15/07/2017
Thứ Bảy tuần 14 thường niên
Thánh Bônaventura, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh.
Lễ nhớ
Bài Ðọc I: (Năm I) St
49, 29-33; 50, 15-24
"Thiên Chúa sẽ thăm viếng anh em, và dẫn anh em ra khỏi đất
này".
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy,
Giacóp trối lại cho các con rằng: "Cha sắp về sum họp cùng dân cha. Các
con hãy chôn xác cha gần mồ cha ông, trong hang đôi ngoài cánh đồng của Êphron,
người Hêthê, ngang thung lũng Mambrê trong đất Canaan, mà Abraham đã mua của
Êphron, người Hêthê, để làm nghĩa trang. Nơi đó đã mai táng Abraham và bạn ông
là Sara, nơi đó cũng đã mai táng Isaac và bạn ông là bà Rébecca, nơi đó cũng đã
mai táng bà Lia". Trối cho các con xong, Giacóp rút chân lên giường và
trút hơi thở, trở về sum họp với dân người.
Khi Giacóp đã qua đời,
anh em của Giuse lo sợ và nói với nhau rằng: "Có khi Giuse còn nhớ sự sỉ
nhục đã phải chịu mà trả đũa lại điều ác mà chúng ta đã làm chăng?" Họ liền
sai người đến nói với Giuse rằng: "Trước khi chết, cha ngài đã trối lại
cho chúng tôi là hãy lấy lời cha mà nói với người rằng: "Cha xin con hãy
quên tội ác và lỗi lầm của các anh con đã làm cho con". Chúng tôi cũng xin
ngài tha thứ tội ác của các tôi tớ Thiên Chúa của cha ngài". Nghe vậy,
Giuse bật khóc lên. Các anh em của Giuse đến sấp mình xuống đất mà nói rằng:
"Chúng tôi là tôi tớ của ngài". Giuse đáp rằng: "Anh em đừng sợ!
Nào chúng ta có thể chống lại thánh ý Chúa sao? Các anh đã lo nghĩ sự dữ cho
tôi, nhưng Thiên Chúa đã đổi nó ra sự lành để tôi được vinh hiển như anh em thấy
hôm nay và để cứu sống nhiều dân tộc. Anh em đừng sợ, chính tôi sẽ nuôi dưỡng
anh em và con cái anh em". Ông đã an ủi và lấy lời êm dịu hiền lành mà nói
với anh em.
Giuse và gia quyến cha
của ông đã cư ngụ trong nước Ai-cập, và ông sống được một trăm mười tuổi. Ông
đã được thấy con cái của Ephraim đến ba đời. Con cái của Makir, là con của
Manassê cũng đã sinh ra trên đầu gối Giuse. Các việc ấy đã qua đi, Giuse đã nói
cùng anh em: "Sau khi tôi chết, Thiên Chúa sẽ thăm viếng anh em, và dẫn
anh em ra khỏi đất này và đưa đến đất mà Người đã thề hứa ban cho Abraham,
Isaac và Giacóp".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 104, 1-2.
3-4. 6-7
Ðáp: Các bạn khiêm cung, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các
bạn hãy hồi sinh (Tv 68, 33).
Xướng: 1) Hãy ca tụng
Chúa, hãy hoan hô danh Người, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng
ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. - Ðáp.
2) Hãy tự hào vì danh
thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và
quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. - Ðáp.
3) Hỡi miêu duệ
Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn.
Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa
cầu. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia! -
Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều
lạ lùng của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 10, 24-33
"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: "Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ không hơn chủ
mình. Môn đệ được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là khá rồi. Nếu họ
đã gọi chủ nhà là Bêelgiêbul thì huống hồ là người nhà của Ngài. Vậy các con đừng
sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì
kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói
nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.
"Các con đừng sợ
kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con hãy sợ Ðấng
có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với
một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không
biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng
sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.
"Vậy ai tuyên
xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là
Ðấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó
trước mặt Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ðừng Sợ Người
Ðời
Mahatma Gandhi, nhà
tranh đấu bất bạo động cho quyền con người và nền độc lập của Ấn Ðộ, đã có lần
nhắn nhủ các môn sinh như sau: "Sự thật và tình thương sẽ chiến thắng. Hãy
suy nghĩ điều đó và hành động theo sự thật và tình thương. Ðừng bao giờ dùng bạo
lực đáp trả bạo lực, vì làm như thế là bắt chước lối sống man rợ của những người
dùng bạo lực. Khi dùng bạo lực, những người đó cho thấy nỗi thất vọng và trạng
thái thú hóa của họ. Chúng ta hãy sống như con người. Những người dùng bạo lực
có thể đánh đập và giết chết thân xác chúng ta, nhưng không thể giết được tinh
thần và quyền lợi của chúng ta, họ không thể giết được sự thật. Sự thật và tình
thương sẽ chiến thắng. Hãy suy nghĩ kỹ và hãy sống theo sự thật và tình thương,
bởi vì nếu sống theo bạo lực và hận thù, thì thế giới sẽ trở thành mù
lòa".
Ðã từng vào tù ra
khám, đã từng bị đánh đập hành hung, con người đã nói những lời trên đây chưa một
lần tỏ ra sợ sệt. Ngày 30/01/1948, ông ngã gục vì nhát gươm của một người quá
khích. Cái chết của ông là một cụ thể hóa của chính chủ trương bất bạo động mà
ông đã đề ra.
Sẵn sàng chết để làm
chứng cho sự thật và tình thương với niềm tin vào sự bất tử của linh hồn con
người, Mahatma Gandhi dù chưa phải là Kitô hữu, nhưng đã sống theo lời Chúa dạy
trong Tin Mừng hôm nay, đó là sống hiên ngang, không sợ hãi trước các cường lực
sự dữ, không sợ hãi những người chỉ giết được thân xác, nhưng không làm gì được
linh hồn; sống trung thực với phẩm giá của con cái Chúa, không để mình rơi vào
tình trạng hóa thú và nô lệ cho bạo lực: "Các con đừng sợ những kẻ giết được
thân xác, mà không giết được linh hồn".
Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta nhìn vào thực tế cuộc sống và tỏ ra thái độ phù hợp với người có lòng
tin. Từ chuyện phải vất vả kiếm sống đến chuyện tương lai của con cái và những
khó khăn trong việc sống đạo, chúng ta được mời gọi để múc lấy ánh sáng của Tin
Mừng và chiếu dọi vào những thực tế ấy. Là người Kitô hữu, tôi phải sống những
thực tại ấy thế nào? Lý tưởng của tôi là tìm mọi cách để có nhiều của cải vật
chất hay là tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính trước?
"Môn đệ không hơn
Thầy, tôi tớ không hơn chủ". Chúa Giêsu đã đi con đường của nghèo khó,
thua thiệt, bách hại, thập giá, tha thứ và tha thứ cho đến cùng. Nhưng Chúa
Giêsu không chỉ đề ra cho chúng ta một lý tưởng, một con đường để đi theo, Ngài
chính là con đường, là sự thật và là sự sống. Chúng ta tin rằng nếu chúng ta kết
hiệp với Ngài, chúng ta sẽ được sức mạnh của Ngài để thắng vượt mọi gian nan thử
thách. Chúng ta cũng tin rằng bên kia những hao mòn và chết chóc trong thân
xác, tâm hồn chúng ta sẽ được mãi mãi kết hiệp với Ngài.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 14 TN1,
Năm lẻ
Bài đọc: Gen
49:29-33, 50:15-24; Mt 10:24-33.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự thật sẽ
toàn thắng.
Thế gian là bãi chiến
trường giữa sự thật và sự gian tà, giữa sự thiện và sự ác, giữa Thiên Chúa và
ma quỉ, và giữa con cái ánh sáng và con cái của bóng tối. Thế gian dùng những
thủ đọan và áp lực để gây đau khổ cho con cái của ánh sáng, làm cho họ sợ hãi và
không dám sống cho sự thật. Thiên Chúa đòi con cái của Ngài đừng sợ hãi, hãy chấp
nhận đau khổ và làm chứng cho sự thật. Ngài sẽ cho họ sức mạnh để thắng vượt
gian khổ và chiến thắng khải hoàn.
Các Bài Đọc hôm nay tập
trung trong cuộc giao tranh này và những lời dạy quí hóa của Chúa Giêsu cho các
môn đệ. Trong Bài Đọc I, vì tổ-phụ Jacob đã trung thành sống theo những gì Chúa
răn dạy, nên Ngài đã bảo vệ ông cho đến lúc nhắm mắt lìa đời. Noi gương cha,
Giuse cũng làm những gì Chúa và cha căn dặn, ông sẵn sàng tha thứ cho các anh
em và cấp dưỡng cho gia đình họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải
có 3 thái độ tối quan trọng để có thể rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Ngài:
sẵn sàng chấp nhận đau khổ, không sợ hãi, và tuyệt đối tin tưởng vào sự quan
phòng của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I:
1.1/ Thiên Chúa luôn bảo
vệ các tôi trung của Ngài: Sau khi đã đoàn tụ
và sống bên con được ít lâu, ông Jacob biết sắp đến giờ ông phải từ biệt các
con để ra đi. Ông cho gọi các con tới và truyền cho họ rằng: "Cha sắp được
về sum họp với tổ tiên. Hãy chôn cất cha bên cạnh cha ông của cha, trong cái
hang ở cánh đồng của ông Ephron, người Hittite, trong cái hang ở cánh đồng
Machpelah, đối diện với Mamre, tại đất Canaan ... Ở đó đã chôn ông Abraham và vợ
ông là bà Sarah; ông Isaac và vợ ông là bà Rebekah; ở đó cha đã chôn bà
Leah." Khi truyền lệnh cho các con trai ông xong, thì ông Jacob rút chân
lên giường; ông tắt thở và được về sum họp với tổ tiên.
Thiên Chúa đã hứa với
Jacob trước khi xuống Ai-cập: Ngài sẽ bảo vệ ông và sẽ cho Giuse vuốt mắt ông
trước khi lìa đời. Điều này đã hiện thực. Trong thị kiến cái thang, Thiên Chúa
hứa với ông: "Này Ta ở với ngươi; ngươi đi bất cứ nơi nào, Ta sẽ giữ gìn
ngươi, và Ta sẽ đưa ngươi về đất này, vì Ta sẽ không bỏ ngươi cho đến khi Ta
hoàn thành điều Ta đã phán với ngươi" (Gen 32:15). Ước nguyện của Jacob
trước khi chết cũng thành hiện thực: Các con ông đem xác ông về chôn trong phần
mộ của tổ tiên tại Hebron, vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
1.2/ Các anh vẫn không tin
Giuse có thể tha thứ cho họ:
(1) Phản ứng của các
anh: Các anh ông Giuse thấy cha mình đã chết thì bảo nhau: "Không khéo
Giuse còn hận chúng ta và trả lại cho chúng ta tất cả điều ác chúng ta đã gây
ra cho nó!" Vì thế, họ sai người đến nói với ông: "Cha của chú trước
khi chết đã truyền rằng: Các con hãy nói thế này với Giuse: "Thôi! Xin con
tha tội tha lỗi cho các anh con, vì họ đã gây ra điều ác cho con." Bây giờ
xin chú tha tội cho các kẻ làm tôi Thiên Chúa của cha chú!" Sau đó, các
anh ông đích thân đến cúi rạp xuống trước mặt ông và nói: "Này chúng tôi
là nô lệ của chú."
(2) Phản ứng của
Giuse: Ông Giuse muốn các anh nhận ra sự quan phòng của Thiên Chúa, nên ông nói
với họ: "Đừng sợ! Tôi đâu có thay quyền Thiên Chúa! Các anh đã định làm điều
ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt, để thực hiện điều
xảy ra hôm nay, là cứu sống một dân đông đảo. Bây giờ các anh đừng sợ, tôi sẽ cấp
dưỡng cho các anh và con cái các anh." Ông an ủi và chuyện trò thân mật với
họ.
Thiên Chúa có mắt,
Ngài không bỏ các tôi tớ trung thành tin tưởng vào Ngài. Ông Giuse nói với các
anh em: "Tôi sắp chết, nhưng thế nào Thiên Chúa cũng sẽ viếng thăm anh em
và đưa anh em từ đất này lên đất mà Người đã thề hứa với ông Abraham, ông Isaac
và ông Jacob."
2/ Phúc Âm: Không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ.
2.1/ Ba thái độ phải có của
người môn đệ Đức Kitô: Để trở thành môn đệ
trung thành của Đức Kitô, một người phải có ba thái độ sau:
(1) Sẵn sàng chấp nhận
gian khổ: "Nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em." Người môn đệ
Đức Kitô chắc chắn sẽ bị người đời bắt bớ, vì họ đã từng bắt bớ và giết Ngài.
Chúa Giêsu muốn các môn đệ Ngài phải nhớ rõ điều này: "Trò không hơn thầy,
đầy tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, đầy tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi.
Chủ nhà mà người ta còn gọi là Beel-zebul, huống chi là người nhà."
Trong khi rao giảng
hay làm việc tông đồ, người môn đệ chắc chắn sẽ gặp những người phê bình, chống
đối, đe dọa và bắt bớ. Lý do đơn giản là người môn đệ nói những điều người đời
không muốn nghe, và sự thật thì hay mất lòng. Một vài ví dụ dẫn chứng: người
môn đệ nói phải tuyệt đối trung thành trong ơn gọi gia đình đang khi khán giả
ngồi dưới đã từng ly dị; người môn đệ dạy phải hy sinh để báo hiếu cha mẹ đang
khi khán giả gởi cha mẹ vào các viện dưỡng lão; người môn đệ dạy phải sinh con
cái cho nhiều đang khi khán giả không muốn sinh thêm con.
(2) Không được sợ hãi
người đời: Nếu người môn đệ sợ làm người đời mất lòng, sợ bị phê bình hay bị chống
đối, người môn đệ sẽ không dám nói sự thật mà ông được kêu gọi để rao giảng;
ngược lại, ông sẽ tìm cách nói những gì mà khán giả thích, cho dẫu những điều
này không phải là những gì Chúa dạy. Đó là lý do Chúa Giêsu răn dạy các môn đệ:
"Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được
tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em
lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy
lên mái nhà rao giảng."
Khi làm chứng cho sự
thật, các môn đệ sẽ phải trả giá đắt, có thể phải hy sinh cả tính mạng như trường
hợp của các thánh tử đạo; nhưng các ngài sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho sự thật,
vì các ngài tin Thiên Chúa sẽ trả lại thân xác vinh quang, và cho linh hồn các
ngài được sống đời đời.
(3) Phải tin tưởng nơi
sự quan phòng của Thiên Chúa: Để dạy các môn đệ điều này, Chúa Giêsu đưa ra hai
ví dụ: Thứ nhất, chim sẻ: Ngài nói: "Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào
phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Vậy
anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ." Thứ hai, tóc
trên đầu: Ngài nói: "Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi."
Tóc trên đầu con người quá nhiều và rụng xuống hàng ngày. Nếu một sợi tóc vô
nghĩa rơi xuống hàng ngày như vậy còn được Thiên Chúa quan tâm tới, huống hồ là
số phận của những người môn đệ Chúa.
Trong sự quan phòng của
Thiên Chúa, đau khổ là phương tiện Thiên Chúa dùng để thử thách niềm tin yêu của
con người dành cho Ngài. Nếu con người sợ hãi và trốn tránh đau khổ, con người
không chứng minh niềm tin yêu của họ dành cho Ngài.
2.2/ Phần thưởng cho những
môn đệ sống trung thành và làm chứng cho sự thật: Chúa Giêsu nói rõ ràng với các môn đệ: "Phàm ai
tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy
trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời." Ngược lại, "Ai chối Thầy trước
mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên
trời." Người nào không dám tuyên xưng danh Thầy mình, không dám nói những
sự thật Thầy dạy, người ấy không phải là môn đệ Đức Kitô. Trong Ngày Chung Thẩm,
Đức Kitô cũng không nhận những người như thế trước mặt Cha của Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đau khổ là khí cụ
Thiên Chúa dùng để thử thách con người, chúng ta đừng sợ hãi cũng đừng trốn
tránh đau khổ đến độ không dám tuyên xưng danh Chúa và làm chứng cho sư thật.
- Chúng ta hãy tuyệt đối
tin tưởng nơi tình yêu của Thiên Chúa quan phòng, để luôn can đảm sống như những
người con Thiên Chúa, sẵn sàng tha thứ, và làm ích cho mọi người.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
Th.
Bô-na-ven-tu-ra, giám mục, tiến sĩ HT Mt 10,24-33
“ĐỪNG
SỢ…” NHƯNG “HÃY SỢ…”
“Anh em
đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em
hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục.” (Mt 10,28)
Suy
niệm: Lời Chúa hôm nay dạy
chúng ta “đừng sợ”: đừng sợ bị khinh khi, đừng sợ những bách hại, đừng sợ cái
chết vì chính Ngài cũng trải qua những điều đó. Nhưng đồng thời Ngài cũng dạy
chúng ta biết sợ: “Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong
hỏa ngục.” Các ki-tô hữu đầu tiên đã để lại cho chúng ta một niềm tin
mẫu mực và tuyệt đối vào Đấng Phục Sinh: không sợ hãi trước những kỳ thị, bách
hại và kể cả cái chết. Và bao thế hệ ki-tô hữu nối tiếp, trong đó có cả cha ông
chúng ta cũng đã tin và để lại cho chúng ta những tấm gương can đảm của những
người không sợ chết nhưng lại biết sợ tội lỗi là cái còn tệ hại hơn cả cái
chết.
Mời Bạn: Chúng ta lắng lo nhiều
chuyện nhưng lắm khi chỉ là “lo bò trắng răng”: sợ bệnh tật, đói khát, sợ tai
nạn, thất nghiệp, sợ chết v.v… là những thứ “chỉ giết được thân xác chứ
không giết được linh hồn.” Chính cuộc sống hưởng thụ ích kỷ, chiều
theo đam mê, dục vọng mới là những điều đáng sợ. Bạn có đủ can đảm và vững tin
vào Lời Chúa để vượt qua nỗi sợ hãi và cám dỗ đó không?
Chia sẻ: Trong cuộc sống, nỗi
sợ nào làm bạn chao đảo niềm tin? Bạn vượt qua chúng bằng cách nào?
Sống Lời Chúa: Khi lo lắng sợ hãi,
bạn hãy nhớ Lời Chúa “đừng sợ”; khi cám dỗ đến gần, bạn đừng quên Lời Ngài “hãy
sợ”.
Cầu
nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con
biết “đừng sợ” những người “chỉ giết được thân xác”, nhưng xin giúp con “biết sợ”
tội để con luôn bước đi trong đường lối của Ngài.
(5 phút Lời Chúa)
Anh em đừng sợ (15.7.2017 – Thứ bảy Tuần 14 Thường niên)
Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi những nỗi sợ vu vơ, để chúng ta được tự do, biết lo điều phải lo, biết sợ điều phải sợ.
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm
qua, Đức Giêsu nhắc chúng ta đừng lo (c.19).
Hôm nay ba lần Ngài nhắc
chúng ta đừng sợ kẻ bách hại (cc. 26. 28.31).
Cuộc sống con người bị
trói buộc bởi những nỗi sợ,
có lý và vô lý, đến từ
bên ngoài hay từ bên trong trái tim.
Càng văn minh con người
càng có nhiều nỗi sợ mới.
Nỗi sợ làm người ta mất
tự do, mất bình an, mất vui…
“Đừng sợ” là điệp khúc
trấn an được Đức Giêsu nhắc lại nhiều lần.
Đừng sợ, Simon, khi Thầy
gọi anh đi theo (Lc 5, 10).
Đừng sợ khi Thầy đi trên
mặt nước mà đến (Mt 14, 27).
Đừng sợ sau khi thấy Thầy
được biến hình (Mt 17, 7).
Đừng sợ, Giairô, dù con
gái ông đã chết (Mc 5, 36).
Đừng sợ, hỡi các phụ nữ,
khi gặp Thầy phục sinh (Mt 28, 10).
Nỗi sợ có vẻ gắn liền với
phận người mong manh.
Nhưng Đức Giêsu muốn giải
phóng chúng ta khỏi mọi nỗi sợ.
Có người môn đệ sợ bị mất
mạng, đến nỗi không dám rao giảng,
không dám tuyên nhận Thầy
trước mặt người đời.
Đức Giêsu mời các môn đệ
nói công khai giữa ban ngày, trên mái nhà,
điều mình nghe Thầy thì
thầm trong đêm khuya (c. 27).
Họ không được giữ riêng
cho mình điều đã lãnh nhận.
Đừng sợ cái giá phải trả
cho việc rao giảng, làm chứng cho Thầy,
vì có điều gì còn quý hơn
cả sự sống thân xác nữa (c. 28).
Trong Vườn Dầu, Đức Giêsu
cũng sợ chết, vì Ngài còn quá trẻ.
Nhưng Ngài đã không để
cho nỗi sợ thắng mình,
khi dám nói tiếng xin
vâng, buông đời mình trong tay Cha.
Cha lo cho cả những sinh
vật bé nhỏ, tưởng như vô giá trị.
Chim sẻ là thức ăn rẻ
tiền nhất vào thời Đức Giêsu.
Tiền lương một ngày mua
được ba chục con chim sẻ.
“Thế mà không một con nào
rơi xuống đất ngoài ý Cha” (c. 29).
Cả đến sợi tóc của trên
đầu chúng ta cũng được Thiên Chúa đếm (c. 30).
Dù một sợi cũng được
Thiên Chúa giữ gìn (Lc 21, 18).
Chính vì thế người Kitô
hữu được giải phóng khỏi những nỗi sợ đeo đẳng.
Họ chẳng còn sợ ai, ngoài
Thiên Chúa.
Vấn đề không phải là trở
nên vô cảm, không biết sợ là gì.
Nhưng là biết sợ ai.
“Mày cùng chịu một án
phạt mà không biết sợ Thiên Chúa ư?”
Anh trộm lành đã nói với
người kia như vậy (Lc 23, 40).
Xin Chúa giải thoát chúng
ta khỏi những nỗi sợ vu vơ,
để chúng ta được tự do,
biết lo điều phải lo, biết sợ điều phải sợ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt
khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan
hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại
hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả
chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo
Chúa
mà không tính toán thiệt
hơn,
anh hùng vượt trên mọi
nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu
đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho
sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn
Lên
15 THÁNG BẢY
Con Người Tự Viết
Nên Lịch Sử Của Chính Mình
Được ban cho trí khôn
và linh hồn bất tử, con người bắt đầu hành trình của mình trong thế giới. Con
người bắt đầu viết nên lịch sử của chính mình. Thiên Chúa – trong sự quan phòng
của Ngài – luôn luôn sát cánh với con người mọi nơi mọi lúc trong cuộc hành
trình ấy. Cũng trong sách Huấn Ca, chúng ta đọc thấy: “Đường lối của chúng luôn
luôn ở trước mặt Ngài, và không bao giờ giấu mắt Ngài được” (Hc 17,15).
Tác giả Thánh Vịnh
cũng thốt lên cùng ý nghĩa này:
“Dù chắp cánh bay từ
phía hừng đông xuất hiện,
đến ở nơi chân trời
góc biển phương tây,
tại đó cũng tay Ngài
đưa dẫn,
cánh tay hùng mạnh giữ
lấy con…
Hồn con đây Ngài biết
rõ mười mươi;
xương cốt con Ngài
không lạ lẫm gì” (Tv139, 9-10.14-15).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 15-7
Thánh Bônaventura,
giám mục tiến sĩ Hội Thánh
St 49, 29-32; 50,
15-26a; M 10, 24-33.
Lời suy niệm: “Phàm ai
tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy sẽ tuyên bố nhận người ấy trước
mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy
cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.”
Chúa Giêsu đang nói rõ
với mỗi người Kitô hữu về sự trung tín của mỗi người cần phải có với Người. Nếu
mỗi người trong chúng ta trung tín với Người, hãnh diện Người là Chúa của mình
là Thiên Chúa của mình, thì ngay ở đời này và mãi mãi đời sau Người sẽ vui nhận
người ấy là con cái của Người trước mặt Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Chúng
con tạ ơn Chúa đã cho chúng con được sống trong Giáo Hội của Chúa. Xin cho
chúng con noi gương các thánh tử đạo Việt Nam giữ vững đức tin, trung thành tuyệt
đối với Chúa đến trọn đời.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 15-07: Thánh
BÔNAVENTURA
Giám mục, tiến sĩ hội
thánh.(1221 - 1274)
Sinh năm 1221 tại
Bagnorea, gần Viterbo, thánh Bonaventura là con ông Giovanni di Fidanza và bà
Ritella. Ngài được đặt tên là Giovanni, lúc lên bốn, Ngài lâm trọng bệnh vô
phương cứu chữa. Người mẹ vội ẵm Ngài tới gặp thánh Phanxicô khó khăn. Thánh
nhân thương cha mẹ dâng lời cầu nguyện và Giovanni hết bệnh. Sung sướng, người
mẹ kêu lên: "Obuona Ventura" (Ôi biến cố phúc hậu). Từ đó Giovanni
mang tên Bônaventura. Ngài theo học tại dòng anh em hèn mọn.
Tới tuổi 15,
Bonaventura theo học tại Paris, trung tâm ánh sáng thời đó. Ngài sống thanh
trong đến nỗi Alexandre de Hales nhận xét: - Anh giống như Adam chưa hề phạm tội.
Ngài kết thân với sinh
viên tài ba khác là Thomas Aquinô. Ngỡ ngàng về sự hiểu biết của bạn mình.
Thomas hỏi Bonaventura xem Ngài đã học sách nào ? Bonaventura chỉ cây thánh giá
trả lời: - Đây là nguồn mọi hiểu biết của tôi. Tôi học Chúa Giêsu bị đóng đinh.
Năm 1257, Ngài được chọn
làm bề trên cả dòng Phanxicô. Tình thế Ngài phải đối diện rất là phức tạp.
Trong dòng đang có sự phân rẽ giữa những người nhiệt tâm muốn tuân giữ nghiêm
nhặt luật dòng và những người muốn chước giảm. Nhờ sự thánh thiện và tài khéo
léo, Bonaventura đã giải quyết các vấn đề cách ổn thỏa, đến nỗi Ngài đang được
gọi là Đấng sáng lập thứ hai của dòng. Trong kỳ đại hội ở Narbonne 1250, Ngài
đã ban hành hiến pháp đầu tiên cho dòng. Sau đó Ngài liên tiếp thăm viếng không
biết mệt các tỉnh dòng để quan sát việc thực hiện bản quy luật này.
Chính Ngài tổ chức việc
học hành cho các giáo sĩ trong dòng, làm cho công cuộc tông đồ được phổ biến rộng
rãi đến cả những bậc thức giả lẫn giới bình dân. Chính Bonaventura là một nhà
dòng giảng thuyết có biệt tài. Ngài đã giảng thuyết từ các tu viện, tới các
thành phố ở Au Châu, trước mặt vua Luy IX Đức giáo hoàng. Luôn luôn Ngài thu phục
được cảm tình của thính giả.
Một thầy dòng khiêm tốn
tên là Gilles hỏi Ngài: - Các cha thông thái, được Chúa ban cho nhiều tài năng.
Còn chúng con, chúng con có thể làm gì được ?
Bonaventura trả lời: -
Nếu Chúa ban cho một người tài năng khác là ơn yêu mến Ngài thế là đủ rồi, và
là kho tàng quí báu nhất.
Thầy dòng hỏi tiếp: -
Một người không biết đọc biết viết có thể yêu mến Thiên Chúa như một nhà thông
thái biết mọi sự không ?
Thánh nhân trả lời: -
Chắc chắn rồi, một bà già có thể yêu Chúa hơn cả một nhà tiến sĩ thần học.
Thày dòng vui vẻ la lớn:
- Một bà già có thể yêu Chúa hơn cả cha Bonaventura của chúng ta nữa.
Ngài còn tiếp: - Biết
một chút về Chúa còn hơn là biết mọi sự trong trời đất.
Ngoài những hoạt động
bên ngoài ấy. Bonaventura còn lo viết sách để huấn luyện các tu sĩ và những
sách về triết học, thần học và thánh kinh. Chúng ta có thể kể đến cuốn
"chú giải luật dòng Phanxicô", "hạnh tích thánh Phanxicô"
nhất là cuốn "hành trình của linh hồn hướng về Thiên Chúa".
Trong nỗ lực xây dựng
Hội Thánh, Bonaventura luôn tỏ ra khiêm tốn. Người ta kể rằng: Đức giáo hoàng
Grêgoriô X truyền cho thánh Thomas và thánh Bonaventura soạn thảo bộ kinh lễ
Thánh Thể. Khi hai vị vào yết kiến đức giáo hoàng trình bày công việc, thánh
Bonaventura xé nát bản văn của mình.
Cùng với lời khiêm tốn
ấy, Bonaventura đã từ chối chức Tổng giám mục thành York mà Đức giáo hoàng
Clêment IV đề nghị, lòng khiêm tốn ấy không ngăn cản sự cương quyết và can đảm
của Ngài chống lại thuyết sai lầm của thuyết Aristote và Avéoes... Nhưng Đức
giáo hoàng Grêgoriô X đã quyết định đặt Ngài làm hồng y cai quản giáo phận
Albanô và truyền Ngài về Roma ngay.
Khi hai sứ thần mang
mũ hồng y đến, Ngài còn đang rửa chén. Ngày 28 tháng 5 năm 1273 Ngài nhận chức
và là cánh tay đắc lực của đức giáo hoàng. Phần đóng góp của Ngài vào sự hợp nhất
Giáo hội Hy lạp và Roma tại công đồng Lyon thật lớn lao.
Nhưng khi công đồng
Lyon còn đang nhóm họp thì Bonaventura từ trần ngày 14 tháng 7 năm 1274. Đức
Sixtô IV phong Ngài lên bậc hiển thánh năm 1482 và đức Sixtô V đã đặt Ngài làm
tiến sĩ Hội Thánh năm 1858. Người ta gọi Ngài là "Tiến sĩ sốt mến".
(daminhvn.net)
15 Tháng Bảy
Dây Chuyền Của Liên Ðới
Một người Ả Rập nọ
có một con ngựa rất đẹp... Ai thấy cũng gợi lòng tham muốn. Một người láng giềng
tìm đủ mọi cách để mua cho kỳ được con ngựa, nhưng chủ nhân vẫn một mực từ chối.
Không còn biết làm cách nào để thuyết phục chủ nhân, người đó đành phải nghĩ ra
mưu kế để chiếm đoạt.
Biết người chủ ngựa
thường hay đi qua sa mạc, hắn mới cải trang thành một người hành khất nằm rét
run bên vệ đường. Người chủ ngựa là một người tốt bụng, gặp bất cứ ai hoạn nạn
cũng đều ra tay cứu giúp. Vừa thấy người hành khất, người đó cảm thấy thương hại,
mới đề nghị trở về một quán trọ để săn sóc.
Khi người chủ ngựa
vừa mở miệng đề nghị, thì tên bất nhân mới than thở: "Ðã mấy ngày nay, tôi
không có được một hạt cơm trong bụng, lấy sức đâu để leo lên ngựa". Nghe
thế, con người tốt bụng xuống ngựa để giúp người hành khất leo lên lưng ngựa.
Nhưng vừa leo lên lưng ngựa, tên bất lương hiện nguyên hình... Hắn giựt dây
cương và thúc vào hông ngựa mà chạy... Người chủ ngựa đáng thương chỉ còn biết
nhìn theo mà hối tiếc! Nhưng ông cũng cố gắng chạy theo và nói với tên bất
lương như sau: "Ngươi đã ăn cắp con ngựa của ta. Nhưng ta sẵn sàng bỏ qua
cho. Ta chỉ xin ngươi một điều là đừng bao giờ kể cho bất cứ ai nghe mưu mẹo
ngươi đã dùng để cưỡng chiếm con ngựa của ta. Một ngày nào đó, sẽ có những người
bệnh thật sự nằm rên rỉ bên vệ đường và kêu cầu sự giúp đỡ. Ta e ngại rằng sẽ
không còn ai dám dừng lại để cứu giúp kẻ hoạn nạn nữa".
Dè dặt, thủ thế, nghi
kỵ có lẽ là thái độ thường tình của tất cả những ai đang sống dưới chế độ độc
tài. Lừa lọc, phản bội, tố cáo lẫn nhau đã khiến cho lòng người mỗi ngày một
thêm khép kín... Sợi dây chuyền của khép kín mỗi lúc một dài ra và quấn lấy con
người.
Mỗi một hành động xấu,
trong dây chuyền của tình liên đới, đều gia tăng đau khổ cho người khác. Khi
tôi lừa đảo, không những hành động của tôi chỉ trực tiếp hãm hại một vài người
có liên hệ, nhưng nó cũng góp phần giảm thiểu niềm tin của không biết bao nhiêu
người xung quanh. Khi tôi bạo động, không những tôi chỉ xúc phạm đến người
trong cuộc, nhưng hành động của tôi cũng xóa mờ đi phần nào lòng tự ái của nhân
loại... Tôi là một phần của nhân loại. Cả nhân loại sẽ đau đớn rên rỉ vì một vết
thương của tôi cũng như vì một nhát gươm của tôi.
Người Kitô luôn được mời
gọi để nhìn nhận hình ảnh của Chúa nơi mọi người và đón nhận mọi người như anh
em của mình. Trong cái nhìn ấy, cuộc sống của chúng ta phải luôn hướng đến người
anh em của chúng ta: niềm đau của người anh em cũng chính là niềm đau của chúng
ta, hạnh phúc của người anh em cũng chính là hạnh phúc của chúng ta.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét