Trang

Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2018

Vị Giảng Thuyết của Phủ Giáo Hoàng: Mùa Chay và Lánh Đời, kỳ cuối


Vị Giảng Thuyết của Phủ Giáo Hoàng: Mùa Chay và Lánh Đời, kỳ cuối
Vũ Văn An
03/Mar/2018

2. Cuộc khủng hoảng của lý tưởng “fuga mundi” (lánh đời)

Sự việc đã thay đổi trong thời kỳ trước thời kỳ ta. Về lý tưởng tách biệt khỏi thế giới, chúng ta đã bước qua một thời kỳ trong đó, lý tưởng này bị “phê phán” và nghi ngờ. Cuộc khủng hoảng này có nguồn gốc xa xôi. Ít nhất về phương diện lý thuyết, nó bắt đầu với phong trào nhân bản Phục Hưng, một phong trào nhằm phục hồi sự quan tâm và hào hứng đối với các giá trị trần gian, đôi khi với một sức quyến rũ ngoại đạo. Nhưng nhân tố có tính quyết định của cuộc khủng hoảng này được tìm thấy nơi hiện tượng gọi là “tục hóa” (secularization) khởi đầu từ Phong Trào Ánh Sáng và đạt tới tuyệt đỉnh trong thế kỷ 20.
Sự thay đổi hiển nhiên nhất liên quan tới chính các ý niệm “thế giới” và “thời đại”. Trong trọn lịch sử linh đạo Kitô Giáo, chữ “saeculum” (đời) vốn có một âm hưởng tiêu cực, hoặc ít nhất, hàm hồ. Nó chỉ thời hiện đại vốn làm tôi tội lỗi, đối lập với thời tương lai hay cõi đời đời. Trong một vài thập niên, ý nghĩa của nó đã có nhiều biến đổi cho đến lúc nó nhận được một ý nghĩa tích cực dứt khoát trong hai thập niên 1960 và 1970. Một số tựa sách xuất hiện trong thời gian này như The Secular Meaning of the Gospel (Ý Nghĩa Đời trong Tin Mừng) của Paul van Buren và The Secular City (Thành Đời) của Harvey Cox, đã làm nổi bật ý nghĩa lạc quan mới mẻ của “saeculum” và “đời”. Thế là “nền thần học về tục hóa” ra đời.

Tuy nhiên, đối với một số người, tất cả các điều trên đã góp phần thổi phồng sự lạc quan thái quá về thế giới vì đã không tính chi đến mặt kia, cái mặt chịu ảnh hưởng của “tên ác” và chống lại thần trí Chúa Kitô (xem Ga 14:17). Ở một lúc nào đó, trong tâm thức một số người (cả giáo sĩ lẫn tu sĩ), ý niệm truyền thống về việc chạy trốn “khỏi” thế giới đã bị thay thế bằng ý niệm chạy “về phía” thế giới, tức tinh thần thế gian (worldliness).

Trong bối cảnh trên, một số điều phi lý và đầy ảo vọng nhất chưa bao giờ xuất hiện dưới danh nghĩa “thần học” đã được viết ra. Trước nhất là ý niệm cho rằng chính Thiên Chúa cũng đã trở thành “đời” và “thế gian” khi Người để qua một bên ngôi vị Thiên Chúa để trở thành người phàm. Đó chính là điều được đặt tên là “Thần Học về Cái Chết của Thiên Chúa”. Cũng còn một nền thần học quân bình về tục hóa trong đó, việc tục hóa không bị coi như một điều chống lại Tin Mừng nhưng đúng hơn là sản phẩm của Tin Mừng. Tuy nhiên, đấy không phải nền thần học chúng ta đang nói về.

Một số người nhận định rằng “các nền thần học về việc tục hóa” đã nhắc ở trên chẳng là gì khác hơn các cố gắng hộ giáo “nhằm cung cấp một biện minh có tính ý thức hệ cho việc dửng dưng đối với tôn giáo nơi con người hiện đại”; chúng cũng thích đáng đối với “ý thức hệ cho rằng các giáo hội phải biện minh cho việc mình càng ngày càng bị đẩy qua bên lề” (5). Chẳng bao lâu sau, người ta thấy rõ đây là một ngõ cụt. Trong vòng mấy năm thôi, gần như không còn người nào nói đến thần học tục hóa nữa, và một số người cổ vũ cho nó tự tách mình ra khỏi nó luôn.

Cũng như bao giờ, rớt tới đáy khủng hoảng đã trở thành cơ hội để quay về với Lời “hằng sống và đời đời” của Thiên Chúa. Ta hãy lắng nghe lời khuyên của Thánh Phaolô một lần nữa: “Đừng đồng hình đồng dạng với thế giới nhưng hãy được biến đổi bởi việc canh tân tâm trí để anh chị em có thể chứng minh đâu là thánh ý Thiên Chúa và điều gì tốt, có thể chấp nhận được và hoàn hảo”.

Nhờ Tân Ước, ta đã biết thứ thế giới ta không nên đồng hình đồng dạng với: đó không phải là thế giới đã được Thiên Chúa tạo dựng và yêu thương và không phải là những người ở trong thế giới mà ta luôn phải đi gặp gỡ, nhất là những người nghèo, bị chà đạp, và đau khổ. Nghịch lý thay, “trà trộn” với thế giới đau khổ và bị chà đạp này là cách tốt nhất để “tách” ta ra khỏi thế giới vì việc này đi theo một hướng bị thế giới trốn chạy càng xa càng tốt. Nó có nghĩa tách chúng ta ra khỏi chính nguyên tắc đang cai trị thế giới, tức tự lấy mình làm trung tâm.

Ta hãy chú tâm một chút vào ý nghĩa của điều sau đây: được biến đổi ở những ngõ ngách sâu xa nhất của tâm trí ta. Mọi sự trong ta bắt đầu từ tâm trí, từ các ý nghĩ. Có một câu phương châm khôn ngoan nói rằng:

Hãy canh chừng các ý nghĩ của bạn, vì chúng sẽ trở thành lời nói
Hãy canh chừng các lời nói của bạn vì chúng sẽ trở thành các hành động.
Hãy canh chừng các hành động của bạn vì chúng sẽ trở thành các thói quen.
Hãy canh chừng các thói quen của bạn vì chúng sẽ trở thành tính nết của bạn
Hãy canh chừng tính nết bạn vì nó sẽ trở thành số phận bạn
.

Như thế, trước các việc làm của ta, thay đổi phải xẩy ra trong cách ta suy nghĩ, nghĩa là, trong đức tin của ta. Có nhiều nguyên nhân ngay ở nguồn gốc tính thế gian, nhưng nguyên nhân chính là cuộc khủng hoảng đức tin. Theo nghĩa này, lời khuyên của Thánh Tông Đồ chỉ lặp lại lời khuyên của Chúa Kitô lúc Người bắt đầu rao giảng: “Hãy ăn năn và tin”; Hãy ăn năn, nghĩa là, hãy tin! Hãy thay đổi lối anh chị em suy nghĩ; đừng suy nghĩ theo “lối suy nghĩ của con người” nữa và hãy bắt đầu suy nghĩ theo “lối suy nghĩ của Thiên Chúa” (xem Mt 16:23). Thánh Tôma Aquinô rất đúng khi nói rằng “Hồi tâm đầu tiên hệ ở việc tin (prima conversio fit per fidem).”[6]

Đức tin là mặt trận hàng đầu giữa Kitô hữu và thế giới. Chính nhờ đức tin, Kitô hữu không còn “thuộc về” thế giới nữa. Khi đọc các kết luận mà các khoa học gia vô tín ngưỡng rút ra từ các quan sát vũ trụ của họ và khi tôi xem viễn kiến về thế giới mà các nhà văn và người làm phim ảnh đề xuất với ta, viễn kiến trong đó Thiên Chúa, ít tệ nhất, thì bị rút gọn vào một thứ cảm thức mơ hồ và chủ quan về mầu nhiệm, còn Chúa Giêsu Kitô, thậm chí, bị loại ra mọi xem xét, nhờ đức tin, tôi cảm thấy tôi thuộc một thế giới khác.Tôi cảm nghiệm được sự thật trong những lời của Chúa Giêsu sau đây: “Phúc cho những đôi mắt được thấy điều chúng con đang thấy!” Và tôi luôn ngạc nhiên khi quan sát thấy Chúa Giêsu đã thấy trước điều đó và Người đã ban cho ta lời giải thích việc đó từ lâu lắm rồi: “Cha đã che dấu những điều này cho kẻ khôn ngoan và thông hiểu và tỏ lộ chúng cho những người bé nhỏ” (Lc 10:23, 21).

“Thế giới” hiểu theo nghĩa luân lý, từ định nghĩa, vốn là những người bác bỏ đức tin. Tội mà Chúa Giêsu cho hay Đấng Phù Trợ sẽ “thuyết phục thế giới” phải nhận là tội không tin vào Người (xem Ga 16:8-9). Thánh Gioan viết “đây là vinh thắng sẽ khuất phục thế giới, đức tin của chúng ta” (1Ga 5:4). Trong thư gửi tín hữu Êphêsô, ta đọc “Người đã làm anh chị em được sống, khi anh chị em đã chết vì những sa ngã và tội lỗi xưa kia anh chị em đã sống trong đó, theo trào lưu của thế gian này, theo tên thủ lãnh nắm giữ quyền lực trên không trung, tên ác thần hiện đang hoạt động trên những kẻ không vâng phục” (Ep 2:1-2).

Nhà chú giải Heinrich Schlier đã thực hiện một phân tích sâu sắc về “tinh thần của thế giới” này, tinh thần mà Thánh Phaolô coi là kình địch trực tiếp của “Thần Trí Thiên Chúa” (1Cr 2:12). Nó đóng một vai trò quyết định trong công luận..., và ngày nay, nó quả thực là tinh thần “của không khí” vì nó lan truyền qua không khí bằng điện tử. Schlier định nghĩa “tinh thần tổng quát của thế giới” là:

Tinh thần của một thời kỳ, một thái độ, một quốc gia hay một địa phương đặc thù... Quả vậy, nó cường mạnh đến độ không một cá nhân nào thoát được nó. Nó được dùng như một quy tắc và được coi là tự nhiên. Hành động, suy nghĩ hay nói ngược lại tinh thần này được coi là vô nghĩa hoặc, thậm chí, sai lầm và phạm tội nữa. Chính “trong” tinh thần này, con người gặp gỡ thế giới và sự việc, điều này có nghĩa họ chấp nhận thế giới như tinh thần này trình bầy với họ... Chính bản chất (tinh thần) của họ đã giải thích vũ trụ và nhân sinh theo cách riêng của họ.[7]

Việc trên mô tả điều ta gọi là “thích ứng theo tinh thần thời đại”. Tinh thần này hành xử như một thứ ma cà rồng trong dã sử. Ma cà rồng tấn công người đang khi họ ngủ và khi hút máu họ nó đồng thời bơm vào một thứ chất lỏng gây ngủ khiến họ càng ngủ ngon hơn và cứ thế họ mê man trong giấc ngủ để nó tha hồ hút hết máu của họ. Tuy nhiên, thế giới còn tệ hơn cả ma cà rồng vì ma cà rồng không thể làm con mồi của nó thiếp ngủ mà chỉ có thể tới gần những người đã thiếp ngủ rồi. Trái lại, thế giới, trước nhất, khiến người ta thiếp ngủ, rồi hút hết nghị lực thiêng liêng của họ, bơm vào một thứ chất lỏng gây ngủ khiến họ càng ngủ ngon hơn.

Thuốc chữa tình huống trên là một ai đó phải hét vào tai người ngủ “Hãy thức dậy!” Đó chính là điều Lời Thiên Chúa làm trong rất nhiều dịp và là điều phụng vụ của Giáo Hội khiến chúng ta nghe một lần nữa ngay ở đầu Mùa Chay: “Ôi người mê ngủ, hãy tỉnh dậy” (Ep 5:14); “ nay đã trọn vẹn tới giờ để anh chị em thức giấc” (Rm 13:11).

3. Hình Thức của Thế Giới Này Đang Biến Đi 


Nhưng ta hãy tự hỏi lý do tại sao Kitô hữu không nên đồng hình đồng dạng với thế giới. Lý do này không có tính hữu thể mà có tính cánh chung. Ta không cần tách mình ra khỏi thế giới này vì vật chất xấu từ trong nội tại và là kẻ thù của tinh thần, như phái duy Platông và một số văn sĩ Kitô Giáo chịu ảnh hưởng của họ vốn nghĩ. Như Thánh Kinh dạy, lý do là: “hình thức của thế giới này đang qua đi” (1Cr 7:31); “thế giới đang qua đi và cả lòng thèm muốn nó nữa; nhưng ai thực hiện thánh ý Thiên Chúa sẽ tồn tại mãi mãi” (1Ga 2:17).

Ta chỉ cần dừng lại vài phút và nhìn quanh để ý thức được sự thật của những lời lẽ trên.

Đời sống tương tự như những gì xuất hiện trên màn truyền hình: các chương trình, điều người ta quen gọi là đội hình để coi (viewing lineup), tiếp theo nhau một cách nhanh chóng, và chương trình này triệt tiêu chương trình trước đó. Màn hình thì vẫn như nguyên, nhưng các chương trình và hình ảnh thì thay đổi. Với chúng ta cũng y như vậy: thế giới còn đó, nhưng phần chúng ta thì kẻ trước người sau sẽ lìa khỏi. Trong mọi tên tuổi, khuôn mặt, và tin tức viết đầy trên các nhật báo và chương trình phát tuyến tin tức hôm nay, những gì của họ, của mọi người chúng ta, sẽ còn lại, trong một vài năm hay một vài thập niên nữa? Không gì hết.

Ta hãy nghĩ đến những gì còn lại từ những huyền thọai cách nay 40 năm và những gì sẽ còn lại trong 40 năm kể từ nay từ những huyền thoại và người nổi tiếng của ngày hôm nay. Đọc trong Isaia ta thấy nó sẽ “giống như khi người đói mơ thấy mình được ăn nhưng thức dậy thấy cơn đói của mình chưa đã, hay như khi người khát mơ thấy mình được uống nhưng lúc tỉnh ngất xỉu, vì cơn khát của mình không đã” (Is 29:8). Giầu có, tiếng khen, và vinh quang là chi nếu không phải là một giấc chiêm bao sẽ tan biến lúc hừng đông? Thánh Augustinô mô tả người ăn mày một đêm kia có một giấc chiêm bao thật tuyệt vời. Ông ta mơ thấy một gia tài kếch xù bỗng rơi vào lòng mình. Trong giấc chiêm bao, ông ta được mặc những bộ quần áo lộng lẫy; được vây quanh đủ vàng đủ bạc và là chủ nhân của những cánh đồng và vườn nho mênh mông. Một cách kiêu hãnh, ông ta còn mắng mỏ cả cha mình và giả bộ không hề biết đến ông cụ... Nhưng khi thức giấc vào buổi sáng, ông thấy mình mê ngủ.[8]

Gióp than rằng “từ lòng mẹ tôi sinh ra trần truồng, và tôi sẽ trần truồng trở về [lòng đất]” (G 1:21). Cũng một điều y hệt sẽ xẩy ra cho các nhà triệu phú đầy tiền ngày nay và với các nhà quyền thế từng làm thế giới khiếp run trước uy quyền của họ. Bên ngoài bối cảnh đức tin, con người nhân bản không là gì cả ngoài khuôn hình được tạo nên bởi bọt sóng dạt vào bờ biển sẽ bị bọt sóng kế tiếp triệt tiêu.

Ngày nay, có một vũ đài mới trong đó ta cần đặc biệt đừng đồng hình đồng dạng với thế giới này: đó là hình ảnh. Người xưa vốn có câu châm ngôn “ăn chay thế giới (nesteuein tou kosmou).”[9] Ngày nay ta có thể áp dụng điều đó như là ăn chay hình ảnh thế giới. Ngày nay, người ta ăn chay vì nhiều động lực khác, nhất là để giữ cho thân hình cân xứng. Thánh Kinh nói không thức ăn nào tự nó là dơ dáy cả (xem Mt 7:19), nhưng nhiều hình ảnh quả thật dơ dáy. Chúng đã trở nên một trong những cỗ xe ưa thích để nhờ đó, thế giới vung vãi thứ phản tin mừng của nó. Một ca khúc Mùa Chay khuyên chúng ta:

Utamur ergo parcius (Ta hãy thanh đạm sử dụng)
Verbis, cibis et potibus (lời nói, thức ăn, thức uống)
Somno, iocis et arctius (ngủ nghỉ và vui chơi)
Perstemus in custodia. (Ta nên cảnh giác hơn trong việc gìn giữ các giác quan)
.[10]

Ta nên thêm các hình ảnh vào danh sách các thứ ta cần sử dụng một cách thanh đạm là lời nói, thức ăn, thức uống và ngủ nghỉ. Trong các điều phát xuất từ thế giới chứ không từ Chúa Cha, Thánh Gioan đã thêm một cách có ý nghĩa, cùng với lòng thèm muốn xác thịt và cậy mình có của (pride of life), “dục vọng đôi mắt” (1Ga 2:16). Ta hãy nhớ lại Vua Đavít đã sa ngã ra sao... Điều xẩy ra với ngài lúc ngài từ sân thượng nhìn xuống căn nhà bên cạnh ngày nay cũng thường xẩy ra khi ta mở một số trang mạng trên Internet.

Nếu đôi khi ta cảm thấy bối rối bởi các hình ảnh không trong sạch hoặc vì sự thiếu khôn ngoan hoặc vì chủ trương xâm nhập của thế giới nhất quyết tống hình ảnh của nó trước mắt ta, thì ta hãy bắt chước điều người Do Thái từng làm ở sa mạc khi họ bị rắn cắn. Thay vì phí thì giờ ân hận vô bổ hoặc cố gắng tìm cớ bào chữa ở việc cô đơn của mình hay việc người khác không thấu hiểu, ta hãy nhìn lên tượng chịu nạn và đến với Đấng Thánh. “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:14-15). Ước chi liều thuốc này vào được nơi độc dược đã vào, nghĩa là, đôi mắt chúng ta.

Với những đề nghị được lời thư của Thánh Phaolô gửi các tín hữu Rôma gợi ý, và trên hết, với ơn thánh Chúa, kính thưa qúy cha, qúy thầy và qúy dì đáng kính, chúng ta hãy khởi sự việc chuẩn bị Mừng Lễ Phục Sinh Thánh của chúng ta. Thánh Augustinô dạy rằng cử hành Lễ Phục Sinh là “từ thế giới bước tới Chúa Cha” (Ga 13:1), nghĩa là, bước tới điều không qua đi! Điều cần là bước ra ngoài thế giới để không bước ra khỏi thế giới. Xin kính chúc một Mùa Chay hạnh phúc và thánh thiện!
____________________________________________________________________
[1] “From a Letter to Diognetus: The Christian in the World,” Trang mạng Vatican.
[2] Xem Selections from The Sayings of the Desert Fathers, Bản tiếng Anh của Benedicta Ward (Kalamazoo, MI: Cistercian Publications, 1975), tr. 14.
[3] Xem St. Ambrose, “Flight from the World” [“De fuga saeculi”], 1, trong Seven Exegetical Works, Bản tiếng Anh của Michael P. McHugh, vol. 65, The Fathers of the Church (Washington, DC: Catholic University of America Press, 1972), 279-288; cũng nên xem Corpus Scriptorum Ecclesiasticorum Latinorum, 32, 2, tr. 251.
[4] St. Ambrose, “Isaac, or the Soul,” 3, 6, Seven Exegetical Works, tr. 14. Cũng nên xem Exposition on the Gospel of Luke, 9, 36.
[5] Xem Claude Geffré, “Sécularisation,” trong Dictionnaire de Spiritualité, vol. 15, 1989, các tr. 502tt.
[6] St. Thomas Aquinas, Summa theologiae, I-IIae, q. 113, a. 4.
[7] Heinrich Schlier, Principalities and Powers in the New Testament (New York: Herder and Herder, 1961), các tr. 31-32.
[8] Xem St. Augustine, “Sermon 39,” 5, Sermons on the Old Testament 20-50, vol. 2 (Hyde Park, NY: New City Press, 1990); PL 38, 242.
[9] Câu nói này phát xuất từ câu nói không có trong qui điển được gán cho chính Chúa Giêsu: “Nếu các con không ăn chay khỏi thế giới, các con sẽ không bao giờ khám phá ra Nước Thiên Chúa” Phúc Âm Tôma, câu số #27. Xem Thánh Clement thành Alexandria, Stromati 111, 15 (GCS, 52, p. 242, 2); Alfred Resch, Agrapha, 48, TU, 30 (1906), p. 68.
[10] Dịch từ trang mạng của Vatican, “Message of His Holiness Benedict XVI for Lent 2009.”



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét