Trang

Thứ Bảy, 13 tháng 1, 2018

14-01-2018 : (phần II) CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN năm B

14/01/2018
Chúa Nhật tuần 2 Thường Niên năm B
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật Tuần II Thường Niên, năm B

CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN – B

1Sm 3,3b-10.19; 1Cr 6,13c-15a.17-20; Ga 1,35-42

ĐƯỢC GỌI LÀM MÔN ĐỆ CHÚA

“Hãy đến mà xem” (Ga 1,39)

Các bài đọc hôm nay nhấn mạnh về ơn kêu gọi đặc biệt: ơn gọi làm người lo việc Chúa. Chúa đã gọi các ngôn sứ làm sứ giả của Lời, rồi gọi các môn đệ loan báo Tin Mừng và ngày nay Chúa vẫn gọi chúng ta, mỗi người một cách cộng tác phần mình vào công việc làm chứng cho Chúa.

I. CÁC BÀI ĐỌC

1. Bài đọc I: 1Sm 3,3b-10.19

Bài đọc I thuật về ơn gọi của Samuel, thuộc thể loại ơn gọi ngôn sứ (x. Is 6; Gr 1,4-10; Ed 1,1-3,16). Cuộc kêu gọi này được đặt trong bối cảnh tương phản rõ nét giữa gia đình Êli và gia đình Samuel. Hai con ông Êli làm nhiều điều xấu trước nhan Đức Chúa: đối xử bất minh với toàn dân Israel, khinh thường những lễ phẩm dâng lên Đức Chúa (x. 1Sm 2,12-17); ăn nằm với những phụ nữ phục vụ ở cửa Lều Hội Ngộ (x. 2,22); chẳng chịu nghe lời khuyên răn của cha họ là tư tế Êli mà hối lỗi sửa mình (x. 2,25). Ngược lại, bà Anna là một người hết mực kính sợ Chúa, và Samuel con của bà thì “càng lớn lên và đẹp lòng cả Đức Chúa lẫn người ta” (2,26).

Đức Chúa quyết định chọn gọi Samuel để thay thế dòng dõi Êli, vốn đã ra hư hỏng. Samuel nghe tiếng Đức Chúa gọi vào thời “lời Đức Chúa thì hiếm và thị kiến cũng không hay xảy ra” (3,1). Hơn nữa, vì “Samuel chưa biết Đức Chúa và lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu” (3,7), nên cậu không dễ dàng nhận ra Đấng đang gọi mình là ai. Ba lần Đức Chúa gọi cậu, nhưng cậu lầm tưởng là tư tế Êli gọi mình. Sau lần gọi thứ ba này, cậu Samuel đã đến hỏi tư tế Êli và được ông chỉ cho cậu biết cách phải đáp lời ra sao trước tiếng gọi mầu nhiệm ấy (x. 3,9).

Đức Chúa tiếp tục gọi Samuel lần thứ tư một cách thân tình và dịu dàng như ba lần trước đó: “Samuel! Samuel!” (3,10). Lần này, Samuel đã thưa như lời tư tế Êli dạy: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (3,10). Tuy nhiên, sau sự kiện này, Đức Chúa hằng ở bên Samuel và Lời Người đóng vai trò hết sức quan trọng trong cuộc đời Samuel, trở thành kim chỉ nam để ông sống và hướng dẫn dân Chúa, như lời Kinh Thánh nói: “Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu” (3,19).

Bài đọc này vẫn thường được trích dẫn để nói về ơn gọi đời sống thánh hiến, hoặc về người có một sứ vụ dành riêng cho Chúa. Chúa vẫn gọi chúng ta bằng nhiều cách, nhưng có khi chúng ta không nhận ra tiếng Người. Vì thế, chúng ta cần chạy đến với những người khôn ngoan, những vị thầy hướng dẫn để chúng ta nhận tiếng Chúa và biết cách đáp lại tiếng Người gọi chúng ta.

2. Bài đọc II: 1Cr 6,13c-15a.17-20

Trong thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côrintô, đoạn trích chúng ta vừa nghe thuộc phần nói đến ơn gọi làm kitô hữu, đó là đời sống mới trong Đức Kitô, kitô hữu được kết hợp không chỉ với Đức Kitô, mà cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong 1Cr 6,13c-15a.17-20, vị tông đồ dân ngoại bàn đến ý nghĩa cao quí của thân xác chúng ta, và qua đó, Ngài kêu gọi tín hữu Côrintô sống sao cho xứng hợp với thân xác của mình.

Thánh Phaolô nêu một loạt các xác tín của Ngài về ý nghĩa của thân xác chúng ta:

1) Thân xác của chúng ta có Thiên Chúa làm chủ (x. c14), thân xác sẽ được Người làm cho sống lại như chính Người đã cho Đức Kitô sống lại (x. c14);

2) Thân xác chúng ta là phần thân thể của Đức Kitô (x. c15), một khi được kết hợp với Chúa thì nên một tinh thần với Người (x. c.17);

3) Thân xác chúng ta là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần (x. c19).

Ơn gọi liên quan đến lối sống. Vì thân xác chúng ta cao quí như vậy trước mắt Thiên Chúa, được kết hợp với Ba Ngôi Thiên Chúa, nên chúng ta phải sống sao cho xứng hợp: thân xác không phải để gian dâm (x. c14.18), không phải để nên một thân xác với kỹ nữ (x. c. 16), nhưng để phụng sự Chúa (x. c.14), để tôn vinh Thiên Chúa (x. c. 20).

3. Bài Tin Mừng: Ga 1,35-42

Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe thuật lại ơn gọi làm môn đệ, bao gồm các khía cạnh: tìm gặp - đến xem - ở lại - làm chứng. Trình thuật về việc Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ trong Gioan khác với các trình thuật trong Tin Mừng Nhất Lãm (x. Mt 4,18-22; Mc 1,16-20). Trong Tin Mừng Nhất Lãm, các môn đệ được Đức Giêsu kêu gọi trực tiếp, khi họ đang làm công việc thường nhật. Theo Tin Mừng Gioan, các môn đệ đến với Đức Giêsu không phải bằng lời kêu gọi trực tiếp, nhưng qua một trung gian, đó là qua lời chứng của ông Gioan, và trong lúc họ đi tìm cho mình một vị thầy để theo.

Trong ơn gọi làm môn đệ, có thể việc tìm kiếm một người thầy khởi đi từ thao thức của chính các ông, và ngay cả việc đến với thầy Giêsu có thể qua lời chứng/ giới thiệu của người khác. Tuy nhiên, bao trùm lên tất cả, ơn gọi làm môn đệ Đức Giêsu lại xuất phát từ chính Đức Giêsu. Tin Mừng Gioan diễn tả điều này khi mô tả việc Đức Giêsu chủ động “quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: ‘Các anh tìm gì thế?’” (Ga 1,38). Sau này, Tin Mừng Gioan xác định rõ hơn khi Đức Giêsu nói: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15,16).

Một điểm khác cần nhấn mạnh trong hành trình ơn gọi làm môn đệ là “Hãy đến và sẽ thấy”. Chủ đề “đến” với Đức Giêsu được diễn tả xuyên suốt trong toàn bộ Tin Mừng Gioan như là một hành vi đức tin (Ga 3,21; 5,40; 6,35.37.45; 7,37…). Tương tự, việc “xem thấy” Đức Giêsu cũng là một chủ đề lớn trong Tin Mừng này. Trong Ga 5,40; 6,40.47, Đức Giêsu hứa ban sự sống đời đời cho: những ai đến với Người, những ai tìm kiếm Người, và những ai tin vào Người. Đó là ba cách thế khác nhau để diễn tả cùng một tình trạng duy nhất là trở thành môn đệ Đức Giêsu.

Tin Mừng Gioan và các Tin Mừng Nhất Lãm đều nói về “đi theo Đức Giêsu”, đó là thuật ngữ đặc biệt để diễn tả ơn gọi “làm môn đệ”. Trước hết là đi theo hành trình địa lý: Họ đi theo Đức Giêsu đến bất cứ nơi nào Người đến, cụ thể là hành trình từ Galilê đến Giêrusalem. Tuy nhiên, không phải bất cứ ai đi theo Đức Giêsu trên hành trình này đều là người môn đệ. Quan trọng hơn là đi theo hành trình tinh thần: nghĩa là người môn đệ học cho biết và làm theo gương mẫu của Thầy. Họ cần theo “đường lối Tin Mừng” và đi trên “con đường Giêsu”, vì Người chính là con đường, nhất là đi theo Thầy trên con đường Thập Giá tiến vào Giêrusalem để đem ơn cứu độ cho mọi người.

Tin Mừng Gioan cũng đề cập tới việc “đi theo” nhưng lại nhấn mạnh một chiều kích quan trọng khác trong hành trình làm môn đệ Đức Giêsu là “ở lại” với hoặc trong Người. Gioan rất chú trọng đến hành động này qua việc dùng động từ “ở lại/ μένω” nhiều hơn các Tin Mừng khác gộp lại (Mt: 3 lần; Mc: 2 lần; Lc: 6 lần; Ga: 33 lần). Bước đầu tiên là “ở lại với”, có nghĩa là một tương quan về mặt thể lý, nhưng sau đó tiến tới một sự kết hợp và hiệp thông sâu sắc cho tới mức “ở lại trong” nhau về mặt tinh thần. Nhờ việc “ở lại trong” Đức Giêsu nên các môn đệ được đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Cuối cùng, sau khi đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu, một điều quan trọng trong ơn gọi này là lại ra đi “làm chứng/ giới thiệu” người khác thành môn đệ của Người. Ra đi làm chứng hay loan báo Tin Mừng là sứ vụ chung của tất cả các môn đệ, và là cách tiếp nối sứ vụ của Đức Giêsu.

Như vậy, có thể tóm kết ơn gọi làm môn đệ Đức Giêsu như sau: “đi theo Đức Giêsu”, được diễn tả qua một tiến trình “đến với Đức Giêsu” để “xem thấy Người”. Sau đó, “ở lại với” và “ở lại trong” Đức Giêsu và “ra đi làm chứng” về Người để khiến cho người khác cũng trở thành môn đệ của Người. Mô hình này được áp dụng cho ơn gọi làm môn đệ Đức Giêsu theo nghĩa chặt, nhưng cũng áp dụng cho mỗi người chúng ta. Nước Trời viên mãn đang đến, đồng lúa chín vàng đang trải ra trước mắt, nhiều con chiên đang cần được quy tụ về một ràn. Hội Thánh thuộc mọi thời, mọi thế hệ đang được thúc đẩy ra đi làm chứng/ ra đi Loan báo Tin Mừng để cho người khác có cơ hội đón nhận ơn cứu độ. Đó là một lời mời gọi nhưng cũng là một mệnh lệnh liên quan đến bản chất của Hội Thánh, vì “bản chất của Hội Thánh/ Kitô hữu là loan báo Tin Mừng” (x. Ad Gentes, số 2).

II. GỢI Ý MỤC VỤ

1. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Các bà mẹ và các bà nội ngoại thông truyền Niềm Tin. Quà tặng của Niềm Tin đến với chúng ta ngang qua những người phụ nữ, như Chúa Giêsu đến với chúng ta ngang qua Mẹ Maria”. Quả thật, gia đình là “trường học đầu tiên” và vai trò giáo dục của các bà mẹ, vì người mẹ gần gũi con cái ngay từ trong bào thai và suốt những tháng năm đầu đời. Bà Anna và Samuel là một trường hợp điển hình, khi bà đã định hướng cuộc đời người con qua việc sinh dưỡng và dâng cậu vào trong Nhà Chúa. Trong năm canh tân đời sống gia đình này, các bạn có ý thức gia đình là “trường học đầu tiên”, và các bậc phụ huynh, nhất là người mẹ đóng vai trò “cô giáo” quan trọng nhất trong việc giáo dục con cái thành người?

2. Nơi cuộc đời của Samuel, Thiên Chúa không để cho Lời nào của Người ra vô hiệu. Còn nơi cuộc đời tôi thì sao, Lời Chúa được gieo vào lòng tôi có tìm được mảnh đất mầu mỡ để lớn lên, để sinh hoa kết trái? Tôi có sẵn sàng lắng nghe tiếng Chúa và đáp lại Lời Người? Làm sao để Lời Chúa cũng không trở nên vô hiệu nơi cuộc đời tôi?

3. Ơn gọi của người Kitô hữu là sống thiết thân với Chúa mỗi ngày, đến mức được kết hợp mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa. Ơn gọi ấy mời gọi và đòi buộc chúng ta sống chiều kích thánh thiêng trong con người toàn diện, kể cả nơi thân xác. Bằng cách nào để tôi tránh xa những cám dỗ có thể khiến cho thân xác tôi dễ dàng ra ô uế?

4. “Đến với Đức Giêsu để “thấy Người”, sau đó, “ở lại với” và “ở lại trong” Đức Giêsu rồi “ra đi làm chứng” về Người để khiến cho người khác cũng trở thành môn đệ của Người cũng là lời mời gọi của Chúa Giêsu cho từng người chúng ta hôm nay. Tôi có được thái độ sẵn sàng đến với Chúa, ở lại để biết Chúa và kết hợp với Chúa? Tôi có đủ cam đảm làm chứng về Chúa Giêsu hay giới thiệu Chúa Giêsu cho tha nhân trong môi trường sống hiện nay?

III. LỜI NGUYỆN CHUNG

Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa đã yêu thương mời gọi con người cộng tác vào công cuộc xây dựng vương quốc của Người nơi trần gian. Cộng đoàn chúng ta hãy cảm tạ Chúa và chân thành dâng lời cầu nguyện cho chúng ta cùng cho mọi người:

1. Hội Thánh có sứ mạng giới thiệu Đức Kitô cho thế giới hôm nay. Chúng ta cùng cầu xin cho các vị chủ chăn cùng mọi thành phần trong Hội Thánh, luôn trung thành với ơn gọi căn bản của mình là loan báo và làm chứng về Đức Kitô cho con người thời đại.

2. Đến và ở lại với Chúa là đòi hỏi cần thiết cho hành trình đức tin. Chúng ta cùng cầu xin cho những người thành tâm thiện chí có cơ hội gặp gỡ và cảm nghiệm về Đức Giêsu Kitô, để tin nhận và tuyên xưng Người là Chiên Thiên Chúa và là Đấng xóa tội trần gian.

3. Hiệp thông trong ngày bế mạc tuần lễ di dân tại Tổng giáo phận, chúng ta cùng cầu nguyện cho anh chị em di dân, cách riêng là các bạn trẻ đang phải xa gia đình, ngày càng trưởng thành trong đời sống đức tin và tích cực làm chứng cho Chúa trong hoàn cảnh hiện tại.

4. Người môn đệ đích thực phải biết chia sẻ niềm vui Tin Mừng cho những người chung quanh. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn hăng hái nhiệt tình trong các hoạt động tông đồ bác ái nhằm đem nhiều người đến với Chúa Kitô.

Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã chọn gọi chúng con vào hàng ngũ những người được vinh dự gọi Chúa là Cha. Xin thương nhậm lời chúng con cầu nguyện, và ban những ơn cần thiết giúp chúng con luôn sống xứng đáng với ơn gọi kitô hữu của mình. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.


SCĐ CHÚA NHỰT II THƯỜNG NIÊN NĂM B

 CHỦ ĐỀ :

 CHÚA KÊU GỌI CON NGƯỜI HỢP TÁC


Sợi chỉ đỏ :

- Bài đọc I (1 Sm 3,3b-10.19) : Chúa gọi Samuel

- Đáp ca (Tv 39) : Lời đáp của kẻ được Chúa gọi : "Này con xin đến, để thực thi ý Chúa"

- Tin Mừng (Ga 1,35-42) : Đức Giêsu gọi Anrê, Gioan và Simon.

- Bài đọc II (1 Cr 6,13c-15a.17-20) (chủ đề phụ) : Giáo huấn về thân xác.

I. DẪN VÀO THÁNH  LỄ

Anh chị em thân mến

Hôm nay chúng ta bước vào mùa Thường niên. Các bài đọc trong Thánh lễ sẽ dần dần dẫn bước chúng ta đi theo Chúa. Bước đầu tiên là Chúa đến gặp gỡ chúng ta và kêu mời chúng ta đi theo Ngài.

Xin Chúa giúp chúng ta nghe được tiếng kêu gọi của Ngài và mau mắn đáp lại.

II. GỢI Ý SÁM HỐI

- Nhiều lần Chúa đã kêu gọi chúng ta, nhưng chúng ta không nghe thấy vì chúng ta mãi mê theo đuổi những chuyện vật chất, thế gian.

- Chúa mời 2 môn đệ đầu tiên "Hãy đến mà xem". Chúa cũng kêu mời chúng ta như thế. Nhưng rất ít khi chúng ta chịu khó đến với Chúa và chiêm ngắm Chúa.

- Chúa đã tạo dựng cho chúng ta một thân xác để chúng ta xử dụng mà tôn vinh Chúa. Nhưng rất nhiều lần chúng ta lại dùng thân xác mình để làm chuyện tội lỗi.

III. LỜI CHÚA

1. Bài đọc I (1 Sm 3,3b-10.19)

Chuyện xảy ra vào cuối thời kỳ các Thủ lãnh (hay còn gọi là Quan án). Thủ lãnh lúc đó là thầy cả Hêli. Ông này có hai đứa con trai. Vì không được Hêli giáo dục kỹ, cho nên hai tên này rất vô đạo. Chúng lợi dụng chức vụ của cha chúng để làm nhiều điều xấu xa tội lỗi. Vì thế Thiên Chúa quyết định chọn người khác thay thế Hêli. Người đó là Samuel, khi ấy còn là một cậu bé được trao phó cho Hêli dạy dỗ trong đền thờ Silô.

Một đêm câu bé Samuel đang ngủ trong đền thờ thì Thiên Chúa gọi cậu 3 lần. Ban đầu cậu chưa biết đó là tiếng Chúa. Nhưng sau đó, được Hêli cho biết đó là tiếng Chúa thì Samuel đã mau mắn đáp lại : "Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe". Thế là Chúa gọi Samuel làm thủ lãnh dân do thái thay cho thầy cả Hêli.

2. Đáp ca (Tv 39)

Đây là lời đáp ngoan ngoãn và quảng đại của kẻ được Chúa gọi : "Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa".

3. Tin Mừng (Ga 1,35-42)

Gioan và Anrê là môn đệ của Gioan Tẩy giả. Một hôm, Gioan tẩy giả đang đứng với họ thì thấy Đức Giêsu đi ngang qua. Gioan tẩy giả chỉ Ngài cho môn đệ thấy và giới thiệu "Đây là con chiên Thiên Chúa", kiểu nói có nghĩa Đức Giêsu là Đấng Messia. Nghe thế Gioan và Anrê liền đi theo Đức Giêsu. Sau đó Anrê lại giới thiệu Đức Giêsu cho anh mình là Simon. Đức Giêsu lại kêu gọi Simon và còn đổi tên ông thành Phêrô.

4. Bài đọc II (1 Cr 6,13c-15a.17-20) (chủ đề phụ)

Những giáo huấn của Thánh Phaolô trong đoạn thư này vẫn còn là căn bản cho giáo lý ngày nay về giá trị thân xác con người :

- Thân xác chúng ta là chi thể của Đức Kitô,

- là đền thờ của Chúa Thánh Thần,

- đã được cứu chuộc bằng giá máu của Đức Kitô.

- Vì thế chúng ta không được dùng thân xác để phạm tội dâm ô, nhưng phải dùng nó để tôn vinh Thiên Chúa.

IV. GỢI Ý GIẢNG

* 1. Cảm nghiệm nhớ đời

a/ Cảm nghiệm của thánh Gioan tông đồ : Trong bài Tin mừng này, Thánh Gioan ghi lại một cảm nghiệm rất sâu sắc mà Ngài được trải qua và nhớ mãi suốt đời, đến nỗi khi Ngài ngồi lại để viết đoạn Tin mừng này (khoảng năm 90), việc đó đã trôi qua khoảng 60, 70 năm mà Ngài vẫn nhớ rất rõ "lúc đó là khoảng giờ thứ 10". Cảm nghiệm gì mà sâu sắc như vậy ? Thưa là cảm nghiệm được gặp Chúa và từ đó gắn bó với Chúa. Chính Thánh Gioan kể lại như sau :

Khi ấy Ngài đang là môn đệ của Gioan tẩy giả. Một hôm Đức Giêsu đi ngang qua, Gioan Tẩy giả liền chỉ cho các môn đệ mình và nói : "Đấy là Con Chiên Thiên Chúa". Nghe vậy, Gioan và một môn đệ nữa liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy họ đi theo sau lưng nên quay lại hỏi "Các anh tìm gì ?" Họ không trả lời nhưng hỏi lại "Thưa Thầy, Thầy ở đâu ?" Đức Giêsu cũng không trả lời nhưng mời họ "Hãy đến mà xem", rồi dẫn họ tới chỗ Ngài đang trọ. Họ đã đến và ở lại với Ngài suốt ngày hôm ấy. Hẳn là một ngày rất ấm cúng, cho nên sau đó họ đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu luôn và 60, 70 năm sau Thánh Gioan còn nhớ kỹ lúc bắt đầu việc đó là "khoảng giờ thứ 10". Thật đúng như lời của một thi sĩ rằng :

"Cái phút ban đầu lưu luyến ấy,

Nghìn năm hồ dễ đã mau quên".

Thánh Gioan muốn chia xẻ cho chúng ta một kinh nghiệm quý giá, đó là : nếu có lần nào chúng ta được thực sự gặp Đức Giêsu và lưu lại trong tình thân mật với Ngài thì chúng ta sẽ không thể nào quên được Ngài, chúng ta sẽ mãi mãi gắn bó với Ngài.

b/ Cảm nghiệm của một số người khác :

- Văn hào Pháp Paul Claudel : một buổi chiều kia rảnh rỗi Paul Claudel rảo bước dạo chơi và tình cờ đi ngang một nhà thờ. Từ trong nhà thờ vang ra tiếng hát thánh ca thanh thoát, siêu phàm. Tiếng Thánh ca ấy đã thu hút ông buớc vào. Ông cảm xúc và ở lại cho đến hết buổi lễ. Và từ chiều hôm đó trở đi, Paul Claudel đã trở thành một tín hữu sốt sắng kiên trì trong Đức Tin. Ông viết nhiều quyển sách truyền bá Đức tin và ca tụng Thiên Chúa, ca tụng Đức Mẹ. Mọi sự bắt đầu vào một buổi chiều đáng nhớ.

- Thomas Merton : Thomas Merton mồ côi cha mẹ lúc 16 tuổi, năm 20 tuổi ông trở thành đảng viên cộng sản, ông hoàn toàn không tin gì về những sự siêu nhiên và sống một nếp sống chạy theo vật chất, nhục lạc. Một đêm kia khi đang ở trong một khách sạn, tự dưng ông nhìn lại đời mình, thấy nó quá trống rỗng và cũng quá nhầy nhụa, đến nỗi ông chê chán chính mình. Lúc đó chẳng biết làm gì khác, Thomas Merton quỳ gối xuống và cầu nguyện : "Lạy Chúa, từ trước tới nay tôi chẳng hề tin Chúa và ngay bây giờ tôi cũng chẳng biết có Chúa hay không. Nhưng nếu thật có Chúa thì xin Ngài hãy giúp kéo tôi ra khỏi vũng bùn nhầy nhụa của đời tôi hiện tại". Đêm hôm đó lần đầu tiên Thomas Merton cầu nguyện. Ông đã gặp được Chúa và từ đó mãi mãi gắn bó với Chúa. Sau đó ông đi tu dòng Trappe. Mọi sự bắt đầu từ một đêm gặp Chúa.

* 2. Chúa vẫn còn kêu gọi

Mặc dù Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng, muốn làm gì cũng được, nhưng Ngài không thích làm một mình, mà luôn kêu mời con người chúng ta cùng làm với Ngài.

- Bắt đầu lịch sử cứu độ, Ngài đã kêu gọi Abraham.

- Khởi sự cuộc giải phóng dân do thái, Ngài kêu gọi Môsê.

- Mở màn thời Tân Ước, Ngài đã kêu gọi Maria.

- Khai mạc sứ vụ rao giảng Nước Trời, Ngài kêu gọi các môn đệ v.v.

Tóm lại, thời Cựu Ước vẫn thế, thời Tân Ước vẫn thế, và thời Giáo Hội cũng vẫn thế : Thiên Chúa luôn muốn kêu gọi con người hợp tác với Ngài trong công trình cứu độ.

Thánh Augustinô đã suy gẫm rất nhiều về điều này, và Ngài đã viết : "Khi tạo dựng con, Chúa không cần hỏi ý con. Khi muốn thánh hóa con, Chúa cần sự hợp tác của con".

* 3. Chúa gọi, con người đứng lên

Tháng 3 năm 1998, Đức Cha Gioan Bta Phạm Minh Mẫn, Giám mục phó giáo phận Mỹ Tho, được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Tổng Giám mục tổng giáo phận Saigon. Từ Lyon nước Pháp, nữ tu Marie Claude Faure, cựu Tổng quyền Dòng Chúa Quan Phòng Portieux, đã gởi đến ĐC Gioan Bta những lời khích lệ như sau :

Chúa cần một người cha cho dân Ngài

Ngài đã chọn một cụ già. Thế là Abraham đứng lên…

Ngài cần một người phát ngôn.

Ngài đã chọn một kẻ nhút nhát nói năng ngọng nghệu. Thế là Môsê đứng lên…

Ngài cần một lãnh tụ dẫn dắt dân Ngài.

Ngài đã chọn kẻ nhỏ nhất, yếu nhất. Thế là Đavít đứng lên…

Ngài cần một tảng đá để đặt nền cho tòa nhà.

Ngài đã chọn một người chối thầy. Thế là Phêrô đứng lên…

Ngài cần một gương mặt để nói cho người ta biết tình thương của Ngài.

Ngài đã chọn một cô điếm. Đó là Maria Mađalêna.

Ngài cần một nhân chứng để hô to sứ điệp của Ngài.

Ngài đã chọn một kẻ bách hại đạo. Đó là Phaolô thành Tarsô…

Ngài cần ai đó để tập họp dân Ngài và để Ngài đến với những kẻ khác.

Ngài đã chọn Đức Cha : dù Đức Cha run sợ, Đức Cha sẽ có thể không đứng lên sao ?

* 4. "Hãy đến mà xem"

Đức Giêsu nói với Anrê và Gioan "Hãy đến mà xem".

Ý của Đức Giêsu là muốn gọi họ làm môn đệ. Nhưng Ngài chưa nói rõ ý đó ra, Ngài chỉ mời họ đến và xem.

- Phải đến, đến gần Đức Giêsu thì mới hiểu Ngài rồi mới có thể làm môn đệ Ngài. Không thể tưởng tượng nổi kiểu môn đệ gì mà ở xa Thầy, không thường xuyên đến gần Thầy.

- Rồi phải xem nữa. Môn đệ không chỉ nghe Thầy dạy, mà còn phải xem cách Thầy sống để sống theo. Không thể chấp nhận kiểu môn đệ mà không sống theo gương Thầy.

Câu Tin Mừng này nhắc tôi phải thường xuyên đến gần Đức Giêsu bằng những lúc cầu nguyện, và phải chăm chỉ xem Đức Giêsu bằng việc nguyện gẫm.

5. Giới thiệu Chúa cho anh em

Nhiều nhóm binh sĩ có vũ trang từ Syrie xâm chiếm đất Israel. Sau khi bắt dân Israel làm tù binh, chúng tàn phá thành phố và làng mạc. Chúng bắt những tù binh này làm việc như những đầy tớ trên đất Syrie. Trong số những người bị bắt, có một cô gái. Người ta không nói tên của cô ta.

Cô trở thành đầy tớ của viên sĩ quan nổi tiếng người Syrie, tên là Naaman. Vua Syrie rất hài lòng về Naaman, vì ông là một sĩ quan rất gan dạ. Rủi thay ông vừa mắc bệnh phong.

Một ngày kia, cô tớ gái nói với bà chủ : "Giá mà ông chủ Naaman được gặp tiên tri Elisa, đang sống ở Samaria, thì ngài sẽ chữa cho ông chủ tôi khỏi bệnh" Nghe vậy, Naaman xin vua Syrie viết thư giới thiệu cho vua Israel. Ông cũng mang theo vải vóc, vàng bạc làm quà tặng.

Khi vua Israel đọc thư, ông rất lo, vì ông nghĩ vua Syrie muốn gây chiến. Nhưng Elisa nghe biết, ông xin nhà vua để mình chữa bệnh cho Naaman. Elisa không gặp Naaman, nhưng chỉ gởi một lá thư : "Hãy đi tắm trong dòng sông Giodan 7 lần và ông sẽ được khỏi".

Naaman rất tự ái, ông không chịu tắm, nhưng đầy tớ khuyên ông cứ làm như lời nhà Tiên tri. Và quả nhiên, Naaman đã được chữa khỏi, da của ông trở nên mịn màng như da đứa trẻ. Naaman dâng cho Elisa quà tặng, nhưng người của Thiên Chúa không nhận, chỉ chúc cho ông "Hãy về bình an".

*

Chúng ta đừng bao giờ quên đứa tớ gái nhỏ bé ở đầu câu chuyện, em đã mau mắn giới thiệu tiên tri Elisa cho Naaman. Nếu cô bé giữ im lặng, thì Naaman sẽ không bao giờ được chữa lành.

Hôm nay, Anrê cũng giới thiệu Phêrô em mình cho Đức Giêsu : "Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a" (Ga.1,41). Rồi dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu.

Dường như mỗi lần Tin mừng Gioan đề cập đến Anrê thì liền sau đó Anrê lại dẫn một ai đó đến với Đức Giêsu. Anrê đã trở nên nổi tiếng vì ông đã dẫn cậu bé có "năm chiếc bánh và hai con cá" giới thiệu với Đức Giêsu. Để rồi sau khi cầu nguyện tạ ơn, Người đã biến bữa ăn trưa của cậu bé trở nên bữa ăn tập thể nuôi sống hơn năm ngàn người.

Lần thứ ba, chúng ta gặp lại Anrê lúc Đức Giêsu vào Giêrusalem lần cuối. Có mấy người Hy Lạp đến xin gặp Người. Cũng chính Anrê là người đã giới thiệu họ với Đức Giêsu. Và chắc hẳn đó là điều làm người hài lòng, vì sau đó Người phán : "Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" (Ga.12,32).

Nếu Anrê không giới thiệu Phêrô với Đức Giêsu thì có lẽ chẳng bao giờ có tông đồ Phêrô đá tảng của Hội thánh.

Nếu Anrê không giới thiệu cậu bé có "năm chiếc bánh và hai con cá", thì có lẽ chẳng có phép lạ đầy ngoạn mục hứng khởi trong Thánh kinh.

Vậy bài học của Anrê là hãy giới thiệu cho mọi người đến với Đức Giêsu. Đó là con đường rao giảng từ người này đến người kia, từng người một. Đức Giêsu rất cần những người giàu tình bạn chân thành, những bước chân mang dấu vết của thân thiện, những lời nói luôn chứa đầy nhiệt huyết, những chứng nhân ra đi kể câu chuyện : "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia".

*

Lạy Chúa, trên trái đất này, chúng con là đôi tay, là tiếng nói, là trái tim của Chúa. Xin cho chúng con trở nên những người nhiệt thành giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới. Amen.(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

6. Một cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa

Trong đời của chúng ta có rất nhiều cuộc gặp gỡ.

Có những cuộc gặp gỡ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu và sớm rơi vào quên lãng. Đó là gặp gỡ hời hợt bề ngoài. Ta có thể nói chuyện với một người nào đó hàng giờ, có khi hàng năm nhưng vẫn thấy chưa thể cởi mở hết tấm lòng. Ta có thể sống chung một tập thể với một người nào đó nhiều năm trời nhưng không bao giờ hiểu được người đó.

Có những cuộc gặp gỡ mà sau khi chia tay, chúng ta cảm thấy mình còn nghèo nàn hơn trước.

Nhưng cũng có những cuộc gặp gỡ rất nhiều ý nghĩa, làm cho chúng ta giàu hơn, và có khi làm thay đổi hẳn cuộc đời chúng ta. Bạn có thể gặp một người nào đó chỉ một lần liền cảm thấy gắn bó với người đó. Với người đó, bạn có thể cởi mở hết tấm lòng.

Khi tình bạn nẩy sinh giữa ta với một người nào đó, ta không cảm thấy rõ ràng đời mình đã đổi thay, nhưng ta nhận thức được rằng đời mình đã có một cái gì đó khác trước, ta có thể yêu thương và chăm sóc người đó một cách dễ dàng không cần cố gắng.

Đừng nghĩ rằng hễ cứ sống với nhau lâu dài và kiên trì chiều chuộng nhau thì sẽ có tình yêu. Theo Kahlil Gibran, "Tình yêu là con đẻ của một sự thu hút vô hình. Nếu sự thu hút này không nẩy sinh trong một giây phút thì nó sẽ chẳng bao giờ nảy sinh cho dù trải qua nhiều năm và thậm chí nhiều thế hệ".

Có những cuộc gặp gỡ rất tình cờ nhưng lại khiến người ta gắn bó với nhau suốt đời. Nhiều cặp vợ chồng đã kể về lần đầu tiên họ gặp nhau với những chi tiết mà suốt đời họ không thể nào quên.

Những điều nói trên giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Đức Giêsu và 3 môn đệ sau này sẽ trở thành tông đồ của Ngài : Anrê, Gioan và Phêrô. Rõ ràng đây là một cuộc gặp gỡ tuyệt vời, bởi vì rất nhiều năm sau, khi Gioan viết Tin Mừng, ông vẫn còn nhớ chính xác thời giờ lúc đó : "Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười" (nghĩa là khoảng 4 giờ chiều).

Vừa khi gặp Đức Giêsu, họ đã bị Ngài thu hút. Tuy nhiên Ngài không hối thúc, Ngài để họ thong thả muốn tìm hiểu Ngài bao lâu tuỳ ý : "Hãy đến mà xem". Họ đã đến và đã xem. Họ thấy Ngài thân thiện, niềm nở, nồng ấm. Họ biết mình đã gặp được một con người tuyệt vời, và thế là một tình nghĩa gắn bó được phát sinh.

Khi ở với Ngài, họ cảm thấy hoàn toàn bình an thoải mái. Qua tiếp xúc với Ngài, họ còn khám phá chính bản thân họ. Thấy cung cách của Ngài, họ cảm mến và thấy rằng mình cũng phải cố gắng sống theo cung cách ấy.

Có một khác biệt vô cùng to lớn giữa uy quyền và ảnh hưởng. Những người hành quyền trên chúng ta thì muốn chế ngự chúng ta, biến chúng ta thành nô lệ họ hoặc một bản sao của họ. Trái lại, những người có ảnh hưởng trên chúng ta thực ra không có ý gò ép chúng ta, thay đổi chúng ta hay khuôn đúc chúng ta thành người giống như họ. Họ ban cho chúng ta một không gian mà trong đó chúng ta có thể tìm gặp chính mình và sống theo cách thức của mình. Đức Giêsu không hành quyền trên các môn đệ. Nhưng Ngài có ảnh hưởng sâu đậm trên họ. Cuộc gặp gỡ hôm ấy đã biến đổi hẳn cuộc đời của Gioan, Anrê và Phêrô.

Chúng ta không thể gặp gỡ Đức Giêsu trong xác thể, nhưng chúng ta có thể gặp gỡ Ngài một cách thiêng liêng trong đức tin như gặp một người Bạn, một người Anh và một Đấng cứu tinh.

Ngày nay Đức Giêsu vẫn còn đi qua và luôn sẵn sàng đón tiếp những ai tìm gặp Ngài. Tuy nhiên Ngài không bao giờ ép buộc ai phải sống như Ngài. Đối với những ai có thiện chí muốn biết Ngài nhiều hơn, Ngài nói như đã nói với Gioan và Anrê "Hãy đến mà xem". (Viết theo Flor McCarthy)

V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu mời gọi những người muốn theo Người "Hãy đến mà xem", để hiểu biết Người hơn mà chọn lựa thái độ đối với Người. Chúng ta hãy tin tưởng dâng lên Chúa những ý nguyện sau đây :

1. Xin cho mọi người trong Hội thánh biết năng tìm dịp gặp gỡ Đức Giêsu / để mỗi người càng hiểu biết và yêu mến Người hơn.

2. Xin cho mọi người trên thế giới chưa biết gì về Chúa Kitô / được có dịp gặp gỡ và hiểu biết Người là Đấng Cứu độ.

3. Xin cho mọi người đang gặp đau khổ và thử thách / biết tìm đến với Đức Giêsu Kitô để Người giải khổ và bồi dưỡng cho.

4. Xin cho anh chị em trong cộng đồng họ đạo chúng ta biết dùng lời nói và việc làm của mình như dấu chỉ và dụng cụ để giới thiệu Đức Giêsu Kitô cho mọi người.

Chủ tế  : Lạy Đức Giêsu Kitô, Chúa đã mời gọi chúng con "Hãy đến mà xem", xin cho mọi người chúng con biết lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.

VI. TRONG THÁNH LỄ

- Trước kinh Lạy Cha : Trong tâm tình sẵn sàng của những kẻ được Chúa gọi "Lạy Chúa, này con xin đến, để thực thi ý Chúa", chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Chúa lời kinh Lạy Cha.

- Sau kinh Lạy Cha : "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con lắng nghe những tiếng gọi của Cha, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…"

VII. GIẢI TÁN

Ngày xưa Chúa đã kêu gọi Ông Samuel, Chúa đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên là Gioan, Anrê và Simon… Ngày nay Chúa cũng kêu gọi chúng ta làm môn đệ Ngài để đem Tin Mừng của Ngài rao giảng cho thế giới. Chúng ta hãy đáp lại lời Ngài, suốt tuần lễ này nhiệt tình làm chứng cho Tin Mừng trong môi trường chúng ta sống và làm việc.

Bài đọc thêm

THƯ 1 CÔRINTÔ

I. GIÁO ĐOÀN CÔRINTÔ

1. Thành phố Côrintô đã bị một viên tướng Rôma tên là  L. Mumium phá hủy vào năm 146 trước công nguyên. Một thế kỷ sau nó được xây dựng lại bởi lệnh hoàng đế Jules César và trở thành một thuộc địa của đế quốc Rôma. Chẳng bao lâu sau nó thành thủ phủ của tỉnh Achaie của đế quốc.

2. Côrintô cũng là một hải cảng lớn với một nền thương mại phồn thịnh. Vì nằm trên tuyến đường nối hai miền Đông Tây, nên việc giao thông cũng tấp nập. Dân số thời ấy khoảng 600 ngàn, trong số đó 2/3 là nô lệ. Về tín ngưỡng, dân Côrintô thờ nhiều thần. Luân lý rất suy đồi, nạn dâm ô tràn lan (x. Rm 1,26-32).

3. Phaolô đến Côrintô lần đầu tiên trong chuyến du hành truyền giáo thứ hai. Ông đã lưu lại đây 18 tháng từ mùa đông năm 50 đến mùa hè năm 52. Ban đầu ông cũng hành nghề dệt lều và rao giảng trong hội đường do thái vào những ngày hưu lễ. Khi có Sila và Timôtêô đến tiếp thì ông hoàn toàn lo rao giảng. Nhiều người đã tin theo và Phaolô lập được một giáo đoàn mà đa số là người lương trở lại, phần đông thuộc giới hạ lưu nghèo khổ. Những tín hữu này rất hăng say sống đạo nhưng đầu óc còn thấm nhiễm tâm thức lương dân. Sau đó dân Côrintô đã đuổi Phaolô đi. Sau khi ông ra đi ít lâu, có một nhà trí thức do thái ở Alexandria tên là Apollo đến nối tiếp sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho dân Côrintô và thu được rất nhiều kết quả (x 1Cr 1,26-28  11,21-22). Sau đó lại có thêm Thánh Phêrô đến nữa.

2. HOÀN CẢNH VÀ MỤC ĐÍCH

Năm 56, Phaolô đang ở Êphêxô thì được nhiều tin tức không tốt đẹp về giáo đoàn Côrintô : nạn bè phái, thói kiện cáo nhau trước tòa án lương dân, tội dâm ô v.v. Ngoài ra, nhiều tín hữu cũng có những thắc mắc về lương tâm và phụng vụ. Phaolô đã gởi Timôtêô đến đấy để dò la tình hình. Sau khi Timôtêô trở về báo cáo thì Phaolô viết bức thư này để sửa dạy những thói xấu và giải đáp những thắc mắc của tín hữu Côrintô.

3. BỐ CỤC

   - Lời chào                                            01,01-03

   - Lời tạ ơn                                            01,04-09

   - Sửa dạy những thói xấu :

    . Nạn bè phái                                       01,10--04,21

    . 1 trường hợp loạn luân                       05,01-13

    . Kiện cáo nhau                                   06,01-11

    . Tội dâm ô                                          06,12-20

   - Giải đáp những thắc mắc :

    . Về hôn nhân và đồng trinh                  07,01-40

    . Vấn đề ăn đồ cúng                             08,01--11,01

   - Bàn về cộng đoàn phụng tự

     và các đoàn sủng                                11,02--14,40

   - Bàn về việc kẻ chết sống lại    ch 15

   - Kết                                                    16,01-18

   - Lời chào                                            16,19-24

Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Nhật II Thường Niên (B)

Chủ Nhật 14 Tháng Một, 2018
Hãy đến và bạn sẽ thấy


Lời mời gọi các Môn Đệ đầu tiên

Ga 1:35-42



1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Đấng Mục Tử Nhân Lành, lạy Cha của con, hôm nay Cha cũng xuống từ miền núi vĩnh cửu, mang theo đàn chiên của Cha và dẫn dắt chúng về phía đồng cỏ xanh rì, có cỏ non suối mát.  Hôm nay, Cha sai con chiên yêu quý và thân yêu nhất của Cha đi trước, Con Chiên mà Cha yêu mến với tình yêu khôn ví; Cha đã ban cho chúng con Đức Giêsu Con Cha, Đấng Mêssia.  Này đây, Ngài đang ở đây!  Con nài xin Cha, xin giúp con nhận ra được Người, để con dõi mắt về Người, lòng ước ao của con, sự mong đợi của con được hướng về Người.  Xin hãy khiến con đi theo Người, xin đừng để con rời xa Người, để cho con tiến vào nhà Người và ở lại đó luôn mãi.  Nhà của Người, ôi lạy Cha, là chính Cha.  Con muốn được vào trong Cha, con muốn sống trong ấy.  Nguyện xin cho thần khí của Chúa Thánh Thần thu hút con, hỗ trợ con và hợp nhất con trong tình yêu với Cha và với Con Cha, là Chúa của con, hôm nay và đến muôn thuở muôn đời.  Amen.

2.  Tin Mừng

a) Đặt đoạn Tin Mừng này trong bối cảnh của nó:

Đoạn Tin Mừng này giới thiệu với chúng ta vào chương khởi đầu của sách Phúc Âm theo Gioan, cho thấy rõ ràng sự nối tiếp ngày nọ qua ngày kia của cả một tuần lễ.  Ở đây chúng ta đã ở vào ngày thứ ba kể từ khi Gioan Tẩy Giả bắt đầu làm chứng cho Chúa Giêsu, đã đến lúc viên mãn, với lời mời đến các môn đệ đi theo Chúa, cũng là Chiên Thiên Chúa.  Sứ vụ của Đức Giêsu bắt đầu trong những ngày này, Ngôi Lời của Chúa Cha, Đấng đã xuống ở giữa loài người để gặp gỡ họ, nói với họ và sống cùng với họ.

Nơi này là Bêtania, xa khỏi bờ sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa:  ở đây cuộc gặp gỡ với Lời của Thiên Chúa xảy ra và một đời sống mới bắt đầu.

b) Để giúp cho việc đọc đoạn Tin Mừng:

Các câu 35-36:  Gioan Tẩy Giả trải qua một kinh nghiệm sống rất mạnh mẽ của cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu.  Thật ra, chính ngay lúc này đây, vào ngày thứ ba, ông hoàn toàn nhận ra Người, ông tuyên xưng Người với toàn sức lực của ông và cho biết Người là con đường thật để đi theo, như cuộc sống để được sống. Tại đây ông Gioan tự rút lui đến gần như biến mất và trở thành chứng tá cho ánh sáng.

Các câu 37-39:  Sau khi chấp nhận việc làm chứng tá của thày mình, các môn đệ của Gioan bắt đầu đi theo Chúa Giêsu; sau khi lắng nghe lời Người, họ gặp được Ngôi Lời và họ chấp nhận được thử thách.  Đức Giêsu nhìn họ, Người biết họ và bắt đầu cuộc đối thoại với họ.  Chúa đem họ đi với Người, đem họ đến nơi ở của Chúa và giữ họ lại với Người.  Tác giả Phúc Âm cho biết chính xác giờ khắc của cuộc gặp gỡ mặt đối mặt này, cuộc trao đổi đời sống giữa Chúa Giêsu và các môn đệ đầu tiên.

Các câu 40-42:  Ngay lập tức, sự chứng tá lóe lên và lan ra; Anrê không thể giữ im lặng những gì ông đã thấy và đã nghe, những gì ông đã trải nghiệm và sống qua và lập tức trở thành một người truyền giáo, đi gọi anh mình là ông Phêrô đến để gặp Chúa Giêsu.  Chúa nhìn ông, gọi ông và biến đổi cuộc đời ông:  ông tên là Simon, bây giờ ông sẽ trở thành Phêrô.

c) Phúc Âm:

35 Hôm sau, khi Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông.   36 Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông liền nói:  “Đây là Chiên Thiên Chúa.”  37 Hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Chúa Giêsu.  38 Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo mình, thì nói với họ:  “Các ngươi tìm gì?”  Họ thưa với Người:  “Rabbi” – nghĩa là thưa Thầy – “Thầy ở đâu?”  39 Người đáp:  “Hãy đến mà xem.”  Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười.  40 Một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đã đi theo Chúa Giêsu là Anrê, em ông Simon Phêrô.  41 Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh:  “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêssia” – nghĩa là Đấng Kitô – 42 Và ông dẫn anh mình tới Chúa Giêsu.  Chúa Giêsu nhìn Simon và nói:  “Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha” — nghĩa là Đá.

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

Tôi vẫn còn trong thinh lặng và để cho những lời đơn sơ nhưng đầy quyền năng này vây phủ lấy tôi, chiếm hữu cuộc đời tôi.  Tôi để cho Chúa Giêsu, Đấng sắp đến, nhìn tôi, và rồi tôi để cho Chúa hỏi tôi, giống như Người đã hỏi họ:  “Ngươi tìm gì?” và tôi để cho Người dẫn tôi đi, về nhà Người.  Vâng, bởi vì tôi muốn ở bên Người…

4.  Một vài câu hỏi gợi ý

Bây giờ, tôi số gắng lắng nghe chăm chú hơn đoạn Tin Mừng này, tiếp nhận mỗi lời, mỗi chữ, chăm chú theo dõi đến từng động tác, đến ánh mắt nhìn.  Tôi thực sự cố gắng để gặp gỡ Chúa trong trang Phúc Âm này, cho phép chính mình được kiếm tìm và nhận biết bởi Người.

a) “Hôm sau, khi Gioan đang đứng đó”:

Trong những lời này, tôi cảm thấy sự khăng khăng của việc tìm kiếm, của chờ đợi; tôi cảm thấy đức tin của Gioan Tẩy Giả đã phát triển.  Những ngày tháng trôi qua, kinh nghiệm của việc gặp gỡ Đức Kitô thì càng mãnh liệt; Gioan không muốn bỏ cuộc, không cảm thấy mệt mỏi, thay vào đó, ông càng trở nên được xác thực hơn, tin chắc hơn, được soi sáng hơn.  Ông ở đó, ông vẫn đứng đó.  Tôi đặt mình trong cuộc đối đầu với con người của Gioan Tẩy Giả:  Tôi có sẽ là người ở đó không, ai sẽ là người đứng chờ?  Hay là tôi sẽ rút lui, tôi cảm thấy mỏi mệt, trở nên yếu đuối và để cho đức tin của mình bị xóa nhòa đi?  Tôi đứng đó hay là tôi sẽ ngồi xuống, tôi sẽ chờ đợi hay là tôi không còn chờ đợi được nữa?

b) “Dõi mắt nhìn về Chúa Giêsu”.

Đây là một động từ hoàn mỹ có nghĩa là “nhìn chăm chú”, “nhìn xoáy vào” và chữ này được lặp lại trong câu 42, đề cập đến Đức Giêsu, Chúa nhìn ông để thay đổi cuộc đời ông.  Nhiều lần, trong các sách Tin Mừng, đã viết rằng Đức Giêsu nhìn thẳng vào các môn đệ mình (Mt 19:26), hoặc đưa mắt nhìn một người nào đó (Mc 10:21); đúng vậy, Người dùng ánh mắt của Người để yêu thương, để mời gọi, để soi sáng.  Tia mắt nhìn của Chúa không bao giờ rời khỏi chúng ta, rời khỏi tôi.  Tôi biết rằng tôi chỉ có thể tìm thấy bình an trong việc trao đổi mắt nhìn này.  Làm sao mà tôi có thể giả vờ như không trông thấy?  Tại sao tôi cứ tiếp tục đảo mắt nhìn của mình sang nơi này nơi nọ, trốn chạy khỏi tình yêu của Chúa đã được trao ban cho tôi và đã chọn tôi?

c) “Họ đã đi theo Chúa Giêsu”.

Câu diễn tả này, nói về các môn đệ, không những chỉ có nghĩa là họ đã bắt đầu đi cùng một hướng với Đức Kitô, mà còn nhiều hơn thế nữa:  họ đã thánh hiến chính họ cho Chúa, họ đã dâng cuộc đời họ với Người và vì Người.  Chúa là người chủ động, tôi biết thế và Người nói với tôi:  “Hãy theo Ta” giống như với người thanh niên giàu có (Mt 19:21), như với Phêrô (Ga 21:22); thế thì thật sự tôi đã trả lời với Chúa ra sao?  Liệu tôi có đủ can đảm, yêu thương, nhiệt huyết, để thưa với Người:  “Lạy Thầy, Thầy đi đến bất cứ nơi nào, con cũng sẽ đi theo Thầy!” (Mt 8:19), xác quyết những lời này với các việc làm không?  Hay là tôi cũng nói giống như người kia ở trong Phúc Âm:  “Thưa Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng trước hết xin cho phép tôi được…” (Lc 9:61)?

d) “Các ngươi tìm gì?”

Này đây, Chúa Giêsu loan báo những lời đầu tiên trong Tin Mừng của Gioan và, đó là một câu hỏi rất cụ thể, nói với các môn đệ là những người đang đi theo Chúa, nói với chúng ta, nói cho riêng tôi.  Chúa đang nhìn chăm chú vào tôi và hỏi:  “Con đang tìm gì?”  Đây không phải là một câu hỏi có thể trả lời được một cách dễ dàng; tôi phải xét lòng mình thật kỹ và lắng nghe chính mình, tự đo lường, thẩm định.  Tôi đang thật sự tìm kiếm điều gì?  Sức lực của tôi, các mong ước, hoài bão của tôi, các việc đầu tư của tôi, chúng được dùng vào mục đích gì?

e) “Họ ở lại với Người”

Các môn đệ ở lại với Chúa Giêsu, họ bắt đầu sống với Người, ở cùng chung nhà với Người.  Vì thế, có lẽ họ đã bắt đầu cảm nghiệm được rằng chính Chúa là ngôi nhà mới của họ.  Động từ mà Gioan sử dụng ở đây, có thể chỉ đơn giản nghĩa là trú ngụ, ở lại, nhưng cũng có nghĩa ở trong, theo ý nghĩa mãnh liệt của một người ở trong một người khác.  Chúa Giêsu ngự trị trong cung lòng của Chúa Cha và cũng ban cho chúng ta cơ hội ở trong Người và trong Thiên Chúa Ba Ngôi.  Ngày nay, Người ban chính thân Người, tại đây, với tôi, sống chung với nhau kinh nghiệm tình yêu tuyệt vời và không thể diễn tả này.  Vì thế, tôi quyết định ra sao đây?  Tôi có sẽ dừng chân và ở lại với Người, trong Người, như các môn đệ đã làm không?  Hay là tôi sẽ ra đi, từ chối tình yêu và chạy đi kiếm tìm một cái gì khác?

f) Và dẫn họ tới Chúa Giêsu”.

Anrê chạy đi gọi anh mình là Simon, bởi vì ông muốn chia sẻ với anh món quà vô giá mà ông đã nhận được.  Ông công bố, loan báo Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Độ và có sức mạnh để lôi kéo anh mình đi với ông.  Ông trở thành một người dẫn đường, trở thành ánh sáng, đường đi chắc chắn.  Đây là đoạn rất quan trọng:  Tôi không biết chắc tôi có đủ cởi mở và thông suốt để làm chứng tá cho Người, Đấng đã mặc khải chính Người cho tôi rất rõ ràng.  Có lẽ là vì tôi lo sợ, tôi xấu hổ, tôi không có sức khỏe, tôi lười biếng, hay là tôi thờ ơ lãnh đạm chăng?

5.  Chìa khóa cho bài đọc

a)  Chiên Thiên Chúa:

Trong câu 36, Gioan Tẩy Giả công bố Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, lặp lại tiếng kêu mà ông đã làm trước đây, ngày hôm trước:  “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.

Việc đồng hóa Đức Giêsu với Con Chiên thì được đề cập tràn ngập trong Kinh Thánh, gồm cả Cựu Ước lẫn Tân Ước.

Con Chiên đã được nhắc đến trong Sách Sáng Thế, chương 22, tại thời điểm hiến tế ông Isaac; Thiên Chúa đã ban cho một chiên con, để dùng làm lễ sát tế thay vì người con.  Con chiên xuống từ trời và chết thay cho con người; con chiên bị hy sinh, để cho người con có thể sống.

Trong Sách Xuất Hành, chương 12, Chiên Con của lễ Vượt Qua được hiến tế, một con chiên không tì vết, toàn vẹn, máu của nó sẽ được đổ ra để cứu các người con trai khỏi tay của Thần Tru Diệt, người đi từ nhà này sang nhà khác, trong ban đêm.  Từ giây khắc ấy, tất cả các người con của Thiên Chúa sẽ vẫn được ký kết, đóng ấn, bởi máu cứu rỗi đó.  Vì thế, con đường đã được mở đi đến sự tự do, con đường của di cư, để đi đến Thiên Chúa, để đi vào trong miền đất hứa của Người.  Ở đây bắt đầu những việc sau đây để dẫn đưa đến Sách Khải Huyền, với thực tế của thiên đàng.

Yếu tố của sự hy sinh, của sát tế, của lễ vật toàn vẹn luôn luôn đi kèm với hình ảnh con chiên; các sách Lêvi và Dân Số liên tục giới thiệu với chúng ta sự hiện diện thiêng liêng của con chiên:  Người hiến thân trong hy tế mỗi ngày, Người hy sinh cho tất cả những hy sinh chuộc tội, cho đền tạ, cho thánh hóa.

Các ngôn sứ cũng nói về một con chiên được chuẩn bị để đem đi làm vật hy sinh:  một con cừu câm nín, bị xén lông mà chẳng mở miệng kêu ca, như một con cừu ngoan ngoãn và hiền lành bị dẫn đến lò sát sinh (Is 53:7; Gr 11:19).  Chiên Con đã hy sinh trên bàn thờ mỗi ngày.

Trong Tin Mừng, chính Gioan Tiền Hô là người loan báo và biểu lộ Đức Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh nhận lấy và xóa bỏ tội lỗi của nhân loại bằng đổ chính máu quý giá và tinh khiết của mình.  Thật ra, Người là Con Chiên được hiến tế thay cho Isaac; Người là Con Chiên được toàn thiêu trên lửa trong đêm Lễ Vượt Qua.  Con Chiên của sự giải thoát; Người là người đầy tớ chịu nhiều đau khổ, không phản kháng, không chống trả nhưng lại tự nộp mình, một cách câm nín, vì yêu thương chúng ta.

Thánh Phêrô đã nói điều này cách công khai:  “Anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên toàn vẹn, không tì vết”. (1 Pr 1:19)

Sách Khải Huyền công khai mặc khải tất cả những việc liên quan đến Con Chiên:  Người là Đấng có thể mở ra các dấu ấn của lịch sử, cuộc đời của mỗi người, của tâm hồn ẩn dấu, của chân lý (Kh 7:1,3,5,7,9,12; 8:1);  Người là Đấng đã đem lại sự chiến thắng vinh quang, ngự trên ngai (Kh 5:6);  Người là vua, xứng đáng được danh dự, chúc tụng, vinh quang, tôn thờ (Kh 5:12);  Người là Chàng Rể, Đấng đã đạt lời mời đến dự Tiệc Cưới của mình (Kh 19:7);  Người là ngọn đèn chiếu soi (Kh 21:23), là Đền Thờ (Kh 21:22), nơi để cho chúng ta cư ngụ muôn đời;  Người là vị Mục Tử (Kh 7:17), Đấng mà chúng ta sẽ đi theo đến bất cứ nơi nào Người đi (Kh 14:4).

b) Trông thấy:

Trong đoạn Tin Mừng này được lặp lại năm lần sự diễn đạt về sự trông thấy, cuộc gặp gỡ trong những cái nhìn.  Người đầu tiên là Gioan Tẩy Giả, người đã có con mắt quen với việc nhìn thấy sâu xa và nhận ra Chúa đi đến và đi ngang qua; ông đã phải làm chứng cho ánh sáng và vì lý do này có đôi mắt được sáng tỏ từ bên trong.  Thật ra, gần dòng sông Giođan, ông đã thấy Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu (Mt 3:16); ông đã nhận ra rằng Người là Chiên Thiên Chúa (Ga 1:29) và đã tiếp tục hướng mắt dõi theo Người (câu 36) và nói cho các môn đệ của ông về Chúa.  Và nếu Gioan Tiền Hô trông thấy theo cách này, nếu ông có khả năng nhìn thấu vào sự xuất hiện, thì ắt có nghĩa là trước đây ông đã được liên kết bởi cái nhìn yêu thương của Đức Giêsu, trước đây ông đã được mở mắt.  Trong cùng một cách như chúng đang được như vậy.  Ngay sau khi chứng nhân của cái nhìn mất đi, thì ánh sáng đôi mắt của Chúa Giêsu được hoàn thành.  Trong câu 38, sách Phúc Âm nói rằng Chúa Giêsu trông thấy các môn đệ của Gioan đang đi theo mình và Tác Giả Phúc Âm sử dụng một động từ rất tuyệt mỹ, có nghĩa là “nhìn chăm chú một ai đó, nhìn cách xuyên thấu và mãnh liệt”.  Chúa thực sự đang làm điều này với chúng ta:  Người hướng về phía chúng ta, đến gần chúng ta, ghi lòng tạc dạ sự hiện diện của chúng ta, cuộc sống của chúng ta, con đường đi theo Người của chúng ta, và Người nhìn chúng ta một lúc lâu, hơn hết cả, với tình yêu thương, nhưng cũng thật mãnh liệt, liên quan đến chính Người, với lòng quan tâm sâu xa.  Ánh mắt nhìn của Người không bao giờ rời xa chúng ta.  Đôi mắt Người dán chặt vào chúng ta, chúng được thiết kế trong chúng ta, như Thánh Gioan Thánh Giá đã hát trong bài Thánh Thi Thiêng Liêng của ông.

Và rồi sau đó đến lượt Chúa mời gọi chúng ta, hãy mở mắt ra, để bắt đầu trông thấy trong một cách thực sự; Người nói:  “Hãy đến và xem”.  Mỗi ngày Người lặp lại điều này với chúng ta, không mệt mỏi với lời mời gọi dịu dàng và mạnh mẽ này, tràn ngập với những lời hứa và quà tặng.  “Họ đã xem thấy chỗ Người ở”, Gioan bằng vào cách sử dụng một động từ khác lạ, rất mạnh mẽ, để cho thấy một cách sâu sắc, vượt quá khỏi sự hời hợt và xã giao, mà đi vào trong sự hiểu biết, trong kiến thức và đức tin của những gì mà người ta trông thấy.  Các môn đệ — và cả chúng ta qua các ông – đã trông thấy, buổi chiều hôm ấy, nơi Chúa Giêsu đang ở, đó là, họ đã hiểu và biết rằng đó chính là nơi Chúa ở, chứ không chỉ là một nơi chốn hay là một không gian…

Sau cùng, một lần nữa chúng có cùng một động từ như lúc bắt đầu.  Chúa Giêsu nhìn ông Simon (câu 42) và với ánh mắt ấy, với cuộc gặp gỡ qua đôi mắt đó, của linh hồn, Người gọi ông bằng tên và thay đổi cuộc đời ông, khiến ông trở thành một con người mới.  Đôi mắt của Chúa cũng đang mở nhìn chúng ta trong cùng một cách và chúng gột sạch chúng ta khỏi sự xấu xa của bóng tối, soi sáng chúng ta với tình yêu; với đôi mắt như thế Người đang gọi chúng ta, đang làm một sự tác tạo mới cho chúng ta, đang nói:  “Hãy có ánh sáng”, và tức thì có ánh sáng.   

c) Ở lại – Cư ngụ

Đây là một động từ rất quan trọng khác, rất mạnh mẽ, một hạt minh châu quý giá khác của Tin Mừng Gioan.  Trong đoạn Phúc Âm của chúng ta, nó được lặp lại ba lần, với hai ý nghĩa khác nhau; cư ngụ và ở lại.  Các môn đệ lập tức hỏi Chúa Giêsu xem Người ở đâu, nhà của Chúa ở đâu và Người đã mời các ông đi đến, vào xem, và ở lại:  “Họ ở lại với Người ngày hôm ấy” (câu 39).  Đó không phải là một việc ở lại bằng thể chất, tạm bợ; các môn đệ không phải chỉ là khách qua đường, dừng chân trong chốc lát.  Không, Chúa đã dọn chỗ sẵn cho chúng ta trong nhà của Người; trong mối quan hệ của Người với Chúa Cha và ở đó Chúa đón nhận chúng ta mãi mãi; Thực ra, Chúa đã nói:  “Như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta … Con ở trong họ và Cha ở trong Con…” (Ga 17:21-23).  Chúa cho phép chúng ta đi vào và Người cũng đi vào; Chúa cho phép gõ cửa và chính Người cũng gõ cửa; Chúa làm cho chúng ta ở lại trong Người và Người chọn nơi trú ngụ cùng với Chúa Cha trong chúng ta (Ga 14:23).  Ơn gọi của chúng ta để được làm môn đệ của Chúa Kitô và loan báo cho anh chị em chúng ta về Người, có nguồn gốc của nó, nền tảng của nó, sức sống của nó ngay tại chính nơi đây, trong thực tại của việc định cư đối ứng của Chúa trong chúng ta và chúng ta trong Người.  Niềm hạnh phúc đích thực và bền vững của chúng ta bắt nguồn từ nhận biết việc ở lại trong Chúa của chúng ta.  Chúng ta đã trông thấy nơi Chúa ngự, chúng ta đã biết nơi Người hiện diện và chúng ta đã quyết định ở lại với Người, hôm nay và mãi mãi.

“Hãy ở lại trong Thầy và như Thầy ở lại trong anh em…  Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái…   Nếu anh em ở lại trong Thầy và Lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý…  Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15:4,5,7,9).

Thân lạy Chúa, không, con sẽ không đi với bất kỳ một ai khác, con sẽ không đi đến bất cứ một nơi nào khác, con chỉ đi với Chúa mà thôi; Chúa là nơi con trú ngụ, chốn cứu rỗi của con!  Xin hãy cho phép con mong ước rằng con có thể được ở lại nơi này, gần Chúa, và mãi mãi.  Amen.

6.  Giây phút cầu nguyện: Thánh Vịnh 34

Đáp ca:  Lạy Chúa, con đã tìm kiếm thiên nhan Người, xin Chúa đừng giấu mặt với con

Tôi đã tìm kiếm CHÚA, và Người đáp lại,
giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng.
Ai nhìn lên CHÚA sẽ vui tươi hớn hở,
không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi.
Kẻ nghèo này kêu lên và CHÚA đã nhận lời,
cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn.
Sứ thần của CHÚA đóng trại chung quanh
để giải thoát những ai kính sợ Người.

Hãy nghiệm xem CHÚA tốt lành biết mấy:
hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!
Kính sợ CHÚA đi, đoàn dân thánh hỡi,
vì ai kính sợ Người chẳng thiếu thốn chi.
Kẻ giàu sang phải bần cùng đói khổ,
còn ai tìm kiếm CHÚA chẳng thiếu của gì.
Các con ơi, hãy đến mà nghe,
ta sẽ dạy cho biết đường kính sợ CHÚA.

CHÚA để mắt nhìn người chính trực
và lắng tai nghe tiếng họ kêu.
Họ kêu xin, và CHÚA đã nhận lời,
giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn.
CHÚA gần gũi những tấm lòng tan vỡ,
cứu những tâm thần thất vọng ê chề.
Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân,
nhưng CHÚA giúp họ luôn thoát khỏi.

7.  Lời nguyện kết

Lạy Cha, con xin cảm tạ Cha vì Cha đã ban cho con sự hiện diện của Chúa Giêsu, Con Cha, trong những lời tỏa sáng của Tin Mừng này; con xin cảm tạ Cha vì Cha đã cho con được cơ hội lắng nghe tiếng Chúa, vì đã mở mắt con để nhận biết Người; con xin cảm tạ Cha vì đã đặt để con trên con đường đi theo Người và tiến vào nhà Chúa.  Con xin cảm tạ Cha bởi vì con có thể ở lại với Người và trong Người và bởi vì Người ở trong Cha, và Cha ở trong con.  Con xin cảm tạ Cha vì một lần nữa Cha đã gọi con, làm cho cuộc sống con đổi mới.  Lạy Cha, xin Cha hãy khiến con trở nên một khí cụ tình yêu của Cha; để con có thể loan báo không ngừng nghỉ về Đức Kitô đang đến; để con không cảm thấy hổ ngươi, để con không sống khép kín với chính mình, không buông xuôi, nhưng luôn luôn trở nên hạnh phúc hơn, để hướng về Người, hướng về Cha, hướng về các anh chị em mà Cha đã cho con gặp gỡ mỗi ngày.  Amen.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét