08/08/2017
Thứ ba tuần 18 thường niên
Thánh Đaminh, linh mục.
Lễ nhớ
* Thánh nhân sinh quãng năm 1170, tại Ca-lê-ru-ê-ga, Tây Ban Nha. Người học thần học tại Pa-len-xi-a rồi làm
kinh sĩ giáo phận Ốt-ma. Trước hết, người quy tụ một số phụ nữ về sống tại Pơ-rô-vin-lơ (Pháp), theo một tu luật, rồi sau người lập Dòng Anh Em Thuyết Giáo tại Tu-lu-dơ để đối lại lạc giáo Ca-tha. Chính người đã chiến đấu với lạc giáo bằng lời giảng thuyết, bằng gương sáng và đã thu hoạch được kết quả khả quan. Người muốn các anh em trong Dòng phải sống khất thực, và lời giảng dạy phải xuất phát và được nuôi dưỡng bằng chiêm niệm. Người đã đặt trung tâm Dòng ở Rôma trước khi qua đời ở Bô-lô-nha ngày 6 tháng 8 năm 1221.
BÀI ĐỌC I: Ds 12,
1-13
"Môsê không như tiên tri khác; sao các ngươi dám nói xấu ông
ta?"
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy,
Maria và Aaron nói xấu ông Môsê, vì vợ ông này là người xứ Êthiôpia. Họ nói:
"Thiên Chúa chỉ phán với một mình Môsê mà thôi ư? Người chẳng phán cùng
chúng ta như thế sao?" Chúa nghe biết sự ấy - vì Môsê là người hiền lành
nhất trong thiên hạ - Chúa liền phán cùng Môsê, Aaron và Maria rằng: "Cả
ba hãy đến nhà xếp giao ước".
Khi cả ba ra đi, thì
Chúa ngự xuống trong cột mây, đứng ngay ở cửa nhà xếp, gọi Aaron và Maria. Hai
người tiến tới, và Chúa phán rằng: "Hãy nghe lời Ta nói đây: Nếu trong các
ngươi có ai là tiên tri của Chúa, thì Ta hiện ra cùng người ấy trong thị kiến;
hay Ta nói truyện với người ấy trong giấc mộng. Nhưng Môsê tôi tớ của Ta không
phải thế. Ông rất trung thành trong cả nhà Ta. Ta trực tiếp đối diện nói truyện
với ông, ông thấy Chúa tỏ tường, không bí ẩn hay là hình bóng. Vậy sao các
ngươi dám chê trách Môsê tôi tớ của Ta?" Chúa nổi giận họ mà bỏ đi, và đám
mây trên nhà xếp cũng bay đi. Thế là Maria bị phung cùi, mình trắng như tuyết.
Aaron ngoảnh lại thấy
bà ấy đã bị phung cùi, nên nói với Môsê rằng: "Thưa Ngài, xin đừng phạt
chúng tôi đã dại phạm tội. Xin đừng để em tôi nên như kẻ chết và như trẻ sinh
non? Đây phân nửa thịt nó đã bị bệnh phung cùi làm thối nát". Môsê kêu van
cùng Chúa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin Chúa cứu chữa bà ấy". Đó là lời
Chúa.
ĐÁP CA: Tv 50, 3-4.
5-6a. 6bc-7. 12-13
Đáp: Lạy Chúa, nguyện
thương con theo lòng nhân hậu Chúa, vì con đã phạm tội (c. 3a).
Xướng: 1) Lạy Chúa,
nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi.
Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Đáp.
2) Vì sự lỗi con thực
là con biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một
Thiên Chúa. - Đáp.
3) Con thi hành điều
ác trước thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê phán. Này coi, con đã
chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai con. - Đáp.
4) Ôi lạy Chúa, xin tạo
cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con.
Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi
con. - Đáp.
ALLELUIA: Tv 24, 4c và
5a
Alleluia, alleluia!
- Lạy Chúa, xin dạy bảo con lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân
lý của Ngài. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 14, 22-36
"Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi dân chúng đã ăn
no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước,
trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện
một mình. Đến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị
sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Canh tư đêm tối, Người
đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng
hồn mà nói rằng: "Ma kìa" và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức,
Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ".
Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi
trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúa phán: "Hãy đến". Phêrô xuống
khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh,
ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: "Lạy Thầy, xin cứu
con". Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: "Người hèn tin,
tại sao lại nghi ngờ?" Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những
người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!"
Khi đã sang qua biển hồ,
các ngài lên bộ và ghé vào Ghênêsarét. Nhận ra Ngài, dân địa phương liền loan
tin đi khắp cả vùng xung quanh, và người ta đem đến cho Ngài hết mọi kẻ ốm đau.
Họ nài xin Ngài cho họ rờ đến tua áo choàng của Ngài thôi, và ai đã rờ đến thì
đều được chữa lành. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Chúa Ði Trên
Biển
Thiên Chúa tỏ ra là một
nhà giáo dục đại tài: Ngài luôn tôn trọng tư tưởng, dự định của con người,
nhưng với thời gian và qua dòng lịch sử, Ngài thanh lọc, kiện toàn những gì
không phù hợp với Nước Trời. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người cũng
đi theo đường lối đó, như chúng ta có thể thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sau khi cho dân chúng
ăn no, Chúa Giêsu buộc các môn đệ lên đò sang bờ bên kia. Giải tán dân chúng
xong, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện một mình. Các môn đệ vâng lời Thầy ra đi,
nhưng có lẽ các ông không được hài lòng. Các ông đã hết sức kiên nhẫn chờ đợi
ngày Chúa Giêsu làm vua, cơ hội đó hôm nay đã đến, nhưng Chúa lại từ chối.
Không những bỏ lỡ cơ hội, Chúa còn ra lệnh cho các ông lập tức rời bỏ hiện trường.
Bất mãn, chán nản và mệt nhọc làm cho các ông ngã lòng. Chúa Giêsu biết rõ tâm
trạng của các ông, không những bằng ánh mắt và bằng cả cõi lòng khi Ngài cầu
nguyện trên triền núi. Ngài thấy các ông chèo chống ngược với sóng gió và ngược
với cả ý muốn. Chính lúc đó, Ngài đi trên mặt biển để đến với các ông. Ngài đã
làm như thế để các ông hiểu rằng Ngài có quyền năng trên các tạo vật, Ngài có
chương trình của Ngài và Ngài sẽ thực hiện chương trình ấy khi giờ của Ngài đến.
Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta đặt tất cả niềm tin vào quyền năng của Chúa. Ngài có chương trình cho
mỗi người chúng ta. Ðiều quan trọng không phải là chúng ta bắt Thiên Chúa làm
theo ý chúng ta, để rồi khi không được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền,
than trách Chúa. Trái lại, chúng ta hãy đặt hết tin tưởng vào Chúa, Ngài vẫn hiện
diện để sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Hãy phó thác vào quyền năng yêu thương của
Ngài và như thế tâm hồn chúng ta sẽ được bình an.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Tổ Phụ Đaminh (Ngày 8 tháng 8)
Bài đọc: Isa
52:7-10; 2 Tim 4:1-8; Mt 5:13-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Rao giảng Tin
Mừng để đưa các linh hồn về cho Chúa.
Cuộc đời của Thánh
Đa-minh có thể tóm gọn trong chủ đề: “Rao giảng Tin Mừng để đưa các linh hồn về
cho Chúa.” Thánh Đa-minh yêu mến Thiên Chúa nên muốn đem tất cả linh hồn về cho
Ngài, và cách thức Ngài dùng là “rao giảng Tin Mừng.” Câu châm ngôn trong cuộc
đời của thánh nhân là: “Chỉ nói với Chúa và về Chúa.” Khi ngài nói với Chúa là
lúc ngài cầu nguyện; khi ngài nói về Chúa là lúc ngài rao giảng Tin Mừng cho
tha nhân. Thánh Đa-minh kết hợp cả hai chiều kích của đời tu: chiêm niệm và hoạt
động. Người tu sĩ Đa-minh là người chiêm niệm và sau đó đem những gì mình đã
chiêm niệm chia sẻ cho tha nhân.
Đường lối dùng Tin Mừng
để đem các linh hồn về cho Thiên Chúa được đặt căn bản trên Lời Chúa trong ba
bài đọc hôm nay. Trong bài đọc I, ngôn-sứ Isaiah được Thiên Chúa cho thấy trước
ngày Thiên Chúa sẽ cứu độ dân của Ngài, và để cho Tin Mừng này được loan đi,
ngôn sứ thấy sự cao đẹp của những người rao giảng Tin Mừng. Còn gì đẹp hơn bước
chân của những người mang Tin Mừng của Thiên Chúa đến cho dân của Ngài đang đau
khổ! Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên môn đệ của ngài là Timothy phải kiên
trì trong việc rao giảng, vì ông sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc rao giảng Tin
Mừng. Các nhà giảng thuyết phải kiên nhẫn vượt mọi gian khổ mới có thể đưa các
linh hồn về cho Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, để có thể chu toàn thành công sứ vụ
rao giảng, nhà giảng thuyết phải kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, lắng nghe tiếng
của Ngài, và thực thi những gì Ngài dạy trước khi loan báo những lời này cho
tha nhân.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng,
công bố ơn cứu độ.
1.1/ Thiên Chúa cho dân trở về Sion từ nơi lưu đày: “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: "Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị." Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion.” Người loan báo Tin Mừng phải loan báo 3 điểm có liên quan mật thiết với nhau, mỗi điểm nói lên một khía cạnh của ơn cứu độ:
1.1/ Thiên Chúa cho dân trở về Sion từ nơi lưu đày: “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: "Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị." Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion.” Người loan báo Tin Mừng phải loan báo 3 điểm có liên quan mật thiết với nhau, mỗi điểm nói lên một khía cạnh của ơn cứu độ:
(1) Công bố bình an:
Bình an là một trong những chữ được tiên-tri Isaiah dùng nhiều nhất; nó không
phải là sự vắng mặt của chiến tranh, nhưng là quà tặng của Thiên Chúa ban cho
con người. Con người được hòa giải với Thiên Chúa; vì thế, con người có bình
an.
(2) Loan tin tốt lành:
Tin Mừng đến từ Thiên Chúa, Đấng Tốt Lành. Ngài ban phúc lành của Ngài cho con
người, nhất là tha thứ tội lỗi và cho được hưởng ơn cứu độ.
(3) Công bố ơn cứu độ:
Ơn Cứu Độ đến từ Thiên Chúa. Ơn Cứu Độ không chỉ giới hạn trong việc giải phóng
dân Do-thái khỏi lưu đày Babylon; nhưng bao gồm cả việc giải phóng dân khỏi tội
lỗi, và đem lại cho dân sự tốt lành và bình an.
Thiên Chúa là Vua hiển
trị, chính Ngài sẽ lãnh đạo dân. Những người canh gác của Thành Thánh Jerusalem
sẽ nhìn thấy Đức Chúa, và cất tiếng reo hò. Ngài sẽ cai trị dân và cho họ hưởng
bình an, những điều tốt lành, và ơn cứu độ.
1.2/ Mọi người sẽ nhìn thấy
Thiên Chúa cứu độ Jerusalem: Sự kiện Chúa giải
phóng dân Do-thái khỏi lưu đày Babylon và cho về lại Jerusalem, là một phép lạ
mà các dân trong vùng đều hay biết: không bằng sức mạnh quân sự, không bằng sức
cố gắng của dân Do-thái; nhưng bằng niềm tin tưởng của Cyrus, vua Ba-tư vào Thiên
Chúa. Tương tự khi Chúa Giêsu giải phóng dân khỏi tội bằng cái chết của Ngài
trên Thập Giá tại Jerusalem, nước Do-thái còn đang dưới ách đô hộ của Đế-quốc
Rôma.
2/ Bài đọc II: Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng lúc thuận tiện cũng
như lúc không thuận tiện.
2.1/ Những khó khăn trong
việc rao truyền Lời Chúa
(1) Lý do phải trung
thành rao giảng: Phaolô đưa ra hai lý do chính để chỉ thị Timothy phải trung
thành rao giảng Tin Mừng: Thứ nhất, Đức Kitô sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết;
không một ai và không một hành động nào của con người thoát khỏi sự phán xét của
Ngài. Thứ hai, Ngài sẽ xuất hiện và nắm vương quyền; lúc đó, Ngài sẽ trả công
cho mỗi người tùy theo việc làm của họ. Vì thế, anh “hãy rao giảng Lời Chúa,
hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm
đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ.”
Nhiều người chủ
trương: “gió chiều nào che chiều đó.” Khi hoàn cảnh xã hội đã đổi, họ cũng phải
thay đổi sao cho phù hợp; vì nếu không thay đổi sẽ bị người khác ghét và không
trở thành phổ thông. Vì thế, nhiều nhà rao giảng có khuynh hướng thay đổi cách
giảng dạy: họ chỉ nói những gì khán giả thích và tránh đề cập những tội mà khán
giả đang mang trong mình. Tiên tri Jeremiah đã tuyên sấm nặng nề cho các ngôn sứ
giả này: Họ sẽ phải chịu trách nhiệm về sự hư đi của khán giả.
(2) Khuynh hướng thay
đổi của con người: Phaolô nói trước cho môn đệ mình biết về sự thay đổi của
khán giả: “Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh,
nhưng vì ngứa tai, họ sẽ tìm kiếm cho họ những nhà rao giảng thích hợp với sở
thích của họ, và sẽ quay lưng lại với sự thật và hướng về những chuyện hoang đường.”
Điều này không lạ, vì theo tâm lý con người, họ không muốn ai làm cho họ phải cắn
rứt về những chuyện họ đang mang trong lòng; nhưng chỉ muốn ai khen những chuyện
họ làm hoặc nói những chuyện vui cười để giải trí. Nhà rao giảng Tin Mừng chân
chính không được chiều theo thị hiếu của khán giả, như Phaolô khuyên nhủ
Timothy: “anh hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc
của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh.”
2.2/ Hãy cố gắng dành cho
được phần thưởng không hư nát: Câu hỏi quan
trọng đặt ra cho mọi người: Họ muốn làm vừa lòng ai? Thiên Chúa hay con người?
Họ muốn làm vừa lòng Thiên Chúa để lãnh phần thưởng bất diệt là sự sống đời đời,
hay làm vừa lòng con người để lãnh phần thưởng mau hư nát. Thánh Phaolô cho
chúng ta một tấm gương để soi chung: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế,
đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết
chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho
người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi
trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết
tình mong đợi Người xuất hiện.”
3/ Phúc Âm: Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để
họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự
trên trời.
3.1/ Công dụng của muối: Không có gì rẻ và căn bản hơn muối; nhưng muối làm nhiều
điều hữu ích cho con người:
+ Muối tượng trưng cho
trong sạch tinh tuyền: vì được kết tinh bởi ánh sáng mặt trời và nước biển.
Kitô hữu là những người đã được rửa sạch bằng máu Đức Kitô và thấm nhuần mọi
quà tặng của Thánh Thần, họ phải trở nên thánh thiện và tinh tuyền trước khi
sinh ích cho người khác.
+ Muối dùng để ngăn ngừa
đồ ăn cho khỏi hư: Vì đặc tính mặn mà của muối, nên muối được dùng để làm cho
lương thực khỏi hư: thịt cá cần muối, rau cỏ cần muối như dưa, cà, kim chi,
trái cây cần muối nếu muốn để lâu. Ca dao Việt-nam dùng việc muối cá để nói lên
sự cần thiết của con cái phải vâng lời cha mẹ: “Cá không ăn muối cá ươn. Con
cãi cha mẹ trăm đường con hư.” Nếu điều này cần thiết cho con cái, những điều dạy
dỗ của Đức Kitô còn cần thiết hơn cho các Kitô hữu. Nếu không có vị mặn của muối,
làm sao các Kitô hữu có thể “ướp mặn lòng người.
+ Muối dùng để thêm
gia vị cho thực phẩm: Muối không thể thiếu trong việc nấu ăn, thực phẩm có ngon
tới đâu mà nếu không có chất mặn của muối hay nước mắm (cũng từ muối), cũng trở
thành vô vị. Người Kitô hữu đã được trang bị để trở thành muối cho đời. Điều cần
chú ý ở đây là Chúa Giêsu dùng động từ ở thời hiện tại “là;” có nghĩa: người
Kitô hữu đã và luôn có. Bản chất của Kitô hữu có những điều tốt để giúp cho thế
gian trở nên tốt.
3.2/ Công dụng của ánh
sáng: Biểu tượng này còn gần gũi với con người
hơn cả muối. Ánh sáng có rất nhiều công dụng.
+ Ánh sáng dùng để soi
sáng: Khi trời tối, con người cần ánh sáng để khỏi vấp ngã và tìm đồ đạc. Người
Kitô hữu có sự thật soi sáng để khỏi rơi vào sai lầm.
+ Ánh sáng dùng để sưởi
ấm: Khi trời lạnh, con người cần ánh sáng để sưởi ấm như ánh sáng mặt trời hay
lửa. Người Kitô hữu có Thánh Thần để sưởi ấm mọi cô đơn, buồn khổ.
+ Ánh sáng bảo vệ con
người khỏi nguy hiểm: Tội lỗi thường xảy ra ở nơi không có ánh sáng. Người làm
tội lỗi ghét ánh sáng vì họ sợ việc làm đen tối của họ bị phơi bày...
Chúa Giêsu nói: “Chính
anh em là ánh sáng cho trần gian.” Đã là ánh sáng thì không thể che giấu; nhưng
phải đặt trên cao để soi sáng cho mọi người, vì “chẳng có ai thắp đèn rồi lại để
dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà.” Mục
đích của việc soi sáng là để những người chưa biết Thiên Chúa “thấy những công
việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”
3.3/ Anh em đừng tưởng Thầy
đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ: Tất
cả Luật và Lời Thiên Chúa phán ra đều tốt lành và muôn đời không đổi vì phát xuất
từ Thiên Chúa và có khả năng giúp con người sống tốt lành; nhưng vấn đề là ở
phía con người. Một số những lý do làm con người hiểu sai Luật của Thiên Chúa:
(1) Không hiểu nguyên
tắc của Lề Luật và phiên dịch Luật theo ý mình: Ví dụ: Luật ngày Sabbath.
Nguyên tắc là để con người nghỉ ngơi và thờ phượng Chúa; chứ không phải để
tranh luận trong những vấn đề liên quan đến sự sống như: có nên chữa bệnh nhân
trong ngày Sabbath, có nên bứt bông lúa để ăn cho khỏi đói, vì đó thuộc lãnh vực
bảo vệ sự sống.
(2) Tạo thêm nhiều Luật
khác: Những nhà làm luật của Do-thái tạo thêm 615 luật từ những Luật Chúa ban
cho Moses, ấy là chưa kể những luật bất thành văn (truyền khẩu) vì vô tình hay
vì lợi nhuận (định nghĩa thế nào là của lễ thanh sạch). Những luật do con người
làm ra có thể thay đổi hay hủy bỏ.
Khi Chúa tranh luận những
việc liên quan đến Luật, Chúa muốn con người nhận ra đâu là Luật của Thiên Chúa
và đâu là luật của con người. Các kinh sư tranh luận với Chúa muốn đánh lừa mọi
người để kết tội Chúa như người phá bỏ Luật của Thiên Chúa. Ngài cũng muốn cho
họ nhận ra nguyên lý đứng đang sau là tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người,
chứ không giữ cách vụ luật.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Điều quan trọng nhất
trong cuộc đời là lo sao cho chúng ta và mọi người được về hưởng hạnh phúc với
Thiên Chúa, chứ không phải lo tìm của cải đời này.
- Chúng ta phải học hỏi
và sống Tin Mừng của Thiên Chúa trước khi có thể loan báo Tin Mừng đó cho tha
nhân.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
08/08/2017 - THỨ BA TUẦN 18 TN
Th. Đa-minh, linh mục
Mt 14,22-36
ĐỨNG VỮNG TRƯỚC SÓNG GIÓ
CUỘC ĐỜI
Ông Phê-rô từ thuyền bước
xuống đi trên mặt nước, và đến với Đức Giê-su. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm
sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt
14,29-30)
Suy niệm: Sóng gió là một phần của
cuộc đời. Và người Việt Nam có câu: “Có cứng mới đứng đầu gió.” Nhưng lấy gì
làm chắc rằng ta sẽ luôn đủ “cứng” để đương đầu với những bão táp phong ba
nhiều khi vừa rất khủng khiếp vừa rất bất ngờ? Không ít người đã đặt vấn nạn:
“Có Chúa, có Thượng Đế là Cha sao lại để con cái khổ sở vùi dập trong bất công
và chém giết lẫn nhau như thế?” Một chất vấn rất thách thức chúng ta mà câu trả
lời không bao giờ đơn giản và dễ dàng. Khi sóng gió cuộc đời ập đến: nghèo
túng, thất nghiệp, bệnh tật, hoạn nạn, thi hỏng, bị phản bội, bị bỏ rơi…, có
được bao nhiêu Ki-tô hữu biết kiên vững trông cậy vào Chúa và không chút nao
núng hoảng sợ? Hay chúng ta cũng dễ nghi ngờ và sụp đổ như Phê-rô ngày xưa,
không đủ ‘cứng’ để đứng đầu gió?
Mời Bạn: Trước những sóng gió cuộc đời, hãy nhớ lại
kinh nghiệm ‘xương máu’ của chính Thánh Phê-rô: “Vàng là của phù vân, mà còn
phải chịu thử lửa, huống chi đức tin của anh em là thứ quí hơn vàng gấp bội…”
(1Pr 1,7). Vâng, để lớn lên, đức tin của chúng ta cần phải được tôi luyện “giữa
trăm chiều thử thách.”
Sống Lời Chúa: Tập sống thân mật với
Chúa Giê-su, để trong bất luận hoàn cảnh nào bạn cũng được vững tâm vì nghe rất
rõ tiếng Chúa: “Thầy đây, đừng sợ.”
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
xin cho con biết tựa vào Chúa để luôn đứng vững trước mọi sóng gió xảy đến với
đời con. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Xin cứu con (8.8.2017 – Thứ ba Tuần 18 Thường niên)
Chúng ta tưởng Chúa bỏ rơi, Chúa vắng mặt, Chúa là ma làm ta sợ hãi. Đơn giản Chúa là Thầy biết cách làm ta trưởng thành qua kinh nghiệm.
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay là
một loạt những kinh nghiệm thiêng liêng.
Có thể chúng ta ít nhiều
đều đã có những kinh nghiệm này.
Thầy Giêsu là một nhà
giáo nhân từ và cương quyết.
Ngài giáo dục các môn đệ
bằng cách đưa họ vào những kinh nghiệm.
Kinh nghiệm bị Thầy bắt
buộc phải qua bờ bên kia (c. 22),
dù họ rất muốn ở lại bờ
bên này để nếm dư vị của thành công vừa rồi.
Sau phép lạ nhân bánh,
người ta định tôn Thầy lên làm vua (Ga 6, 15).
Chỉ cần Thầy gật đầu là
trò được chia sẻ tiếng tăm và quyền lực.
Các môn đệ đã bị ép lên
thuyền, ngay lập tức, lúc chạng vạng tối.
Kinh nghiệm bị sóng đánh
vì ngược gió.
Thuyền đã xa bờ mấy cây
số, tiến tới không được, lùi lại cũng không xong.
Vào lúc khó khăn ấy lại
không có Thầy ở trong thuyền.
Hầu như suốt đêm các môn
đệ phải vất vả chèo chống với sóng gió.
Họ phải tập chiến đấu
trong đêm tối khi không có Thầy ở bên.
Họ có nghĩ quyết định của
Thầy là sai lầm, vội vã không ?
Kinh nghiệm hốt hoảng, sợ
hãi và được trấn an.
Mãi đến lúc gần sáng,
Thầy Giêsu mới đi trên biển mà đến với các môn đệ.
Ngài đến khi họ chưa thấy
rõ mặt Ngài.
Ngài đến vào lúc bất ngờ
và đến theo cách bất ngờ, khiến họ khiếp kinh.
Ngài đến đem bình an mà
họ tưởng là ma quái đe dọa (c. 26).
Quả thật có những lúc
không dễ nhận ra là Chúa đang đến với mình.
Chúa đến làm các môn đệ
sợ hãi hơn cả sóng gió.
Nhưng “Cứ yên tâm, chính
Thầy đây. Đừng sợ !” (c. 27).
Kinh nghiệm tự đưa mình
vào một thách đố của lòng tin.
Một mặt Phêrô vẫn chưa
tin trọn vẹn khi nói câu: Nếu quả là Thầy…(c. 28).
Nhưng mặt khác ông lại rất
táo bạo khi dám xin ơn đi trên mặt nước.
Ông coi đó là cách thức
chắc chắn nhất để biết có phải là Thầy không.
Nếu đúng là Thầy thì Thầy
cũng có thể cho mình làm được như Thầy.
Chỉ cần Thầy truyền lệnh
là đủ, Phêrô tin như thế.
Kinh nghiệm đi trên mặt nước
và kinh nghiệm bị chìm.
Khi được Thầy cho phép,
Phêrô đã dám từ thuyền bước xuống biển động.
Và ông đã đi được một
quãng không rõ bao xa (c. 29).
Mặt nước cứng như đá hay
người ông trở nên nhẹ bổng?
Bây giờ thì đúng là Thầy
rồi, chỉ Thầy mới cho mình làm được như Thầy.
Phêrô sung sướng tiến về
phía Thầy với lòng tin đang lớn lên.
Nhưng khi gặp gió thổi
mạnh thì ông lại sợ, lại hoài nghi, yếu tin.
Ông mất tập trung vào sự
hiện diện quyền năng của Thầy và bị chìm.
Người ta có thể bị chìm
ngay khi biết Chúa ở trước mặt.
Kinh nghiệm được Thầy nắm
tay mà dắt vào thuyền.
Khi Phêrô kêu cứu, Thầy
Giêsu đã giữ ông khỏi bị nước nuốt chửng.
Sau đó hẳn hai Thầy trò
đã cùng nhau đi trên sóng mà về thuyền.
Khi cả hai lên thuyền thì
gió lặng, chẳng cần Thầy phải dẹp yên sóng gió.
Các kinh nghiệm môn đệ
vừa trải qua thật kinh khủng và gần gũi với ta.
Buồn bực, sợ hãi, căng
thẳng, bình an, nghi ngờ, chới với, hạnh phúc.
Đời Kitô hữu là một chuỗi
những kinh nghiệm như thế.
Chúng ta tưởng Chúa bỏ
rơi, Chúa vắng mặt, Chúa là ma làm ta sợ hãi.
Đơn giản Chúa là Thầy
biết cách làm ta trưởng thành qua kinh nghiệm.
Cuối cùng chúng ta sẽ
nhìn nhận: “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa” (c. 33).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy
sống đức tin giữa lòng cuộc đời
chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con
cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh
mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
8 THÁNG TÁM
Tìm Kiếm Câu Trả Lời
Bằng Con Mắt Đức Tin
Sự đau khổ được nhìn
qua con mắt đức tin – ngay cả dù vẫn có vẻ thật ảm đạm – sẽ cho phép chúng ta
nhận ra mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa. Mầu nhiệm này được tóm kết trong mạc
khải Đức Kitô, nhất là trong cái chết Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Người. Con
người vẫn không ngừng đặt ra những vấn nạn về sự dữ và đau khổ trong thế giới
thụ tạo, song chắc chắn con người không thể nào tìm thấy những lời giải đáp trực
tiếp được. Không thể tìm thấy sự giải đáp trực tiếp nếu không có một đức tin sống
động vào Đức Giê-su Kitô.
Nhưng dần dần, với sự
giúp đỡ của đức tin được nuôi duỡng bằng cầu nguyện, chúng ta có thể khám phá
ra ý nghĩa đích thực của những nỗi thống khổ mà mọi con người kinh nghiệm trong
đời. Sự khám phá này phụ thuộc vào lời mạc khải thần linh và vào “lời của thập
giá” Đức Kitô (1Cr 1,18) – thập giá chính là “sức mạnh và sự khôn ngoan của
Thiên Chúa” (1Cr 1,24).
Công Đồng Vatican II dạy
chúng ta: “Nhờ Đức Kitô và trong Đức Kitô, chúng ta được soi sáng về bí ẩn của
sự đau khổ và sự chết, bí ẩn này sẽ đè bẹp chúng ta nếu chúng ta không biết đến
Phúc Âm” (MV 22). Nếu nhờ đức tin, chúng ta khám phá ra sức mạnh và “sự khôn
ngoan” này, thì đấy là chúng ta đang bước đi trên con đường cứu độ của sự quan
phòng của Thiên Chúa. Ý nghĩa của lời Thánh Vịnh bấy giờ sẽ thành hiện thực
hoàn toàn đối với chúng ta:
“Chúa là mục tử chăn dắt
tôi …
Dù tôi đi trong thung
lũng tối tăm,
tôi vẫn không lo sợ
gì,
vì có Chúa ở cùng tôi”
(Tv 23,1-4).
Vâng, trong sự quan
phòng của Thiên Chúa, chúng ta nhận thấy rằng Thiên Chúa luôn sóng bước cùng với
con người.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 08- 8
Thánh Đa Minh, linh
mục
Ds 12, 1-13; Mt
14,22-36.
Lời suy niệm: “Lập tức, Đức
Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải
tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi mà cầu nguyện.”
Sau khi Chúa Giêsu hóa
bánh ra nhiều để nuôi dân nơi miền hoang vắng, dân chúng sau khi được no nê, họ
muốn tôn Người lên làm vua, và tinh thần của các môn đệ của Người cũng đang lên
cơn sốt vinh quang đó. Người biết đây là một lầm tưởng có thể dẫn đến một tình
trạng nguy hiểm, và các môn đệ của Người có thể làm cho tình trạng thêm rắc rối.
Nên Người đã tách các môn đệ ra khỏi đám đông, để một mình Người giải tán đám
đông ấy.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến
để phục vụ, nuôi sống và nâng cao phẩm giá con người. Xin cho chúng con luôn
tìm vinh quang trong cung cách của Chúa, để chúng con luôn sống trong bình an
và yêu thương.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 08-08
Thánh ĐAMINH
Linh mục (1170 -
1221)
Thánh Đaminh sinh tại
Castille, Tây Ban Nha, năm 1170. Truyện về tuổi trẻ của Ngài nói tới nhiều điềm
báo lạ lùng. Mẹ Ngài, bà Aza mơ thấy con mình như một con chó ngậm đuốc chạy khắp
cả thế gian. E ngại vì giấc mơ này bà làm tuần cửu nhật xin cho được sinh nở
vuông tròn đến ngày thứ bảy, vị chánh sở nói với bà : - Đừng sợ gì vì đứa trẻ
sinh ra sẽ trở thành ánh sáng thế gian và niềm an ủi cho Giáo hội, nhờ sự thánh
thiện và giáo thuyết của nó.
Khi trẻ Đaminh còn nằm
trong nôi, một bầy ong mật lượn quanh rồi êm ái đậu xuống nơi nôi Ngài. Điều
này báo trước rằng lời lẽ miệng Ngài sẽ êm dịu như mật ngọt. Ngày chịu phép rửa
tội, vú nuôi Ngài thấy một vì sao chói sáng trên trán Ngài. Đó là dấu ơn thánh
Ngài sẽ tỏa chiếu để thu hút các linh hồn.
Được cưng chiều, thánh
Đaminh sớm sống đời khổ hạnh. Ngài học hãm mình cầu nguyện khi vừa thôi nôi.
Người vú nuôi nhiều lần thấy Ngài âm thầm thức dậy trong đêm tối để cầu nguyện.
Ngài chọn một nơi thanh vắng ở cuối vườn làm nơi tâm sự với Chúa. Đức Trinh nữ
thường hiện ra với Ngài, dạy Ngài lần chuỗi. Việc đạo đức này về sau trở thành
phương thế hữu hiệu để cải hóa những người theo lạc giáo.
Đến tuổi đi học, Đaminh
được gởi tới thụ giáo với ông cậu là tổng linh mục ở Gumiel. Năm 14 tuổi, Ngài
theo học tại đại học ở Palencia và đã tiến triển rất nhanh về hiểu biết lẫn
nhân đức. Nạn đói lan tràn nước Tây Ban Nha, một người bạn đến thăm Đaminh
không thấy đồ dùng lẫn những pho sách quí đâu nữa. Ngài đã bán để giúp người
nghèo khó rồi. Gương sáng này đã lôi kéo được nhiều sinh viên lẫn các giáo sư bắt
chước.
Sau khi hoàn tất việc
học, Đaminh được đức Chadiegô, giám mục Osma truyền chức linh mục. Vị giám mục
đạo đức này đang muốn canh tân lòng đạo đức trong giáo phận, đã đặt cha Đaminh
làm kinh sĩ. Khi lo chuyện nhà nước qua Châu Âu, đức cha Diegô dẫn cha Đaminh
đi theo. Tại Languedoc, các Ngài được chứng kiến được tàn phá mà bè rối
Albigeois gây ra. Họ chủ trương rằng: mọi vật chất đều xấu và do ma quỉ. Sự
hoàn thiện theo họ, hệ tại sự từ bỏ phi nhân bản để sống khắc khổ. Chủ trương
này dẫn tới sự lãnh cảm. Chẳng hạn đối với việc hôn nhân và chôn vùi mọi cơ cấu
xã hội gia đình. Họ còn có lễ nghi, và phẩm trật riêng. Người ta bị phân thành
hai loại: một bên gồm những người hoàn thiện và những nhà lãnh đạo sống rất khắc
khổ; bên kia là quần chúng tìm thấy nơi giáo thuyết mới lý do bào chữa cho sự tự
do luân lý không bị kiềm chế của mình.
Trên đường về, đức cha
Diegô và cha Đaminh đến Roma xin từ nhiệm để dấn thân vào cuộc truyền giáo
quanh vùng Dniepen. Đức giáo hoàng Innocentê III từ lâu đã mong có người ra đi
rao giảng tại miền nam nước Pháp, chống lại ảnh hưởng của bè rối Albigeois,
thay vì chấp nhận lời thỉnh cầu, Đức giáo hoàng sai các Ngài tới miền nam nước
Pháp. Hai người đã tới phụ lực với các sứ giả đã được sai tới trước kia. Tại
Montpellier, đức cha Diegô đã nhận thấy sự khác biệt giữa các nhà giảng thuyết
công giáo đầy xa hoa với các nhà giảng thuyết phái Albigeois đầy khiêm tốn giản
dị. Các Ngài chọn đường lối khác, lấy khó nghèo và cầu nguyện làm gương sáng
thu hút mọi người. Tháng 4 năm 1207, nhiều tu sĩ Xitô đến trợ lực. Trong vòng một
năm trời, có đến 40 vị dấn thân vào hoạt động. Những thành công sơ khởi bắt đầu
tới, nhưng không kéo dài được lâu. Các tu sĩ Xitô nản lòng. Đức cha Diegô trở về
Tây Ban Nha kiếm thêm người trợ lực và qua đời tại đây. Một vị sự thần cũng từ
trần. Tệ hại hơn cả là Phêrô Castelman, vị sự thần khác, bị bọn lạc giáo ám
sát.
Còn lại mình cha
Đaminh. Ngài vẫn tiếp tục nhiệt tình hoạt động trong đường lối khổ hạnh và cầu
nguyện. Không chấp nhận kiểu rao giảng khua trống gióng chiêng, Ngài nói : -
Không thể đến với kẻ thù như vậy được. Hãy trang bị bằng kinh nguyện và chân
không mà đến với tên khổng lồ Goliath.
Trong sáu năm, cha
Đaminh trải qua nhiều sóng gió, ngay khi mới tới, đức cha Diegô và Ngài đã thiết
lập một cộng đoàn nữ tu tại Prouille. Bây giờ Ngài chỉ còn là trợ lực duy nhất,
một ngày kia trong khi nhiệt tình cầu nguyện, thánh nhân than thở tại sao số
người lạc giáo quá nhiều mà trở lại thì quá ít. Đức Trinh nữ đã hiện ra và dạy
Ngài hãy rao giảng phép lần hạt Mân Côi. Vâng lời Mẹ, thánh nhân dồn nỗ lực vào
việc truyền bá sự sùng kính kỳ diệu này, thay vì tranh luận như trước, Ngài dạy
dân chúng hiểu phương pháp và tinh thần khi lần chuỗi. Ngài dẫn giải cho họ các
mầu nhiệm thánh. Kết quả thật lạ lùng. Sau một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã
được an ủi khi thấy hơn một trăm ngàn người tội lỗi và những kẻ lạc giáo được
đưa trở về với Giáo hội.
Hoàn thành sứ mệnh,
thánh Đaminh có ý định thành lập một dòng tu làm vườn ươm các tông đồ. Ngài
trình bày dự tính với Đức giáo hoàng Innocentê III. Nhưng đức giáo hoàng ngần
ngại. Đêm sau Ngài mơ thấy đại giáo đường Lateranô bị rung chuyển và thánh
Đaminh đưa vai chống đỡ bức tường cho khỏi sụp đổ. Biết ý Chúa Ngài cho gọi
thánh nhân đến và chấp thuận cho lập dòng mới. Đây là dòng giảng thuyết.
Khi còn ở Roma, một
đêm kia, trong lúc cầu nguyện, thánh Đaminh thấy Chúa Giêsu giận dữ muốn phóng
ba ngọn đuốc xuống thiêu hủy thế gian: - Loài người lao mình vào nết xấu kiêu
căng nhục dục và biển lận, nên Ta muốn hủy diệt chúng bằng 3 ngọn lửa này.
Nhưng đức trinh nữ cản
lại: - Con ơi, hãy thương xót thế gian. Này đây có hai người sẽ làm sống dậy
các nhân đức.
Đaminh biết mình là một,
nhưng người kia là ai thì chưa rõ. Hôm sau khi đến nhà thờ Ngài gặp một tu sĩ,
mặc đồ người ăn xin ngồi ngay cửa. Đó là thánh Phanxicô. Hai người chưa gặp
nhau, nhưng đã ôm choàng lấy nhau và gọi tên nhau. Các Ngài hợp nhất với nhau
trong công cuộc của Chúa.
Thánh Đaminh đề cao việc
học, Ngài gởi các tu sĩ đến các đại học, Ngài truyền : - Chớ gì các tu sĩ
chuyên cần học tập ngày đêm. Lúc ở nhà cũng như khi đi ngoài đường, họ phải
không ngừng đọc sách và suy gẫm.
Thánh Đaminh rảo qua
khắp nẻo trên đường giảng dạy, một thanh niên ngây ngất hỏi Ngài đã học cách
nào, Ngài nói : - Hỡi con trong sách đức ái đó, sách này hơn mọi sách dạy bảo tất
cả.
Một năm trước khi qua
đời, các cha dòng Đaminh đã được sai tới Oxford, Hungaria, Đan Mạch và Hy lạp.
Thánh Đaminh qua đời tại Bologna ngày 6 tháng 8 năm 1221.
(daminhvn.net)
08 Tháng Tám
Vị Thánh Của Kinh Mân Côi
Ðaminh, vị thánh
Giáo Hội mừng kính hôm nay, mở mắt chào đời năm 1170 bên Tây Ban Nha trong một
gia đình quý tộc, nhưng ngay từ nhỏ, Ðaminh đã tập quen sống hãm mình. Ngoài
ra, Ðaminh có tính khẳng khái, thích làm việc có hệ thống và chú ý đến việc
trau dồi kiến thức.
Khi làm linh mục, rồi
kinh sĩ, Ðaminh nổi bật về lòng ngay thẳng, hăng hái và tinh thần hy sinh. Ngài
cảm thấy như được Chúa gọi đi để loan báo Tin Mừng cho các bộ lạc bên nước Nga,
nhưng Ðức Innocentê thứ 3 lại cử ngài đến hoạt động tại Toulouse bên Pháp, nơi
những làn sóng lạc giáo đang làm lung niềm tin của nhiều người.
Ðaminh xác tín rằng:
Lời giảng dạy phải đi đôi với cuộc sống. Vì thế, ngài đã lập một hội dòng, quy
tụ các tu sĩ sống khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm để có thể rao giảng, không
chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống của mình. Chính Ðaminh đã là người đầu
tiên làm gương về nếp sống ấy bằng cách đi chân không, ngủ dưới đất, ăn chay và
sống bằng của bố thí.
Vào năm 1216, Ðức
Hônôriô thứ 3 đã phên chuẩn dòng do cha Ðaminh sámg lập mang tên "Dòng anh
em giảng thuyết" thưo quy luật của thánh Augustinô, tức là dòng Ðaminh
ngày nay. Thiên Chúa chỉ dành cho cha Ðaminh 5 năm vắn vỏi để chu toàn sứ mệnh
của người gieo giống. Suốt thời gian này ngài đã rảo qua các nước Pháp, Italia
và Tây Ban Nha để rao giảng và đã đưa nhiều người ly giáo trở về với Giáo Hội.
Trong suốt cuộc sống,
Ðaminh đã nêu cao gương hy sinh và cầu nguyện. Ngoài ra, ngài còn truyền bá
lòng sùng kính Ðức Maria và kinh Mân Côi, vì thế, ngài đã thành lập một dòng nữ
để giúp chị em sống theo tinh thần này.
Cha Ðaminh qua đời
tại Bologna bên italia ngày 06/8/1221 và chỉ 13 năm sau, vào năm 1234, Ðức
Gregoriô thứ 9 tôn phong ngài lên bậc hiển thánh.
Có một câu chuyện thuật
lại giấc mơ của thánh Ðaminh: Ngài thấy thế gian sắp bị án công thẳng của Thiên
Chúa luận phạt, nhưng được cứu thoát nhờ lời cầu bàu của Ðức Maria. Ðức Mẹ chỉ
cho Chúa Giêsu hai hình ảnh: một hình ảnh là chính Ðaminh và hình ảnh kia là một
người ăn mày quần áo rách tả tơi.
Ngày hôm sau, trong
lúc cầu nguyện trong nhà thờ, Ðaminh thấy người ăn mày trong mộng xuất hiện, tiến
đến gần, ôm chầm Ðaminh và nói: "Anh là người đồng hành với tôi. Nếu chúng
ta cùng sánh vai tiến bước, thì không quyền lực nào có thể thắng chúng
ta". Nhìn kỹ, Ðaminh nhận ra người ăn mày đó chính là Phanxicô thành
Assisi.
Cuộc gặp gỡ này của
hai vị sáng lập dòng vẫn được các tu sĩ Ðaminh và Phanxicô mừng mỗi năm. Vào
ngày lễ kính hai thánh nhân, họ cùng nhau dâng Thánh Lễ và sau đó ngồi vào bàn
để chia sẻ với nhau những tấm bánh và những lý tưởng đã làm cho Giáo Hội trở
nên phong phú trong việc sống theo tinh thần Phúc Âm trải qua 7 thế kỷ nay.
Lý tưởng mà dòng
Ðaminh cũng như của các dòng khác không phải chỉ để chúng ta kính phục, nhưng
cũng là để chúng ta noi gương. Các tu sĩ là những người tự nguyện sống trọn những
lời khuyên của Phúc Âm qua ba lời khấn: khó nghèo, thanh tinh, vâng lời. Ðó
cũng là ba nhân đức mà mỗi người Kitô cũng phải thực hành tùy sức, tùy hoàn cảnh
và địa vị của mình.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét