Trang

Thứ Bảy, 22 tháng 12, 2018

23-12-2018 : (phần II) CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG năm C


23/12/2018
 Chúa Nhật tuần 4 Mùa Vọng năm C.
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật IV Mùa Vọng - năm C
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG - C
(Mk 5,1-4a; Dt 10,5-10; Lc 1,39-48a)
MỘT THIÊN CHÚA ĐẾN VỚI CON NGƯỜI
“Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này”
(Lc 1,43)

I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (Mk 5,1-4a)
Mikha là vị ngôn sứ cùng thời với Amos, Hôsê và Isaia (thế kỷ 8 tCN). Là người miền Giuđa, nhưng Mikha tuyên sấm cả ở Samaria và Giêrusalem, thủ phủ miền Bắc và thủ phủ miền Nam.
Ngài lên tiếng tố cáo tội lỗi của Israel (miền Bắc) và tiên báo về ngày sụp đổ của nó. Và thực tế Samaria bị quân Assiri chiếm đóng năm 721 tCN. 
Ngài còn tố cáo các thủ lãnh miền Giêrusalem vì đã xây Sion bằng máu, dựng Giêrusalem bằng bất công; họ ỷ vào Đức Chúa, và tự tin cho rằng: “Đức Chúa chẳng ở giữa chúng ta hay sao?” (3,10-11).
Tuy vậy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Người, và đã sai Mikha loan báo ơn cứu độ sắp đến. Sẽ xuất hiện một vị, nhưng không từ Giêrusalem hay Samaria, những thủ phủ của Israel, vốn ngạo mạn và hư hỏng, nhưng từ một miền quê nhỏ bé tên là Bétlêhem Ephrata, có nghĩa là màu mỡ hay phì nhiêu. Đây cũng là quê hương của vua Đavít (1 Sm 16), người đã trị vì toàn thể dân Israel năm xưa.
Đấng Cứu Thế sẽ trị vì Israel, sẽ cai trị tại Giêrusalem, và sẽ đem lại hòa bình cho dân nước; những cuộc tranh chấp nội bộ hay xâm lăng ngoại bang sẽ không còn.
Vì thế, vọng Giáng Sinh, hướng đến mừng cuộc sinh hạ của Chúa Giêsu trong thời gian và mong đợi sự trở lại của Người trong ngày cánh chung, đã làm rõ ý nghĩa lời ngôn sứ Mikha năm xưa (Mt 2,6; Lc 2,6; Ga 7,42).
2. Bài đọc II (Dt 10,5-10)
Thư Do Thái khẳng định chức tư tế và những hy lễ xưa cũ đều mang tính tạm thời. Việc các hy lễ theo Luật truyền được lặp lại mỗi ngày là một bằng chứng cho thấy nó không mang lại ơn cứu độ.
Với việc Đức Giêsu đến trong trần gian, Người đã kiện toàn một bước quyết định như đã nói trong Thánh Vịnh 40: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi, con liền thưa: “Này con xin đến!” Trong sách có lời chép về con, rằng: con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (7-9).
Bước quyết định này của Chúa Giêsu trước hết là hy tế thiêng liêng, là làm theo thánh ý Chúa Cha, và tiếp theo là chính hy lễ thân mình Người, được kiện toàn trong mầu nhiệm Nhập thể - Cứu Chuộc.
Hy tế này bãi bỏ hy tế năm xưa, và có hiệu quả chung cuộc, chỉ một lần là đủ và không cần lặp lại.
Các hy lễ trong Đền Thờ thường mang tính to lớn, vĩ đại, và dễ tạo nên sự tự hào kiêu căng; trái lại, hy lễ Đức Giêsu là sự khiêm hạ trong vâng phục thánh ý (Pl 2,6-8). Điều này cũng tương tự như hình ảnh trái ngược được Mikha gợi ra, đó là giữa một Giêrusalem hùng vĩ với một Betlêhem nhỏ bé, khiêm hạ.
3. Bài Tin Mừng (Lc 1,39-48a)
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày một trích đoạn thật cảm động và đầy ngạc nhiên: một thiếu nữ còn rất trẻ đã đính hôn và đang mang thai, đã làm một cuộc hành trình dài (150 km) đến một làng hẻo lánh vùng núi tên là Ein Karem - Giuđa, quê hương của Gioan Tẩy Giả và ở lại đó trong ba tháng.
Trình thuật mang nhiều ý nghĩa: đó là cuộc gặp gỡ giữa Đấng Messia với các tín hữu đại diện cho Giao Ước cũ. Người khởi xướng cuộc gặp gỡ này chính là Đức Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế. Đây là một cử chỉ diễn tả sự khiêm hạ và nhưng không, rất tương hợp với tinh thần của Tin Mừng.
Tiếp rước Đức Maria ngay bậc thềm nhà mình là Êlisabeth, vợ của vị tư tế Dacaria. “Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa” (Lc 1,6). Vị tư tế, do bởi sự nghi nan của mình, đã bị câm, nhưng người vợ thì đầy nguồn ơn linh hứng đã thực hiện một cử chỉ của niềm tin đầu tiên vào Đức Kitô khi hân hoan tiếp rước Người. Theo cách thức này, chức tư tế đã được nhìn nhận nơi Đức Kitô ngay trước khi Người sinh hạ. Cặp đôi của chức tư tế trong Giao Ước cũ đã già và hiếm muộn, nhưng giờ đã có thể sinh con nhờ công cuộc Đấng Messia.
Gioan Tẩy Giả, người lớn nhất trong các ngôn sứ, đã nhảy lên do bởi niềm vui mà các ngôn sứ trước kia loan báo và hy vọng, và niềm vui đó được kiện toàn hôm nay.
Như thế, chức tư tế và ngôn sứ của Giao Ước cũ, do hai ông bà và Gioan Tẩy Giả đại diện, đã bị vượt qua và thành toàn nơi Đức Giêsu qua sự tiếp nhận cuộc viếng thăm, trong đó, Đức Maria đã chủ động thông dự vào hoa trái của cung lòng mình.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Chúng ta đang chuẩn bị một kỳ lễ Giáng Sinh mới. Liệu đây có phải là một ngày lễ được lặp lại giống như mọi năm hay là một cơ hội để đổi mới thật sự cho mỗi chúng ta? Đâu là sự mới mẻ của kỳ Noel này? Thiên Chúa luôn hoạt động và viết tiếp các trang sử; Thiên Chúa cũng luôn đến với mỗi người chúng ta trong mọi phút giây; Người không ngừng thúc giục chúng ta bước vào một thế giới mới; Người đã đến, đang đến và sẽ đến. Dấu chỉ của Hài Nhi Giêsu không phải là những điều to lớn vĩ đại, mà qua những điều nhỏ bé khiêm hạ. Trong lúc này, đâu là lời mời gọi mới mẻ mà ta nghe được trong kỳ lễ Giáng Sinh năm nay?
2. Lễ Giáng Sinh không phải là một sản phẩm của con người, nhưng là một hồng ân thiêng thánh; đây cũng không phải là một cuộc chinh phục võ lực, nhưng là một lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện; đây là một hành trình đến với của Thiên Chúa mà không phải là hành trình đi ra của chúng ta. Chúng ta được mời gọi như thế nào khi chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh? Chúng ta có như Đức Maria đã làm, đó là sẵn sàng mở hết lòng đón rước hồng ân thánh, trong niềm tin vào lời hứa năm xưa, để Đấng muốn đến được đến và ở lại trong đời chúng ta?
3. Đức Maria đã chiếm một chỗ quan trọng trong phụng vụ Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng. Bên cạnh thái độ ngoan ngùy sẵn sàng tuân phục thánh ý Chúa và hân hoan chia sẻ ơn thánh với tha nhân, hình ảnh Mẹ cưu mang Con Chúa khởi đi từ Nazarét làm hành trình tiến về Ein Karem, cách Giêrusalem 8 Km, giúp ta gợi nhớ hình ảnh vua Đavít rước hòm bia Thiên Chúa về Giêrusalem (2 Sm 6,1-11). Nếu như xưa kia, hòm bia Đức Chúa ở nhà ông Ovết Êđom trong ba tháng và giáng phúc cho nhà ông, thì hôm nay, Đức Maria, với hòm bia giao ước mới, đã ở lại nhà hai ông bà Dacaria và Êlizabéth và chúc lành cho hai ông bà. Vì thế, đón chờ Chúa Giáng Sinh, chúng ta có sẵn sàng tiếp rước Mẹ Maria cùng với Hài nhi Giêsu như là hòm bia Giao Ước mới vào bậc thềm của nhà mình để Mẹ cùng với Chúa Giêsu ở lại với chúng ta và chúc lành cho chúng ta?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Qua mầu nhiệm Nhập Thể, Con Thiên Chúa đã đến và ở cùng nhân loại để loan báo mùa hồng ân cứu độ. Với tâm tình biết ơn và cảm mến, cộng đoàn chúng ta cùng khẩn khoản cầu xin:
1. Chúa trao cho Hội Thánh sứ mạng đem tin mừng cứu độ đến cho gia đình nhân loại. Chúng ta cùng cầu xin cho các thành phần trong Hội Thánh luôn nỗ lực trở nên dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa giữa thế giới hôm nay.
2. Trên thế giới vẫn còn nhiều người đói khổ và không được sống đúng với phẩm giá của mình. Chúng ta cùng cầu xin cho các nhà lãnh đạo các quốc gia luôn quan tâm khích lệ và thể hiện tinh thần liên đới chia sẻ trong cộng đồng.
3. Thiên Chúa mời gọi mọi người cộng tác vào công trình cứu độ của Người. Chúng ta cùng cầu xin cho các kitô hữu luôn nhiệt tâm tham gia vào sứ vụ cao cả ấy bằng lời cầu nguyện, gương lành và các việc bác ái.
4. Ðức Maria là tấm gương đón nhận, cưu mang và trao tặng Ngôi Lời. Chúng ta cùng cầu xin cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta biết noi gương Mẹ chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh trong tinh thần khiêm tốn và dấn thân phục vụ.
Chủ tế: Lạy Chúa là nguồn mạch niềm vui cứu độ, xin nhận lời chúng con tha thiết cầu nguyện, và hướng dẫn chúng con luôn biết sống trọn niềm tin - cậy - mến trong khi hân hoan đón mừng ngày Con Chúa ngự đến. Người là Thiên Chúa hằng sống hằng trị muôn đời.


SCĐ Chúa Nhật IV Vọng.C
Chủ đề :
Chúa sắp đến

Đức Maria đi viếng Bà Êlisabeth (Lc 1,39-45)
Sợi chỉ đỏ :
Sau tuần đầu tiên nói về ngày Chúa đến, tuần II kêu gọi hãy dọn đường cho Ngài và tuần III kêu gọi hãy vui mừng vì ngày đó, Lời Chúa ngày hôm nay giới thiệu Đấng sắp đến là ai : đó là Chúa Giêsu.
– Trong bài đọc I (Mk 5,1-4), ngôn sứ Mikha cho biết Đấng sắp đến sẽ là người có quê quán tại Bêlem Ephrata thuộc chi tộc Giuđa.
– Trong bài Tin Mừng (Lc 1,39-45), Thánh Luca giới thiệu những người thân của Ngài : Đức Maria và Bà Êlisabét.
– Và trong bài đọc II (Dt 10,5-10), tác giả thư do thái ghi lại lời của Đấng Cứu Thế : “Này con xin đến để thực thi ý Chúa”.

I.Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến
Chỉ còn khoảng một tuần nữa thôi, chúng ta sẽ cử hành lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu. Chúa sẵn sàng đến với những ai nhận thức mình cần Ngài. Vậy bây giờ chúng ta hãy tới gần Ngài, mang theo tất cả những sự nghèo nàn thiêng liêng, những thương tích và những tội lỗi của chúng ta.

II. Gợi ý sám hối

– Lạy Chúa, chúng con là những người yếu đuối hèn hạ. Xin Chúa thương xót chúng con.
– Lạy Chúa, chúng con đầy dẫy tội lỗi. Xin Chúa thương xót chúng con.
– Lạy Chúa, chúng con khổ sở nhiều mặt. Xin Chúa thương xót chúng con.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (Mk 5,1-4)
Ngôn sứ Mikha cho biết trước một số nét về Đấng cứu thế sẽ đến :
– Ngài không xuất thân từ thủ đô Giêrusalem hay một thành phố lớn, nhưng từ một thị trấn nhỏ bé khiêm nhường là Bêlem.
– Mặc dù vậy, Ngài có sứ mạng thống lãnh Israel.
– Quyền lực Ngài sẽ trải rộng ra đến tận cùng trái đất, chính Ngài sẽ đem lại hòa bình.

2.                  Đáp ca (Tv 89)
Bối cảnh của Thánh vịnh này là đất nước do thái đang chia rẻ thành hai, Israel ở phía Bắc và Giuđa ở phía Nam. Như vậy là đoàn chiên Chúa bị phân tán, và vườn nho Chúa cũng tan hoang.
Tác giả Thánh vịnh hình dung Đấng Messia là một mục tử, khi Ngài đến Ngài sẽ quy tụ các chiên về thành một đoàn duy nhất ; và như một người chủ vườn trở lại thăm nom và chăm sóc vườn nho cũ.

3.                  Tin Mừng (Lc 1,39-45)
Bài Tin Mừng hôm nay cho biết về Mẹ Đấng cứu thế sắp sinh ra.
Thánh Luca cố ý viết câu chuyện này giống với chuyện Đavít mang Hòm Bia về Giêrusalem (2.Sm 6), để nói rằng Đức Maria chính là Hòm Bia Tân Ước. Sau đây là các chi tiết :
  1. Hòm Bia tiến về hướng Giêrusalem, ghé nhà của ông Ôbed-Êdom. Maria đi từ Nagiarét theo hướng Giêrusalem, ghé nhà Êlisabét.
  2. Đavít đã “kêu lên” rằng : làm sao Hòm Bia của Chúa đến nhà tôi được. Êlisabét cũng “kêu lên” : làm sao mà mẹ của Chúa tôi đến nhà tôi.
  3. Nhờ Hòm Bia ghé ở nhà Ôbed-Êdom mà ông này được Thiên Chúa ban phúc. Đức Maria ghé nhà Êlisabét khiến gia đình bà (kể cả thai nhi) được phúc.
  4. Hòm Bia ở nhà Obed-Êđom 3 tháng ; Đức Maria cũng ở nhà Êlisabét 3 tháng (xem câu 56)

4.                  Bài đọc II (Dt 10,5-10)
Tác giả thư Do thái thì hình dung Đấng Messia là một vị Thượng Tế và Chức thượng tế của Ngài trổi vượt chức thượng tế Cựu Ước :
– Lễ tế Ngài sẽ dâng lên không phải là lễ toàn thiêu hay lễ xá tội của Cựu Ước, mà là chính thân thể Ngài và việc thực thi thánh ý Thiên Chúa.
– Lễ tế ấy không cần phải dâng lên nhiều lần, mà một lần duy nhất có giá trị vĩnh cửu.

IV. Gợi ý giảng

  1. Đức Mẹ và Lễ Giáng Sinh
Lời Chúa ngày Chúa nhật cuối Mùa Vọng luôn đề cao Đức Mẹ. Trong Chúa nhật thứ IV năm nay, Đức Mẹ được mô tả là “người phụ nữ sinh con” (bài đọc I). Còn bài Tin Mừng thì tường thuật việc Người đi thăm viếng Bà Êlisabét. Cũng như con của mình, Đức mẹ là người “đến để thực thi ý Chúa” (bài đọc II). Gương Đức Mẹ có thể giúp chúng ta biết cách chuẩn bị Lễ Giáng sinh.
a/ Đức Mẹ luôn tin vào Lời Chúa, như nhận xét của Bà Êlisabét : “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em”. Chuẩn bị Lễ Giáng sinh là quan tâm đọc Lời Chúa và tin vào Lời ấy.
b/ Đức Mẹ luôn vâng theo ý Chúa : Trong biến cố Truyền tin, Người đã thưa với Thiên thần “Này tôi là tôi tớ Chúa, xin vâng”. Chuẩn bị lễ Giáng sinh là tỉnh táo nhận ra ý Chúa đối với mình và cố gắng vâng theo.
c/ Đức mẹ sẵn sàng giúp đỡ người khác : dù đường xá xa xôi, Đức Mẹ không ngại và đến thăm để giúp đỡ Bà Êlisabét. Chuẩn bị lễ Giáng sinh là quan tâm đến người khác và sẵn sàng giúp đỡ họ.

2.                  Thăm viếng

a/ Viếng thăm là một hành động biểu lộ tình thương
Vừa nghe sứ thần truyền tin cho biết bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, Maria liền vội vã lên đường đến thăm bà. Bà Ê-li-sa-bét sống ở miền núi, chắc chắn cuộc hành trình của Maria lên miền núi để thăm người bà con không tránh được mệt nhọc, vất vả.
Chắc chắn việc Đức Maria đến thăm bà Ê-li-sa-bét là do sự thúc đẩy của yêu thương. Ngài không đến thăm thì bà Ê-li-sa-bét chẳng trách Ngài được, lý do là bà ấy đâu biết rằng Ngài biết bà mang thai. Vả lại chính Ngài cũng đang mang thai, mà đường xá lại xa xôi. Chính tình thương đã thúc đẩy Ngài đi, vì Ngài rất giàu tình thương. Và cũng chính vì giàu tình thương mà Ngài xứng đáng làm Mẹ của Chúa Giêsu, là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tương tự như lời thánh Giacôbê : «Đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2, 26). Cũng vậy, tình yêu không việc làm, không được biểu lộ là tình yêu chết. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn. Câu tục ngữ «Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua» có nghĩa như thế !
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui hoặc buồn. Đức Phật nói : «Yêu mà không được ở gần nhau thì sẽ đau khổ». Tục ngữ có câu : «Nhất nhật bất kiến như tam thu hề !». Vì thế, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau. Vì thế, chúng ta hãy năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Mà đã là người Kitô hữu, tất nhiên chúng ta có rất nhiều người mình phải yêu mến, nhất là những người lâm cảnh đau khổ, túng thiếu, những người lâm vào thế kẹt, những người cần chúng ta tới thăm viếng hơn cả. Đến thăm nhau là một cách tuyệt vời để biểu lộ tính gia đình, tình huynh đệ, tình yêu thương của Kitô giáo.

b/ Đến thăm để đem Chúa đến cho người mình thương
Khi Đức Maria đến thăm bà Ê-li-sa-bét, thì Ngài cũng đem Chúa đến cho bà ấy. Nhờ Đức Maria mang Chúa đến, nên không chỉ bà Ê-li-sa-bét vui mừng, mà hài nhi trong bụng Bà cũng vui mừng theo, đến nỗi phải «nhảy lên» trong bụng mẹ. Và chắc chắn cũng chính vì Đức Maria mang Chúa đến, mà niềm vui của bà Ê-li-sa-bét và hài nhi mới tăng lên một cách lạ thường như thế. Sự hiện diện của Đức Maria cùng với bào thai Giêsu còn biến đổi hai mẹ con bà Ê-li-sa-bét, khiến hai người được tràn đầy Thánh Thần, và nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria, đồng thời tin vào Thiên Chúa vững mạnh hơn.
Đến thăm không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện, chứ không phải ta.
Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Rất nhiều người nói về Chúa rất nhiều rất hay, nhưng thật sự không mang Chúa trong mình. Chúa là tình thương, mình chỉ mang Chúa đến cho họ, khi chính mình yêu thương họ thật sự, bằng một tình yêu chân thực. Đức Maria có nói gì về Chúa với bà Ê-li-sa-bét đâu ! Mình chỉ mang Chúa đến cho họ, khi mình đến với họ với ý muốn làm hiện thân của Chúa.


c/ Hãy là hiện thân của Chúa khi đi thăm viếng
Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại vô cùng, nên Ngài đã đến với con người trong lịch sử, cách đây 2000 năm, để cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Ngài đã đến thăm nhiều người, săn sóc nhiều người, cải hóa nhiều người, biểu lộ tình yêu thương cho nhiều người. Nhưng vì nhập thể làm người, Ngài bị giới hạn trong không gian và thời gian, Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm, chỉ quanh quẩn trong đất nước Do Thái, và chỉ có thể tiếp xúc được với một số rất ít người. Nhưng tình yêu vô biên phổ quát của Ngài khiến Ngài muốn tiếp xúc với tất cả mọi người trên trần gian, để phục vụ, săn sóc họ, từng người một. Ngài không thể làm điều đó bằng chính thân xác của Ngài. Vì thế, Ngài muốn nhờ chính chúng ta làm điều ấy. Ngài muốn trở thành chính bản thân chúng ta để làm những công việc ấy, và chúng ta có thể giúp Ngài được toại nguyện ý đó.
Ngài muốn dùng chính bản thân chúng ta để thăm viếng những người chúng ta quen biết, yêu thương. Ngài muốn an ủi, vỗ về, khuyến khích, khuyên lơn, cảnh tỉnh họ bằng miệng lưỡi của ta. Ngài muốn săn sóc, làm việc phục vụ họ bằng chính bàn tay của ta. Ngài muốn yêu thương họ bằng chính trái tim của ta. Ngài muốn quan tâm tới họ bằng chính tâm trí của ta. Qua ta, Ngài muốn biểu lộ tình thương vô biên của Ngài cho họ. Muốn thế, Ngài mong muốn ta trở thành hiện thân của yêu thương, thứ yêu thương bằng hành động chứ không phải chỉ bằng lời nói. Ta có là hiện thân của tình thương, thì ta mới trở nên hiện thân của Ngài. Và chính lúc ấy, ý muốn của Ngài là yêu thương phục vụ họ mới được thỏa mãn hoàn toàn.
Vấn đề là ta có muốn trở nên hiện thân của Ngài hay không. Ngài không bao giờ muốn ép buộc ta, thúc bách ta, nhưng luôn luôn mời gọi ta. Ta có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi không ? Nếu có, hãy đáp lại lời mời ấy một cách quảng đại. Đó là cách chứng tỏ cụ thể nhất rằng ta yêu mến Ngài. Yêu mến Ngài thì phải yêu thương giống như Ngài, chứ không phải yêu Ngài bằng cách dâng lên Ngài thật nhiều thánh lễ, đọc thật nhiều kinh kệ, và quỳ hàng giờ trước nhà tạm. Nếu ta yêu Ngài thật sự, thì hãy yêu Ngài, phục vụ Ngài trong những người anh chị em gần gũi ta.
Ngài đã chẳng từng nói : «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : “Lạy Chúa ! Lạy Chúa !” là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi !» (Mt 7,21). Mà ý muốn của Thiên Chúa la  : «Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Về việc dâng quá nhiều lễ tế, đọc kinh kệ quá nhiều mà thiếu lòng yêu thương nhau, Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia để nói lên sự chán ngấy của Ngài : «Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta nào nghĩa lý gì ? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bò mập, Ta đã ngấy (…) Thôi đừng đem những lễ vật vô ích ấy đến nữa. Ta ghê tởm khói hương, ta chịu không nổi những ngày đầu tháng, những ngày sabát, ngày đại lễ, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình (…) Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn, vì tay các ngươi đầy những máu…» (Is 1,11-15 ; xem bài đọc 2 được nêu ở trên). Chỉ có tình yêu đích thực mới làm Chúa hài lòng !
***
Lạy Chúa, xin giúp con trở thành hiện thân của Chúa để giúp Chúa phục vụ mọi người qua chính bản thân của con. Xin cho con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh con. Xin giúp con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu của con để năng đến gặp gỡ họ, thăm viếng họ, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của họ. Xin giúp con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ. Amen. (Nguyễn chính Kết)

3.                  Maria dám tin
Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người : ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Đại khái nội dung của bích chương loan báo : Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g đến 12g đều được ông giúp đỡ để trả nợDĩ nhiên, mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.
Đúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11 giờ mới có một người đàn ông rụt rè đến… Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến. Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn.
Lời hứa của doanh nhân trong câu chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Đức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói : “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em ” (Lc 1,4 5).
Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.
Tin là để cho chương trình cứu độ của Người đảo lộn chương trình sống của chúng ta.
Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.
Trước khi thưa lời “Xin Vâng”, Đức Maria đã có chương trình của Mẹ là sẽ sống đời đôi bạn với thánh Giuse (Lc 1,27). Và qua lời “Xin Vâng” Mẹ đã chấp nhận hoàn toàn để cho Thiên Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Người đảo lộn chương trình sống, và cùng Người bước vào một cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.
Mẹ ra đi mà không biết mình đi đâu, chỉ biết ra đi theo sự hướng dẫn của Chúa.
Mẹ đã đi từ bước phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác : Từ việc hạ sinh Con Thiên Chúa cách đơn nghèo, cho đến khi lạc mất con trong đền thánh ; từ những lời cứng cỏi của con ở Cana và Caphanaum cho đến khi gặp con dưới chân thập giá.
Mẹ đã “Suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19) vì những kỷ niệm ấy quả là khó hiểu dưới con mắt loài người.
Mẹ xứng đáng là Mẹ Đấng Cứu thế vì mẹ đã dám tin vào lời Chúa và để Chúa thay đổi cuộc đời mình theo chương trình cứu độ của Người.
Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ đã chấp nhận lên đường làm một cuộc phiêu lưu với Chúa trong tin yêu và phó thác : “Xin Chúa làm cho tôi như lời Ngài nói” (Lc 1,38).
Chính vì Mẹ diễm phúc mà lòng Mẹ đã là mái ấm đầu tiên, là Đền Thánh cho Con Thiên Chúa ngự trước khi bước vào cuộc đời.
Chính vì Mẹ là Đền Thánh nên đấng Thánh trong lòng Mẹ đã thánh hoá Gioan trong cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh.
Chính vì cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh giữa Mẹ và bà chị họ, mà Thánh Thần đã linh ứng cho bà nhận ra điều mắt thường không thể thấy, đó là chuyện cô em Maria thụ thai Đấng Cứu Thế.
Chính vì niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của Êlisabét đã khiến Mẹ cảm nhận thật sâu xa hồng ân cao cả, và lời ngợi ca Thiên Chúa đã vỡ oà trên bờ môi hạnh phúc trong lời kinh Magnificat (x. Lc 1,46-54).
Vâng, chính cuộc sống tin yêu và phó thác của Mẹ đã tuôn chảy dòng sông của ân phúc, cuộc sống ấy đang toả hương thơm cửa thiên đàng.
Lạy Chúa, Chúa đã đoái thương tuyển chọn Đức Ma ria và bà Êlisabét, đã cho các ngài mang thai cách diệu kỳ, để hạ sinh Đấng Cứu Thế và vị Tiền Hô của Người.
Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ : Tin vào lời Chúa và chương trình cứu độ của Người. Xin cho chúng con biết ngoan ngoãn để Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng con với trọn niềm tin tưởng mến yêu. Amen. (TP)

4.                  “Em có phúc vì đã tin”
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Bà Êlisabét nói với Đức Maria : “Em có phúc vì đã tin”. Tin và hạnh phúc, đó là hai điều liên hệ chặt chẽ với nhau, một liên hệ nhân quả. Chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều bằng chứng trong các sách Tin Mừng :
– “Chúa Giêsu nói với viên đại đội trưởng rằng : Ông cứ về đi. Ông tin thế nào thì được như vậy. Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh” (Mt 8,13)
– Chúa Giêsu quay lại nói với người đàn bà bị băng huyết : “Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con”. Và ngay từ giờ ấy, bà được cứu chữa (Mt 9,22)
– Chúa Giêsu nói với hai người mù đi theo Ngài “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không ?” Họ đáp “Thưa Ngài chúng tôi tin”. Bấy giờ Ngài sờ vào mắt họ và nói “Các anh tin thế nào thì được như vậy”. Mắt họ liền mở ra. (Mt 9,28-29)
Chúng ta có thể nói chủ đề chính của Tin Mừng là hạnh phúc cho những kẻ tin. Tất cả những lời Chúa Giêsu giảng dạy là nhằm khơi lên đức tin trong lòng người nghe. Tuy nhiên, chỉ tin thôi thì chưa đủ mà còn phải làm theo như mình tin. Người ta nói ma quỷ cũng tin Chúa đó, nhưng nó không làm theo ý Chúa.
Đức tin không biến cuộc sống của ta thành dễ dàng. Ngược lại là đàng khác, vì tin đòi hỏi chúng ta phải chiến đấu, phải kiên trì.
Đức Maria được chúc phúc vì Người không chỉ tin mà còn hành động theo điều Người tin. Ngay sau khi được Thiên sứ viếng thăm, Người đã vội vàng đi thăm viếng Bà Êlisabét. Qua đó, chúng ta thấy rằng sống đạo không phải chỉ là tin suông mà còn phải thể hiện đức tin bằng việc làm.
Lễ Giáng sinh có thể giúp ích chúng ta rất nhiều trong đức tin, vì dù sao trong dịp này chúng ta cũng thấy Chúa gần gũi với mình hơn những lúc khác. Nhưng cốt lõi của sứ điệp Giáng sinh là Con Thiên Chúa đã nhập thể trong một đứa trẻ nghèo nàn yếu ớt. Trong lễ Giáng sinh đầu tiên, có những người đã tin vào điều ấy, và cũng có những người không tin. Nhưng chỉ những người tin mới được chúc phúc. (FM)

5.                  Chúa Giáng sinh mang lại gì mới ?
Người ta thích những điều mới. Một món hàng mới xuất hiện trên thị trường, người ta đổ xô đi mua. Một thời gian sau, món đồ ấy không còn mới nữa, người ta nhàm chán. Thế là nhà sản xuất phải nghĩ ra cái khác mới hơn. Hiện tượng này cho thấy 2 điều : một là khuynh hướng thích cái mới thúc đẩy sự tiến bộ ; hai là cái gì mới rồi cũng sẽ cũ đi.
Có cái gì vẫn luôn luôn mới chứ không bao giờ cũ không ? Nếu có cái đó thì cái đó mới là cái thực sự mới.
Đó chính là cái mà Chúa Giáng sinh mang lại. Đó là tình yêu hiến dâng. Chúa đến trong lòng Đức mẹ. Lòng Đức Mẹ đổi mới. Đức Mẹ lập tức mang điều mới mẻ đó trao ban cho Bà Êlisabét.
Trong số những điều mới mẻ trên thế giới và trong Giáo Hội, những cái vẫn còn mới và tồn tại mãi qua dòng thời gian chính là những thứ giúp phát triển tình yêu và sự dâng hiến. Chúa Giêsu giáng sinh là người đầu tiên mang điều mới mẻ ấy cho nhân loại.

6.                  Lời nguyện Mùa Vọng
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến
Xin hãy bước vào những yếu đuối của chúng con
Xin hãy bước vào những nỗi sợ hãi của chúng con
Xin hãy bước vào những lo lắng của chúng con
Xin hãy bước vào những thất bại của chúng con
Xin hãy bước vào những chia rẻ của chúng con
Xin hãy bước vào những buồn phiền của chúng con
Xin hãy bước vào những cô đơn của chúng con
Xin hãy bước vào những bóng tối của chúng con
Xin hãy bước vào những hoài nghi của chúng con
Xin hãy bước vào những thất vọng của chúng con
Xin hãy bước vào những nghèo hèn của chúng con
Xin hãy bước vào cuộc tìm kiếm của chúng con
Xin hãy bước vào những niềm vui và hy vọng của chúng con
Xin hãy bước vào cuộc hấp hối của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến

V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, thật hạnh phúc cho những ai biết tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng toàn năng và là Cha nhân ái. Trong niềm hân hoan vì Ngôi Hai Thiên Chúa sắp ngự đến, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
  1. Hội thánh cần những mục tử tài đức và thánh thiện để hướng dẫn Dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho Hội thánh / luôn có nhiều mục tử như lòng ước mong.
  2. Cùng với Đức Trinh Nữ Maria / nhiều sứ giả của tình thương đã vội vã lên đường / đem niềm vui cho những người sầu khổ / đem ủi ban cho những ai đang gặp bế tắc trong cuộc sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa giữ gìn những anh chị em đang dấn thân phục vụ tha nhân / luôn được an lành.
  3. Hiện nay / có rất nhiều bạn trẻ đang tích cực cộng tác với các vị mục tử / trong việc dạy giáo lý cho các em thiếu nhi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các giáo lý viên / tìm được niềm vui trong công việc cao quý này.
  4. Đức tin không việc làm là đức tin chết / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thể hiện niềm tin sống động của mình / bằng việc luôn vâng theo thánh ý Chúa / hết lòng phó thác và tận tụy phục vụ như Đức Maria.
Chủ tế : Lạy Chúa, ngày xưa Đức Trinh Nữ Maria đã vội vã lên đường mang Chúa Giêsu đến cho người khác ; ngày nay, xin Chúa cho chúng con cũng biết noi gương Người mà nhiệt tình đem Chúa đến cho anh chị em chúng con, bằng chính đời sống thấm nhuần tinh thần Tám Mối Phúc thật của chúng con. Chúng con cầu xin

VI.Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha : Chúa Cha đã yêu thương chúng ta đến nỗi sai Con Một của Ngài sinh xuống trần gian để sống với chúng ta và cứu chuộc chúng ta. Chúng ta hãy dâng lên Ngài tâm tình tạ ơn sốt mến.

VII. Giải tán
Còn vài ngày nữa là đến lễ Giáng sinh. Anh Chị Em hãy tích cực chuẩn bị đón Chúa, bằng cách cầu nguyện nhiều hơn và sống bác ái với tha nhân hơn.

Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI


Lectio Divina: Chúa Nhật IV Mùa Vọng (C)
Chủ Nhật 23 Tháng Mười Hai, 2018

Cuộc thăm viếng của Đức Maria với bà Isave
Thiên Chúa tỏ mình ra trong những việc đơn sơ nhất
Lc 1:39-45

1.  Lời nguyện mở đầu
 Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.   Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

2.  Bài Đọc
a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả cuộc thăm viếng của Đức Maria với người chị họ Isave.  Họ biết nhau.  Các bà có liên hệ họ hàng.  Tuy nhiên, trong cuộc gặp gỡ, họ khám phá ra trong người kia có một mầu nhiệm mà họ chưa biết và đổ đầy họ với niềm vui lớn lao.  Chúng ta có thường gặp được những người mà chúng ta quen biết, nhưng làm chúng ta ngạc nhiên vì sự khôn ngoan và sự chứng tá cho đức tin của họ không?  Chính vì Thiên Chúa đã tỏ mình ra và để cho chúng ta hiểu biết mầu nhiệm sự hiện diện của Người trong đời sống chúng ta.
Văn bản của bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng tuần này không bao gồm bài ca vịnh của Đức Maria (Lc 1:39-45) và mô tả sơ qua chuyến thăm viếng bà Isave của Đức Maria (Lc 1:39-45).  Trong phần bình luận ngắn gọn này, chúng tôi mạn phép bao gồm cả bài ca vịnh của Đức Maria bởi vì nó giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về ý nghĩa trải nghiệm của hai người phụ nữ trong giây phút của cuộc viếng thăm này.  Bài ca vịnh cho thấy những gì Đức Maria đã trải qua khi bà Isave chào đón Đức Mẹ đã giúp Mẹ cảm nhận được sự hiện diện của mầu nhiệm Thiên Chúa không chỉ ở trong con người của bà Isave, mà cũng còn ở trong chính đời sống Đức Mẹ và trong lịch sử dân tộc của bà.
Khi bạn đọc bài Tin Mừng, bạn hãy cố gắng chú ý điều sau đây:  “Những cử chỉ gì, lời nói gì và sự so sánh nào được thực hiện bởi Đức Maria và bà Isave để bày tỏ việc khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống của họ?

b)  Phần phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Lc 1:39-40:  Đức Maria rời nhà để đi thăm người chị họ Isave
Lc 1:41:  Khi bà Isave nghe thấy lời chào của Đức Maria, bà trải nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa
Lc 1:42-44:  Bà Isave chào đón Đức Maria
Lc 1:45:  Bà Isave ca ngợi Đức Maria
Lc 1:46-56:  Bài ca Ngợi Khen (Magnificat), bài ca vịnh của Đức Maria

c)  Tin Mừng:
39 Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. 40 Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Isave. 41 Và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần. 42 Bà kêu lớn tiếng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. 45 Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện.”
46 Bấy giờ bà Maria nói:  “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
48 Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
50 Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
54 Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người,
55 – như đã hứa cùng cha ông chúng ta – vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.”
56 Bà Maria ở lại với bà Isave độ ba tháng, rồi trở về nhà.

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.

a)  Điều gì trong bài Tin Mừng này đã làm bạn hài lòng nhất hoặc đánh động bạn nhất?  Tại sao?
b)  Những cử chỉ, lời nói và sự so sánh nào bày tỏ việc khám phá của bà Isave về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời bà và trong Đức Maria?
c)  Với những cử chỉ, lời nói và sự so sánh nào mà Đức Maria bày tỏ việc khám phá của mình về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời Mẹ, trong đời bà Isave và lịch sử dân tộc của Mẹ?
d)  Lý do cho sự vui mừng của cả hai người phụ nữ là gì?
e)  Biểu tượng gì của Cựu Ước được nhớ lại và được thực hiện trong việc mô tả chuyến viếng thăm này?
f)  Niềm vui sự hiện diện của Thiên Chúa xảy ra ở đâu và bằng cách nào trong đời tôi, trong gia đình tôi và trong cộng đoàn tôi?


5.  Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề
a)  Bối cảnh ngày xưa và ngày nay:  
Trong Tin Mừng Mátthêu, thời thơ ấu của Chúa Giêsu được tập trung vào hình ảnh thánh Giuse, cha nuôi của Chúa Giêsu.  Qua “thánh Giuse, chồng của Đức Maria” (Mt 1:16), Chúa Giêsu trở thành hậu duệ của vua Đavít, có thể làm hoàn thành lời đã được hứa với vua Đavít.  Mặt khác, theo Tin Mừng Luca, thời thơ ấu của Chúa Giêsu được tập trung vào con người của Đức Maria, “người đã đính hôn với Giuse” (Lc 1:27).  Luca không nói nhiều về Đức Maria, nhưng những gì ông nói thì rất sâu sắc và quan trọng.  Ông giới thiệu Đức Maria như là một mẫu mực đời sống cho các cộng đoàn Kitô hữu.  Chìa khóa để nhìn thấy Đức Maria trong phương diện này là những gì Chúa Giêsu nói với mẹ Người:  “Phúc thay cho những kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:28).  Trong phương cách mà Đức Maria liên kết với Lời Thiên Chúa, Luca coi đó là phương cách tốt nhất cho các cộng đoàn liên kết với Lời Thiên Chúa; lắng nghe, nhập tâm, đào sâu, suy gẫm, tái sinh và phát huy, cho phép mình được tràn ngập bởi lời ấy ngay cả khi người ta không hiểu nó hoặc khi nó mang lại đau khổ.  Đây là bối cảnh cho chương thứ nhất và thứ hai của sách Tin Mừng Luca khi nói về Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu.  Khi Luca nói về Đức Maria, ông đã nghĩ đến các cộng đoàn Kitô hữu vào thời ấy đã sống rải rác trong các thành phố của đế chế La Mã.  Đức Maria là mẫu mực cho cộng đoàn tín hữu.  Và, trung thành với truyền thống Kinh Thánh này, chương cuối cùng của “Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội” (Lumen Gentium) của Cộng Đồng Vatican II nói về Giáo Hội, trình bày Đức Maria như mẫu mực của Giáo Hội.
Chuyến viếng thăm bà Isave của Đức Maria cho thấy một khía cạnh điển hình khác của Luca.  Tất cả những lời nói, cử chỉ và hơn hết cả là bài ca vịnh của Đức Maria là một lễ cử hành trang trọng về sự ca ngợi.  Nó giống như lời mô tả của một nghi thức phụng vụ long trọng.
Bằng cách này, Luca tạo ra một bầu không khí đôi:  bầu không khí cầu nguyện mà trong đó Chúa Giêsu được sinh ra và lớn lên tại vùng đất Paléstin, và bầu không khí phụng vụ và nghi thức cử hành nội bộ mà các cộng đoàn Kitô hữu sống đức tin của họ.  Ông giảng dạy việc biến đổi chuyến thăm viếng của Thiên Chúa trở thành sự phục vụ anh chị em.

b)  Lời bình luận về văn bản:
Lc 1:39-40:  Đức Maria đi viếng bà Isave
Luca nhấn mạnh đến việc vội vàng ra đi của Đức Maria trong việc đáp lại sự đòi hỏi của Lời Chúa.  Thiên sứ báo tin cho Đức Mẹ rằng bà Isave đang mang thai, và ngay lập tức, Đức Maria bắt đầu cuộc hành trình của mình để xem thấy những gì thiên sứ đã nói với bà.  Đức Mẹ rời nhà đến giúp đỡ một người đang cần sự giúp đỡ.  Chặng đường từ Nagiarét lên đến miền núi vùng Giuđêa dài hơn 100 cây số.  Lúc ấy không có xe chở khách, không có xe lửa.  Đức Maria nghe Lời Chúa và thực hành lời ấy theo phương cách hiệu quả nhất.

Lc 1:41-44:  Lời chào của bà Isave
Bà Isave đại diện cho Cựu Ước, sắp đến lúc kết thúc; Đức Maria đại diện cho Tân Ước, sắp sửa bắt đầu.  Cựu Ước chào đón Tân Ước với lòng biết ơn và sự tự tin, nhận ra được món quà cho không của Thiên Chúa, được trao ban để thực hiện và đáp ứng lòng mong đợi của dân chúng.  Trong buổi gặp gỡ của hai người phụ nữ, món quà của Chúa Thánh Thần tự biểu hiện và khiến cho hài nhi trong bụng bà Isave vui mừng.
Tin Mừng của Thiên Chúa mặc khải sự hiện diện của Người trong những sự kiện tự nhiên phổ biến nhất, hai bà nội trợ thăm viếng nhau để giúp đỡ lẫn nhau.  Thăm viếng, niềm vui, thai nghén, con cái, giúp đỡ lẫn nhau, nhà cửa, gia đình:  Luca muốn các cộng đoàn (và chúng ta) nhìn thấy và khám phá ra sự hiện diện của Nước Trời trong những điều này.
Cho đến ngày nay, những lời của bà Isave vẫn là một phần của bài Thánh Vịnh nổi tiếng nhất và được đọc nhiều nhất trên toàn thế giới, kinh Kính Mừng.

Lc 1:45:  Bà Isave ca ngợi Đức Maria
“Phúc cho bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện”.  Đây là sứ điệp của Luca gửi đến các cộng đoàn:  niềm tin vào Lời Chúa có sức mạnh để mang lại những gì lời ấy nói. Chính Lời Chúa là lời tạo dựng.  Nó sinh ra sự sống mới trong cung lòng của một trinh nữ, trong cung lòng của những người nghèo khó và bị hắt hủi đã đón nhận với đức tin.  Lời bà Isave ca ngợi Đức Maria được hoàn thành khi Chúa Giêsu ca ngợi mẹ mình:  “Phúc thay cho những ai lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Lc 11:28).

Lc 1:46-56:  Bài ca vịnh của Đức Maria
Có lẽ là bài ca vịnh này đã được biết đến và được hát lên bởi các cộng đoàn Kitô hữu.  Nó dạy cho người ta phải cầu nguyện và hát như thế nào.  Nó cũng là một loại mẫu mực cho thấy mức độ hiểu biết của các cộng đoàn ở Hy Lạp mà Luca đã viết sách Tin Mừng cho họ.  Cho đến ngày nay, có thể đánh giá mức độ nhận thức của các cộng đoàn từ những bài thánh ca mà chúng ta nghe thấy và hát ở đó.

Lc 1:46-50:
Đức Maria bắt đầu bằng cách công bố sự thay đổi đã xảy ra trong đời mình dưới ánh mắt yêu thương của Thiên Chúa là Đấng đầy lòng thương xót nhất.  Vì vậy, Đức Mẹ đã hát lên một cách vui vẻ:  “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.  Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.  Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!  Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.”  Để hiểu được ý nghĩa của những ca từ rất nổi tiếng này, chúng ta cần nhớ rằng đây là một thiếu nữ rất trẻ, có lẽ 15 hay 16 tuổi, nhà nghèo, sống trong một ngôi làng xa xôi hẻo lánh tại đất Paléstin, miền biên giới, nhưng lại là người hiểu biết rõ ràng tình huống và sứ vụ của mình và của cả dân tộc mình.  Đức Maria bắt chước bài ca vịnh của bà Anna, mẹ của tiên tri Samuen (1Sm 2:1-10).

Lc 1:51-53:
Sau đó, Đức Maria ca tụng sự trung tín của Đức Chúa Trời đối với dân của Người và công bố sự thay đổi bằng sức mạnh của cánh tay Thiên Chúa được tác thành thiên về những người nghèo đói.  Thành ngữ “cánh tay của Thiên Chúa” gợi nhớ lại sự giải thoát trong sách Xuất Hành.  Sự thay đổi này diễn ra bởi ân sủng quyền năng cứu độ của Đức Chúa Trời:  Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng (1:51); Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường (1:52); kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng (1:53).  Ở đây, chúng ta thấy mức độ nhận thức về người nghèo vào thời Chúa Giêsu và thời các giáo đoàn của Luca đã hát bài ca vịnh này và có lẽ đã thuộc nó nằm lòng.  Rất nên so sánh bài ca vịnh này với các bài thánh ca mà các cộng đoàn hát trong nhà thờ ngày nay.  Chúng ta có nhận thức về chính trị và xã hội mà chúng ta tìm thấy trong bài ca vịnh của Đức Maria không?  Trong những năm 1970, vào thời kỳ các chế độ độc tài quân phiệt cầm quyền tại châu Mỹ Latinh, trong dịp cử hành lễ Phục Sinh, bài ca vịnh này đã bị nhóm quân phiệt kiểm duyệt bởi vì nó bị xem như mang tính chất phá hoại.  Cho đến ngày nay, nhận thức của Đức Maria, thân mẫu của Chúa Giêsu, vẫn còn là một điều bực bội lo lắng cho thế gian!

Lc 1:54-55:
Cuối cùng, bài ca vịnh nhắc nhớ chúng ta rằng tất cả những điều này là một biểu hiện của lòng thương xót Thiên Chúa đối với dân của Người và lòng trung thành của Người với lời hứa đã lập với Ápraham.  Tin Mừng không chỉ là một phần thưởng dành cho những người tuân giữ Lề Luật Môisen, mà cũng là một biểu hiện của sự tốt lành và lòng trung thành của Thiên Chúa với lời hứa của Người.  Đây là những gì thánh Phaolô giảng dạy trong những bức thư gửi cho các tín hữu ở Galát và ở Rôma.

c)  Phần phụ chú:

Tin Mừng Luca chương 1 và 2:  Kết thúc của thời Cựu Ước và bắt đầu của thời Tân Ước
Trong hai chương đầu tiên của sách Tin Mừng Luca, tất cả mọi việc xoay quanh sự ra đời của hai người:  Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu.  Hai chương này cung cấp cho chúng ta hương vị thú vị của Tin Mừng Luca.  Bầu không khí trong những chương ấy là lời ca ngợi và sự dịu dàng.  Từ đầu chí cuối, lòng thương xót của Thiên Chúa được ca ngợi và chúc tụng, lòng thương xót mà cuối cùng xảy ra để thực hiện những lời hứa của mình.  Những lời hứa này được hoàn thành trong sự chiếu cố người nghèo khó, kẻ cùng khốn (anawim), những người biết cách chờ đợi cho lời ứng nghiệm của họ:  bà Isave, ông Giacaria, Đức Maria, thánh Giuse, ông Simon, bà Anna, các mục đồng và ba vị đạo sĩ.
Hai chương đầu tiên của sách Tin Mừng Luca được nổi tiếng nhưng chỉ là bề ngoài.  Luca đã viết bắt chước theo Kinh Thánh Cựu Ước.  Dường như hai chương đầu sách Tin Mừng của ông là đoạn cuối cùng của Cựu Ước, do đó mở đường cho sự xuất hiện của Tân Ước.  Hai chương này là ngưỡng cửa giữa Cựu Ước và Tân Ước.  Luca muốn cho Thêôphilô thấy rằng những lời tiên tri đang được thực hiện.  Đức Giêsu hoàn thành Cựu Ước và bắt đầu Tân Ước.
Hai chương này của Tin Mừng Luca không phải là lịch sử trong sự hiểu biết về lịch sử của chúng ta ngày nay.  Chúng được dùng như là một tấm gương soi cho những người mà sách Tin Mừng được viết, các Kitô hữu dân ngoại mới theo đạo, khám phá ra rằng Đức Giêsu đến để làm viên mãn các lời tiên tri của Cựu Ước và để đáp ứng những khát vọng sâu xa nhất của tâm hồn con người.  Chúng cũng tượng trưng cho những gì đang xảy ra trong các giáo đoàn của họ vào thời Luca.  Các cộng đoàn bắt nguồn từ những người ngoại giáo sẽ được khai sinh từ những người Do Thái cải đạo.  Nhưng họ sẽ khác nhau.  Tân Ước không hoàn toàn tương ứng với những gì Cựu Ước đã hình dung và hy vọng.  Đó là một “dấu hiệu của sự mâu thuẫn” (Lc 2:34), đã tạo ra căng thẳng và là lý do của nỗi đau khổ.  Trong thái độ của Đức Maria, Luca trình bày một mô hình về cách để phản ứng và kiên trì trong Tân Ước.

6.  Cầu Nguyện với Thánh Vịnh 27 (26)
Chúa là ánh sáng của tôi, tôi còn sợ chi ai?
CHÚA là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi,
tôi còn sợ người nào?
CHÚA là thành lũy bảo vệ đời tôi,
tôi khiếp gì ai nữa?
Khi ác nhân xông vào, định nuốt sống thân tôi,
ai ngờ chính đối phương, chính những thù địch ấy,
lại lảo đảo té nhào.
Dù cả một đạo quân vây đánh, lòng tôi chẳng sợ gì.
Dù có phải lâm vào chiến trận, tôi vẫn cứ cậy tin.
Một điều tôi kiếm tôi xin,
là luôn được ở trong đền CHÚA tôi
mọi ngày trong suốt cuộc đời,
để chiêm ngưỡng CHÚA tuyệt vời cao sang,
ngắm xem thánh điện huy hoàng.
Ngày tôi gặp tai ương hoạn nạn,
Người che chở tôi trong lều thánh,
đem giấu tôi thật kín trong nhà,
đặt an toàn trên tảng đá cao.
Nên giờ đây tôi ngẩng đầu đắc ý,
nhìn quân thù vây bủa chung quanh.
Tôi sẽ dâng lễ tế trong thánh điện,
lễ tạ ơn, nhã nhạc vang lừng,
tôi sẽ đàn ca mừng kính CHÚA.
Lạy CHÚA, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu,
xin thương tình đáp lại!
Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan.
Lạy CHÚA, con tìm thánh nhan Ngài,
xin Ngài đừng ẩn mặt.
Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy,
chính Ngài là Đấng phù trợ con.
Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi,
lạy Thiên Chúa, Đấng cứu độ con.
Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa,
thì hãy còn có CHÚA đón nhận con.
Xin dạy con đường nẻo Ngài, lạy CHÚA,
dẫn con đi trên lối phẳng phiu,
vì có những người đang rình rập.
Xin đừng phó mặc con cho kẻ thù hung hãn,
vì lũ chứng gian đứng dậy tố con,
giương bộ mặt hằm hằm sát khí.
Tôi vững vàng tin tưởng
sẽ được thấy ân lộc CHÚA ban trong cõi đất dành cho kẻ sống.
Hãy cậy trông vào CHÚA, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!
Hãy cậy trông vào CHÚA.

7.  Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét