14/01/2018
Chúa Nhật tuần 2 Thường Niên năm B
(phần I)
BÀI ĐỌC I: 1 Sm 3,
3b-10. 19
"Lạy Chúa, xin hãy nói, vì
tôi tớ Chúa đang nghe".
Trích sách Samuel
quyển thứ nhất.
Ngày ấy, Samuel ngủ
trong đền thờ Chúa, nơi đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Chúa đã gọi Samuel; cậu trả lời:
"Này con đây", rồi chạy đến Hêli và nói: "Này con đây, vì thầy gọi
con". Hêli trả lời: "Ta đâu có gọi, hãy trở về ngủ đi". Samuel
đi ngủ lại. Nhưng Chúa gọi Samuel lần nữa, và Samuel chỗi dậy, chạy đến Hêli và
nói: "Này con đây, vì thầy gọi con".
Hêli trả lời:
"Này con, Ta đâu có gọi, hãy trở về ngủ đi". Samuel chưa nhận ra
Chúa, và lời Chúa chưa được mạc khải cho cậu. Chúa lại gọi Samuel lần thứ ba. Cậu
chỗi dậy, chạy đến Hêli và nói: "Này con đây, vì thầy gọi con". Hêli
biết Chúa đã gọi Samuel, nên nói với Samuel: "Hãy đi ngủ, và nếu Người còn
gọi con, thì con nói rằng: 'Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang
nghe'". Samuel trở về chỗ mình và ngủ lại. Chúa đến gần và gọi Samuel như
những lần trước: "Samuel, Samuel!" Và Samuel thưa: "Lạy Chúa,
xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe".
Phần Samuel ngày càng
lớn lên. Chúa hằng ở cùng cậu, và cậu không để rơi mất lời nào của Chúa. Đó là
lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 39, 2 và
4ab. 7-8a. 8b-9. 10
Đáp: Lạy Chúa, này
con xin đến để thực thi ý Chúa (c. 8a và 9a).
1) Con đã cậy trông,
con đã cậy trông ở Chúa, Ngài đã nghiêng mình về bên con, Ngài đã đặt trong miệng
con một bài ca mới, bài ca mừng Thiên Chúa chúng ta. - Đáp.
2) Hy sinh và lễ vật
thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở rộng tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn
thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Đáp.
3) Như trong quyển
vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của
Chúa ghi tận đáy lòng con. - Đáp.
4) Con đã loan truyền
đức công minh Chúa trong Đại Hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết
rồi. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 6,
13c-15a, 17-20
"Thân xác anh em là chi thể
của Chúa Kitô".
Trích thư thứ nhất
của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến, thân
xác không phải vì dâm dật, mà vì Chúa, và Chúa vì thân xác. Thiên Chúa đã cho
Chúa sống lại, cũng sẽ dùng quyền năng Người cho ta sống lại.
Anh em không biết thân
xác anh em là chi thể của Chúa Kitô sao? Nhưng ai kết hợp với Chúa thì nên một
thần trí. Vậy hãy xa lánh dâm dật. Mọi tội lỗi người ta phạm đều ngoài thân
xác, nhưng kẻ tà dâm thì phạm tội trong thân xác mình. Anh em không biết thân
xác anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong anh em mà anh em đã nhận
lãnh nơi Thiên Chúa, vì anh em không còn thuộc về chính mình nữa sao? Vì anh em
đã được mua chuộc bằng một giá rất lớn. Vậy anh em hãy tôn vinh Chúa trong thân
xác anh em. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Mt 11, 23
Alleluia, alleluia! -
Lạy Cha là Chúa trời đất, Chúa đáng chúc tụng, vì đã mạc khải cho các trẻ nhỏ
biết những mầu nhiệm nước trời. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 1, 35-42
"Họ xem chỗ Người ở, và ở
lại với Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Gioan đang đứng
với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói:
"Đây là Chiên Thiên Chúa". Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa
Giêsu. Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo Mình, thì nói với họ:
"Các ngươi tìm gì?" Họ thưa với Người: "Rabbi, nghĩa là: thưa Thầy,
Thầy ở đâu?" Người đáp: "Hãy đến mà xem". Họ đã đến và xem chỗ
Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười.
Anrê, em ông Simon
Phêrô, (là) một trong hai người đã nghe Gioan nói và đã đi theo Chúa Giêsu. Ông
gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh: "Chúng tôi đã gặp Đấng
Messia, nghĩa là Đấng Kitô". Và ông dẫn anh mình tới Chúa Giêsu. Chúa
Giêsu nhìn Simon và nói: "Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi
là Kêpha, nghĩa là Đá". Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Bảo Toàn Ơn Gọi
Bài đọc I kể truyện Chúa gọi Samuel. Và bài Tin Mừng nói đến việc Chúa
Yêsu chọn những tông đồ đầu tiên. Như vậy đủ để chúng ta có thể gọi Chúa nhật
này là ngày ơn gọi, hay ngày thiên triệu. Và trong chiều hướng ấy chúng ta sẽ
thấy bài thư Phaolô rất ý nghĩa.
Tuy cả ba đều nói về ơn gọi, nhưng mỗi bài Kinh Thánh hôm nay lại nhìn vấn
đề một cách khác. Và chúng ta sẽ được một giáo huấn phong phú về ơn gọi, sau
khi tìm hiểu quan điểm của ba bài đọc.
1. Ơn Gọi Trong Cựu Ước
Bài sách Samuel không đơn giản đâu. Thoạt nghe, chúng ta cảm tưởng như
đây là một câu truyện. Tác giả kể rất khéo. Lời văn lưu loát. Bố cục hấp dẫn.
Nhưng phân tích, người ta sẽ thấy đây không phải là một áng văn chương, nhưng
là một bài thần học. Nó được viết vào khoảng thế kỷ thứ 9 hay thứ 8 trước Thiên
Chúa giáng sinh; và như vậy cũng phải sau thời Samuel tới một, hai thế kỷ.
Nghĩa là người ta đã thấy Samuel sống và đã có giờ để suy nghĩ về ý nghĩa cuộc
đời của ông ở trong Dân Chúa. Một hai trăm năm suy nghĩ như vậy tự nhiên dễ thần
tượng hóa nhân vật mà người ta ngưỡng mộ. Và nhất là được viết vào khoảng thế kỷ
9 hoặc 8, tức là vào thời đại các tiên tri, câu truyện kể hôm nay đã phải chịu ảnh
hưởng rất nhiều của phong trào tiên tri ở trong dân Dothái. Chúng ta có thể nói
được rằng: sống ở thời các tiên tri, người ta đã lấy giáo lý của các tiên tri về
ơn gọi để viết lại cuộc đời của Samuel mà người ta coi như là một trong những
tiên tri đầu tiên.
Chứ thật ra, Samuel là người thế nào? Ðọc lại các câu truyện viết về cuộc
đời của ông có lẽ chúng ta được phép hình dung ông là một tư tế, một thẩm phán
và cuối cùng một bậc tiên tri.
Thật vậy, ngay bài Thánh Kinh hôm nay cũng muốn giới thiệu ông ở trong
truyền thống và hàng ngũ các thầy tư tế Êli. Sách thánh viết: bấy giờ Samuel lo
việc phụng sự Yavê dưới sự trông nom của Êli. Và chúng ta có thể hình dung
Samuel bấy giờ là cậu bé vận áo trúc bâu (2,18), ở với thầy Êli là một tư tế
già nua, trông coi một đền thờ nhỏ ở Silô. Nói rõ rệt hơn, Samuel bấy giờ là một
chú bé giúp lễ, nhưng đồng thời cũng sống trong nhà Cha sở, bởi vì mẹ cậu đã hứa
dâng con lo việc nhà Chúa trước khi sinh cậu ra. Và lớn lên, Samuel cũng đã trở
thành một tư tế theo kiểu thầy Êli. Người ta đã thấy ông chủ sự nhiều buổi dâng
lễ cho Thiên Chúa (7,9; 9,13; 11,15; 13,8-15). Và đặc biệt chúng ta còn nhớ
truyện ông đến nhà Yessê, Cha của Ðavít (16)� Thấy ông tới, các kỳ
mục trong thành Bêlem đã ra đón và hỏi ông: "Ngài đến, phải chăng là bình
an?". Ông nói: "Bình an! Tôi đến để tế lễ cho Yavê. Các người hãy
thanh tẩy mình đi và sẽ đến dự lễ với tôi". Do đó rõ ràng ông là một tư tế.
Nhưng đồng thời ông cũng là một thẩm phán ở thời Dothái chưa có vua.
Chính ông đã hướng dẫn dân chống lại quân Philitin. Và khi Kinh Thánh viết ông
đã phân xử mọi việc cho dân không những ở Micpa (7,6) mà còn trong suốt cả đời
ông (7,15). Ngay việc thiết lập chế độ quân chủ ở nước Dothái cũng phải đi qua
ông. Ông xức dầu phong vương cho Saolê, nhưng dân vẫn sợ uy tín của vị thẩm
phán mà họ biết chắc vẫn là "người của Thiên Chúa".
Từ ngữ này dần dần đã có một ý nghĩa rõ rệt. Nó chỉ các tiên tri, những
người được Thiên Chúa thông đạt các ý định của Người để đến với dân. Dân tin họ
hơn hết. Và vì thế dần dần vai trò tư tế và hoàng đế phải nhường bước cho các
nhà tiên tri về mặt uy tín.
Ðối với Samuel cũng vậy, dần dần người ta không còn để ý nhiều đến sứ mệnh
tư tế và thẩm phán của ông nữa; và người ta chỉ còn nhớ ông là tiên tri. Bài tường
thuật của ông nằm trong chiều hướng đó. Nói đúng hơn, người ta đã lấy quan niệm
về ơn gọi tiên tri để thuật lại việc ông được Chúa chọn để làm việc cho Người.
Và quan niệm đó rất sâu sắc.
Trước hết, chính Chúa đi bước trước. Người chiếu cố kẻ Người chọn.
Samuel bấy giờ chưa biết Chúa. Lời Chúa chưa mạc khải ra cho cậu. Nghe tiếng
Chúa gọi mà cậu vẫn tưởng là thầy Êli gọi mình. Thân phận cậu lúc bấy giờ có ra
gì: Một đứa bé ở giúp việc thầy tư tế. Cái thân phận hèn mọn ấy nói lên một
khía cạnh thứ hai trong ơn gọi: Chúa là Ðấng Cao cả thường tuyển chọn những khí
cụ tầm thường để làm việc cho Người. Ðó đã là một nét nghịch thường. Nhưng còn
lạ lùng hơn nữa: các khí cụ tầm thường kia lại được Ðấng Cao cả dùng để làm nhiều
việc kỳ diệu. Sứ mệnh của Samuel không lớn lao sao! Cậu được trao phó sứ điệp
trọng đại khiến khi nghe biết Êli phải cúi đầu vâng mệnh. Còn toàn dân thì tin
rằng: Lời Chúa bây giờ ở với Samuel. Mà Lời Chúa đối với dân là tất cả kế hoạch
mầu nhiệm, lớn lao mà Chúa thi hành cho toàn dân cũng như cho tương lai của các
dân tộc. Nhất là khi Lời Chúa lại được mạc khải nơi đền thờ và cho những người
đang phục vụ bàn thờ. Nó sẽ ghê gớm cho kẻ tội lỗi nhưng chắc chắn sẽ ban bình
an và an ủi cho những người lành thánh. Cụ thể, nó sẽ hạ kẻ cường quyền và nâng
những người phận nhỏ lên. Bởi vì từ khi trao phó công việc trông coi vũ trụ cho
loài người, Thiên Chúa chỉ can thiệp vào lịch sử để cứu vớt, tức là tiêu diệt sự
dữ đã hoành hành quá mức và giải phóng con người khỏi lầm than.
Mọi ơn gọi đích thực trong Cựu Ước đều được mô tả như trên. Và để làm nổi
tính cách siêu nhiên của những ơn gọi này, Cựu Ước còn có thói quen hình dung
những kẻ được chọn là con của gia đình son sẻ nhưng đạo đ�ức.
Họ là tặng vật của Thiên Chúa nhân ái và toàn năng, chứ không phải là con cái của
loài người. Trường hợp của Samuel là một thí dụ. Chính vì muộn màng, son sẻ mà
mẹ ông đã khóc lóc cầu xin và đã khấn hứa nếu hạ sinh được đứa con nào bà sẽ
dâng nó để lo việc nhà Chúa. Như vậy bà đã thụ thai, và Samuel trở thành người
của Chúa.
Người ta đã suy nghĩ nhiều về cuộc đời của ông. Và tác giả bài Kinh
Thánh hôm nay đã đúc kết lại tâm tư của nhiều thế hệ dân Chúa. Tác giả thấy ơn
gọi Samuel là hình ảnh của chính ơn gọi dân Chúa nói chung và mỗi người nói
riêng. Chúa đã không kêu gọi mọi người từ thân phận hèn mọn sao? Người thật đã
tỏ ra rộng lượng và nhân ái� Người trao sứ mệnh cao cả cho hết
thảy miễn là ai ai cũng phải bắt chước Samuel "không để rơi xuống đất một
lời nài Người đã phán" (3,19). Bài học của Cựu Ước thật rất thâm trầm.
2. Ơn Gọi Trong Tân Ước
Thánh Yoan trong bài Tin Mừng hôm nay cũng muốn nói về ơn gọi. Câu truyện
người kể có vẻ như đã được quay phim tại chỗ, khi sự việc xảy ra. Nhưng chỉ cần
thấy rằng không bao giờ Tin Mừng Yoan còn kể lại việc Chúa chọn Tông đồ ở một
đoạn nào khác nữa, cũng đủ để chúng ta chắc chắn ở đây Yoan đã muốn làm một cuộc
tổng hợp. Người muốn thu gọn một lần Chúa chọn môn đồ vào chỗ này để nói một lần
cho xong, trước khi Chúa Yêsu bắt đầu đi hoạt động truyền giáo. Và như vậy,
trong đoạn Tin Mừng này, Yoan cũng muốn trình bày quan niệm của người về ơn gọi.
Ơn gọi vẫn còn là hành vi chiếu cố của Chúa. Nó do Người khởi xướng. Nó
từ trời đến với con người và vì thế người ta có lý khi dùng danh từ "thiên
triệu". Tuy nhiên, ngày xưa tiếng Chúa thường nói trong sấm chớp và thị kiến
hoặc mộng mị; còn ngày nay Ngôi Lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Vì thế,
tiếng gọi đã đi qua con người.
Những môn đệ đầu tiên đã nghe lời Yoan giới thiệu. Ðó không phải là lời
thường, nhưng là lời của một chứng nhân, của một người có đức tin sâu sắc. Yoan
trỏ vào Ðức Yêsu và nói với môn đệ: "Này là Chiên của Thiên Chúa". Chắc
chắn họ đã không nhận ra ngay mọi sự phong phú trong lời giới thiệu này. Phải đợi
khi Ðức Yêsu chịu chết như người đau khổ và như chiên vượt qua bị sát tế, người
ta mới hiểu được nội dung của lời Yoan. Các môn đệ bấy giờ chưa hiểu được như vậy.
Nhưng bây giờ, muốn theo Chúa, chúng ta phải hiểu như thế. Và bây giờ ai muốn
theo Chúa phải vác thập giá của mình và phải đi qua con đường hẹp mà Ðức Kitô
đã đi.
Tuy nhiên, được lời giới thiệu khác thường của Yoan và nghĩ rằng Yoan muốn
nói Ðức Yêsu là "Ðấng phải đến", hai môn đệ đã đi theo Người. Họ đi
theo vì đã nghe và đã tin vào một lời chứng. Mọi ơn gọi đều khởi sự từ khi nghe
được tiếng gọi. Và mọi ơn gọi trong Tân Ước chỉ hình thành khi có lòng tin vào
lời chứng. Nhưng nghe và tin vẫn chưa đủ. Người ta phải có hành động diễn tả niềm
tin để chứng tỏ sự dứt khoát và quyết liệt. Thế nên, bài Tin Mừng đã nói: họ đã
đến và đã thấy nơi Ngài ngụ và họ đã ngụ lại với Ngài. Yoan đã cân nhắc mọi từ
ngữ ông dùng. Ông dùng các động từ "thấy" và "ngụ", là những
từ ngữ rất đặc biệt và phong phú trong tác phẩm của ông. Ðối với ông, "thấy"
là khám phá ra, là biết một cách sâu xa thân mật; và "ngụ" là kết hợp,
là "ở với", là khắng khít. Theo Yoan, ơn gọi là tin, là biết, là mến
Chúa Yêsu, là mật thiết kết hợp với Ngài, là ở (hay ngụ) lại nơi Ngài và Ngài ở
hoặc ngụ lại nơi ta. Không phải tạm thời, nhưng bền vững, mãi mãi vì sách Yoan
viết: họ đã ngụ lại với Ngài suốt ngày hôm ấy.
Tiếp theo, họ đã ra đi� để nối dài ơn gọi của họ. Anrê
đã gặp em mình trước hết. Ông nói lên niềm tin cua mình vào Ðức Kitô. Nhưng ông
để cho em tiếp xúc với Người. Và chính nhờ việc tiếp xúc này, người em cũng như
anh mình trước đây đã được niềm tin vào Chúa Yêsu. Mấu chốt của ơn gọi, theo
Yoan như vậy là việc gặp gỡ, khám phá ra Ðức Kitô và ngụ lại với Người.
Do đó, quan niệm của Yoan về ơn gọi thâm thúy hơn quan niệm của bài sách
Samuel. Nhưng chúng ta không thể bảo là hai quan niệm đó khác nhau. Trước kia,
Samuel đã nghe Lời Chúa và không để một lời nào rơi xuống đất; ngày nay Lời
Chúa đã hiện thân làm người. Ai nghe tiếng gọi cũng phải gắn bó với Người và
không được sống tách khỏi Người.
Thế mà có những kẻ được gọi mà lại muốn tách khỏi Chúa. Ðó là điều mà
thánh Phaolô muốn cảnh cáo người ta trong thư gửi người Côrintô.
3. Hãy Bảo Toàn Ơn Gọi
Côrintô là một đô thị hỗn tạp. Nằm trên trục giao thông, nó là nơi tấp nập
để trao đổi hàng hóa, tư tưởng và cả thân xác nữa� Cuộc sống phóng túng,
sắc dục được coi như là tự do và tự nhiên. Ðó không phải là một nhu cầu sao? Nếu
nhu cầu ăn uống là tự nhiên thì vì sao lại cấm nhu cầu sinh lý? Phaolô phản đối
lý luận này. Không thể coi nhu cầu sinh lý như nhu cầu ăn uống. Ăn uống là để
nuôi thân xác. Nhưng thân xác để làm gì?
Người có đức tin không thể quên xác thịt sẽ sống lại. Ðó là nét độc đáo
của Kitô giáo. Người tín hữu đã tin Ðức Kitô phục sinh thì không thể quên rằng
thân xác đã có định mệnh mới là sự sống đời sau. Và niềm tin này không cho phép
người ta làm ô uế xác thịt.
Hơn nữa hiện nay thân xác của họ cũng đã có một ơn gọi khác rồi. Là Kitô
hữu, họ đã gắn bó với Chúa Kitô và trở nên chi thể của Người. Làm sao họ còn có
thể giựt thân xác lại và đem ném cho phường đĩ điếm? Kẻ làm như vậy rõ ràng là
kẻ bất trung, bất tín.
Nó còn xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì thân mình của họ sau ngày lãnh nhận
ơn gọi Kitô hữu, và trở thành đền thờ của Thánh Thần. Thế nên ai ý thức ơn gọi
của mình chỉ còn cách hãy "tôn vinh Thiên Chúa nơi thân thể của
mình".
Ðiều này cho chúng ta thấy quan niệm của thánh Phaolô về ơn gọi thật là
sâu sắc. Không cần nói đến ơn gọi linh mục hay tông đồ; ngay thiên triệu làm
Kitô hữu cũng đã hiến dâng cả thân xác con người cho Thiên Chúa. Người ta phải
hoàn toàn sống cho Người và gắn bó với Người. Không những tâm hồn người ta mà
phải quy về Chúa, mà cả thân xác cũng đã thuộc về Ðấng kêu gọi họ.
Ðó là lý tưởng; nhưng đồng thời cũng là đòi hỏi. Khó khăn thật bởi vì bản
tính loài người yếu đuối. Nhưng chúng ta quên rồi ư: Chúa đã gọi Samuel hồi còn
bé mọn và Người vẫn chọn những khí cụ tầm thường. Sức mạnh của Chúa sẽ thi thố
nhiều việc kỳ diệu nơi bản tính mỏng dòn khi người ta lắng nghe lời Chúa mà
không để lời nào rơi xuống đất như Samuel. Và nhất là người ta phải bắt chước
các môn đệ đầu tiên của Ðức Yêsu: có lòng tin đi đến với Người, xem thấy Người
và ở lại với Người.
Sự gắn bó mật thiết kết hiệp với Người sẽ khiến chúng ta biết tận hiến tất
cả đời sống, tâm hồn và thân xác để lo việc Chúa là thánh hóa trần gian này.
Khi ấy, Thánh Thần sẽ mạnh mẽ ở nơi chúng ta và chúng ta sẽ là người của Chúa.
Tất cả vì thế tùy thuộc ở việc chúng ta hiệp nhất với Chúa, mà thánh lễ đây là
cơ hội tốt đẹp nhất. Chúng ta hãy dâng lễ sốt sắng để mật thiết hơn với Chúa hầu
có khả năng sống ơn gọi Kitô hữu hiệu nghiệm hơn.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật II Thường Niên, Năm B
Bài đọc: I
Sam 3:3-10, 19; I Cor 6:13-15, 17-20; Jn 1:35-42.
CHỦ ĐỀ: Nhận ra thánh
ý Thiên Chúa
Thiên Chúa có thể mặc khải trực tiếp cho một người hay qua trung gian của người
khác. Để nhận ra ý định của Thiên Chúa, nhiều khi con người cần cả ba: Thiên
Chúa, người trung gian, và chính đương sự. Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy
những trường hợp con người có thể nhận ra ý định của Thiên Chúa.
Trong Bài đọc I, Thiên Chúa gọi con trẻ Samuel 3 lần giữa đêm tối trong Đền Thờ,
và Samuel đã nhận ra tiếng của Thiên Chúa qua sự giúp đỡ của Thầy Cả Eli. Trong
Bài Đọc II, qua sự dạy dỗ của Thánh Phaolô, chúng ta nhận ra phẩm giá của thân
xác và phải biết quí trọng nó, vì thân xác chúng ta là một phần chi thể của Đức
Kitô, và là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả chỉ đường
cho hai môn đệ thân tín của mình theo Chúa Giêsu. Anrê, sau khi đã gặp được
Chúa, dẫn em mình là Phêrô đến gặp Chúa Giêsu.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Con trẻ Samuel được Thầy Cả Êli hướng dẫn để nhận ra tiếng
gọi của Thiên Chúa.
Cuộc đời con trẻ Samuel đặc biệt từ khi chưa ra đời. Mẹ của Samuel là Bà Hanna,
Bà son sẻ và chịu sự khinh bỉ của người đời vì không có con một thời gian lâu
dài. Bà khấn hứa với Thiên Chúa: nếu Ngài ban cho Bà một đứa con, Bà sẽ dâng
con trẻ lại cho Thiên Chúa để nó phục vụ trong Đền Thờ luôn. Thiên Chúa đã nhận
lời cầu xin của Bà và cho Bà có con trai. Tên Bà đặt cho con trẻ, Samuel, có
nghĩa là “quà tặng của Thiên Chúa.” Giữ lời đã hứa với Thiên Chúa, khi con trẻ
dứt sữa, Bà mang con và lễ vật hy sinh đến dâng cho Thầy Cả Êli trong Đền Thờ
Thiên Chúa tại Shiloh. Sau khi từ giã mẹ, con trẻ Samuel ở luôn trong Đền Thờ từ
ngày đó, cho đến khi xảy ra biến cố “Chúa gọi Samuel” hôm nay.
(1) Thiên Chúa gọi Samuel ba lần: Trình thuật kể: “Đèn của Thiên Chúa chưa tắt
và Samuel đang ngủ trong đền thờ Đức Chúa, nơi có đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Đức
Chúa gọi Samuel. Cậu thưa: "Dạ, con đây!" Rồi chạy lại với ông Êli và
thưa: "Dạ, con đây, thầy gọi con." Ông bảo: "Thầy không gọi con
đâu. Con về ngủ đi." Cậu bèn đi ngủ. Đức Chúa lại gọi Samuel lần nữa.
Samuel dậy, đến với ông Êli và thưa: "Dạ, con đây, thầy gọi con." Ông
bảo: "Thầy không gọi con đâu, con ạ. Con về ngủ đi." Bấy giờ Samuel
chưa biết Đức Chúa, và lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu. Đức Chúa lại gọi
Samuel lần thứ ba. Cậu dậy, đến với ông Êli và thưa: "Dạ, con đây, thầy gọi
con." Thiên Chúa gọi con người nhiều lần, nhưng con người có biết lắng
nghe để nhận ra tiếng Chúa gọi hay không là chuyện khác. Sự ồn ào của thế gian
và sự mải mê chạy theo những tiếng gọi khác là những lý do ngăn cản không cho
con người nhận ra tiếng Chúa gọi.
(2) Thầy Cả Êli giúp Samuel nhận ra và đáp lại tiếng Chúa: Bấy giờ ông Êli hiểu
là Đức Chúa gọi cậu bé. Ông Êli nói với Samuel: "Con về ngủ đi, và hễ có
ai gọi con thì con thưa: "Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang
lắng nghe."
(3) Samuel đáp trả tiếng Chúa gọi: Được sự hướng dẫn của Thầy, nên khi nghe
Thiên Chúa gọi lần thứ ba, Samuel mau mắn thưa: "Xin Ngài phán, vì tôi tớ
Ngài đang lắng nghe." Kể từ khi nhận ra tiếng Chúa, Samuel tiếp tục đàm đạo
với Chúa nhiều lần. Samuel lớn lên, Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một
lời nào của Người ra vô hiệu.
Mấy điều chúng ta có thể học nơi con trẻ Samuel: (1) Đền Thờ là nơi dễ nhận ra
tiếng Thiên Chúa gọi, vì là nơi tĩnh mịch và xa cách những ồn ào của thế gian.
Samuel phục vụ nơi Thánh Điện và ngủ trong Đền Thờ tại Shiloh; (2) Mỗi lần nghe
tiếng gọi là mỗi lần mau mắn đáp trả, dù chưa nhận ra là tiếng của Thiên Chúa.
Mỗi biến cố quan trọng xảy ra trong cuộc đời mỗi người là Thiên Chúa đang muốn
nói gì với cá nhân đó. Để nhận ra, đương sự cần có thời giờ suy nghĩ và cầu
nguyện; (3) Bàn hỏi với vị linh hướng và theo sự chỉ bảo của ngài. Samuel chạy
đến với Thầy mình, để xin sự hướng dẫn, và Samuel thực hành những gì Thầy dạy.
2/ Bài đọc II: Thân xác con người quan trọng và cần thiết để làm việc cho
Thiên Chúa.
Chúng ta biết hầu hết các Thư viết bởi Phaolô là để trả lời cho những vấn nạn
đang xảy ra trong những cộng đòan do Ngài thiết lập. Vấn nạn hôm nay là việc
gian dâm, mà có một số người trong cộng đòan Côrintô không cho là tội. Theo một
số các triết gia Hy-Lạp, thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn. Vì thế, có 2 lối
sống là hệ quả của quan niệm này: (1) khổ chế: hành hạ thân xác bằng ăn chay
nghiệm nhặt và đánh đập thân xác để chế ngự nó; và (2) buông thả: vì thân xác
không quan trọng trong việc giải thóat con người, nên cứ việc tự do hưởng thụ
khóai lạc. Thánh Phaolô phải đương đầu với lối sống thứ hai này; ngài khuyên
các tín hữu Corintô phải tránh xa tội gian dâm vì 2 phẩm giá của thân xác.
2.1/ Thân xác anh em là một
phần thân thể của Đức Kitô: Thần học về thân
thể Đức Kitô là một trong những chủ đề chính của Thư Phaolô. Theo thần học này,
các Kitô hữu là những chi thể của thân thể Đức Kitô; vì thế, tất cả các tín hữu
đều có bổn phận phải bảo vệ thân thể cho nguyên vẹn, vì một chi thể đau là tòan
thân đều cảm thấy đau lây. Dựa vào nguyên lý này, Phaolô kết luận, thân xác con
người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa. Ngài hướng dẫn họ:
- Thân xác con người sẽ bị hủy diệt: “Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho
thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người
không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác.”
- Thân xác con người sẽ được Thiên Chúa cho sống lại: “Thiên Chúa đã làm cho
Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho
chúng ta sống lại. Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể
của Đức Kitô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Kitô mà làm phần thân thể của
người kỹ nữ sao? Không đời nào! Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với
Người.” Chuyện kết hợp với ai là nên một thân xác với người ấy; điều này chỉ
cho phép trong liên hệ vợ chồng. Khi chuyện này xảy ra ngòai liên hệ vợ chồng,
kẻ làm chuyện ấy tự tách mình ra khỏi thân thể của Đức Kitô, vì tội lỗi không
thể ở chung với sự thánh thiện trong thân thể của Chúa.
2.2/ Thân xác anh em là Đền
Thờ của Thánh Thần: “Hay anh em lại chẳng biết
rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự
trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em
đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy
anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.” Qua Bí-tích Rửa Tội và
Thêm Sức, các tín hữu đã có Chúa Thánh Thần qua việc xức dầu; và Chúa Thánh Thần
là Đấng rất mực thánh thiện vì Ngài là Thiên Chúa. Con người chúng ta không thể
sống cho chính chúng ta nữa, vì chúng ta đã được Thiên Chúa cứu chuộc qua cái
chết của Đức Kitô. Do đó, chúng ta phải sống cho Thiên Chúa và làm vinh quang
Ngài qua thân xác chúng ta.
3/ Phúc Âm: Người bảo họ: "Đến mà xem!”
3.1/ Gioan giới thiệu Đức
Kitô cho 2 môn đệ của ông: “Hôm sau, ông
Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi
ngang qua, ông lên tiếng nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa." Khi một người
giới thiệu môn đệ của mình với một Thầy hay hơn mình là chấp nhận mất môn đệ.
Gioan không giữ môn đệ cho mình, ông chỉ cho hai môn đệ đi theo Thầy tốt hơn;
vì ông quan tâm đến lợi ích cho môn đệ chứ không giữ lợi ích cho mình. Mấy ai
trong chúng ta có được thái độ như của Gioan? Chúng ta đã đề cập đến nguồn gốc
lịch sử của câu “Đây là Chiên Thiên Chúa.” Chúa Giêsu chính là Con Chiên, lễ vật
hy sinh để đền tội cho con người.
3.2/ Phản ứng của hai môn
đệ: Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức
Giêsu. Hai môn đệ của Gioan có lẽ ngượng ngùng không biết mở lời làm sao, nên cứ
tiếp tục theo đàng sau Chúa Giêsu. Để dễ dàng cho họ phản ứng, Chúa Giêsu mở lời
trước: "Các anh tìm gì thế?" Họ đáp: "Thưa Rabbi (nghĩa là thưa
Thầy), Thầy ở đâu?"
- Chúng ta có thể nhận ra cả 3 yếu tố quan trọng đều có ở đây: (1) Gioan, người
trung gian chỉ đường cho hai ông đến với Chúa; (2) chính hai ông phải vượt qua
xấu hổ, ngượng ngùng để đi theo Ngài; và (3), Chúa Giêsu mở lời trước để đánh
tan ngượng ngùng lúc ban đầu, và mời gọi hai ông đến và xem.
- Câu hỏi Chúa đặt cho hai ông: “Các anh tìm gì thế?” là câu hỏi nền tảng nhất
trong đời sống con người. Câu trả lời cho câu hỏi này sẽ giúp chúng ta nhận ra
tại sao chúng ta đi tìm hay không đi tìm Thiên Chúa. Nếu câu trả lời là đi tìm
của cải, danh vọng, chức quyền; chúng ta đừng đến với Chúa, vì Ngài sẽ không thỏa
mãn khát vọng của ta. Nếu câu trả lời như của người thanh niên trẻ: “Tôi phải
làm gì để đạt được cuộc sống đời đời?” Hãy đến với Chúa, Ngài sẽ giúp chúng ta
tìm ra câu trả lời.
3.3/ Lời mời gọi của Đức
Kitô: Người bảo họ: "Đến mà xem."
Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ
thứ mười.
- Người khác có thể nói về Chúa cho chúng ta nghe, hay giới thiệu chúng ta đến
với Chúa; nhưng để nhận ra Chúa là ai, chúng ta cần kinh nghiệm của cá nhân
chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta có được kinh nghiệm cá nhân biết Chúa, lúc đó
Chúa mới thực sự thuyết phục chúng ta.
- Các môn đệ đáp trả lời mời của Chúa Giêsu; họ đến và ở với Ngài suốt ngày hôm
đó. Giờ thứ mười của Do-Thái là khỏang 4 giờ chiều của chúng ta.
3.4/ Người nhận ra tiếng
gọi theo Chúa trở thành người mời gọi: “Ông
Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi
theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simon và nói: "Chúng tôi
đã gặp Đấng Messiah" (nghĩa là Đấng Kitô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức
Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simon và nói: "Anh là Simon, con ông Gioan, anh
sẽ được gọi là Kêpha" (tức là Phêrô).”
- Yêu ai thực sự là muốn điều tốt nhất cho người ấy. Anrê đã gặp Đấng Thiên
Sai, và đây là Tin Mừng quan trọng nhất cho những người Do-Thái. Thương em,
Anrê dắt em mình tới giới thiệu với Đức Kitô.
- Phản ứng của Chúa Giêsu khi gặp Phêrô: Vừa gặp lần đầu, Chúa Giêsu đã biết rõ
con người Phêrô là ai, và Ngài đã có sẵn cho ông một sứ vụ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần lắng nghe và nhìn xem để nhận ra thánh ý của Thiên Chúa.
- Chúng ta cần cả ba: tiếng Thiên Chúa gọi, người trung gian, và chính bản thân
để nhận ra thánh ý của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không cố gắng, chúng ta sẽ
không bao giờ nhận ra thánh ý của Thiên Chúa.
- Một khi đã nhận ra thánh ý của Thiên Chúa, chúng ta có bổn phận phải thi hành
những gì Thiên Chúa dạy.
- Ngòai ra, chúng ta còn phải hướng dẫn và đưa mọi người đến với Thiên
Chúa.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
14/01/2018
Chúa Nhật tuần 2 tn – b
Ga 1,35-42
Ga 1,35-42
Hãy đến mà xem
Người đáp: “Hãy đến mà xem.” Họ đã đến và xem chỗ Người ở,
và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười. (Ga 1,39)
Suy niệm: “Hãy đợi đấy” là bộ phim hoạt hình nổi tiếng của Nga vào
đầu thập niên 80. Trong đó, thỏ con hiền lành, hào hiệp luôn luôn thắng thế,
còn sói già dù xảo quyệt mưu mô, bày ra những chiêu trò mới lạ nhưng rốt cuộc vẫn
phải nhận cái kết đắng và lại hẹn thỏ “Hãy đợi đấy” ở phần tiếp theo. Câu chuyện
Tin Mừng hôm nay không phải là cuộc đối đầu không hồi kết như thế, mà là câu
chuyện đầy cảm động của người theo đuổi Thầy Giê-su và mong biết “Thầy ở đâu” để
rồi được Thầy Giê-su đón nhận và mời gọi: “Hãy đến mà xem.” Đến
mà xem Thầy sống như thế nào. Đến mà xem Thầy cầu nguyện với Cha như thế nào. Đến
mà xem Thầy yêu nhân loại như thế nào. Các ông không những đến xem mà còn ở lại
bên Thầy suốt ngày hôm ấy. Ở lại để cùng ăn cùng uống với Thầy. Ở lại để cùng
nghe cùng tâm sự với Thầy. Và ở lại một đêm để rồi ở lại bên Thầy mãi mãi.
Mời Bạn: Nếu hôm nay Chúa mời gọi bạn “Hãy đến mà xem,” bạn có sẵn sàng đáp lại,
đến và ở lại với Ngài không? ĐHY Ph. Xav. Nguyễn Văn Thuận nhắn nhủ bạn đừng mải
chọn công kia việc nọ để gọi là “chọn công việc của Chúa” mà trước hết hãy “chọn
Chúa” và ở lại với Ngài là lẽ sống của đời mình.
Sống Lời Chúa: Dù bận rộn thế nào đi nữa, bạn cũng hãy dành thời gian cầu nguyện với
Chúa trước khi hành bất cứ điều gì.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, làm sao chúng con được bình an nếu cứ chọn những
thứ khác ngoài Chúa. Xin giúp chúng con biết năng nhớ đến Chúa và chọn Chúa là
lẽ sống đời chúng con. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
THẦY Ở ĐÂU? HÃY ĐẾN MÀ XEM! (14.1.2018 – Chúa nhật 2 Thường niên, Năm B)
Chúng ta phải được giới thiệu Ðức Giêsu, phải đích thân gặp Ngài, và phải trở nên người giới thiệu Ngài cho thế giới.
Suy niệm:
Ðoạn Tin Mừng này đã được
Ðức Thánh Cha
dùng làm bài suy niệm cho
ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XII.
Ðể gặp được Ðức Giêsu,
cần có người giới thiệu.
Gioan đã giới thiệu Ðức
Giêsu cho hai môn đệ của mình.
Ông Anrê cũng đã giới
thiệu Ðức Giêsu cho em là Simon,
và dẫn ông này đến gặp
Ngài.
Chẳng ai thực sự gặp được
Ðức Giêsu
mà lại không mong giới
thiệu Ngài cho người khác.
Ðức Giêsu là kho tàng cứ
mãi lớn lên khi được san sẻ.
Hạnh phúc của Gioan Tẩy
giả và Anrê
là thấy Ðức Giêsu và
người mình giới thiệu gặp nhau.
Họ chấp nhận tự xóa mình.
Gioan chấp nhận chia tay
với hai môn đệ yêu dấu.
Anrê sau này chẳng được
nổi tiếng bằng Simon.
Theo lời giới thiệu của
Gioan, hai ông đi theo Ðức Giêsu.
Chẳng rõ họ đã đi theo
bao lâu và bao xa.
Họ rụt rè không biết bắt
đầu câu chuyện thế nào.
Ðức Giêsu thấy sự lúng
túng dễ thương của họ.
Chính Ngài đi bước trước,
mở đầu cuộc đối thoại.
Các anh tìm gì thế?
Câu hỏi này bắt họ phải
trở lại với lòng mình,
phải ý thức về nỗi khát
khao đang chi phối mình.
Tôi đang tìm gì? Tiền bạc,
tiếng tăm, thỏa mãn?
Hay tôi đang tìm một Ai
đó cho đời tôi một hướng đi?
Ðức Giêsu gợi chuyện để
họ bày tỏ khát vọng của mình.
Thưa Thầy, Thầy ở đâu?
Câu hỏi này tương đương
với một câu trả lời.
Chúng con muốn biết nhà
của Thầy, muốn đến thăm Thầy.
Ðến nhà một người là đi
vào thế giới của người đó.
Hai ông không chỉ muốn
biết Ðức Giêsu qua lời Gioan.
Họ muốn đích thân gặp gỡ
Ngài.
Chuyện này không ai làm
thay được.
Hãy đến mà xem.
Ðức Giêsu không giấu hai
ông về thế giới của Ngài.
Lời mời này vẫn vang vọng
đến tai chúng ta.
Ðừng sợ đi theo Ðức Giêsu
để đến nhà Ngài.
Ðừng sợ trao đổi với Ngài
như một người bạn.
Nơi nào có những người
nghèo khổ, bị bỏ rơi,
những người cô đơn, bị
khinh miệt hay phản bội,
những người khác văn hóa
và tôn giáo,
nơi đó là nhà của Ðức
Giêsu.
Họ đã đến xem và đã ở
lại.
Hai ông đã nhận lời mời
ngay lập tức.
Không có khoảng cách giữa
ước muốn và thực hành.
Chúng ta chẳng rõ chi
tiết của cuộc hạnh ngộ này,
nhưng chắc chắn đó là một
kỷ niệm không quên.
Kinh nghiệm của hai ông
cũng là của mọi Kitô hữu.
Chúng ta phải được giới
thiệu Ðức Giêsu,
phải đích thân gặp Ngài,
và phải trở nên người
giới thiệu Ngài cho thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không
ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng
đá,
những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời
mình.
Hôm nay
Chúa cũng muốn biết chúng
con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn
đo
trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng
chọn Chúa là lội ngược
dòng,
theo Chúa là bước vào con
đường hẹp :
con đường nghèo khó và
khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục
vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu
có,
tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên
Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con
yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như
Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ
bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ
cuộc sống chúng con,
và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ
cuộc sống của Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
HÃY NÂNG TÂM HỒN LÊN
14 THÁNG GIÊNG
Thiên Chúa Muốn Con
Người
Quan Hệ Mật Thiết Với
Nhau
Việc thực thi công bằng
– là nền tảng của đời sống xã hội – không hề giới hạn hay cương tỏa tự do của
nhân vị khi việc ấy không đi ngược lại bản tính con người và không độc đoán.
Trái lại, nó giúp đỡ và hướng dẫn cho người ta, nam cũng như nữ, thực hiện những
quyết định của riêng mình một cách phù hợp với thiện ích chung. Đời sống hôn
nhân và gia đình là những cơ chế tự nhiên như thế. Chúng bắt rễ trong chính sự
hiện hữu của nhân vị. Và sự thiện hảo riêng của những cơ chế này sẽ là nhân tố
cho sự thiện hảo của toàn xã hội. Chúng giúp người ta có được những sự chọn lựa
tốt lành và đúng đắn.
Thật vậy, Hiến Chế Mục
Vụ Gaudium et spes của Công Đồng Vatican II nêu rõ: “Thiên Chúa đã không dựng
nên con người cô độc; bởi vì từ khởi thủy, ‘Ngài đã tạo dựng có nam có nữ’’ (St
1, 27). Sự liên kết giữa họ đã tạo nên một thứ cộng đoàn đầu tiên giữa người với
người. Thực vậy, tự bản tính thâm sâu của mình, con người là một hữu thể có xã
hội tính và nếu không liên lạc với những hữu thể khác thì con người sẽ không thể
sống và phát triển tài năng mình.” (MV 12)
Đời sống hôn nhân và
gia đình – nền tảng của xã hội – là những cơ chế mà toàn thể cộng đồng thế tục
cũng như tôn giáo phải phục vụ cho. Nếu chúng ta nhận thức rằng “xã hội này của
người nam và người nữ là mô hình đầu tiên của hiệp thông nhân vị”, chúng ta sẽ
hoàn toàn chấp nhận rằng bất cứ hành động nào phục vụ cho đời sống hôn nhân và
gia đình cũng có sức củng cố và làm phong phú hóa mọi cộng đồng khác và trên hết
là toàn thể xã hội loài người.
Hạnh Các Thánh
14 Tháng Giêng
Thánh Macrina
Thánh Macrina là bà nội của Thánh Basil Cả mà chúng ta mừng kính vào ngày 2-1.
Dường như Thánh Macrina đã nuôi dưỡng Thánh Basil Cả và khi lớn lên thánh nhân
đã không ngớt lời ca tụng công việc lành phúc đức của bà nội. Ðặc biệt, thánh
nhân đã nhắc đến việc giáo dục đức tin của bà khi thánh nhân còn nhỏ.
Thánh Macrina và chồng đã phải trả một giá rất đắt khi theo Ðức Kitô. Trong thời
kỳ bách hại của các hoàng đế La Mã Galerius và Maximinus, hai ông bà đã phải đi
trốn. Họ tìm thấy một nơi ẩn náu trong rừng gần nhà. Bằng cách nào đó, họ đã
thoát khỏi sự bách hại. Họ luôn luôn bị đói khát và lo sợ nhưng không mất đức
tin. Họ đã kiên nhẫn chờ đợi và cầu nguyện để chấm dứt sự bách hại. Và cuộc
bách hại này đã chấm dứt sau bảy năm dài. Thánh Gregory Nazianzen có ghi lại
các chi tiết này.
Trong một cuộc bách hại khác, Thánh Macrina và chồng bị mất tất cả tài sản. Họ
không còn gì ngoại trừ đức tin và lòng tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên
Chúa.
Người
ta không biết chính xác Thánh Macrina từ trần năm nào, họ phỏng đoán năm 340,
và cháu nội của thánh nữ là Thánh Basil Cả từ trần năm 379.
Trích từ NguoiTinHuu.com
14 Tháng Giêng
Xuống Ðường
Thông thường, hai chữ "Xuống Ðường"
gợi lên cho chúng ta hình ảnh của những chống đối, biểu tình, đôi khi mang tính
cách bạo động trong đường phố. Nhưng cũng có những trường hợp người ta "xuống
đường" là để gặp gỡ, cảm thông với người khác, nhất là những người không
nhà không cửa, những người sống bên lề đường, những người bị đẩy ra bên lề xã hội
cách này hay cách khác: Ðó là trường hợp "xuống đường" của một số
giáo dân thuộc xứ Saint Leu Gilles thuộc phận 16 của thủ đô Paris Pháp quốc.
Từ 8 năm qua, một số giáo dân thuộc xứ
trên đây đã tụ họp lại để thành lập một hiệp hội có tên là "Giải phóng kẻ
bị giam cầm". Thật ra đây không phải là một chương trình xã hội quy tụ các
nhà giáo, các cán sự xã hội để săn sóc cho những người đầu đường xó chợ, mà chỉ
là một nhóm nhỏ gồm những tín hữu chỉ muốn xuống đường, ra khỏi bốn bức tường
nhà thờ, hoặc mái ấm gia đình để đến gặp gỡ, trò chuyện với những người đứng đường
như các cô gái điếm, những người nghiện ngập. Mục đích duy nhất của những gặp gỡ
này chính là thiết lập tình thân hữu với những người mà ai cũng ghét bỏ.
Một thanh niên thường xuyên đến gặp gỡ
với những cô gái điếm ở đường Saint Denis đã giải thích như sau: "Trước mặt
Chúa, chúng ta cũng như những cô gái điếm đứng đường, nhưng chúng ta biết rằng
Chúa yêu thương chúng ta bên kia tất cả những hành động đĩ diếm của chúng ta.
Các cô gái điếm đánh động lương tâm đang ngủ yên của chúng ta. Họ mời gọi chúng
ta hãy tự đặt vào trong cái nhìn của Chúa và đừng bao giờ kết án ai."
Mục
đích của những người xuống đường trên đây không hẳn là thuyết phục những người
lầm đường lạc lối, ăn năn hối cải và quay về với chính lộ. Tất cả cố gắng của họ
chỉ là nói với các cô gái điếm, những người nghiện ngập, những kẻ lang thang đầu
đường xó chợ rằng: Thiên Chúa là Tình Yêu, Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người.
Ðể bày tỏ sứ điệp ấy, những người làm công tác tông đồ này chỉ có mỗi một động
tác là lắng nghe, hỏi han với tất cả yêu thương và cảm thông.
Nếu
có một thứ hoán cải, thì chính những người trong xã hội phải là những người đầu
tiên hoán cải: hoán cải trong thái độ sống đối với người khác, hoán cải trong
cái nhìn đối với người khác. Chúa Giêsu đã từng nói: Các cô gái điếm sẽ vào Nước
Chúa trước các ngươi. Phải chăng, khi xuống đường đến với người khác, những người
bị bỏ rơi trong xã hội, chính chúng ta không là những người cải hóa cho Tin Mừng?
Trích sách Lẽ Sống






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét