chúng rằng:
"Cứ đi".
Chúng liền ra khỏi đi
nhập vào đàn heo.
Tức thì cả đàn heo, từ
bờ dốc thẳng, nhào xuống biển và chết chìm dưới nước.
Các người chăn heo chạy
trốn về thành, báo tin ấy và nói về các người bị quỷ ám. Thế là cả thành kéo ra
đón Chúa Giêsu. Khi gặp Người, Họ xin Người rời khỏi vùng của họ.
Ðó là Lời Chúa.
Suy Niệm: Hai Mẫu Người
Chúa Giêsu đã đến với
con người. Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy hai mẫu người, hai cách thức Chúa
đến với họ.
Mẫu người thứ nhất có
thể thấy được nơi hai người bị quỉ ám. Họ là những con người bị đẩy ra bên lề
xã hội và chính họ cũng không làm chủ được trí khôn của mình nữa, họ không còn
sống như một người bình thường và bị người ta xa lánh. Chúa Giêsu đến với họ một
cách bất ngờ, họ chưa kịp xin Chúa chữa lành; vả lại họ cũng không thể xin, vì
lúc đó họ đang bị quỉ ám. Thế nhưng, Chúa đã chữa lành họ, Ngài cho phép quỉ nhập
vào đàn heo gần đó. Một phép lạ xẩy ra làm rúng động những người dân trong
thành.
Mẫu người thứ hai là
dân cư miền Gađara. Những người này có đời sống vật chất đầy đủ và tiện nghi,
nhưng dường như không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúa đến với họ qua dấu lạ
chữa lành hai người bị quỉ ám mà từ lâu họ đã chối từ, và sự kiện đàn heo bị quỉ
nhập lao xuống biển chết chìm. Chúa Giêsu đã thực hiện dấu lạ để kéo chú ý của
người dân trong thành về việc Chúa đến, nhưng họ đã bỏ mất cơ hội để tiếp xúc với
Chúa và đón nhận ơn cứu độ. Bởi vì, như Tin Mừng kể lại, sau khi gặp Ngài, họ
xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ. Họ làm thế vì sợ phải gánh chịu những thiệt
hại vật chất do sự hiện diện của con người lạ lùng này. Những lợi lộc hay những
thiệt thòi vật chất có thể làm cho con người khép kín tâm hồn, trở nên mù quáng
trước sự hiện diện yêu thương, bình an và cứu rỗi của Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta
một tâm hồn thanh thoát, biết mở rộng để đón nhận những dấu chỉ sự hiện diện của
Chúa, để sẵn sàng đến gặp Chúa, sống với Chúa và trở thành dụng cụ hữu hiệu của
Chúa cho những người xung quanh.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 13 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Gen 21:5, 8-20; Mt 8:28-34.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Quan tâm lợi
lộc trước mắt mà không nhìn thấy thiệt hại tương lai.
Thiên Chúa khôn ngoan
và yêu thương, Ngài biết những gì hữu ích và những gì gây thiệt hại cho con người;
nên đã thân hành ban Thập Giới, để con người cứ theo đó sống để có hạnh phúc cả
đời này và đời sau. Ma quỉ rất tinh ranh và ghen tị, chúng không muốn con người
được yêu thương và hạnh phúc, nên không ngừng cám dỗ và xúi giục con người vi
phạm Thập Giới để phải chịu đau khổ cả đời này lẫn đời sau. Theo căn bản của Thập
Giới, con người phải kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân
như chính mình vậy. Ma quỉ, chúng thừa biết sự thiển cận của con người: chỉ biết
nhìn cái lợi trước mắt; nên không ngừng bày ra những ảo ảnh của vật chất để xúi
giục con người chọn vật chất trên tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân.
Các Bài Đọc hôm nay
đưa ra những bài học thực tế để cho chúng ta suy tư và học hỏi. Trong Bài Đọc
I, tác giả Sách Sáng Thế tường thuật lý do tại sao bà Sarah bắt ông Abraham phải
trục xuất mẹ con Hagar ra khỏi nhà, vì bà không muốn Ismael, con của Hagar, được
đồng thừa tự với Isaac, con bà. Trong Phúc Âm, dân làng Gadara, vì quá quan tâm
đến sự thiệt hại của đàn heo, và không quan tâm đến sự lành mạnh tinh thần của
hai con người; nên đã lạnh nhạt mời Chúa ra khỏi làng, để họ tiếp tục sống nô lệ
cho ma quỉ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa
vượt xa tính ích kỷ nhỏ nhen của con người.
1.1/ Cách cư xử ích kỷ và
bất công của bà Sarah: Đọc Sách Sáng Thế,
chúng ta biết rõ lý do tại sao Hagar có con với Abraham: đó là do kế hoạch của
bà Sarah, vì bà không thể sinh con cho Abraham có con nối giòng. Nhưng khi được
Thiên Chúa đoái thương và ban cho bà có một con trai là Isaac trong lúc tuổi
già, bà đổi ý định và đày đọa Hagar và con của nàng.
Khi bà Sarah thấy đứa
con mà Hagar, người Ai-cập, đã sinh ra cho ông Abraham, đang cười giỡn, bà liền
nói với ông Abraham: "Ông hãy đuổi hai mẹ con đứa nữ tỳ này đi, vì con
trai đứa nữ tỳ không được thừa kế cùng với Isaac, con trai tôi." Lý do
chính bà lo lắng là Ismael sẽ được cùng thừa kế gia tài của Abraham để lại với
Isaac con bà!
Sự việc xảy ra là hoàn
toàn do ý định của bà Sarah, lẽ ra bà phải có can đảm lãnh trách nhiệm do quyết
định của mình, bà lại đổ xuống trên Abraham và mẹ con Hagar. Ông Abraham rất bực
mình vì lời ấy, bởi đó là con ông. Nhưng Thiên Chúa phán với ông Abraham:
"Đừng bực mình vì chuyện đứa trẻ và người nữ tỳ của ngươi. Tất cả những gì
Sarah nói với ngươi, cứ nghe, bởi vì chính nhờ Isaac mà ngươi sẽ có một giòng
dõi mang tên ngươi. Còn con trai của người nữ tỳ, Ta cũng sẽ làm cho nó thành một
dân tộc lớn, vì nó là giòng dõi ngươi."
1.2/ Kế hoạch của Thiên
Chúa cho mẹ con Hagar: Nghe lời Thiên Chúa,
sáng hôm sau, ông Abraham dậy sớm, lấy bánh và một bầu da đựng nước đưa cho
Hagar. Ông đặt đứa bé lên vai nàng và bắt nàng phải đi.
(1) Phản ứng của
Hagar: Mẹ góa con côi, hành trang lên đường chỉ có ít bánh và nước. Nàng đi mà
không biết đi về đâu. Chán nản, mệt mỏi, tuyệt vọng ... Khi nước trong bầu da
đã cạn, nàng vất đứa bé dưới một bụi cây, rồi đi ngồi đối diện, cách xa khoảng
tầm cung bắn. Nàng nói: "Sao cho tôi đừng nhìn thấy đứa bé chết!"
Nàng ngồi đối diện và bật tiếng khóc.
(2) Thiên Chúa vẫn rộng
tình thương: Thiên Chúa nghe thấy tiếng đứa trẻ và từ trời Ngài sai sứ thần đến
an ủi Hagar: "Sao thế, Hagar? Đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nghe thấy tiếng đứa
trẻ, ở chỗ nó nằm. Đứng lên! Đỡ đứa trẻ dậy và ôm nó trong tay, vì Ta sẽ làm
cho nó thành một dân tộc lớn." Thiên Chúa mở mắt cho nàng, và nàng thấy một
giếng nước. Nàng đi đổ nước đầy bầu da, rồi cho đứa trẻ uống. Thiên Chúa ở với
đứa trẻ, nó lớn lên, sống trong sa mạc, và trở thành người bắn cung.
(3) Hậu quả của cách
cư xử của bà Sarah: Chúng ta không phủ nhận tình thương và sự quan phòng của
Thiên Chúa; nhưng mối thù truyền kiếp giữa dân tộc Do-thái và người Hồi-giáo là
do kết quả của hành động thiếu khôn ngoan của bà Sarah. Abraham là tổ phụ của cả
hai bên: Do-thái và Hồi-giáo. Nếu bà biết khiêm nhường dàn xếp để bà và Hagar
có thể ở chung một nhà, và hai con trẻ Isaac và Ismael có thể cười giỡn và đối
xử với nhau như anh em; mối thù truyền kiếp chắc đã không xảy ra và kéo dài như
ngày nay.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu trục
xuất quỉ thần ra khỏi hai người.
2.1/ Chúa Giêsu đương đầu
với quyền lực ma quỉ: Khi Đức Giêsu sang bờ
bên kia của Biển Hồ đến miền Gadara, có hai người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả
ra đón Người; chúng rất dữ tợn, đến nỗi không ai dám qua lại lối ấy. Gặp Chúa
Giêsu, chúng la lên rằng: "Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi can gì đến
ông? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây làm khổ chúng tôi sao?"
(1) Thiên Chúa và ma
quỉ không thể ở chung: chỗ nào có sự hiện diện của Thiên Chúa, là không có sự
hiện diện của ma quỉ và ngược lại. Ma quỉ biết Thiên Chúa sẽ tiêu diệt chúng
vĩnh viễn trong Ngày Phán Xét. Thời gian trước ngày đó, chúng được quyền cám dỗ
con người. Đó là lý do chúng nhắc khéo Chúa Giêsu là "chưa tới lúc" để
Ngài tiêu diệt chúng.
(2) Kế hoạch của ma quỉ:
Nhiều người thắc mắc tại sao ma quỉ xin nhập vào đàn heo và tại sao chúng lại
lao xuống biển? Ma quỉ rất khôn ngoan, chúng đã có sẵn kế hoạch để dân làng mời
Chúa Giêsu đi khỏi!
2.2/ Sợ hãi mất lợi tức
làm dân thành quyết định thiếu khôn ngoan: Trình
thuật của Matthew không cho biết số lượng của bầy heo lao xuống biển; trình thuật
của Marcô cho biết số lượng khoảng 2,000 con. Nhiều tác giả thắc mắc lý do tại
sao Chúa Giêsu cho quỉ nhập vào đàn heo để gây thiệt hại cho dân làng như vậy.
Chúng ta cần công bằng khi phán xét: Chúa Giêsu không phải là lý do chính gây
ra việc đàn heo lao xuống biển; ma quỉ là nguyên nhân chính và chúng có uy quyền
để gây ra thiệt hại cho đàn heo. Hơn nữa, mục đích của chúng khi gây thiệt hại
là để dân làng mời Chúa Giêsu đi khỏi, để chúng có dịp tác hại dân làng.
Đây chỉ là một ví dụ
trong muôn ngàn ví dụ dẫn chứng con người hành xử thiếu khôn ngoan và không
theo thứ tự ưu tiên của cuộc đời:
(1) Mời Đức Kitô ra khỏi
thành của họ: Mối liên hệ với Thiên Chúa phải là mối liên hệ được ưu tiên hàng
đầu; thế mà vì lợi nhuận vật chất, dân làng mời Chúa Giêsu ra khỏi làng của họ,
để họ tiếp tục sống dưới ảnh hưởng của quỉ thần. Chúng biết con người chỉ biết
nhìn lợi lộc thấp hèn như chúng đã từng cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc.
(2) Coi linh hồn và an
sinh của con người thua kém một bầy heo: Mối liên hệ giữa con người với con người
phải được đặt trên những lợi lộc vật chất; thế mà dân làng không vui vì hai con
người được chữa lành và từ nay không gây thiệt hại cho dân làng nữa, nhưng buồn
giận vì đàn heo bị thiệt hại!
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Con người chỉ biết
nhìn lợi lộc trước mắt, Thiên Chúa quan tâm đến tương lai. Chúng ta cần học
cách đối xử công bằng của Thiên Chúa, để tránh thiệt hại cho tương lai.
- Con người luôn nhìn
lợi lộc vật chất, Thiên Chúa quan tâm đến sự lành mạnh của linh hồn. Chúng ta cần
học biết cách suy xét và hành động như Thiên Chúa.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
Th.
An-tôn Ma-ri-a Da-ca-ri-a, linh mục Mt 8,28-34
“ĐI
ĐI!”
Người bảo: “Đi đi.” Chúng liền ra khỏi hai
người đó và nhập vào bầy heo. Thế là tất cả bầy heo từ trên núi lao xuống
biển và chết đuối hết. (Mt 8,32)
Suy
niệm: Trong cuộc đời công
khai, cùng với việc rao giảng, chữa bệnh, Chúa Giê-su còn khử trừ ma quỉ. Bài Tin
Mừng hôm nay cho thấy uy quyền của Ngài khi chữa lành cho hai người bị ma quỉ
đày đoạ dằn vặt, phải sống khổ sở nơi mồ mả. Chỉ cần một lệnh truyền mạnh mẽ
“Đi Đi!,” Ngài đã trục xuất chúng ra khỏi người bệnh, trả lại cho họ sự tự do
và phẩm giá của con người. Chúa Giê-su “xuất hiện là để phá hủy công
việc của ma quỉ” (1 Ga 3,8) và Ngài đến ‘tiêu diệt mọi quản
thần, mọi quyền thần và dũng thần rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa
Cha.’ (1 Cr 15). Như vậy, sứ mạng Đức Kitô nằm trong bối cảnh cuộc
chiến giữa hai vương quốc Thiên Chúa và vương quốc Sa-tan.
Mời Bạn: Các ki-tô hữu nhận ra
bao điều kỳ diệu Chúa đã và đang thực hiện trên trần thế. Nhưng đồng thời họ
cũng ý thức rằng: đây cũng chính là nơi quỉ dữ đang hoành hành, mỗi ngày một
tinh vi hơn, mãnh liệt hơn. Hằng ngày họ tiếp tục sứ mạng của Thầy mình là
chiến đấu mở rộng Nước Trời và đẩy lùi vương quốc Sa-tan. Bạn nhớ rằng đấu
tranh vì tự do và phẩm giá của con người cũng chính là góp phần tiêu diệt thế
lực ma quỉ đang hoành hành trên thế gian này.
Chia sẻ: Sự dữ nào đang thống
trị xã hội chúng ta?
Sống Lời Chúa: Chống trả cám dỗ mạnh
mẽ ngay từ đầu, biết mau chóng nói: ‘đi đi’ khi thấy bóng dáng
tội lỗi xuất hiện.
Cầu
nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
xin cho con biết để cho Chúa thống trị
con người con, và biết dành trọn thì giờ, sức lực cho công việc xây dựng Nước
Chúa.
(5 phút Lời Chúa)
Đi đi (5.7.2017 – Thứ tư Tuần 13 Thường niên)
Quỷ hấp dẫn con người bằng quyền lực và tri thức của chúng. Nhưng thực sự chúng là kẻ thù không đội trời chung của con người.
Suy niệm:
Theo cha Gabrielle
Amorth, vị trừ quỷ chính của giáo phận Rôma,
“số người bị quỷ ám đã
gia tăng rất nhiều.”
Trong vòng tám năm, chính
cha đã trừ cho hơn hai mươi ngàn trường hợp.
Con số kinh khủng này hẳn
là một nhắc nhở cho những ai nghĩ rằng
quỷ vắng bóng trong thế
giới của khoa học kỹ thuật,
quỷ chỉ là huyền thoại
của thế giới cách đây hai ngàn năm thời Đức Giêsu,
hay quỷ ám thật ra chỉ là
bệnh thần kinh vào thời y khoa chưa phát triển.
Trong cuộc hội kiến vào
tháng 8-1986, Đức Gioan Phaolô đã nói
sự hiện diện của quỷ
trong thế giới “ngày càng trở nên ghê gớm hơn
khi con người và xã hội
quay lưng với Thiên Chúa.”
Tin Mừng hôm nay là trình
thuật đầu tiên về trừ quỷ của thánh Mátthêu.
Chuyện này đã được Máccô
kể lại với nhiều chi tiết hấp dẫn hơn (Mc 5, 1-20).
Nhưng trong Mátthêu,
khuôn mặt Đức Giê su lại nổi bật hơn nhiều.
Ngài đã cùng với các môn
đệ qua bờ bên kia sau khi gặp cơn bão biển.
Khi Ngài đến vùng đất của
người Gađara, ở phía đông nam Hồ Galilê,
hai người bị quỷ ám từ mồ
mả đi ra, đến gặp Ngài (c. 28).
Mồ mả là nơi dành cho
người chết, nơi bị coi là nhơ uế, nơi của thần dữ.
Có hai nét giúp ta nhận
ra sự hiện diện của quỷ nơi những người bị ám.
Họ rất dữ tợn đến nỗi
không ai dám qua lại con đường ấy (c. 28).
Họ nhận biết ngay Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa (c. 29).
Sức mạnh kinh khủng và sự
hiểu biết lạ lùng là thế mạnh của thần dữ.
Nhưng đây cũng là điểm
yếu của quỷ khi đứng trước Đức Giêsu.
Chính vì thế chúng hoảng
sợ khi thấy mình bị đe dọa:
“Chưa tới lúc mà ông đã
đến đây hành hạ chúng tôi sao?”
Đức Giêsu đến sớm quá và
khiến cho quyền lực của chúng phải sụp đổ.
Khi đọc bài Tin Mừng này,
chúng ta thường có nhiều câu hỏi.
Tại sao quỷ lại xin nhập
vào đàn heo? Tại sao Đức Giêsu lại đồng ý?
Đàn heo chết đuối thì quỷ
ra sao? Phải đền người chủ đàn heo thế nào?
Mátthêu có vẻ không quan
tâm đến những câu hỏi ấy.
Điều ông quan tâm là làm
nổi bật quyền năng của Đức Giêsu.
Chỉ một lời Ngài phán:
“Đi !” là đuổi được quỷ ra khỏi hai người.
Nước Trời đến đem lại
bình an cho hai người quỷ ám ở trong mồ mả,
và cho những ai qua lại
lối đi ấy.
Không thấy các người dân
ngoại chăn heo kêu ca về chuyện mất đàn heo,
nhưng họ lại trở nên
những người loan báo cho dân thành về mọi chuyện.
Tiếc là dân thành đã
không muốn đón tiếp Ngài.
Quỷ hấp dẫn con người
bằng quyền lực và tri thức của chúng.
Nhưng thực sự chúng là kẻ
thù không đội trời chung của con người.
Chúng phân ly con người,
đẩy người sống vào mộ người chết,
biến con người thành mối
đe dọa cho con người (c. 28).
Chúng thích có mặt ở đàn
vật ô uế, thích gieo vãi sự ô uế khắp nơi (c. 31).
Xin Chúa cho ta thấy được
sự lộng hành của quỷ dữ trong thế giới hôm nay.
Và xin Chúa cứu ta khỏi
nanh vuốt của ác thần.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
5 THÁNG BẢY
Tính Tự Trị Của Các
Vật Thụ Tạo
Mặc dù cách diễn tả của
Thánh Kinh gán quyền cai quản mọi loài trực tiếp cho Thiên Chúa, chúng ta vẫn
có thể nhận ra rõ ràng sự khác biệt giữa hành động của Thiên Chúa – Đấng Tạo
Hóa – và hoạt động của các thụ tạo. Đó là sự khác biệt giữa nguyên nhân đệ nhất
và các nguyên nhân đệ nhị. Đây là vấn đề rất thường được đặt ra bởi con người
thời nay: Thế giới thụ tạo có được sự tự trị và sự tự do đến mức nào? Đâu là
vai trò của con người trong việc phát minh, sáng tạo và xây dựng thế giới?
Theo đức tin Công
Giáo, sự khôn ngoan của Đấng Tạo Hóa làm cho sự quan phòng của Ngài có thể hiện
diện trong thế giới – trong khi thế giới thụ tạo vẫn có được một sự tự trị nào
đó theo quyền của mình. Công Đồng Vatican II đã đề cập đến mầu nhiệm này. Một
đàng, Thiên Chúa giữ gìn mọi sự và làm cho mọi sự có thể là chính chúng: “Chính
vì được tạo dựng mà mọi vật đều có sự vững chãi, chân thực, tốt lành cùng những
định luật và trật tự riêng” (MV 36). Đàng khác, nhờ cách thế mà Thiên Chúa cai
quản thế giới, các tạo vật – nhất là con người – có thể có được sự tự trị nào
đó “theo ý muốn của Đấng Sáng Tạo” (MV 36).
Sự quan phòng của
Thiên Chúa được diễn tả một cách chính xác trong “tính tự trị của các loài thụ
tạo”, trong đó cả sức mạnh lẫn sự ân cần của Thiên Chúa đều được thể hiện.
Chúng ta nhận ra rằng – đối với con người – sự quan phòng của Thiên Chúa sẽ vẫn
luôn luôn còn là một sự khôn ngoan nhiệm mầu bao trùm hết thảy mọi sự (“từ chân
trời này đến chân trời kia”). Sự quan phòng ấy được nhận ra nơi mọi sự với đầy
sức sáng tạo và với trật tự rõ ràng của nó. Tuy nhiên, nó vẫn còn chừa lại
nguyên đó vai trò của con người trong việc xây dựng và phát triển thế giới. Đó
chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa chúng ta.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 05-7
Thánh Antôn Maria
Zaccaria, linh mục
St 21, 5.8-20; Mt
8, 28-34.
Lời suy niệm: “Bấy giờ, cả
thành ra đón Đức Giêsu, và khi gặp Người, họ xin Người rời khỏi vùng đất của họ.”
Những người chăn heo ở
vùng đất Ghêrasa chứng kiến cuộc đối thoại của Chúa Giêsu với hai người bị quỷ
ám và Người đã chữa lành cho họ, Khi quỷ xuất khỏi họ, quỷ đã nhập vào bầy heo;
cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống hố và chết đuối hết. Và dân thành đã hoảng
sợ, họ xin Chúa rời khỏi vùng đất của họ. Điều này cho mỗi người chúng ta thấy
được: giá trị phẩm giá, nhân vị của một con người thua xa với mọi quyền lợi, của
cải của bản thân; là do lòng ích kỷ.
Lạy Chúa Giêsu, Xin
cho mỗi người trong chúng con biết hy sinh quyền lợi cá nhân của mình; mà sẵn
sàng cọng tác trong việc cứu giúp người khác.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 05-07: Thánh
ANTÔN MARIA GIACARIA
Linh mục (1502 -
1539)
Thánh Antôn Maria
Giacaria sinh năm 1502 tại Grêmôna, cha Ngài mất sớm, mẹ Ngài, người góa phụ trẻ
18 tuổi không còn biết tới hạnh phúc nào hơn trên trần gian là đào tạo tâm hồn
người con nhỏ của mình. Thấy con thích làm việc hơn là chơi giỡn và biết kiên trì
hy sinh hãm mình, bà rất mừng rỡ, chính bà cũng phát huy tình bác ái đối với
người nghèo khổ, làm gương cho con.
Thành Grêmôna nơi
Antôn sinh trưởng vừa mới hết chiến tranh. Sau cuộc chiếm đóng của người Pháp,
dân thành lại phải chiến đấu với Ludorse Sforza. Tình cảnh thật khốn khổ. Ngày
kia trên đường về học, cậu bé Antôn đã cởi tấm áo thêu của mình cho người nghèo
mặc. Thấy vậy, người mẹ đã âu yếm ôm con vào lòng. Từ đó Antôn xin cho con được
ăn mặc bình thường, có khi còn nhịn phần ăn cho người nghèo nữa.
Thân mẫu Antôn đã chọn
cho Ngài những bậc thầy nổi danh về văn chương Hy lạp và Latinh. Vào tuổi 15,
Antôn đã theo môn triết học ở Pavie, rồi lại theo đuổi y học ở Padua. Ở đại học
người ta chế nhạo nếp sống nghèo khó của Ngài. Tốt nghiệp phải cấp bằng tiến sĩ
ưu hạng, Ngài được rất nhiều khách hàng tín nhiệm. Nhưng đây lại là thời
Luthênô nổi dậy. Antôn bỏ nghề thuốc để theo môn thần học.
Antôn Giacaria bắt đầu
tụ tập trẻ em lại, Ngài nói cho chúng nghe về các chân lý cao trọng. Cha mẹ
chúng cũng thường tới nghe dạy. Họ nói: - Nào chúng mình đến nghe thiên thần của
Chúa.
Tay cầm thánh giá,
thánh nhân rảo qua khắp các đường phố nói về ơn cứu chuộc và việc thống hối.
Nơi nào bị chế nhạo, bị xỉ nhục, Ngài càng năng lui tới hơn.
Năm 1528, lúc được 36
tuổi, Antôn được thụ phong linh mục. Ngài đến ở Milan, thăm viếng các người đau
khổ trong các nhà thương, nhà tù, nơi các xóm nghèo. Các nghĩa cử Ngài làm đã
mang lại cho Ngài danh hiệu "người cha dân tộc". Ngài ngồi tòa hàng
giờ để phục sinh các linh hồn. Ngài chống lại phái thệ phản và đối đầu với bất
cứ ai muốn tấn công đức tin tinh tuyền. Cha Antôn có hai người bạn tông đồ là
Mariggia và Ferrari. Đức giáo hoàng truyền cho các Ngài lập một hội dòng mới,
các tu sĩ dòng thánh Phaolô. Các Ngài được trao cho việc coi sóc thánh đường
thánh Barnabê, nên người ta gọi các Ngài là các cha Barnabê.
Thánh Antôn Maria
Giacaria thường nói với các môn sinh: - "Đặc tính của những tâm hồn đại lượng
là phục vụ không mong phần thưởng, chiến đấu không chờ lương bổng. Hãy tiến tới
không ngừng và hướng tới sự hoàn thiện cao cả hơn. Hãy nói với Chúa Giêsu bị
đóng đinh về tất cả những gì bạn thấy và lãnh ý Người, cho mình và cho người
khác".
Ngài dạy họ phải quen
với những phỉ báng khinh miệt nhưng không làm như vậy được nếu không hướng trọn
ý tưởng về với Chúa, và nếu kinh nguyện chưa nên của ăn nuôi sống linh hồn. Các
linh mục và cả hàng giáo sĩ đã bắt đầu. Chiều về anh em họp nhau lại để thú tội.
Thánh nhân còn dẫn anh em rảo qua đường phố bằng cách vác Thánh giá mà rao giảng.
Họ còn tự động cột giây vào cổ, làm những việc nặng nhọc trong khi một số khác
đi ăn xin cho người nghèo.
Thấy vậy, nhiều người
thống hối và cải thiện đời sống. Thánh Antôn còn cổ động lòng sùng kính Thánh
Thể khuyên năng rước lễ hơn. Thời đó người ta chỉ rước lễ một hai lần trong
năm. Trước sự đổi mới này, nhiều người coi sự nhiệt thành của Ngài là cuồng tín
dị đoan. Thánh nhân vẫn an lòng và cảm nghiệm điều Ngài thường nói: - Bạn sẽ được
thấp nhập vào Chúa đến độ không còn lo tưởng đến những sự trên thế gian này nữa.
Năm 1530, Ngài giúp nữ
công tước Torelli thành lập một hội dòng nữ. Đức giáo hoàng Phaolô III đã chuẩn
y hội dòng này và đặt tên là "Dòng chị em các thiên thần".
Năm 1536, cha Antôn
Giacaria từ chức bề trên nhà dòng mà Ngài đã giữ từ đầu để đi truyền giáo. Ngài
rao giảng Phúc âm và giải hòa các cuộc tranh chấp. Công việc thật bề bộn, không
thể lường trước được, dầu vậy thánh nhân vẫn trung thành với tác vụ, các cuộc
tĩnh tâm và thư tín.
Tuy nhiên lần này, tại
Guastalla, thánh nhân đã kiệt sức. Xa các môn sinh, Ngài lui về với thân mẫu.
Bà khóc lóc khi thấy con. Nhưng Antôn nói:- Mẹ ơi ! Mẹ đừng khóc nữa. Chẳng bao
lâu rồi mẹ cũng được vui mừng với con trong vinh quang bất tận mà bây giờ con
đang tiến vào.
Ba giờ chiều ngày 5
tháng 7 năm 1593, linh mục trẻ 36 tuổi Antôn Maria Giacaria thở hơi cuối cùng
trong tay mẹ hiền.
(daminhvn.net)
05 Tháng Bảy
Con Người Tự Do
Ðại thi hào
Rabindranath Tagore của Ấn Ðộ có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Khi còn trẻ, tôi cảm
thấy tràn đầy năng lực... Một buổi sáng nọ, tôi ra khỏi nhà và hô lớn:
"Tôi sẵn sàng phục vụ bất cứ ai muốn". Thế là tôi hăm hở lên đường và
trong tư thế sẵn sàng phục vụ bất cứ ai chờ đợi. Từ đằng xa, đức vua và đoàn
tùy tùng tiến đến. Vừa nghe tiếng tôi, ngài đã dừng lại và nói với tôi:
"Ta đưa ngươi vào cung hầu hạ ta và bù lại, ta sẽ ban cho ngươi quyền
hành". Ngẫm nghĩ, không biết dùng quyền hành để làm gì, tôi đành lặng lẽ bỏ
đi...
Tôi tiếp tục ra đi
và hô lớn: "Tôi sẵn sàng phục vụ bất cứ ai muốn". Chiều hôm đó, có một
cụ già ngỏ ý thuê tôi và để đền bù, cụ cho tôi những đồng bạc mà âm thanh vang
lên như bản nhạc. Nhưng tôi cảm thấy không cần tiền bạc, cho nên đành tiếp tục
ra đi.
Tôi tiếp tục ra đi
và tiến gần đến một căn nhà xinh đẹp. Một em bé gái xinh đẹp chào tôi và đề nghị
với tôi: "Tôi thuê anh và bù lại, tôi sẽ tặng cho anh nụ cười của
tôi". Tôi cảm thấy do dự. Một nụ cười sẽ kéo dài bao lâu? Chỉ trong chớp
nhoáng, cô bé đã biến vào bóng tối...
Khi tôi rời bỏ căn
nhà xinh đẹp, thì trời cũng đã tối. Tôi ngã người trên thảm cỏ và ngủ thiếp.
Sáng ngày hôm sau, tôi thức giấc trong sự mệt mỏi. Khi mặt trời vừa lên, tôi đi
lần ra bãi biển. Một cậu bé đang chơi đùa trên cát. Vừa thấy tôi, nó ngẩng đầu
lên, mỉm cười như thể đã từng quen biết với tôi. Một lúc sau, nó nói với tôi:
"Tôi sẵn sàng thuê anh và bù lại, tôi không có gì để cho anh cả". Tôi
đón nhận ngay giao kèo của cậu bé. Và chúng tôi bắt đầu chơi đùa với nhau trên
bãi cát. Những người qua lại ngỏ ý muốn thuê tôi, nhưng tôi từ chối, bởi vì từ
ngày hôm đó, tôi mới thực sự cảm thấy mình là một con người tự do.
Không gì quý bằng độc
lập tự do: không chừng câu khẩu hiệu quen thuộc này ứng dụng một cách rất xác
thực vào đời sống Ðức Tin của chúng ta... Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là Ðấng
Cứu Thoát, bởi vì Ngài đến để giải phóng chúng ta, Ngài đến để làm cho chúng ta
được tự do. Và tự do mà Ngài mang lại cho chúng ta là gì nếu không phải là tự
do khỏi tội lỗi, tự do khỏi đam mê, tự do khỏi ích kỷ, tự do khỏi danh vọng, tiền
bạc và tất cả những gì ràng buộc con người...
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét