Trang

Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2018

13-08-2018 : THỨ HAI - TUẦN XIX THƯỜNG NIÊN


13/08/2018
Thứ hai tuần 19 thường niên


Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 1, 2-5. 24 - 2, 1a
"Ðây là hình lạ trông giống vinh quang của Chúa".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Ngày mồng năm trong tháng, năm thứ năm vua Gioakim bị lưu đày, có lời Chúa phán cùng tư tế Êdêkiel, con của Buzi, ở xứ Calđêa, trên bờ sông Côbar. Chính tại đây, bàn tay Thiên Chúa đã đặt trên tôi.
Tôi nhìn thấy có một cơn gió mạnh từ phương bắc thổi đến. Có một đám mây to lớn và lửa bao bọc chung quanh và bốn bề có ánh sáng phát ra, và ở giữa bầu lửa như vàng pha sáng chói. Chính giữa, có giống gì như bốn con vật hình dáng giống như hình người.
Và tôi nghe tiếng cánh của chúng như tiếng nước lũ, như tiếng của Chúa vạn năng; khi chúng đi thì khác nào như đám đông người, như tiếng đạo quân: khi chúng dừng lại thì chúng xếp cánh xuống. Vì khi chúng nghe có tiếng trên không trung, trên đầu chúng, thì chúng dừng lại và xếp cánh xuống.
Và trên không trung, trên đỉnh đầu chúng, có cái gì như một viên ngọc thạch, hình như chiếc ngai, và trên ngai đó, phía trên hẳn, có hình giống như hình người. Và tôi thấy người như vàng pha sáng chói, bên trong, tứ bề khác nào như lửa, từ lưng người trở lên, và từ lưng trở xuống, tôi thấy có gì như lửa chiếu sáng chung quanh, giống như cái mống hiện ra trên mây trong ngày mưa: đó là hình thể chiếu sáng chung quanh. Ðây là hình lạ trông giống vinh quang của Chúa. Tôi nhìn thấy thì sấp mặt xuống đất.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 148, 1-2. 11-12ab. 12c-14a. 14bcd
Ðáp: Trời đất đầy vinh quang của Người.
Hoặc đáp: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa từ muôn cõi trời, hãy ca tụng Người trên nơi cao thẳm. Các thiên thần Chúa, hãy ca tụng Người đi; ca tụng Người đi, hỡi các đạo thiên binh. - Ðáp.
2) Quân vương địa cầu và tất cả chư dân, quan chức và các vị chính quyền nơi cõi đất, các thanh nhiên và cả những cô trinh nữ, những ông cụ già với đoàn con trẻ. - Ðáp.
3) Họ hãy ca tụng danh Chúa, vì danh Người siêu phàm, độc nhất, oai nghiêm Người tràn lan trên trời dưới đất, và Người nâng cao quyền thế dân Người. - Ðáp.

Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 17, 21-26
"Họ sẽ giết Người, nhưng Người sẽ sống lại. Con cái thì được miễn thuế".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu còn đang ở Galilêa, thì Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết người, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Các môn đệ rất đỗi buồn phiền.
Khi các ngài đến Capharnaum, thì những người thu thế đền thờ đến gặp Phêrô và hỏi rằng: "Thầy các ông không nộp thuế "đền thờ' sao?" Ông nói: "Có chớ".
Khi ông về đến nhà, Chúa Giêsu hỏi đón trước rằng: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian thu thuế má hạng người nào? Ðòi con cái mình hay người ngoài?" Ông thưa rằng: "Ðòi người ngoài". Chúa Giêsu bảo ông rằng: "Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để chúng ta không làm cho họ vấp phạm, con hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền, con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần con".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm:
Nộp Thuế Cho Ðền Thờ
Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái không những phải đóng thuế cho nhà nước tức là thuế dân sự, mà còn phải đóng thuế cho Ðền thờ nữa: ngoại trừ đàn bà, các thiếu niên và các nô lệ, tất cả những ai từ 20 tuổi trở lên đều phải nộp thuế để bảo trì và tu sửa Ðền thờ Giêrusalem.
Câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay xẩy ra vào khoảng tháng 10, năm thứ hai cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, tức là ít lâu sau biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Thabor. Chúa Giêsu và các môn đệ trở lại Capharnaum, và ở đó, những người thu thuế đến yêu cầu Phêrô nộp thuế. Dĩ nhiên là Phêrô sẵn sàng nộp thuế.
Khi Phêrô về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian lấy thuế của ai? Con cái mình hay người ngoài? Phêrô đáp: "Thưa, người ngoài. Chúa Giêsu liền bảo thế thì con cái được miễn". Ðây cũng là một mạc khải, bởi vì qua câu: "Thế thì con cái được miễn", Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế;bởi vì qua câu: "Thế thì con cái được miễn", Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế; nhưng xét về bản tính loài người, Ngài cũng tuân giữ việc nộp thuế cho Ðền thờ như bất cứ ai. Tuy nhiên, Ngài nộp thuế bằng một phép lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên, trong miệng có một đồng bạc, đủ để nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo Giuđa xuất quĩ mà nộp, cũng không bảo các phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài đã làm phép lạ để các môn đệ tin vào quyền năng của Ngài.
Nếu ngày xưa, người Do thái có bổn phận nộp thuế cho Ðền thờ để lo việc phụng sự Nhà Chúa, thì ngày nay trong Giáo Hội cũng có những cách đóng góp hay dâng cúng, đó cũng là một việc thờ phượng và là một sự chia sẻ cho những anh chị em nghèo khó. Chúng ta hãy nhận ra nét đặc biệt trong nhân cách của Chúa, khi hòa nhập vào nếp sống cụ thể của những người đồng thời với Ngài. Mầu nhiệm nhập thể đòi buộc Chúa phải chia sẻ trọn vẹn đời sống con người. Ước gì chúng ta cũng biết noi gương Chúa, chấp nhận như hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi để trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp.

(Veritas Asia)


LỜI CHÚA MỖI NGÀY
THỨ HAI TUẦN XIX THƯỜNG NIÊN năm II
Bài đọc: Eze 1:2-5, 24-28; Mt 17:22-27

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Sự hiện diện của Chúa trong Đền Thờ.

Thiên Chúa tuy là Đấng Vô Hình nhưng đã chọn để ở lại với con người trong Đền Thờ vì yêu thương con người. Bắt đầu từ Đền Thờ Jerusalem và lan rộng ra các đền Thờ khắp nơi trên thế giới. Một trong những bổn phận của con người là đóng thuế (10%) để bảo trì và chi phí những thứ cần thiết cho Đền Thờ.



KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Thị kiến đầu tiên của tiên tri Êzêkiel.

Bắt đầu từ hôm nay, các bài đọc I trong chu kỳ II (năm chẵn) sẽ được lấy từ sách của tiên tri Êzêkiel, một trong 4 tiên tri lớn. Ông sống trong Thời kỳ lưu đày Babylon và họat động trong khỏang 593-571 BC. Tên của ông có nghĩa “Chúa kiện tòan (người này).” Bởi vì ông thuộc giòng dõi tư tế, nên có lẽ ông được ăn học, đặc biệt về Luật, kết hôn (Eze 24:18), và cha ông, Buzi (Eze 1:2) có thể có ít nhiều ảnh hưởng trên thành Jerusalem. Truyền thồng nói ông được an táng trong một ngôi mộ ở Al-Kift, gần thành phố Hilla (Iraq hiện nay), không xa thành Babylon ngày xưa bao nhiêu.

Có thể nói thế hệ của tiên tri Êzêkiel là thế hệ gạch nối giữa quá khứ (Israel và Judah bị bại trận và lưu đày) và tương lai (Đền Thờ Jerusalem sẽ được xây dựng lại và Israel sẽ được phục hồi) và sách của ông phản ánh rất rõ hai chủ đề này. Thời gian lưu đày Babylon là khỏang 70 năm, như thế thời gian hồi hương và bắt đầu xây dựng lại Đền Thờ Jêrusalem nằm trong khỏang 520-518 BC.

Đền Thờ Jêrusalem là một trong những chủ đề chính của tiên tri Êzêkiel vì đây sẽ là nơi Chúa các đạo binh ở với Dân Người. Ông ghi lại tỉ mỉ những chi tiết cần thiết để xây dựng lại Đền Thờ trong tương lai, bắt đầu từ thị kiến đầu tiên: Tôi nhìn, thì kìa một cơn gió bão từ phương Bắc thổi đến; có đám mây lớn, có lửa loé ra và ánh sáng chiếu toả chung quanh; ở chính giữa như có một kim loại lấp lánh, ở chính giữa lửa. Ở chính giữa, có cái gì tựa như bốn sinh vật. Đây là dáng vẻ của chúng: chúng trông giống như người ta. Khi chúng đi, tôi nghe tiếng cánh vẫy giống như tiếng nước chảy mạnh; như tiếng của Đấng Toàn Năng, tiếng ấy ồn ào như tiếng trong một doanh trại. Khi chúng dừng lại, thì cánh rủ xuống.

Thị kiến đầu tiên thuật lại việc ông nhìn thấy những gì từ trời xa xuống: tuy ông không nhìn thấy rõ ai là người ngồi trên ngai, nhưng qua cách mô tả chúng ta biết đó là Thiên Chúa. 4 sinh vật có cánh mà ông mô tả “chúng trông giống như người ta,” đã được nhiều tác giả và họa sĩ đồng nhất với 4 Thánh Ký: Matthêu (đầu người), Marcô (đầu sư tử), Luca (đầu bò), và Gioan (đầu phượng hoàng).

Những gì tiên tri thuật lại dưới đây khuôn mẫu của Đền Thờ Đức Chúa cho Đền Thánh Jerusalem sẽ được xây sau này: Có tiếng vọng xuống từ trên cái vòm, ngay trên đầu chúng. Từ trên cái vòm, ngay trên đầu chúng, có cái gì giống như đá lam ngọc, tựa như cái ngai, và trên cái gì tựa như cái ngai đó, có cái trông như hình dáng một người ở trên ngai đó, ở trên cao. Và tôi thấy có cái gì giống như kim loại lấp lánh, giống như một đám lửa bao quanh, từ khoảng coi như ngang lưng trở lên, còn từ khoảng coi như ngang lưng trở xuống, tôi thấy có cái gì giống như một đám lửa và ánh sáng chiếu toả chung quanh. Như hình cầu vồng xuất hiện trên mây một ngày mưa thế nào, thì ánh sáng chiếu toả chung quanh cũng như vậy. Đó là một cái gì trông tựa vinh quang của Đức Chúa.

2/ Phúc Âm: Trả thuế Đền Thờ?

Đền Thờ mà Chúa Giêsu và Phêrô phải đóng thuế hôm nay cũng là Đền Thờ Jerusalemmà tiên tri Êzêkiel đề cập tới trong Bài đọc I. Có rất nhiều chi phí cho Đền Thờ: lễ hy sinh sáng chiều qua việc sát tế con chiên một tuổi, rượu, bột, và dầu ôliu. Những thứ này sau khi dâng sẽ là thức ăn nuôi hàng tư tế, ngòai ra còn phải mua dụng cụ, hương lửa, và quần áo cần cho việc tế lễ. Sách Xuất Hành (Exo 30:13) ấn định: Tất cả các đàn ông Do Thái, 20 tuổi trở nên, phải đóng góp vào thuế Đền Thờ mỗi năm ½ shekel (khỏang lương của 2 ngày làm việc). Phương pháp trả tiền được ấn định như sau: Mỗi năm vào tháng Ba (Adar), người có trách nhiệm trong các làng mạc sẽ ra thông cáo cho biết thời gian phải trả thuế Đền Thờ đã đến và các quầy đóng thuế sẽ được đặt các nơi để thâu nhận thuế. Nếu ai không trả thuế trước ngày 25 của tháng này, họ sẽ phải lên Jerusalem để trả.

Nhà của Phêrô rất gần Hội đường Capernaum, nên không lạ khi những người thu thuế cho Đền Thờ đến hỏi ông Phêrô: "Thầy các ông không nộp thuế sao?" Ông đáp: "Có chứ!" Những người thu thuế có thể hỏi vì thói quen nhưng cũng có thể hỏi để lấy cớ tố cáo Chúa Giêsu nếu Ngài không chịu đóng thuế.

Vừa về tới nhà, Đức Giêsu hỏi ông trước: "Anh Simôn, anh nghĩ sao? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu nộp thuế? Con cái mình hay người ngoài?" Ông Phêrô đáp: "Thưa, người ngoài."

Hai lý do thật rõ ràng Chúa Giêsu có thể dùng để miễn trừ đóng thuế: Thiên Chúa là Cha Ngài, và Đền Thờ là nơi ngự của Thiên Chúa, là nhà Cha của Ngài (Lk 2:49).

Chúa Giêsu liền bảo: "Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để khỏi làm gai mắt họ, anh ra biển thả câu; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó ra: anh sẽ thấy một đồng tiền bốn quan; anh lấy đồng tiền ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh." Nhiều nhà chú giải đặt câu hỏi cho phép lạ này vì lý do nó quá nhỏ đế cần làm phép lạ. Phần đông cho rằng nó chỉ là một kiểu nói của người Do Thái. Chúa bảo Thánh Phêrô: Hãy mang lưới ra biển và thả lưới bắt cá để lấy tiền trả thuế Đền Thờ cho Thầy và anh. 



ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Đền Thờ là nơi Chúa ở với con người, và vì thế cần bảo trì xứng đáng.

- Để bảo trì cần giáo dân phải đóng góp. Rất nhiều giáo dân đã quên bổn phận này hay đóng góp chưa đủ.

- Là người lãnh đạo, Chúa được hưởng đặc quyền miễn trừ; nhưng vì không muốn làm gương mù cho người khác, Ngài bảo Phêrô hãy chu tòan việc đóng thuế Đền Thờ.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP


13/08/2018
THỨ HAI TUẦN 19 TN
Mt 17,22-27


TỰ NGUYỆN NỘP
“Con Người sắp bị nộp vào tay người đời... Anh lấy đồng quan ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh.” (Mt 17,22.27)

Suy niệm: “Bị nộp” và “nộp thuế” gợi lên những hành động bị bắt buộc. Đức Giê-su “bị nộp” vào tay người đời và “nộp thuế” cho đền thờ Giê-ru-sa-lem. Những cái nộp này bên ngoài có vẻ là bị bắt buộc, nhưng thực ra là một sự tự nguyện từ bên trong. Đức Giê-su bị bắt, bị giết không phải vì Người là một tội nhân đáng bị như thế, nhưng đó là điều Người tự nguyện đón nhận để thực hiện trọn vẹn ý muốn của Chúa Cha. Đức Giê-su chịu nộp thuế không do tư cách Người là một công dân Do Thái có trách nhiệm làm nghĩa vụ đối với đền thờ, bởi vì đền thờ là nhà Thiên Chúa mà Người là Con Thiên Chúa, nhưng Đức Giê-su tự nguyện nộp thuế để “khỏi làm cớ cho người ta sa ngã.”

Mời Bạn: Không ai tránh khỏi những điều mình không mong chờ mà nó vẫn đến. Tính tự nhiên chúng ta dễ vùng vằng xua đuổi chúng. Nếu nhìn lên Đức Giê-su chúng ta thấy vì đại cuộc mà Người tự nguyện chấp nhận chúng. Vì thế, nếu chúng ta muốn cộng tác với Đức Giê-su trong công trình của Thiên Chúa, thì Người là mẫu gương tự nguyện tuyệt vời cho chúng ta.

Sống Lời Chúa: Nhìn những gì trái với ý muốn của minh như yếu tố rèn luyện bản thân để có thể đón nhận chúng một cách vui lòng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã chấp nhận nộp thuế và cái chết với tinh thần tự nguyện để chúng con được ơn cứu rỗi. Xin ban thêm nghị lực để chúng con đón nhận những trái ý nghịch lòng hầu trở nên giống Chúa hơn.
(5 phút Lời Chúa)


Đ khi làm c sa ngã 

Nếu chúng ta tự ý làm hay tránh làm một điều gì đó chỉ vì tôn trọng lương tâm mong manh của người khác, thì Thiên Chúa cũng sẽ giúp ta bằng những phép lạ thật ngỡ ngàng


Suy nim:
Đc bài Tin Mng hôm nay, chúng ta không khi mm cười,
khi nghĩ đến vic anh Phêrô đi ra h Galilê đ th câu bt cá,
mt chuyn bt cá rt bt thường, vì mt mc đích cũng bt thường.
Thy Giêsu dn anh hãy túm ly con cá đu tiên câu được,
bt ly, m ming nó ra, thy ngay mt đng tin tr giá bn quan,
va vn đ np thuế Đn Th cho c Thy ln trò.
Đây là th thuế mà hàng năm, theo sách Xut hành (30, 14)
nhng người đàn ông Do Thái trên hai mươi tui phi np
đ lo vic tu b Đn Th và vic tế t trong đó.
Ta không thy k chuyn anh Phêrô đã vâng li Thy ra sao,
và phép l đã xy ra như thế nào.
Ch biết chng khi nào trong Tân Ước
Thy Giêsu li có ý làm mt phép l vì li ích cho mình như vy.
Nhưng chuyn bt cá đ ly tin np thuế
li không phi là chuyn quan trng ca đon Tin Mng này.
Đim chính yếu nm nhng câu nói ca Thy Giêsu.
Ai cũng biết con cái ca vua chúa trn gian thì được min thuế,
vì các vua ch đánh thuế người ngoài thôi (c. 26).
Đc Giêsu chính là Người Con tuyt ho ca V Vua thiên quc.
Và nhng Kitô hu cũng là con cái ca Đc Vua ti cao.
H là nhng người đã m lòng đón nhn Nước Tri (Mt 13, 38),
và đã gi Thiên Chúa là Cha trên tri ca chúng con (Mt 6, 9).
Như thế Thy Giêsu và các môn đ ca mình đu được min thuế.
Thy trò không phi np thuế Đn Th như nhng người Do Thái khác.
Tuy Thy trò có quyn không np thuế,
nhưng Thy Giêsu li không mun làm c cho người khác vp phm.
Khi v đến nhà ca anh Phêrô Caphácnaum,
Thy Giêsu bày t ý mun np thuế Đn Th cho c Thy ln trò.
Thy chp nhn gi lut mà các người đàn ông Do Thái đu gi.
Thy biết mình có t do,
nhưng Thy cũng dám hy sinh t do y vì li ích cho người khác.
Thánh Phaolô cũng s nói v nguyên tc này khi bàn v vic ăn đ cúng.
“Đành rng mi thc ăn đu thanh sch,
nhưng ăn mà gây c vp ngã, thì là điu xu (Rm 14, 20).
Chúng ta cn lưu tâm đến nhng người yếu trong cng đoàn.
Chính tình yêu đi vi h khiến tôi cân nhc điu mình được phép làm.
T gii hn t do ca mình là mt cách đ biu l tình yêu.
Thế gii hôm nay ca ngi t do, nên cũng đy c gây vp phm.
Bao sa ngã ca gii tr là do s phóng túng ca người ln.
Con người hôm nay quá gn nhau bi các phương tin truyn thông,
nên nh hưởng xu lan đi va nhanh li va rng.
Nếu chúng ta t ý làm hay tránh làm mt điu gì đó
ch vì tôn trng lương tâm mong manh ca người khác,
thì Thiên Chúa cũng s giúp ta bng nhng phép l tht ng ngàng.
Cu nguyn:
Ly Chúa,
xin dy con luôn tươi tn và du dàng
trước mi biến c ca cuc sng,
khi con gp tht vng, gp người h hng vô tâm,
hay gp s bt trung, bt tín
nơi nhng người con tin tưởng cy da.
Xin giúp con gt mình sang mt bên
đ nghĩ đến hnh phúc người khác,
giu đi nhng ni phin mun ca mình
đ tránh cho người khác phi đau kh.
Xin dy con biết tn dng đau kh con gp trên đi,
đ đau kh làm con thêm mm mi,
ch không cng ci hay cay đng,
làm con nhn ni ch không bc bi,
làm con rng lòng tha th,
ch không hp hòi hay đc đoán, cao k.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chu nh hưởng ca con,
không ai gim bt lòng thanh khiết, chân tht,
lòng cao thượng, t tế,
ch vì đã là bn đng hành ca con
trong cuc hành trình v quê hương vĩnh cu.
Khi con loay hoay vi bao ni lo âu bi ri,
xin cho con có lúc
thì thm vi Chúa mt li yêu thương.
Ước chi đi con là cuc đi siêu nhiên,
tràn tr sc mnh đ làm vic thin,
và kiên quyết nhm ti lý tưởng nên thánh.
Amen.
(dch theo Learning Christ)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 8
13 THÁNG TÁM
Xây Dựng Một Nơi Cư Ngụ Xứng Đáng Cho Con Người
Con người được mời gọi phát triển thế giới, làm việc hướng về việc phát triển tốt hơn các hệ thống kinh tế và văn hóa. Công việc này là một phần của ơn gọi con người, vì con người được mời gọi làm chủ trái đất. Đó là lý do tại sao sự suy nghĩ khoa học và kỹ thuật hiện đại cũng như văn hóa và sự khôn ngoan của mọi thời phải được định hình bởi con người để phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa đối với tạo vật của Ngài.
Công Đồng Vatican II nhìn nhận giá trị và chức năng của công việc và văn hóa trong thời đại chúng ta. Thật vậy, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng mô tả tình hình xã hội và văn hóa mới của chúng ta với những khả năng thay đổi và tiến bộ nhanh chóng của nó. Những khả năng này làm nhiều người ngạc nhiên và đem lại niềm hy vọng cho nhiều người khác. (MV 53-54).
Công Đồng không ngần ngại nhìn nhận những thành tựu ngoạn mục của con người. Công Đồng đặt những thành tựu này trong bối cảnh kế hoạch và lệnh truyền của Thiên Chúa cho con người. Công Đồng liên hệ những thành tựu ấy với Phúc Âm về tình huynh đệ được rao giảng bởi Đức Giê-su Kitô. “Khi cày cấy với hai bàn tay hoặc với phương tiện kỹ thuật để trái đất nảy sinh hoa quả và trở thành nơi cư ngụ xứng đáng của toàn thể gia đình nhân loại, và khi tham dự cách ý thức vào tập thể xã hội, con người đã tuân theo ý định của Thiên Chúa được tỏ bày ngay từ thuở đầu là loài người phải chế ngự trái đất và hoàn tất công cuộc tạo dựng, đồng thời con người phát triển được chính bản thân; và cùng khi ấy con người tuân giữ giới răn quan trọng của Chúa Kitô là hiến thân phục vụ anh em” (MV 57; 63).
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 13-8
THÁNH PONTIANÔ, giáo hoàng tử đạo,
 THÁNH HIPPÔLYTÔ, linh mục, tử đạo;
 Ed 1, 2-5.24-28c; Mt 17,22-27.

LỜI SUY NIỆM: Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 17, 24).
          Những ai muốn được làm môn đệ của Chúa Giêsu thì phải thực hiện hai điều này hằng ngày chứ không phải tùy vào hoàn cảnh và thời gian. Như vậy sống cho Chúa thì phải khai trừ mọi tính hư tật xấu cùng những đam mê mà con người đòi hỏi và lôi kéo nơi chính mình; không những thế mà còn phải biết hy sinh, hy sinh hết mình, vì yêu kính Thiên Chúa, và yêu thương tha nhân với sự tôn trọng vì Chúa; Đã vác thập giá thì cũng phải chết trên thập giá của mình. Muốn được chu toàn; chỉ còn một cách duy nhất là cầu xin ân sủng và sức mạnh của Ngài ban cho; và tin tưởng tuyệt đối vào Ngài; phó thác mọi giây phút đời mình vào quyền năng yêu thương của Ngài.
Mạnh Phương

GƯƠNG THÁNH NHÂN
Thứ Hai 13-8
Thánh Pontian và Thánh Hippolytus
(k. 235)

V
ào năm 235, Maximinus làm hoàng đế Rôma và hầu như ngay sau khi lên ngôi, ông bắt đầu bách hại người Kitô Giáo. Một trong những hình phạt thông thường đối với các giám mục và linh mục là các ngài bị lưu đầy đến những quặng mỏ nguy hiểm ở Sardinia, nước Ý. Chính vì sự bách hại này mà ngày nay chúng ta mừng kính hai thánh tử đạo.
Thánh Pontian lên ngôi giáo hoàng sau khi Ðức Urban I từ trần năm 230. Khi Maximinus lên ngôi hoàng đế, Ðức Pontian cùng chung số phận với các Kitô Hữu khác và ngài phục vụ Giáo Hội trong sự đau khổ ở Sardinia.
Hippolytus là một linh mục và là học giả ở Rôma. Ngài có nhiều sáng tác về thần học và là bậc thầy tài giỏi. Hippolytus thất vọng với Ðức Giáo Hoàng Zephyrinus (được tử đạo năm 217) vì đức giáo hoàng không mau mắn ngăn chặn những người giảng dạy cách lầm lạc. Khi Ðức Callistus I được bầu làm giáo hoàng kế vị Ðức Zephyrinus, Hippolytus cũng không hài lòng. Lúc bấy giờ, rất đông người theo Hyppolytus và họ đồng lòng bầu Hippolytus lên làm giáo hoàng. Vị thần học gia tài giỏi này đã không chế ngự được tính kiêu ngạo và đã chấp nhận. Khi cuộc bách hại bùng nổ, Hyppolytus bị bắt và cũng bị lưu đầy đến Sardinia.
Trong hoàn cảnh đáng thương ấy, một phép lạ hòa giải đã xảy ra giữa sự cười nhạo của kẻ thù. Ðức giáo hoàng Pontian gặp gỡ với Hippolytus trong hoàn cảnh lưu đầy và vị linh mục tài giỏi này đã cảm hóa trước sự khiêm tốn của vị giáo hoàng. Hippolytus trở về với Giáo Hội và mọi tức giận đều tiêu tan. Ðức giáo hoàng Pontian thông cảm với vị linh mục. Ngài nhận ra nhu cầu của mỗi người là phải giúp đỡ và khuyến khích lẫn nhau trong tình bác ái của Ðức Giêsu Kitô. Cả hai đã được phúc tử đạo và mãi mãi trở nên nhân chứng cho sự tha thứ và niềm hy vọng Kitô Giáo.
www.nguoitinhuu.com 



13 Tháng Tám
Bức Tường Ô Nhục

Ngày 13/8/1961, sau nhiều cuộc thương thảo vô ích giữa Washington và Mascơva nhằm giải quyết cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối Ðông và Tây, Kruschev, chủ tịch nhà nước Liên Xô, đã ra lệnh cho xây cất một bức tường ngăn cách Ðông và Tây Bá Linh. Bức tường này được dựng lên không những để đánh dấu sự đọan tuyệt giữa Ðông và Tây, nhưng còn để ngăn chặn làn sóng những người Ðông Ðức ồ ạt chạy sang tỵ nạn tại Tây Bá Linh. Khối Ðông Âu thì giải thích rằng bức tường này được dựng lên là để ngăn chặn những người Tây Phương có thể đến Ðông Ðức để làm gián điệp. Còn phía Tây Phương thì lại gọi bức tường đó là bức tường ô nhục... Nhưng dù được gọi dưới danh hiệu nào, dù được xây dựng dưới mục đích nào, bức tường ngăn cách giữa Ðông và Tây Bá Linh vẫn mãi mãi là biểu trưng của những chia cách giữa con người mà chính con người đã tạo nên...
Có những bức tường ngăn cách về kinh tế, chính trị, chủng tộc, văn hóa do con người dựng lên... Nhưng cũng có những bức tường vô hình mà mỗi người chúng ta có thể xây lên để tự ngăn cách với người khác.
Bức tường vô hình đó trước tiên là bức tường của nghi kỵ. Người ta thường xây kín khu vực của mình ở bằng kín cửa cao tường là bởi vì người ta sợ con mắt dòm ngó của những người xung quanh. Sự nghi kỵ không những ngăn ngừa người khác đến với mình, nhưng còn giam hãm chính mình trong cô đơn...
Bức tường vô hình cũng là bức tường của ích kỷ. Người ích kỷ chỉ biết đến thế giới của mình và khép mắt, bịt tai trước những gì đang xảy ra cho người khác...
Bức tường đó cũng có thể là bức tường của sự bất cảm thông. Kẻ xây tường để bao bọc mình sẽ không muốn nhìn thấy và thông cảm với những người xung quanh...
Nhưng bức tường nào cũng là một nấm mồ chôn kín mình trong sự cô đơn. Càng bảo vệ chính mình, con người càng mất mát trong sự hao mòn. Trái lại, càng cởi mở, càng đến với tha nhân càng triển nở trong nhân cách...
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét