23/12/2018
Chúa Nhật tuần 4
Mùa Vọng năm C.
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật IV Mùa Vọng
- năm C
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG - C
(Mk 5,1-4a; Dt 10,5-10; Lc 1,39-48a)
(Mk 5,1-4a; Dt 10,5-10; Lc 1,39-48a)
MỘT THIÊN CHÚA ĐẾN VỚI CON NGƯỜI
“Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với
tôi thế này”
(Lc 1,43)
(Lc 1,43)
I.
CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài
đọc I (Mk 5,1-4a)
Mikha là vị ngôn sứ cùng thời với Amos, Hôsê và
Isaia (thế kỷ 8 tCN). Là người miền Giuđa, nhưng Mikha tuyên sấm cả ở Samaria
và Giêrusalem, thủ phủ miền Bắc và thủ phủ miền Nam.
Ngài lên tiếng tố cáo tội lỗi của Israel (miền Bắc)
và tiên báo về ngày sụp đổ của nó. Và thực tế Samaria bị quân Assiri chiếm đóng
năm 721 tCN.
Ngài còn tố cáo các thủ lãnh miền Giêrusalem
vì đã xây Sion bằng máu, dựng Giêrusalem bằng bất công; họ ỷ
vào Đức Chúa, và tự tin cho rằng: “Đức Chúa chẳng ở giữa chúng ta hay
sao?” (3,10-11).
Tuy vậy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Người, và
đã sai Mikha loan báo ơn cứu độ sắp đến. Sẽ xuất hiện một vị, nhưng không từ
Giêrusalem hay Samaria, những thủ phủ của Israel, vốn ngạo mạn và hư hỏng,
nhưng từ một miền quê nhỏ bé tên là Bétlêhem Ephrata, có nghĩa là màu mỡ hay phì
nhiêu. Đây cũng là quê hương của vua Đavít (1 Sm 16), người đã trị vì
toàn thể dân Israel năm xưa.
Đấng Cứu Thế sẽ trị vì Israel, sẽ cai trị tại
Giêrusalem, và sẽ đem lại hòa bình cho dân nước; những cuộc tranh chấp nội bộ
hay xâm lăng ngoại bang sẽ không còn.
Vì thế, vọng Giáng Sinh, hướng đến mừng cuộc sinh hạ
của Chúa Giêsu trong thời gian và mong đợi sự trở lại của Người trong ngày cánh
chung, đã làm rõ ý nghĩa lời ngôn sứ Mikha năm xưa (Mt 2,6; Lc 2,6; Ga 7,42).
2. Bài
đọc II (Dt 10,5-10)
Thư Do Thái khẳng định chức tư tế và những hy lễ xưa
cũ đều mang tính tạm thời. Việc các hy lễ theo Luật truyền được lặp lại mỗi
ngày là một bằng chứng cho thấy nó không mang lại ơn cứu độ.
Với việc Đức Giêsu đến trong trần gian, Người đã kiện
toàn một bước quyết định như đã nói trong Thánh Vịnh 40: “Chúa chẳng thích
gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa
không đòi, con liền thưa: “Này con xin đến!” Trong sách có lời chép về con, rằng:
con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của
con” (7-9).
Bước quyết định này của Chúa Giêsu trước hết là hy tế
thiêng liêng, là làm theo thánh ý Chúa Cha, và tiếp theo là chính hy lễ thân
mình Người, được kiện toàn trong mầu nhiệm Nhập thể - Cứu Chuộc.
Hy tế này bãi bỏ hy tế năm xưa, và có hiệu quả chung
cuộc, chỉ một lần là đủ và không cần lặp lại.
Các hy lễ trong Đền Thờ thường mang tính to lớn, vĩ
đại, và dễ tạo nên sự tự hào kiêu căng; trái lại, hy lễ Đức Giêsu là sự khiêm hạ
trong vâng phục thánh ý (Pl 2,6-8). Điều này cũng tương tự như hình ảnh trái
ngược được Mikha gợi ra, đó là giữa một Giêrusalem hùng vĩ với một Betlêhem nhỏ
bé, khiêm hạ.
3. Bài
Tin Mừng (Lc 1,39-48a)
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày một trích đoạn thật cảm
động và đầy ngạc nhiên: một thiếu nữ còn rất trẻ đã đính hôn và đang mang thai,
đã làm một cuộc hành trình dài (150 km) đến một làng hẻo lánh vùng núi tên là
Ein Karem - Giuđa, quê hương của Gioan Tẩy Giả và ở lại đó trong ba tháng.
Trình thuật mang nhiều ý nghĩa: đó là cuộc gặp gỡ giữa
Đấng Messia với các tín hữu đại diện cho Giao Ước cũ. Người khởi xướng cuộc gặp
gỡ này chính là Đức Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế. Đây là một cử chỉ diễn tả sự khiêm
hạ và nhưng không, rất tương hợp với tinh thần của Tin Mừng.
Tiếp rước Đức Maria ngay bậc thềm nhà mình là
Êlisabeth, vợ của vị tư tế Dacaria. “Cả hai ông bà đều là người công chính trước
mặt Thiên Chúa” (Lc 1,6). Vị tư tế, do bởi sự nghi nan của mình, đã bị câm,
nhưng người vợ thì đầy nguồn ơn linh hứng đã thực hiện một cử chỉ của niềm tin
đầu tiên vào Đức Kitô khi hân hoan tiếp rước Người. Theo cách thức này, chức tư
tế đã được nhìn nhận nơi Đức Kitô ngay trước khi Người sinh hạ. Cặp đôi của chức
tư tế trong Giao Ước cũ đã già và hiếm muộn, nhưng giờ đã có thể sinh con nhờ
công cuộc Đấng Messia.
Gioan Tẩy Giả, người lớn nhất trong các ngôn sứ, đã
nhảy lên do bởi niềm vui mà các ngôn sứ trước kia loan báo và hy vọng, và niềm
vui đó được kiện toàn hôm nay.
Như thế, chức tư tế và ngôn sứ của Giao Ước cũ, do
hai ông bà và Gioan Tẩy Giả đại diện, đã bị vượt qua và thành toàn nơi Đức
Giêsu qua sự tiếp nhận cuộc viếng thăm, trong đó, Đức Maria đã chủ động thông dự
vào hoa trái của cung lòng mình.
II. GỢI
Ý SUY NIỆM
1. Chúng ta đang chuẩn bị một kỳ lễ Giáng Sinh mới.
Liệu đây có phải là một ngày lễ được lặp lại giống như mọi năm hay là một cơ hội
để đổi mới thật sự cho mỗi chúng ta? Đâu là sự mới mẻ của kỳ Noel này? Thiên
Chúa luôn hoạt động và viết tiếp các trang sử; Thiên Chúa cũng luôn đến với mỗi
người chúng ta trong mọi phút giây; Người không ngừng thúc giục chúng ta bước
vào một thế giới mới; Người đã đến, đang đến và sẽ đến. Dấu chỉ của Hài Nhi
Giêsu không phải là những điều to lớn vĩ đại, mà qua những điều nhỏ bé khiêm hạ.
Trong lúc này, đâu là lời mời gọi mới mẻ mà ta nghe được trong kỳ lễ Giáng Sinh
năm nay?
2. Lễ Giáng Sinh không phải là một sản phẩm của con
người, nhưng là một hồng ân thiêng thánh; đây cũng không phải là một cuộc chinh
phục võ lực, nhưng là một lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện; đây là một
hành trình đến với của Thiên Chúa mà không phải là hành
trình đi ra của chúng ta. Chúng ta được mời gọi như thế nào
khi chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh? Chúng ta có như Đức Maria đã làm, đó là sẵn
sàng mở hết lòng đón rước hồng ân thánh, trong niềm tin vào lời hứa năm xưa, để Đấng
muốn đến được đến và ở lại trong đời
chúng ta?
3. Đức Maria đã chiếm một chỗ quan trọng trong phụng
vụ Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng. Bên cạnh thái độ ngoan ngùy sẵn sàng tuân
phục thánh ý Chúa và hân hoan chia sẻ ơn thánh với tha nhân, hình ảnh Mẹ cưu
mang Con Chúa khởi đi từ Nazarét làm hành trình tiến về Ein Karem, cách
Giêrusalem 8 Km, giúp ta gợi nhớ hình ảnh vua Đavít rước hòm bia Thiên Chúa về
Giêrusalem (2 Sm 6,1-11). Nếu như xưa kia, hòm bia Đức Chúa ở nhà ông Ovết Êđom
trong ba tháng và giáng phúc cho nhà ông, thì hôm nay, Đức Maria, với hòm bia
giao ước mới, đã ở lại nhà hai ông bà Dacaria và Êlizabéth và chúc lành cho hai
ông bà. Vì thế, đón chờ Chúa Giáng Sinh, chúng ta có sẵn sàng tiếp rước Mẹ
Maria cùng với Hài nhi Giêsu như là hòm bia Giao Ước mới vào bậc thềm của nhà
mình để Mẹ cùng với Chúa Giêsu ở lại với chúng ta và chúc lành cho chúng ta?
III.
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ
tế: Anh chị em thân mến! Qua mầu nhiệm Nhập Thể, Con Thiên Chúa đã đến
và ở cùng nhân loại để loan báo mùa hồng ân cứu độ. Với tâm tình biết ơn và cảm
mến, cộng đoàn chúng ta cùng khẩn khoản cầu xin:
1. Chúa trao cho Hội Thánh sứ mạng đem tin mừng cứu
độ đến cho gia đình nhân loại. Chúng ta cùng cầu xin cho các thành phần trong Hội
Thánh luôn nỗ lực trở nên dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa giữa thế giới hôm
nay.
2. Trên thế giới vẫn còn nhiều người đói khổ và
không được sống đúng với phẩm giá của mình. Chúng ta cùng cầu xin cho các nhà
lãnh đạo các quốc gia luôn quan tâm khích lệ và thể hiện tinh thần liên đới
chia sẻ trong cộng đồng.
3. Thiên Chúa mời gọi mọi người cộng tác vào công
trình cứu độ của Người. Chúng ta cùng cầu xin cho các kitô hữu luôn nhiệt tâm
tham gia vào sứ vụ cao cả ấy bằng lời cầu nguyện, gương lành và các việc bác
ái.
4. Ðức Maria là tấm gương đón nhận, cưu mang và trao
tặng Ngôi Lời. Chúng ta cùng cầu xin cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta biết
noi gương Mẹ chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh trong tinh thần khiêm tốn và dấn thân
phục vụ.
Chủ
tế: Lạy Chúa
là nguồn mạch niềm vui cứu độ, xin nhận lời chúng con tha thiết cầu nguyện, và
hướng dẫn chúng con luôn biết sống trọn niềm tin - cậy - mến trong khi hân hoan
đón mừng ngày Con Chúa ngự đến. Người là Thiên Chúa hằng sống hằng trị muôn đời.
Chủ đề :
Chúa sắp đến
Đức Maria đi viếng Bà Êlisabeth (Lc 1,39-45)
Sợi
chỉ đỏ :
Sau
tuần đầu tiên nói về ngày Chúa đến, tuần II kêu gọi hãy dọn đường cho Ngài và
tuần III kêu gọi hãy vui mừng vì ngày đó, Lời Chúa ngày hôm nay giới thiệu Đấng
sắp đến là ai : đó là Chúa Giêsu.
–
Trong bài đọc I (Mk 5,1-4), ngôn sứ Mikha cho biết Đấng sắp đến sẽ là người có
quê quán tại Bêlem Ephrata thuộc chi tộc Giuđa.
–
Trong bài Tin Mừng (Lc 1,39-45), Thánh Luca giới thiệu những người thân của
Ngài : Đức Maria và Bà Êlisabét.
– Và
trong bài đọc II (Dt 10,5-10), tác giả thư do thái ghi lại lời của Đấng Cứu Thế :
“Này con xin đến để thực thi ý Chúa”.
I.Dẫn
vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Chỉ
còn khoảng một tuần nữa thôi, chúng ta sẽ cử hành lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu.
Chúa sẵn sàng đến với những ai nhận thức mình cần Ngài. Vậy bây giờ chúng ta
hãy tới gần Ngài, mang theo tất cả những sự nghèo nàn thiêng liêng, những
thương tích và những tội lỗi của chúng ta.
II. Gợi
ý sám hối
– Lạy
Chúa, chúng con là những người yếu đuối hèn hạ. Xin Chúa thương xót chúng con.
– Lạy
Chúa, chúng con đầy dẫy tội lỗi. Xin Chúa thương xót chúng con.
– Lạy
Chúa, chúng con khổ sở nhiều mặt. Xin Chúa thương xót chúng con.
III.
Lời Chúa
- Bài đọc I (Mk
5,1-4)
Ngôn
sứ Mikha cho biết trước một số nét về Đấng cứu thế sẽ đến :
–
Ngài không xuất thân từ thủ đô Giêrusalem hay một thành phố lớn, nhưng từ một
thị trấn nhỏ bé khiêm nhường là Bêlem.
– Mặc
dù vậy, Ngài có sứ mạng thống lãnh Israel.
– Quyền
lực Ngài sẽ trải rộng ra đến tận cùng trái đất, chính Ngài sẽ đem lại hòa bình.
2.
Đáp
ca (Tv 89)
Bối cảnh
của Thánh vịnh này là đất nước do thái đang chia rẻ thành hai, Israel ở phía Bắc
và Giuđa ở phía Nam. Như vậy là đoàn chiên Chúa bị phân tán, và vườn nho Chúa
cũng tan hoang.
Tác
giả Thánh vịnh hình dung Đấng Messia là một mục tử, khi Ngài đến Ngài sẽ quy tụ
các chiên về thành một đoàn duy nhất ; và như một người chủ vườn trở lại
thăm nom và chăm sóc vườn nho cũ.
3.
Tin
Mừng (Lc 1,39-45)
Bài
Tin Mừng hôm nay cho biết về Mẹ Đấng cứu thế sắp sinh ra.
Thánh
Luca cố ý viết câu chuyện này giống với chuyện Đavít mang Hòm Bia về Giêrusalem
(2.Sm 6), để nói rằng Đức Maria chính là Hòm Bia Tân Ước. Sau đây là các chi tiết :
- Hòm Bia tiến về hướng
Giêrusalem, ghé nhà của ông Ôbed-Êdom. Maria đi từ Nagiarét theo hướng
Giêrusalem, ghé nhà Êlisabét.
- Đavít đã “kêu lên” rằng :
làm sao Hòm Bia của Chúa đến nhà tôi được. Êlisabét cũng “kêu lên” :
làm sao mà mẹ của Chúa tôi đến nhà tôi.
- Nhờ Hòm Bia ghé ở
nhà Ôbed-Êdom mà ông này được Thiên Chúa ban phúc. Đức Maria ghé nhà
Êlisabét khiến gia đình bà (kể cả thai nhi) được phúc.
- Hòm Bia ở nhà
Obed-Êđom 3 tháng ; Đức Maria cũng ở nhà Êlisabét 3 tháng (xem câu
56)
4.
Bài
đọc II (Dt 10,5-10)
Tác
giả thư Do thái thì hình dung Đấng Messia là một vị Thượng Tế và Chức thượng tế
của Ngài trổi vượt chức thượng tế Cựu Ước :
– Lễ
tế Ngài sẽ dâng lên không phải là lễ toàn thiêu hay lễ xá tội của Cựu Ước, mà
là chính thân thể Ngài và việc thực thi thánh ý Thiên Chúa.
– Lễ
tế ấy không cần phải dâng lên nhiều lần, mà một lần duy nhất có giá trị vĩnh cửu.
IV. Gợi
ý giảng
- Đức Mẹ và Lễ
Giáng Sinh
Lời
Chúa ngày Chúa nhật cuối Mùa Vọng luôn đề cao Đức Mẹ. Trong Chúa nhật thứ IV
năm nay, Đức Mẹ được mô tả là “người phụ nữ sinh con” (bài đọc I). Còn bài Tin
Mừng thì tường thuật việc Người đi thăm viếng Bà Êlisabét. Cũng như con của
mình, Đức mẹ là người “đến để thực thi ý Chúa” (bài đọc II). Gương Đức Mẹ có thể
giúp chúng ta biết cách chuẩn bị Lễ Giáng sinh.
a/ Đức
Mẹ luôn tin vào Lời Chúa, như nhận xét của Bà Êlisabét : “Em thật có phúc,
vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em”. Chuẩn bị Lễ
Giáng sinh là quan tâm đọc Lời Chúa và tin vào Lời ấy.
b/ Đức
Mẹ luôn vâng theo ý Chúa : Trong biến cố Truyền tin, Người đã thưa với
Thiên thần “Này tôi là tôi tớ Chúa, xin vâng”. Chuẩn bị lễ Giáng sinh là tỉnh
táo nhận ra ý Chúa đối với mình và cố gắng vâng theo.
c/ Đức
mẹ sẵn sàng giúp đỡ người khác : dù đường xá xa xôi, Đức Mẹ không ngại và
đến thăm để giúp đỡ Bà Êlisabét. Chuẩn bị lễ Giáng sinh là quan tâm đến người
khác và sẵn sàng giúp đỡ họ.
2.
Thăm
viếng
a/
Viếng thăm là một hành động biểu lộ tình thương
Vừa
nghe sứ thần truyền tin cho biết bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, Maria
liền vội vã lên đường đến thăm bà. Bà Ê-li-sa-bét sống ở miền
núi, chắc chắn cuộc hành trình của Maria lên miền núi để thăm người bà con
không tránh được mệt nhọc, vất vả.
Chắc
chắn việc Đức Maria đến thăm bà Ê-li-sa-bét là do sự thúc đẩy của yêu thương.
Ngài không đến thăm thì bà Ê-li-sa-bét chẳng trách Ngài được, lý do là bà ấy
đâu biết rằng Ngài biết bà mang thai. Vả lại chính Ngài cũng đang mang thai, mà
đường xá lại xa xôi. Chính tình thương đã thúc đẩy Ngài đi, vì Ngài rất giàu
tình thương. Và cũng chính vì giàu tình thương mà Ngài xứng đáng làm Mẹ của
Chúa Giêsu, là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.
Tình
yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín,
không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tương
tự như lời thánh Giacôbê : «Đức tin không có việc làm là đức tin
chết» (Gc 2, 26). Cũng vậy, tình yêu không việc làm, không được biểu lộ
là tình yêu chết. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc,
năng tìm cách gặp gỡ người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc
hơn. Câu tục ngữ «Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội,
cửu thập đèo cũng qua» có nghĩa như thế !
Tình
yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có
chuyện vui hoặc buồn. Đức Phật nói : «Yêu mà không được ở gần nhau
thì sẽ đau khổ». Tục ngữ có câu : «Nhất nhật bất kiến như
tam thu hề !». Vì thế, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích
thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau. Vì thế, chúng ta hãy năng thăm viếng những
người chúng ta yêu mến. Mà đã là người Kitô hữu, tất nhiên chúng ta có rất nhiều
người mình phải yêu mến, nhất là những người lâm cảnh đau khổ, túng thiếu, những
người lâm vào thế kẹt, những người cần chúng ta tới thăm viếng hơn cả. Đến thăm
nhau là một cách tuyệt vời để biểu lộ tính gia đình, tình huynh đệ, tình yêu
thương của Kitô giáo.
b/
Đến thăm để đem Chúa đến cho người mình thương
Khi Đức
Maria đến thăm bà Ê-li-sa-bét, thì Ngài cũng đem Chúa đến cho bà ấy. Nhờ Đức
Maria mang Chúa đến, nên không chỉ bà Ê-li-sa-bét vui mừng, mà hài nhi trong bụng
Bà cũng vui mừng theo, đến nỗi phải «nhảy lên» trong bụng mẹ.
Và chắc chắn cũng chính vì Đức Maria mang Chúa đến, mà niềm vui của bà
Ê-li-sa-bét và hài nhi mới tăng lên một cách lạ thường như thế. Sự hiện diện của
Đức Maria cùng với bào thai Giêsu còn biến đổi hai mẹ con bà Ê-li-sa-bét, khiến
hai người được tràn đầy Thánh Thần, và nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa
nơi Đức Maria, đồng thời tin vào Thiên Chúa vững mạnh hơn.
Đến
thăm không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn
là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa
đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được
Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa
trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện, chứ không phải
ta.
Đem
Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật
hay về Chúa cho họ nghe. Rất nhiều người nói về Chúa rất nhiều rất hay, nhưng
thật sự không mang Chúa trong mình. Chúa là tình thương, mình chỉ mang Chúa đến
cho họ, khi chính mình yêu thương họ thật sự, bằng một tình yêu chân thực. Đức
Maria có nói gì về Chúa với bà Ê-li-sa-bét đâu ! Mình chỉ mang Chúa đến
cho họ, khi mình đến với họ với ý muốn làm hiện thân của Chúa.
c/
Hãy là hiện thân của Chúa khi đi thăm viếng
Thiên
Chúa vì yêu thương nhân loại vô cùng, nên Ngài đã đến với con người trong lịch
sử, cách đây 2000 năm, để cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng
người. Khi còn tại thế, Ngài đã đến thăm nhiều người, săn sóc nhiều người, cải
hóa nhiều người, biểu lộ tình yêu thương cho nhiều người. Nhưng vì nhập thể làm
người, Ngài bị giới hạn trong không gian và thời gian, Ngài chỉ sống tại thế có
33 năm, chỉ quanh quẩn trong đất nước Do Thái, và chỉ có thể tiếp xúc được với
một số rất ít người. Nhưng tình yêu vô biên phổ quát của Ngài khiến Ngài muốn
tiếp xúc với tất cả mọi người trên trần gian, để phục vụ, săn sóc họ, từng người
một. Ngài không thể làm điều đó bằng chính thân xác của Ngài. Vì thế, Ngài muốn
nhờ chính chúng ta làm điều ấy. Ngài muốn trở thành chính bản thân chúng ta để
làm những công việc ấy, và chúng ta có thể giúp Ngài được toại nguyện ý đó.
Ngài
muốn dùng chính bản thân chúng ta để thăm viếng những người chúng ta quen biết,
yêu thương. Ngài muốn an ủi, vỗ về, khuyến khích, khuyên lơn, cảnh tỉnh họ bằng
miệng lưỡi của ta. Ngài muốn săn sóc, làm việc phục vụ họ bằng chính bàn tay của
ta. Ngài muốn yêu thương họ bằng chính trái tim của ta. Ngài muốn quan tâm tới
họ bằng chính tâm trí của ta. Qua ta, Ngài muốn biểu lộ tình thương vô biên của
Ngài cho họ. Muốn thế, Ngài mong muốn ta trở thành hiện thân của yêu thương, thứ
yêu thương bằng hành động chứ không phải chỉ bằng lời nói. Ta có là hiện thân của
tình thương, thì ta mới trở nên hiện thân của Ngài. Và chính lúc ấy, ý muốn của
Ngài là yêu thương phục vụ họ mới được thỏa mãn hoàn toàn.
Vấn đề
là ta có muốn trở nên hiện thân của Ngài hay không. Ngài không bao giờ muốn ép
buộc ta, thúc bách ta, nhưng luôn luôn mời gọi ta. Ta có nghe thấy tiếng Ngài mời
gọi không ? Nếu có, hãy đáp lại lời mời ấy một cách quảng đại. Đó là cách
chứng tỏ cụ thể nhất rằng ta yêu mến Ngài. Yêu mến Ngài thì phải yêu thương giống
như Ngài, chứ không phải yêu Ngài bằng cách dâng lên Ngài thật nhiều thánh lễ,
đọc thật nhiều kinh kệ, và quỳ hàng giờ trước nhà tạm. Nếu ta yêu Ngài thật sự,
thì hãy yêu Ngài, phục vụ Ngài trong những người anh chị em gần gũi ta.
Ngài
đã chẳng từng nói : «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : “Lạy
Chúa ! Lạy Chúa !” là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ những
ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà
thôi !» (Mt 7,21). Mà ý muốn của Thiên Chúa la : «Thầy
ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em» (Ga 13,34). Về việc dâng quá nhiều lễ tế, đọc kinh kệ quá
nhiều mà thiếu lòng yêu thương nhau, Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia để
nói lên sự chán ngấy của Ngài : «Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với
Ta nào nghĩa lý gì ? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bò mập, Ta đã ngấy (…)
Thôi đừng đem những lễ vật vô ích ấy đến nữa. Ta ghê tởm khói hương, ta chịu
không nổi những ngày đầu tháng, những ngày sabát, ngày đại lễ, không chịu nổi
những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình (…) Khi các ngươi dang
tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn, vì tay các ngươi đầy những máu…» (Is
1,11-15 ; xem bài đọc 2 được nêu ở trên). Chỉ có tình yêu đích thực mới
làm Chúa hài lòng !
***
Lạy
Chúa, xin giúp con trở thành hiện thân của Chúa để giúp Chúa phục vụ mọi người
qua chính bản thân của con. Xin cho con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và
nhu cầu của từng người sống chung quanh con. Xin giúp con biết hy sinh thì giờ
cho dù rất quí báu của con để năng đến gặp gỡ họ, thăm viếng họ, hầu nhờ đó
thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của họ. Xin giúp con biết sẵn sàng
chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ.
Amen. (Nguyễn
chính Kết)
3.
Maria
dám tin
Một
doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người : ông
cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Đại
khái nội dung của bích chương loan báo : Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn
phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g đến 12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ
nhiên, mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một
trò đùa.
Đúng
ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ trôi qua mà không
thấy người nào đến. Mãi tới 11 giờ mới có một người đàn ông rụt rè đến… Doanh
nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng
đến. Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi
hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn.
Lời hứa
của doanh nhân trong câu chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính
vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Đức Maria, trái lại, Mẹ đã
dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét
nói : “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì
Người đã nói với em ” (Lc 1,4 5).
Tin
là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.
Tin
là để cho chương trình cứu độ của Người đảo lộn chương trình sống của chúng ta.
Tin
là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.
Trước
khi thưa lời “Xin Vâng”, Đức Maria đã có chương trình của Mẹ là sẽ
sống đời đôi bạn với thánh Giuse (Lc 1,27). Và qua lời “Xin Vâng” Mẹ
đã chấp nhận hoàn toàn để cho Thiên Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để
cho Người đảo lộn chương trình sống, và cùng Người bước vào một cuộc mạo hiểm với
trọn niềm tin yêu phó thác.
Mẹ ra
đi mà không biết mình đi đâu, chỉ biết ra đi theo sự hướng dẫn của Chúa.
Mẹ đã
đi từ bước phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác : Từ việc hạ sinh Con
Thiên Chúa cách đơn nghèo, cho đến khi lạc mất con trong đền thánh ; từ những
lời cứng cỏi của con ở Cana và Caphanaum cho đến khi gặp con dưới chân thập
giá.
Mẹ
đã “Suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19) vì những kỷ niệm ấy
quả là khó hiểu dưới con mắt loài người.
Mẹ xứng
đáng là Mẹ Đấng Cứu thế vì mẹ đã dám tin vào lời Chúa và để Chúa thay đổi cuộc
đời mình theo chương trình cứu độ của Người.
Mẹ thật
diễm phúc vì Mẹ đã chấp nhận lên đường làm một cuộc phiêu lưu với Chúa trong
tin yêu và phó thác : “Xin Chúa làm cho tôi như lời
Ngài nói” (Lc 1,38).
Chính
vì Mẹ diễm phúc mà lòng Mẹ đã là mái ấm đầu tiên, là Đền Thánh cho Con Thiên
Chúa ngự trước khi bước vào cuộc đời.
Chính
vì Mẹ là Đền Thánh nên đấng Thánh trong lòng Mẹ đã thánh hoá Gioan trong cuộc hạnh
ngộ đầy linh thánh.
Chính
vì cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh giữa Mẹ và bà chị họ, mà Thánh Thần đã linh ứng
cho bà nhận ra điều mắt thường không thể thấy, đó là chuyện cô em Maria thụ
thai Đấng Cứu Thế.
Chính
vì niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của Êlisabét đã khiến Mẹ cảm nhận thật
sâu xa hồng ân cao cả, và lời ngợi ca Thiên Chúa đã vỡ oà trên bờ môi hạnh phúc
trong lời kinh Magnificat (x. Lc 1,46-54).
Vâng,
chính cuộc sống tin yêu và phó thác của Mẹ đã tuôn chảy dòng sông của ân phúc,
cuộc sống ấy đang toả hương thơm cửa thiên đàng.
Lạy
Chúa, Chúa đã đoái thương tuyển chọn Đức Ma ria và bà Êlisabét, đã cho các ngài
mang thai cách diệu kỳ, để hạ sinh Đấng Cứu Thế và vị Tiền Hô của Người.
Xin
cho chúng con biết noi gương Mẹ : Tin vào lời Chúa và chương trình cứu độ
của Người. Xin cho chúng con biết ngoan ngoãn để Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng
con với trọn niềm tin tưởng mến yêu. Amen. (TP)
4.
“Em
có phúc vì đã tin”
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Bà Êlisabét nói với Đức Maria : “Em có phúc vì đã
tin”. Tin và hạnh phúc, đó là hai điều liên hệ chặt chẽ với nhau, một liên hệ
nhân quả. Chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều bằng chứng trong các sách Tin Mừng :
–
“Chúa Giêsu nói với viên đại đội trưởng rằng : Ông cứ về đi. Ông tin thế
nào thì được như vậy. Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh” (Mt 8,13)
–
Chúa Giêsu quay lại nói với người đàn bà bị băng huyết : “Này con, cứ yên
tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con”. Và ngay từ giờ ấy, bà được cứu chữa (Mt
9,22)
–
Chúa Giêsu nói với hai người mù đi theo Ngài “Các anh có tin là tôi làm được điều
ấy không ?” Họ đáp “Thưa Ngài chúng tôi tin”. Bấy giờ Ngài sờ vào mắt họ
và nói “Các anh tin thế nào thì được như vậy”. Mắt họ liền mở ra. (Mt 9,28-29)
Chúng
ta có thể nói chủ đề chính của Tin Mừng là hạnh phúc cho những kẻ tin. Tất cả
những lời Chúa Giêsu giảng dạy là nhằm khơi lên đức tin trong lòng người nghe.
Tuy nhiên, chỉ tin thôi thì chưa đủ mà còn phải làm theo như mình tin. Người ta
nói ma quỷ cũng tin Chúa đó, nhưng nó không làm theo ý Chúa.
Đức
tin không biến cuộc sống của ta thành dễ dàng. Ngược lại là đàng khác, vì tin
đòi hỏi chúng ta phải chiến đấu, phải kiên trì.
Đức
Maria được chúc phúc vì Người không chỉ tin mà còn hành động theo điều Người
tin. Ngay sau khi được Thiên sứ viếng thăm, Người đã vội vàng đi thăm viếng Bà
Êlisabét. Qua đó, chúng ta thấy rằng sống đạo không phải chỉ là tin suông mà
còn phải thể hiện đức tin bằng việc làm.
Lễ
Giáng sinh có thể giúp ích chúng ta rất nhiều trong đức tin, vì dù sao trong dịp
này chúng ta cũng thấy Chúa gần gũi với mình hơn những lúc khác. Nhưng cốt lõi
của sứ điệp Giáng sinh là Con Thiên Chúa đã nhập thể trong một đứa trẻ nghèo
nàn yếu ớt. Trong lễ Giáng sinh đầu tiên, có những người đã tin vào điều ấy, và
cũng có những người không tin. Nhưng chỉ những người tin mới được chúc phúc.
(FM)
5.
Chúa
Giáng sinh mang lại gì mới ?
Người
ta thích những điều mới. Một món hàng mới xuất hiện trên thị trường, người ta đổ
xô đi mua. Một thời gian sau, món đồ ấy không còn mới nữa, người ta nhàm chán.
Thế là nhà sản xuất phải nghĩ ra cái khác mới hơn. Hiện tượng này cho thấy 2 điều :
một là khuynh hướng thích cái mới thúc đẩy sự tiến bộ ; hai là cái gì mới
rồi cũng sẽ cũ đi.
Có
cái gì vẫn luôn luôn mới chứ không bao giờ cũ không ? Nếu có cái đó thì
cái đó mới là cái thực sự mới.
Đó
chính là cái mà Chúa Giáng sinh mang lại. Đó là tình yêu hiến dâng. Chúa đến
trong lòng Đức mẹ. Lòng Đức Mẹ đổi mới. Đức Mẹ lập tức mang điều mới mẻ đó trao
ban cho Bà Êlisabét.
Trong
số những điều mới mẻ trên thế giới và trong Giáo Hội, những cái vẫn còn mới và
tồn tại mãi qua dòng thời gian chính là những thứ giúp phát triển tình yêu và sự
dâng hiến. Chúa Giêsu giáng sinh là người đầu tiên mang điều mới mẻ ấy cho nhân
loại.
6.
Lời
nguyện Mùa Vọng
Lạy
Chúa Giêsu, xin hãy đến
Xin
hãy bước vào những yếu đuối của chúng con
Xin
hãy bước vào những nỗi sợ hãi của chúng con
Xin
hãy bước vào những lo lắng của chúng con
Xin
hãy bước vào những thất bại của chúng con
Xin
hãy bước vào những chia rẻ của chúng con
Xin
hãy bước vào những buồn phiền của chúng con
Xin
hãy bước vào những cô đơn của chúng con
Xin
hãy bước vào những bóng tối của chúng con
Xin
hãy bước vào những hoài nghi của chúng con
Xin
hãy bước vào những thất vọng của chúng con
Xin
hãy bước vào những nghèo hèn của chúng con
Xin
hãy bước vào cuộc tìm kiếm của chúng con
Xin
hãy bước vào những niềm vui và hy vọng của chúng con
Xin
hãy bước vào cuộc hấp hối của chúng con.
Lạy
Chúa Giêsu, xin hãy đến
V. Lời
nguyện cho mọi người
Chủ tế :
Anh chị em thân mến, thật hạnh phúc cho những ai biết tin tưởng vào Thiên Chúa
là Đấng toàn năng và là Cha nhân ái. Trong niềm hân hoan vì Ngôi Hai Thiên Chúa
sắp ngự đến, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
- Hội thánh cần những
mục tử tài đức và thánh thiện để hướng dẫn Dân Chúa / Chúng ta hiệp lời
cầu xin Chúa ban cho Hội thánh / luôn có nhiều mục tử như lòng ước
mong.
- Cùng với Đức
Trinh Nữ Maria / nhiều sứ giả của tình thương đã vội vã lên đường /
đem niềm vui cho những người sầu khổ / đem ủi ban cho những ai đang gặp
bế tắc trong cuộc sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa giữ gìn những
anh chị em đang dấn thân phục vụ tha nhân / luôn được an lành.
- Hiện nay /
có rất nhiều bạn trẻ đang tích cực cộng tác với các vị mục tử / trong
việc dạy giáo lý cho các em thiếu nhi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho
các giáo lý viên / tìm được niềm vui trong công việc cao quý này.
- Đức tin không việc
làm là đức tin chết / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ
chúng ta / biết thể hiện niềm tin sống động của mình / bằng việc
luôn vâng theo thánh ý Chúa / hết lòng phó thác và tận tụy phục vụ
như Đức Maria.
Chủ tế :
Lạy Chúa, ngày xưa Đức Trinh Nữ Maria đã vội vã lên đường mang Chúa Giêsu đến
cho người khác ; ngày nay, xin Chúa cho chúng con cũng biết noi gương Người
mà nhiệt tình đem Chúa đến cho anh chị em chúng con, bằng chính đời sống thấm
nhuần tinh thần Tám Mối Phúc thật của chúng con. Chúng con cầu xin
VI.Trong
Thánh Lễ
–
Trước kinh Lạy Cha :
Chúa Cha đã yêu thương chúng ta đến nỗi sai Con Một của Ngài sinh xuống trần
gian để sống với chúng ta và cứu chuộc chúng ta. Chúng ta hãy dâng lên Ngài tâm
tình tạ ơn sốt mến.
VII.
Giải tán
Còn
vài ngày nữa là đến lễ Giáng sinh. Anh Chị Em hãy tích cực chuẩn bị đón Chúa, bằng
cách cầu nguyện nhiều hơn và sống bác ái với tha nhân hơn.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật IV Mùa Vọng
(C)
Chủ
Nhật 23 Tháng Mười Hai, 2018
Cuộc
thăm viếng của Đức Maria với bà Isave
Thiên
Chúa tỏ mình ra trong những việc đơn sơ nhất
Lc
1:39-45
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí
Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các
môn đệ trên đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết
trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của
Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây
thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của
sự sống và sự sống lại.
Xin
hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa
trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày
và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.
Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau,
chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những
người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình
anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức
Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến
với chúng con. Amen.
2.
Bài Đọc
a)
Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Bài
Tin Mừng hôm nay mô tả cuộc thăm viếng của Đức Maria với người chị họ
Isave. Họ biết nhau. Các bà có liên hệ họ
hàng. Tuy nhiên, trong cuộc gặp gỡ, họ khám phá ra trong người kia
có một mầu nhiệm mà họ chưa biết và đổ đầy họ với niềm vui lớn
lao. Chúng ta có thường gặp được những người mà chúng ta quen biết,
nhưng làm chúng ta ngạc nhiên vì sự khôn ngoan và sự chứng tá cho đức tin của họ
không? Chính vì Thiên Chúa đã tỏ mình ra và để cho chúng ta hiểu biết
mầu nhiệm sự hiện diện của Người trong đời sống chúng ta.
Văn bản
của bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng tuần này không bao gồm bài ca vịnh của
Đức Maria (Lc 1:39-45) và mô tả sơ qua chuyến thăm viếng bà Isave của Đức Maria
(Lc 1:39-45). Trong phần bình luận ngắn gọn này, chúng tôi mạn phép
bao gồm cả bài ca vịnh của Đức Maria bởi vì nó giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về
ý nghĩa trải nghiệm của hai người phụ nữ trong giây phút của cuộc viếng thăm
này. Bài ca vịnh cho thấy những gì Đức Maria đã trải qua khi bà
Isave chào đón Đức Mẹ đã giúp Mẹ cảm nhận được sự hiện diện của mầu nhiệm Thiên
Chúa không chỉ ở trong con người của bà Isave, mà cũng còn ở trong chính đời sống
Đức Mẹ và trong lịch sử dân tộc của bà.
Khi bạn
đọc bài Tin Mừng, bạn hãy cố gắng chú ý điều sau đây: “Những cử chỉ
gì, lời nói gì và sự so sánh nào được thực hiện bởi Đức Maria và bà Isave để
bày tỏ việc khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống của họ?
b)
Phần phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Lc
1:39-40: Đức Maria rời nhà để đi thăm người chị họ Isave
Lc
1:41: Khi bà Isave nghe thấy lời chào của Đức Maria, bà trải nghiệm
sự hiện diện của Thiên Chúa
Lc 1:42-44: Bà
Isave chào đón Đức Maria
Lc
1:45: Bà Isave ca ngợi Đức Maria
Lc
1:46-56: Bài ca Ngợi Khen (Magnificat), bài ca vịnh của Đức
Maria
c)
Tin Mừng:
39 Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra
đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. 40 Bà vào nhà
ông Giacaria và chào bà Isave. 41 Và khi bà Isave nghe lời
chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Isave được đầy Chúa
Thánh Thần. 42 Bà kêu lớn tiếng rằng: “Bà được chúc phúc
giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa
tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy
mừng trong lòng tôi. 45 Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời
Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện.”
46 Bấy giờ bà Maria
nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
48 Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
50 Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
54 Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người,
55 – như đã hứa cùng cha ông chúng ta – vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.”
56 Bà Maria ở lại với bà Isave độ ba tháng, rồi trở về nhà.
47 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
48 Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
50 Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
54 Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người,
55 – như đã hứa cùng cha ông chúng ta – vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.”
56 Bà Maria ở lại với bà Isave độ ba tháng, rồi trở về nhà.
3.
Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời
Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4.
Một vài câu hỏi gợi ý
Để
giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.
a) Điều gì trong bài Tin Mừng này đã
làm bạn hài lòng nhất hoặc đánh động bạn nhất? Tại sao?
b) Những cử chỉ, lời nói và sự so sánh nào
bày tỏ việc khám phá của bà Isave về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời bà
và trong Đức Maria?
c) Với những cử chỉ, lời nói và sự so sánh
nào mà Đức Maria bày tỏ việc khám phá của mình về sự hiện diện của Thiên Chúa
trong đời Mẹ, trong đời bà Isave và lịch sử dân tộc của Mẹ?
d) Lý do cho sự vui mừng của cả hai người
phụ nữ là gì?
e) Biểu tượng gì của Cựu Ước được nhớ lại
và được thực hiện trong việc mô tả chuyến viếng thăm này?
f) Niềm vui sự hiện diện của Thiên Chúa xảy
ra ở đâu và bằng cách nào trong đời tôi, trong gia đình tôi và trong cộng đoàn
tôi?
5.
Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề
a)
Bối cảnh ngày xưa và ngày nay:
Trong
Tin Mừng Mátthêu, thời thơ ấu của Chúa Giêsu được tập trung vào hình ảnh thánh
Giuse, cha nuôi của Chúa Giêsu. Qua “thánh Giuse, chồng của Đức
Maria” (Mt 1:16), Chúa Giêsu trở thành hậu duệ của vua Đavít, có thể làm hoàn
thành lời đã được hứa với vua Đavít. Mặt khác, theo Tin Mừng Luca,
thời thơ ấu của Chúa Giêsu được tập trung vào con người của Đức Maria, “người
đã đính hôn với Giuse” (Lc 1:27). Luca không nói nhiều về Đức Maria,
nhưng những gì ông nói thì rất sâu sắc và quan trọng. Ông giới thiệu
Đức Maria như là một mẫu mực đời sống cho các cộng đoàn Kitô hữu. Chìa
khóa để nhìn thấy Đức Maria trong phương diện này là những gì Chúa Giêsu nói với
mẹ Người: “Phúc thay cho những kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên
Chúa” (Lc 11:28). Trong phương cách mà Đức Maria liên kết với Lời
Thiên Chúa, Luca coi đó là phương cách tốt nhất cho các cộng đoàn liên kết với
Lời Thiên Chúa; lắng nghe, nhập tâm, đào sâu, suy gẫm, tái sinh và phát huy,
cho phép mình được tràn ngập bởi lời ấy ngay cả khi người ta không hiểu nó hoặc
khi nó mang lại đau khổ. Đây là bối cảnh cho chương thứ nhất và thứ
hai của sách Tin Mừng Luca khi nói về Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu. Khi
Luca nói về Đức Maria, ông đã nghĩ đến các cộng đoàn Kitô hữu vào thời ấy đã sống
rải rác trong các thành phố của đế chế La Mã. Đức Maria là mẫu mực
cho cộng đoàn tín hữu. Và, trung thành với truyền thống Kinh Thánh
này, chương cuối cùng của “Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội” (Lumen Gentium)
của Cộng Đồng Vatican II nói về Giáo Hội, trình bày Đức Maria như mẫu mực của
Giáo Hội.
Chuyến
viếng thăm bà Isave của Đức Maria cho thấy một khía cạnh điển hình khác của
Luca. Tất cả những lời nói, cử chỉ và hơn hết cả là bài ca vịnh của
Đức Maria là một lễ cử hành trang trọng về sự ca ngợi. Nó giống như
lời mô tả của một nghi thức phụng vụ long trọng.
Bằng
cách này, Luca tạo ra một bầu không khí đôi: bầu không khí cầu nguyện
mà trong đó Chúa Giêsu được sinh ra và lớn lên tại vùng đất Paléstin, và bầu
không khí phụng vụ và nghi thức cử hành nội bộ mà các cộng đoàn Kitô hữu sống đức
tin của họ. Ông giảng dạy việc biến đổi chuyến thăm viếng của Thiên
Chúa trở thành sự phục vụ anh chị em.
b)
Lời bình luận về văn bản:
Lc
1:39-40: Đức Maria đi viếng bà Isave
Luca
nhấn mạnh đến việc vội vàng ra đi của Đức Maria trong việc đáp lại sự đòi hỏi của
Lời Chúa. Thiên sứ báo tin cho Đức Mẹ rằng bà Isave đang mang thai,
và ngay lập tức, Đức Maria bắt đầu cuộc hành trình của mình để xem thấy những
gì thiên sứ đã nói với bà. Đức Mẹ rời nhà đến giúp đỡ một người đang
cần sự giúp đỡ. Chặng đường từ Nagiarét lên đến miền núi vùng Giuđêa
dài hơn 100 cây số. Lúc ấy không có xe chở khách, không có xe lửa. Đức
Maria nghe Lời Chúa và thực hành lời ấy theo phương cách hiệu quả nhất.
Lc
1:41-44: Lời chào của bà Isave
Bà
Isave đại diện cho Cựu Ước, sắp đến lúc kết thúc; Đức Maria đại diện cho Tân Ước,
sắp sửa bắt đầu. Cựu Ước chào đón Tân Ước với lòng biết ơn và sự tự
tin, nhận ra được món quà cho không của Thiên Chúa, được trao ban để thực hiện
và đáp ứng lòng mong đợi của dân chúng. Trong buổi gặp gỡ của hai
người phụ nữ, món quà của Chúa Thánh Thần tự biểu hiện và khiến cho hài nhi
trong bụng bà Isave vui mừng.
Tin Mừng
của Thiên Chúa mặc khải sự hiện diện của Người trong những sự kiện tự nhiên phổ
biến nhất, hai bà nội trợ thăm viếng nhau để giúp đỡ lẫn nhau. Thăm
viếng, niềm vui, thai nghén, con cái, giúp đỡ lẫn nhau, nhà cửa, gia
đình: Luca muốn các cộng đoàn (và chúng ta) nhìn thấy và khám phá ra
sự hiện diện của Nước Trời trong những điều này.
Cho đến
ngày nay, những lời của bà Isave vẫn là một phần của bài Thánh Vịnh nổi tiếng
nhất và được đọc nhiều nhất trên toàn thế giới, kinh Kính Mừng.
Lc
1:45: Bà Isave ca ngợi Đức Maria
“Phúc
cho bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện”. Đây
là sứ điệp của Luca gửi đến các cộng đoàn: niềm tin vào Lời Chúa có
sức mạnh để mang lại những gì lời ấy nói. Chính Lời Chúa là lời tạo dựng. Nó
sinh ra sự sống mới trong cung lòng của một trinh nữ, trong cung lòng của những
người nghèo khó và bị hắt hủi đã đón nhận với đức tin. Lời bà Isave
ca ngợi Đức Maria được hoàn thành khi Chúa Giêsu ca ngợi mẹ
mình: “Phúc thay cho những ai lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa”
(Lc 11:28).
Lc
1:46-56: Bài ca vịnh của Đức Maria
Có lẽ
là bài ca vịnh này đã được biết đến và được hát lên bởi các cộng đoàn Kitô hữu. Nó
dạy cho người ta phải cầu nguyện và hát như thế nào. Nó cũng là một
loại mẫu mực cho thấy mức độ hiểu biết của các cộng đoàn ở Hy Lạp mà Luca đã viết
sách Tin Mừng cho họ. Cho đến ngày nay, có thể đánh giá mức độ nhận
thức của các cộng đoàn từ những bài thánh ca mà chúng ta nghe thấy và hát ở đó.
Lc
1:46-50:
Đức
Maria bắt đầu bằng cách công bố sự thay đổi đã xảy ra trong đời mình dưới ánh mắt
yêu thương của Thiên Chúa là Đấng đầy lòng thương xót nhất. Vì vậy,
Đức Mẹ đã hát lên một cách vui vẻ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ
tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm
phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người
thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những
ai kính sợ Người.” Để hiểu được ý nghĩa của những ca từ rất nổi tiếng
này, chúng ta cần nhớ rằng đây là một thiếu nữ rất trẻ, có lẽ 15 hay 16 tuổi,
nhà nghèo, sống trong một ngôi làng xa xôi hẻo lánh tại đất Paléstin, miền biên
giới, nhưng lại là người hiểu biết rõ ràng tình huống và sứ vụ của mình và của
cả dân tộc mình. Đức Maria bắt chước bài ca vịnh của bà Anna, mẹ của
tiên tri Samuen (1Sm 2:1-10).
Lc
1:51-53:
Sau
đó, Đức Maria ca tụng sự trung tín của Đức Chúa Trời đối với dân của Người và
công bố sự thay đổi bằng sức mạnh của cánh tay Thiên Chúa được tác thành thiên
về những người nghèo đói. Thành ngữ “cánh tay của Thiên Chúa” gợi nhớ
lại sự giải thoát trong sách Xuất Hành. Sự thay đổi này diễn ra bởi
ân sủng quyền năng cứu độ của Đức Chúa Trời: Chúa giơ tay biểu dương
sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng (1:51); Chúa hạ bệ những ai quyền
thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường (1:52); kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy
dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng (1:53). Ở đây, chúng ta thấy
mức độ nhận thức về người nghèo vào thời Chúa Giêsu và thời các giáo đoàn của
Luca đã hát bài ca vịnh này và có lẽ đã thuộc nó nằm lòng. Rất nên
so sánh bài ca vịnh này với các bài thánh ca mà các cộng đoàn hát trong nhà thờ
ngày nay. Chúng ta có nhận thức về chính trị và xã hội mà chúng ta
tìm thấy trong bài ca vịnh của Đức Maria không? Trong những năm
1970, vào thời kỳ các chế độ độc tài quân phiệt cầm quyền tại châu Mỹ Latinh,
trong dịp cử hành lễ Phục Sinh, bài ca vịnh này đã bị nhóm quân phiệt kiểm duyệt
bởi vì nó bị xem như mang tính chất phá hoại. Cho đến ngày nay, nhận
thức của Đức Maria, thân mẫu của Chúa Giêsu, vẫn còn là một điều bực bội lo lắng
cho thế gian!
Lc
1:54-55:
Cuối
cùng, bài ca vịnh nhắc nhớ chúng ta rằng tất cả những điều này là một biểu hiện
của lòng thương xót Thiên Chúa đối với dân của Người và lòng trung thành của
Người với lời hứa đã lập với Ápraham. Tin Mừng không chỉ là một phần
thưởng dành cho những người tuân giữ Lề Luật Môisen, mà cũng là một biểu hiện của
sự tốt lành và lòng trung thành của Thiên Chúa với lời hứa của Người. Đây
là những gì thánh Phaolô giảng dạy trong những bức thư gửi cho các tín hữu ở
Galát và ở Rôma.
c)
Phần phụ chú:
Tin
Mừng Luca chương 1 và 2: Kết thúc của thời Cựu Ước và bắt đầu của thời
Tân Ước
Trong
hai chương đầu tiên của sách Tin Mừng Luca, tất cả mọi việc xoay quanh sự ra đời
của hai người: Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu. Hai chương này
cung cấp cho chúng ta hương vị thú vị của Tin Mừng Luca. Bầu không
khí trong những chương ấy là lời ca ngợi và sự dịu dàng. Từ đầu chí
cuối, lòng thương xót của Thiên Chúa được ca ngợi và chúc tụng, lòng thương xót
mà cuối cùng xảy ra để thực hiện những lời hứa của mình. Những lời hứa
này được hoàn thành trong sự chiếu cố người nghèo khó, kẻ cùng khốn (anawim),
những người biết cách chờ đợi cho lời ứng nghiệm của họ: bà Isave,
ông Giacaria, Đức Maria, thánh Giuse, ông Simon, bà Anna, các mục đồng và ba vị
đạo sĩ.
Hai
chương đầu tiên của sách Tin Mừng Luca được nổi tiếng nhưng chỉ là bề
ngoài. Luca đã viết bắt chước theo Kinh Thánh Cựu Ước. Dường
như hai chương đầu sách Tin Mừng của ông là đoạn cuối cùng của Cựu Ước, do đó mở
đường cho sự xuất hiện của Tân Ước. Hai chương này là ngưỡng cửa giữa
Cựu Ước và Tân Ước. Luca muốn cho Thêôphilô thấy rằng những lời tiên
tri đang được thực hiện. Đức Giêsu hoàn thành Cựu Ước và bắt đầu Tân
Ước.
Hai
chương này của Tin Mừng Luca không phải là lịch sử trong sự hiểu biết về lịch sử
của chúng ta ngày nay. Chúng được dùng như là một tấm gương soi cho
những người mà sách Tin Mừng được viết, các Kitô hữu dân ngoại mới theo đạo,
khám phá ra rằng Đức Giêsu đến để làm viên mãn các lời tiên tri của Cựu Ước và
để đáp ứng những khát vọng sâu xa nhất của tâm hồn con người. Chúng
cũng tượng trưng cho những gì đang xảy ra trong các giáo đoàn của họ vào thời
Luca. Các cộng đoàn bắt nguồn từ những người ngoại giáo sẽ được khai
sinh từ những người Do Thái cải đạo. Nhưng họ sẽ khác
nhau. Tân Ước không hoàn toàn tương ứng với những gì Cựu Ước đã hình
dung và hy vọng. Đó là một “dấu hiệu của sự mâu thuẫn” (Lc 2:34), đã
tạo ra căng thẳng và là lý do của nỗi đau khổ. Trong thái độ của Đức
Maria, Luca trình bày một mô hình về cách để phản ứng và kiên trì trong Tân Ước.
6.
Cầu Nguyện với Thánh Vịnh 27 (26)
Chúa
là ánh sáng của tôi, tôi còn sợ chi ai?
CHÚA
là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi,
tôi còn sợ người nào?
CHÚA là thành lũy bảo vệ đời tôi,
tôi khiếp gì ai nữa?
tôi còn sợ người nào?
CHÚA là thành lũy bảo vệ đời tôi,
tôi khiếp gì ai nữa?
Khi
ác nhân xông vào, định nuốt sống thân tôi,
ai ngờ chính đối phương, chính những thù địch ấy,
lại lảo đảo té nhào.
ai ngờ chính đối phương, chính những thù địch ấy,
lại lảo đảo té nhào.
Dù cả
một đạo quân vây đánh, lòng tôi chẳng sợ gì.
Dù có phải lâm vào chiến trận, tôi vẫn cứ cậy tin.
Dù có phải lâm vào chiến trận, tôi vẫn cứ cậy tin.
Một
điều tôi kiếm tôi xin,
là luôn được ở trong đền CHÚA tôi
mọi ngày trong suốt cuộc đời,
để chiêm ngưỡng CHÚA tuyệt vời cao sang,
ngắm xem thánh điện huy hoàng.
là luôn được ở trong đền CHÚA tôi
mọi ngày trong suốt cuộc đời,
để chiêm ngưỡng CHÚA tuyệt vời cao sang,
ngắm xem thánh điện huy hoàng.
Ngày
tôi gặp tai ương hoạn nạn,
Người che chở tôi trong lều thánh,
đem giấu tôi thật kín trong nhà,
đặt an toàn trên tảng đá cao.
Người che chở tôi trong lều thánh,
đem giấu tôi thật kín trong nhà,
đặt an toàn trên tảng đá cao.
Nên
giờ đây tôi ngẩng đầu đắc ý,
nhìn quân thù vây bủa chung quanh.
Tôi sẽ dâng lễ tế trong thánh điện,
lễ tạ ơn, nhã nhạc vang lừng,
tôi sẽ đàn ca mừng kính CHÚA.
nhìn quân thù vây bủa chung quanh.
Tôi sẽ dâng lễ tế trong thánh điện,
lễ tạ ơn, nhã nhạc vang lừng,
tôi sẽ đàn ca mừng kính CHÚA.
Lạy
CHÚA, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu,
xin thương tình đáp lại!
xin thương tình đáp lại!
Nghĩ
về Ngài, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan.
Lạy CHÚA, con tìm thánh nhan Ngài,
xin Ngài đừng ẩn mặt.
Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy,
chính Ngài là Đấng phù trợ con.
Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi,
lạy Thiên Chúa, Đấng cứu độ con.
Lạy CHÚA, con tìm thánh nhan Ngài,
xin Ngài đừng ẩn mặt.
Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy,
chính Ngài là Đấng phù trợ con.
Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi,
lạy Thiên Chúa, Đấng cứu độ con.
Dầu
cha mẹ có bỏ con đi nữa,
thì hãy còn có CHÚA đón nhận con.
thì hãy còn có CHÚA đón nhận con.
Xin dạy
con đường nẻo Ngài, lạy CHÚA,
dẫn con đi trên lối phẳng phiu,
vì có những người đang rình rập.
Xin đừng phó mặc con cho kẻ thù hung hãn,
vì lũ chứng gian đứng dậy tố con,
giương bộ mặt hằm hằm sát khí.
dẫn con đi trên lối phẳng phiu,
vì có những người đang rình rập.
Xin đừng phó mặc con cho kẻ thù hung hãn,
vì lũ chứng gian đứng dậy tố con,
giương bộ mặt hằm hằm sát khí.
Tôi vững
vàng tin tưởng
sẽ được thấy ân lộc CHÚA ban trong cõi đất dành cho kẻ sống.
sẽ được thấy ân lộc CHÚA ban trong cõi đất dành cho kẻ sống.
Hãy cậy
trông vào CHÚA, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!
Hãy cậy trông vào CHÚA.
Hãy cậy trông vào CHÚA.
7.
Lời Nguyện Kết
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn
ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm
của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải
cho chúng con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức
Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời
Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự
hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét