13/08/2018
Thứ hai tuần 19 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm
II) Ed 1, 2-5. 24 - 2, 1a
"Ðây là hình lạ
trông giống vinh quang của Chúa".
Trích sách Tiên tri
Êdêkiel.
Ngày mồng năm trong
tháng, năm thứ năm vua Gioakim bị lưu đày, có lời Chúa phán cùng tư tế Êdêkiel,
con của Buzi, ở xứ Calđêa, trên bờ sông Côbar. Chính tại đây, bàn tay Thiên
Chúa đã đặt trên tôi.
Tôi nhìn thấy có một
cơn gió mạnh từ phương bắc thổi đến. Có một đám mây to lớn và lửa bao bọc chung
quanh và bốn bề có ánh sáng phát ra, và ở giữa bầu lửa như vàng pha sáng chói.
Chính giữa, có giống gì như bốn con vật hình dáng giống như hình người.
Và tôi nghe tiếng cánh
của chúng như tiếng nước lũ, như tiếng của Chúa vạn năng; khi chúng đi thì khác
nào như đám đông người, như tiếng đạo quân: khi chúng dừng lại thì chúng xếp
cánh xuống. Vì khi chúng nghe có tiếng trên không trung, trên đầu chúng, thì
chúng dừng lại và xếp cánh xuống.
Và trên không trung,
trên đỉnh đầu chúng, có cái gì như một viên ngọc thạch, hình như chiếc ngai, và
trên ngai đó, phía trên hẳn, có hình giống như hình người. Và tôi thấy người
như vàng pha sáng chói, bên trong, tứ bề khác nào như lửa, từ lưng người trở
lên, và từ lưng trở xuống, tôi thấy có gì như lửa chiếu sáng chung quanh, giống
như cái mống hiện ra trên mây trong ngày mưa: đó là hình thể chiếu sáng chung
quanh. Ðây là hình lạ trông giống vinh quang của Chúa. Tôi nhìn thấy thì sấp mặt
xuống đất.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 148, 1-2.
11-12ab. 12c-14a. 14bcd
Ðáp: Trời đất đầy vinh quang của Người.
Hoặc đáp: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca tụng
Chúa từ muôn cõi trời, hãy ca tụng Người trên nơi cao thẳm. Các thiên thần
Chúa, hãy ca tụng Người đi; ca tụng Người đi, hỡi các đạo thiên binh. - Ðáp.
2) Quân vương địa cầu
và tất cả chư dân, quan chức và các vị chính quyền nơi cõi đất, các thanh nhiên
và cả những cô trinh nữ, những ông cụ già với đoàn con trẻ. - Ðáp.
3) Họ hãy ca tụng danh
Chúa, vì danh Người siêu phàm, độc nhất, oai nghiêm Người tràn lan trên trời dưới
đất, và Người nâng cao quyền thế dân Người. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! -
Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và
Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 17, 21-26
"Họ sẽ giết
Người, nhưng Người sẽ sống lại. Con cái thì được miễn thuế".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, các môn đệ và
Chúa Giêsu còn đang ở Galilêa, thì Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Con Người
sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết người, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống
lại". Các môn đệ rất đỗi buồn phiền.
Khi các ngài đến
Capharnaum, thì những người thu thế đền thờ đến gặp Phêrô và hỏi rằng: "Thầy
các ông không nộp thuế "đền thờ' sao?" Ông nói: "Có chớ".
Khi ông về đến nhà,
Chúa Giêsu hỏi đón trước rằng: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian thu
thuế má hạng người nào? Ðòi con cái mình hay người ngoài?" Ông thưa rằng:
"Ðòi người ngoài". Chúa Giêsu bảo ông rằng: "Vậy thì con cái được
miễn. Nhưng để chúng ta không làm cho họ vấp phạm, con hãy ra biển thả câu: con
cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền,
con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần con".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Nộp Thuế Cho Ðền Thờ
Vào thời Chúa Giêsu,
người Do thái không những phải đóng thuế cho nhà nước tức là thuế dân sự, mà
còn phải đóng thuế cho Ðền thờ nữa: ngoại trừ đàn bà, các thiếu niên và các nô
lệ, tất cả những ai từ 20 tuổi trở lên đều phải nộp thuế để bảo trì và tu sửa Ðền
thờ Giêrusalem.
Câu chuyện trong Tin Mừng
hôm nay xẩy ra vào khoảng tháng 10, năm thứ hai cuộc đời rao giảng của Chúa
Giêsu, tức là ít lâu sau biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Thabor. Chúa
Giêsu và các môn đệ trở lại Capharnaum, và ở đó, những người thu thuế đến yêu cầu
Phêrô nộp thuế. Dĩ nhiên là Phêrô sẵn sàng nộp thuế.
Khi Phêrô về tới nhà,
Chúa Giêsu hỏi đón ông: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian lấy thuế
của ai? Con cái mình hay người ngoài? Phêrô đáp: "Thưa, người ngoài. Chúa
Giêsu liền bảo thế thì con cái được miễn". Ðây cũng là một mạc khải, bởi
vì qua câu: "Thế thì con cái được miễn", Chúa Giêsu muốn nói rằng xét
về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế;bởi vì qua câu: "Thế thì
con cái được miễn", Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa,
Ngài không phải nộp thuế; nhưng xét về bản tính loài người, Ngài cũng tuân giữ
việc nộp thuế cho Ðền thờ như bất cứ ai. Tuy nhiên, Ngài nộp thuế bằng một phép
lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên, trong miệng có một
đồng bạc, đủ để nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo Giuđa xuất quĩ
mà nộp, cũng không bảo các phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài đã làm phép lạ
để các môn đệ tin vào quyền năng của Ngài.
Nếu ngày xưa, người Do
thái có bổn phận nộp thuế cho Ðền thờ để lo việc phụng sự Nhà Chúa, thì ngày
nay trong Giáo Hội cũng có những cách đóng góp hay dâng cúng, đó cũng là một việc
thờ phượng và là một sự chia sẻ cho những anh chị em nghèo khó. Chúng ta hãy nhận
ra nét đặc biệt trong nhân cách của Chúa, khi hòa nhập vào nếp sống cụ thể của
những người đồng thời với Ngài. Mầu nhiệm nhập thể đòi buộc Chúa phải chia sẻ
trọn vẹn đời sống con người. Ước gì chúng ta cũng biết noi gương Chúa, chấp nhận
như hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi để trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp.
(Veritas Asia)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
THỨ HAI TUẦN XIX THƯỜNG NIÊN năm II
Bài đọc: Eze 1:2-5, 24-28; Mt 17:22-27
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Sự hiện diện của Chúa
trong Đền Thờ.
Thiên Chúa tuy là Đấng
Vô Hình nhưng đã chọn để ở lại với con người trong Đền Thờ vì yêu thương con
người. Bắt đầu từ Đền Thờ Jerusalem và lan rộng ra các đền Thờ khắp nơi trên thế
giới. Một trong những bổn phận của con người là đóng thuế (10%) để bảo trì và
chi phí những thứ cần thiết cho Đền Thờ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thị kiến đầu
tiên của tiên tri Êzêkiel.
Bắt đầu từ hôm nay,
các bài đọc I trong chu kỳ II (năm chẵn) sẽ được lấy từ sách của tiên tri
Êzêkiel, một trong 4 tiên tri lớn. Ông sống trong Thời kỳ lưu
đày Babylon và họat động trong khỏang 593-571 BC. Tên của ông có
nghĩa “Chúa kiện tòan (người này).” Bởi vì ông thuộc giòng dõi tư tế, nên có lẽ
ông được ăn học, đặc biệt về Luật, kết hôn (Eze 24:18), và cha ông, Buzi (Eze
1:2) có thể có ít nhiều ảnh hưởng trên thành Jerusalem. Truyền thồng nói
ông được an táng trong một ngôi mộ ở Al-Kift, gần thành phố Hilla (Iraq hiện
nay), không xa thành Babylon ngày xưa bao nhiêu.
Có thể nói thế hệ của
tiên tri Êzêkiel là thế hệ gạch nối giữa quá khứ (Israel và Judah bị bại trận
và lưu đày) và tương lai (Đền Thờ Jerusalem sẽ được xây dựng lại và Israel sẽ
được phục hồi) và sách của ông phản ánh rất rõ hai chủ đề này. Thời gian lưu đày
Babylon là khỏang 70 năm, như thế thời gian hồi hương và bắt đầu xây dựng lại Đền
Thờ Jêrusalem nằm trong khỏang 520-518 BC.
Đền Thờ Jêrusalem là một
trong những chủ đề chính của tiên tri Êzêkiel vì đây sẽ là nơi Chúa các đạo
binh ở với Dân Người. Ông ghi lại tỉ mỉ những chi tiết cần thiết để xây dựng lại
Đền Thờ trong tương lai, bắt đầu từ thị kiến đầu tiên: Tôi nhìn, thì kìa một
cơn gió bão từ phương Bắc thổi đến; có đám mây lớn, có lửa loé ra và ánh sáng
chiếu toả chung quanh; ở chính giữa như có một kim loại lấp lánh, ở chính giữa
lửa. Ở chính giữa, có cái gì tựa như bốn sinh vật. Đây là dáng vẻ của chúng:
chúng trông giống như người ta. Khi chúng đi, tôi nghe tiếng cánh vẫy giống như
tiếng nước chảy mạnh; như tiếng của Đấng Toàn Năng, tiếng ấy ồn ào như tiếng
trong một doanh trại. Khi chúng dừng lại, thì cánh rủ xuống.
Thị kiến đầu tiên thuật
lại việc ông nhìn thấy những gì từ trời xa xuống: tuy ông không nhìn thấy rõ ai
là người ngồi trên ngai, nhưng qua cách mô tả chúng ta biết đó là Thiên Chúa. 4
sinh vật có cánh mà ông mô tả “chúng trông giống như người ta,” đã được nhiều
tác giả và họa sĩ đồng nhất với 4 Thánh Ký: Matthêu (đầu người), Marcô (đầu sư
tử), Luca (đầu bò), và Gioan (đầu phượng hoàng).
Những gì tiên tri thuật
lại dưới đây khuôn mẫu của Đền Thờ Đức Chúa cho Đền Thánh Jerusalem sẽ được xây
sau này: Có tiếng vọng xuống từ trên cái vòm, ngay trên đầu chúng. Từ trên cái
vòm, ngay trên đầu chúng, có cái gì giống như đá lam ngọc, tựa như cái ngai, và
trên cái gì tựa như cái ngai đó, có cái trông như hình dáng một người ở trên
ngai đó, ở trên cao. Và tôi thấy có cái gì giống như kim loại lấp lánh, giống
như một đám lửa bao quanh, từ khoảng coi như ngang lưng trở lên, còn từ khoảng
coi như ngang lưng trở xuống, tôi thấy có cái gì giống như một đám lửa và ánh
sáng chiếu toả chung quanh. Như hình cầu vồng xuất hiện trên mây một ngày mưa
thế nào, thì ánh sáng chiếu toả chung quanh cũng như vậy. Đó là một cái gì
trông tựa vinh quang của Đức Chúa.
2/ Phúc Âm: Trả thuế Đền
Thờ?
Đền Thờ mà Chúa Giêsu
và Phêrô phải đóng thuế hôm nay cũng là Đền Thờ Jerusalemmà tiên tri
Êzêkiel đề cập tới trong Bài đọc I. Có rất nhiều chi phí
cho Đền Thờ: lễ hy sinh sáng chiều qua việc sát tế con chiên một tuổi, rượu, bột,
và dầu ôliu. Những thứ này sau khi dâng sẽ là thức ăn nuôi hàng tư tế, ngòai ra
còn phải mua dụng cụ, hương lửa, và quần áo cần cho việc tế lễ. Sách Xuất Hành
(Exo 30:13) ấn định: Tất cả các đàn ông Do Thái, 20 tuổi trở nên, phải đóng góp
vào thuế Đền Thờ mỗi năm ½ shekel (khỏang lương của 2 ngày làm việc). Phương
pháp trả tiền được ấn định như sau: Mỗi năm vào tháng Ba (Adar), người có trách
nhiệm trong các làng mạc sẽ ra thông cáo cho biết thời gian phải trả thuế Đền
Thờ đã đến và các quầy đóng thuế sẽ được đặt các nơi để thâu nhận thuế. Nếu ai
không trả thuế trước ngày 25 của tháng này, họ sẽ phải
lên Jerusalem để trả.
Nhà của Phêrô rất gần
Hội đường Capernaum, nên không lạ khi những người thu thuế cho Đền Thờ đến
hỏi ông Phêrô: "Thầy các ông không nộp thuế sao?" Ông đáp: "Có
chứ!" Những người thu thuế có thể hỏi vì thói quen nhưng cũng có thể hỏi để
lấy cớ tố cáo Chúa Giêsu nếu Ngài không chịu đóng thuế.
Vừa về tới nhà, Đức
Giêsu hỏi ông trước: "Anh Simôn, anh nghĩ sao? Vua chúa trần gian bắt ai
đóng sưu nộp thuế? Con cái mình hay người ngoài?" Ông Phêrô đáp:
"Thưa, người ngoài."
Hai lý do thật rõ ràng
Chúa Giêsu có thể dùng để miễn trừ đóng thuế: Thiên Chúa là Cha Ngài, và Đền Thờ
là nơi ngự của Thiên Chúa, là nhà Cha của Ngài (Lk 2:49).
Chúa Giêsu liền bảo:
"Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để khỏi làm gai mắt họ, anh ra biển thả
câu; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó ra: anh sẽ thấy một
đồng tiền bốn quan; anh lấy đồng tiền ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần
của anh." Nhiều nhà chú giải đặt câu hỏi cho phép lạ này vì lý do nó quá
nhỏ đế cần làm phép lạ. Phần đông cho rằng nó chỉ là một kiểu nói của người Do
Thái. Chúa bảo Thánh Phêrô: Hãy mang lưới ra biển và thả lưới bắt cá để lấy tiền
trả thuế Đền Thờ cho Thầy và anh.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đền Thờ là nơi Chúa ở
với con người, và vì thế cần bảo trì xứng đáng.
- Để bảo trì cần giáo
dân phải đóng góp. Rất nhiều giáo dân đã quên bổn phận này hay đóng góp chưa đủ.
- Là người lãnh đạo,
Chúa được hưởng đặc quyền miễn trừ; nhưng vì không muốn làm gương mù cho người
khác, Ngài bảo Phêrô hãy chu tòan việc đóng thuế Đền Thờ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
13/08/2018
THỨ HAI TUẦN 19 TN
Mt 17,22-27
Mt 17,22-27
TỰ NGUYỆN NỘP
“Con Người sắp bị nộp vào tay người đời... Anh lấy
đồng quan ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh.” (Mt 17,22.27)
Suy niệm: “Bị nộp” và “nộp thuế” gợi
lên những hành động bị bắt buộc. Đức Giê-su “bị nộp” vào tay người đời và “nộp
thuế” cho đền thờ Giê-ru-sa-lem. Những cái nộp này bên ngoài có vẻ là bị bắt buộc,
nhưng thực ra là một sự tự nguyện từ bên trong. Đức Giê-su bị bắt, bị giết
không phải vì Người là một tội nhân đáng bị như thế, nhưng đó là điều Người tự
nguyện đón nhận để thực hiện trọn vẹn ý muốn của Chúa Cha. Đức Giê-su chịu
nộp thuế không do tư cách Người là một công dân Do Thái có trách nhiệm làm
nghĩa vụ đối với đền thờ, bởi vì đền thờ là nhà Thiên Chúa mà Người là Con
Thiên Chúa, nhưng Đức Giê-su tự nguyện nộp thuế để “khỏi làm cớ cho người
ta sa ngã.”
Mời Bạn: Không ai tránh khỏi những
điều mình không mong chờ mà nó vẫn đến. Tính tự nhiên chúng ta dễ vùng vằng xua
đuổi chúng. Nếu nhìn lên Đức Giê-su chúng ta thấy vì đại cuộc mà Người tự nguyện
chấp nhận chúng. Vì thế, nếu chúng ta muốn cộng tác với Đức Giê-su trong công
trình của Thiên Chúa, thì Người là mẫu gương tự nguyện tuyệt vời cho chúng ta.
Sống Lời Chúa: Nhìn những gì trái với ý muốn của minh như yếu
tố rèn luyện bản thân để có thể đón nhận chúng một
cách vui lòng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã chấp nhận nộp thuế và cái
chết với tinh thần tự nguyện để chúng con được ơn cứu rỗi. Xin ban
thêm nghị lực để chúng con đón nhận những trái ý nghịch lòng hầu trở nên giống
Chúa hơn.
(5 phút Lời Chúa)
Để khỏi làm cớ sa ngã
Nếu
chúng ta tự ý làm hay tránh làm một điều gì đó chỉ vì tôn trọng lương tâm mong
manh của người khác, thì Thiên Chúa cũng sẽ giúp ta bằng những phép lạ thật ngỡ
ngàng
Suy niệm:
Đọc bài
Tin Mừng hôm
nay, chúng
ta không
khỏi mỉm cười,
khi nghĩ đến việc anh Phêrô đi ra hồ Galilê để thả câu bắt cá,
một chuyện bắt cá rất bất thường, vì một mục đích cũng bất thường.
Thầy Giêsu dặn anh hãy túm lấy
con cá đầu tiên câu được,
bắt lấy, mở miệng nó ra,
thấy ngay một đồng
tiền trị giá bốn quan,
vừa vặn để nộp thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò.
Đây là thứ thuế mà hàng năm, theo sách
Xuất hành
(30, 14)
những người đàn ông Do Thái trên
hai mươi tuổi phải nộp
để lo việc tu bổ Đền Thờ và việc tế tự trong đó.
Ta không thấy kể chuyện anh Phêrô đã vâng lời Thầy ra sao,
và phép lạ đã xảy ra như thế nào.
Chỉ biết chẳng khi nào
trong Tân Ước
Thầy Giêsu lại có ý làm một phép lạ vì lợi ích
cho mình
như vậy.
Nhưng chuyện bắt cá để lấy tiền nộp thuế
lại không
phải là
chuyện quan trọng của đoạn Tin Mừng này.
Điểm chính yếu nằm ở những câu nói của Thầy Giêsu.
Ai cũng biết con cái của vua chúa trần gian thì được miễn thuế,
vì các vua chỉ đánh thuế người ngoài thôi (c. 26).
Đức Giêsu
chính là Người
Con tuyệt hảo của Vị Vua thiên quốc.
Và những Kitô hữu cũng là con cái của Đức
Vua tối cao.
Họ là những người đã mở lòng đón nhận Nước Trời (Mt 13, 38),
và đã gọi Thiên Chúa là Cha trên trời của chúng
con (Mt 6, 9).
Như thế Thầy Giêsu và các môn đệ của mình đều được miễn thuế.
Thầy trò không phải nộp thuế Đền Thờ như những người Do Thái khác.
Tuy Thầy trò có quyền không nộp
thuế,
nhưng Thầy Giêsu lại không
muốn làm cớ cho người khác vấp phạm.
Khi về đến nhà của
anh Phêrô ở
Caphácnaum,
Thầy Giêsu bày tỏ ý muốn nộp thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò.
Thầy chấp nhận giữ luật mà các người đàn ông Do Thái đều giữ.
Thầy biết mình có tự do,
nhưng Thầy cũng dám hy sinh tự do ấy vì lợi ích
cho người khác.
Thánh Phaolô cũng sẽ nói về nguyên tắc này
khi bàn về việc ăn đồ cúng.
“Đành rằng mọi thức ăn đều thanh sạch,
nhưng ăn mà gây cớ vấp ngã, thì là điều xấu” (Rm
14, 20).
Chúng ta cần lưu tâm đến những người “yếu”
trong cộng đoàn.
Chính tình yêu đối với họ khiến tôi cân nhắc điều mình được phép làm.
Tự giới hạn tự do của mình là một cách để biểu lộ tình yêu.
Thế giới hôm
nay ca ngợi tự do, nên cũng đầy cớ gây vấp phạm.
Bao sa ngã của giới trẻ là do
sự phóng túng của người lớn.
Con người hôm
nay quá gần nhau bởi các phương tiện truyền thông,
nên ảnh hưởng xấu lan đi vừa nhanh lại vừa rộng.
Nếu chúng
ta tự ý làm hay tránh làm một điều gì đó
chỉ vì tôn trọng lương tâm
mong manh của người khác,
thì Thiên Chúa cũng sẽ giúp ta bằng những phép lạ thật ngỡ ngàng.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh.
Amen.
(dịch
theo Learning Christ)
Lm.
Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 8
13 THÁNG TÁM
Xây Dựng Một Nơi Cư
Ngụ Xứng Đáng Cho Con Người
Con người được mời gọi
phát triển thế giới, làm việc hướng về việc phát triển tốt hơn các hệ thống
kinh tế và văn hóa. Công việc này là một phần của ơn gọi con người, vì con người
được mời gọi làm chủ trái đất. Đó là lý do tại sao sự suy nghĩ khoa học và kỹ
thuật hiện đại cũng như văn hóa và sự khôn ngoan của mọi thời phải được định
hình bởi con người để phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa đối với tạo vật của
Ngài.
Công Đồng Vatican II
nhìn nhận giá trị và chức năng của công việc và văn hóa trong thời đại chúng
ta. Thật vậy, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng mô tả tình hình xã hội và văn hóa mới
của chúng ta với những khả năng thay đổi và tiến bộ nhanh chóng của nó. Những
khả năng này làm nhiều người ngạc nhiên và đem lại niềm hy vọng cho nhiều người
khác. (MV 53-54).
Công Đồng không ngần
ngại nhìn nhận những thành tựu ngoạn mục của con người. Công Đồng đặt những
thành tựu này trong bối cảnh kế hoạch và lệnh truyền của Thiên Chúa cho con người.
Công Đồng liên hệ những thành tựu ấy với Phúc Âm về tình huynh đệ được rao giảng
bởi Đức Giê-su Kitô. “Khi cày cấy với hai bàn tay hoặc với phương tiện kỹ thuật
để trái đất nảy sinh hoa quả và trở thành nơi cư ngụ xứng đáng của toàn thể gia
đình nhân loại, và khi tham dự cách ý thức vào tập thể xã hội, con người đã
tuân theo ý định của Thiên Chúa được tỏ bày ngay từ thuở đầu là loài người phải
chế ngự trái đất và hoàn tất công cuộc tạo dựng, đồng thời con người phát triển
được chính bản thân; và cùng khi ấy con người tuân giữ giới răn quan trọng của
Chúa Kitô là hiến thân phục vụ anh em” (MV 57; 63).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by
Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 13-8
THÁNH PONTIANÔ,
giáo hoàng tử đạo,
và THÁNH HIPPÔLYTÔ, linh mục, tử đạo;
Ed 1,
2-5.24-28c; Mt 17,22-27.
LỜI SUY NIỆM: Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Ai muốn theo
Thầy phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 17, 24).
Những ai muốn được làm môn đệ của Chúa Giêsu thì phải thực hiện hai điều này hằng
ngày chứ không phải tùy vào hoàn cảnh và thời gian. Như vậy sống cho Chúa thì
phải khai trừ mọi tính hư tật xấu cùng những đam mê mà con người đòi hỏi và lôi
kéo nơi chính mình; không những thế mà còn phải biết hy sinh, hy sinh hết mình,
vì yêu kính Thiên Chúa, và yêu thương tha nhân với sự tôn trọng vì Chúa; Đã vác
thập giá thì cũng phải chết trên thập giá của mình. Muốn được chu toàn; chỉ còn
một cách duy nhất là cầu xin ân sủng và sức mạnh của Ngài ban cho; và tin tưởng
tuyệt đối vào Ngài; phó thác mọi giây phút đời mình vào quyền năng yêu thương của
Ngài.
Mạnh Phương
GƯƠNG THÁNH NHÂN
Thứ Hai 13-8
Thánh Pontian và
Thánh Hippolytus
(k. 235)
|
V
|
ào năm 235, Maximinus
làm hoàng đế Rôma và hầu như ngay sau khi lên ngôi, ông bắt đầu bách hại người
Kitô Giáo. Một trong những hình phạt thông thường đối với các giám mục và linh
mục là các ngài bị lưu đầy đến những quặng mỏ nguy hiểm ở Sardinia, nước Ý.
Chính vì sự bách hại này mà ngày nay chúng ta mừng kính hai thánh tử đạo.
Thánh Pontian lên ngôi
giáo hoàng sau khi Ðức Urban I từ trần năm 230. Khi Maximinus lên ngôi hoàng đế,
Ðức Pontian cùng chung số phận với các Kitô Hữu khác và ngài phục vụ Giáo Hội
trong sự đau khổ ở Sardinia.
Hippolytus là một linh
mục và là học giả ở Rôma. Ngài có nhiều sáng tác về thần học và là bậc thầy tài
giỏi. Hippolytus thất vọng với Ðức Giáo Hoàng Zephyrinus (được tử đạo năm 217)
vì đức giáo hoàng không mau mắn ngăn chặn những người giảng dạy cách lầm lạc.
Khi Ðức Callistus I được bầu làm giáo hoàng kế vị Ðức Zephyrinus, Hippolytus
cũng không hài lòng. Lúc bấy giờ, rất đông người theo Hyppolytus và họ đồng
lòng bầu Hippolytus lên làm giáo hoàng. Vị thần học gia tài giỏi này đã không
chế ngự được tính kiêu ngạo và đã chấp nhận. Khi cuộc bách hại bùng nổ,
Hyppolytus bị bắt và cũng bị lưu đầy đến Sardinia.
Trong hoàn cảnh đáng
thương ấy, một phép lạ hòa giải đã xảy ra giữa sự cười nhạo của kẻ thù. Ðức
giáo hoàng Pontian gặp gỡ với Hippolytus trong hoàn cảnh lưu đầy và vị linh mục
tài giỏi này đã cảm hóa trước sự khiêm tốn của vị giáo hoàng. Hippolytus trở về
với Giáo Hội và mọi tức giận đều tiêu tan. Ðức giáo hoàng Pontian thông cảm với
vị linh mục. Ngài nhận ra nhu cầu của mỗi người là phải giúp đỡ và khuyến khích
lẫn nhau trong tình bác ái của Ðức Giêsu Kitô. Cả hai đã được phúc tử đạo và
mãi mãi trở nên nhân chứng cho sự tha thứ và niềm hy vọng Kitô Giáo.
www.nguoitinhuu.com
13 Tháng Tám
Bức Tường Ô Nhục
Ngày 13/8/1961, sau
nhiều cuộc thương thảo vô ích giữa Washington và Mascơva nhằm giải quyết cuộc
chiến tranh lạnh giữa hai khối Ðông và Tây, Kruschev, chủ tịch nhà nước Liên
Xô, đã ra lệnh cho xây cất một bức tường ngăn cách Ðông và Tây Bá Linh. Bức tường
này được dựng lên không những để đánh dấu sự đọan tuyệt giữa Ðông và Tây, nhưng
còn để ngăn chặn làn sóng những người Ðông Ðức ồ ạt chạy sang tỵ nạn tại Tây Bá
Linh. Khối Ðông Âu thì giải thích rằng bức tường này được dựng lên là để ngăn
chặn những người Tây Phương có thể đến Ðông Ðức để làm gián điệp. Còn phía Tây
Phương thì lại gọi bức tường đó là bức tường ô nhục... Nhưng dù được gọi dưới
danh hiệu nào, dù được xây dựng dưới mục đích nào, bức tường ngăn cách giữa
Ðông và Tây Bá Linh vẫn mãi mãi là biểu trưng của những chia cách giữa con người
mà chính con người đã tạo nên...
Có những bức tường
ngăn cách về kinh tế, chính trị, chủng tộc, văn hóa do con người dựng lên...
Nhưng cũng có những bức tường vô hình mà mỗi người chúng ta có thể xây lên để tự
ngăn cách với người khác.
Bức tường vô hình đó
trước tiên là bức tường của nghi kỵ. Người ta thường xây kín khu vực của mình ở
bằng kín cửa cao tường là bởi vì người ta sợ con mắt dòm ngó của những người
xung quanh. Sự nghi kỵ không những ngăn ngừa người khác đến với mình, nhưng còn
giam hãm chính mình trong cô đơn...
Bức tường vô hình cũng
là bức tường của ích kỷ. Người ích kỷ chỉ biết đến thế giới của mình và khép mắt,
bịt tai trước những gì đang xảy ra cho người khác...
Bức tường đó cũng có
thể là bức tường của sự bất cảm thông. Kẻ xây tường để bao bọc mình sẽ không muốn
nhìn thấy và thông cảm với những người xung quanh...
Nhưng bức tường nào
cũng là một nấm mồ chôn kín mình trong sự cô đơn. Càng bảo vệ chính mình, con
người càng mất mát trong sự hao mòn. Trái lại, càng cởi mở, càng đến với tha
nhân càng triển nở trong nhân cách...
(Lẽ Sống)








Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét