29/12/2018
Thứ Bảy
Ngày thứ năm trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh.
BÀI ĐỌC I: 1 Ga 2, 3-11
“Ai thương yêu anh em mình thì ở
trong sự sáng”.
Trích thư thứ nhất
của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến,
chính nơi điều này mà chúng ta biết rõ được là chúng ta biết Chúa Giêsu, nếu
chúng ta giữ các giới răn Người. Ai nói mình biết Người, mà không giữ giới răn
Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý. Còn ai giữ lời Người,
thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy, và nhờ điều đó
mà chúng ta biết được chúng ta ở trong Người. Ai nói mình ở trong Người, thì phải
sống như Người đã sống.
Các con thân mến, đây
không phải là một giới răn mới mà cha viết cho các con, nhưng là giới răn cũ
các con đã có từ ban đầu. Giới răn cũ đó, là lời các con đã nghe rồi. Nhưng đây
cha lại viết cho các con một điều răn mới, là điều chân thật nơi Người và nơi
các con, vì tối tăm đang qua đi, và sự sáng đã soi đến rồi.
Ai nói mình ở trong sự
sáng, mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong tối tăm. Ai thương yêu anh
em mình, thì ở trong sự sáng, và nơi người ấy không có cớ vấp phạm. Còn ai ghét
anh em mình, thì ở trong tối tăm, đi trong tối tăm và không biết mình đi đâu,
vì tối tăm đã làm mù mắt họ. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 95, 1-2a.
2b-3. 5-6
Đáp: Trời xanh hãy
vui mừng và địa cầu hãy hân hoan (c. 11a).
1) Hãy ca mừng Thiên
Chúa bài ca mới. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng
Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người. – Đáp.
2) Ngày ngày hãy loan
truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ
Người ở nơi vạn quốc. – Đáp.
3) Vì mọi chúa tể của
chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh. Sáng láng và oai
nghiêm toả trước thiên nhan, uy hùng và tráng lệ phủ trên ngai báu. – Đáp.
ALLELUIA:
Alleluia, alleluia!
– Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể và đã cư ngụ giữa chúng ta. Những ai tiếp nhận
Người, thì Người ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 2, 22-35
“Ánh sáng đã chiếu soi các
lương dân”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi mãn thời hạn thanh
tẩy theo Luật Môsê, ông bà đem Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem, để dâng cho
Chúa, như đã viết trong lề luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi
là của thánh, dâng cho Thiên Chúa”, và việc dâng lễ vật như đã nói trong lề luật
Chúa là “một cặp chim gáy, hoặc hai bồ câu con”.
Và lúc đó tại
Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính và có lòng kính sợ,
đang mong đợi niềm an ủi Israel, có Thánh Thần ở trong ông. Ông được Thánh Thần
mách bảo là sẽ không thấy giờ chết đến, trước khi thấy Đấng Kitô của Chúa. Được
Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ. Khi cha mẹ bồng trẻ Giêsu đến để thi
hành cho Người các nghi thức theo luật dạy, thì ông ẵm lấy Người trên cánh tay
mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
“Lạy Chúa, bây giờ
Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt con đã thấy
ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu soi các
lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa”.
Cha mẹ Người đều kinh
ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà, và nói với
Maria mẹ Người rằng: “Đây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong
Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống
đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn
được biểu lộ”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Dâng Chúa
vào Đền thờ
Một đêm khuya nọ, tại
một vùng quê hẻo lánh bên Anh quốc, một cậu bé đang hấp hối và người mẹ goá phải
đi bộ cả chục cây số để tìm bác sĩ. Nhìn dáng vẻ quê mùa nghèo nàn của người
đàn bà, ông bác sĩ không tỏ ra mấy sốt sắng: có nên mất giờ cho thằng bé đó
không? Lại nữa nếu cứu sống nó thì lớn lên nó cũng tiếp tục kiếp nông dân cùng
khổ như cha ông nó mà thôi. Ông bác sĩ định từ chối. Thế nhưng bị lương tâm nghề
nghiệp cắn rứt, cuối cùng ông đã đến chữa bệnh cho đứa bé. Sau này đứa bé đó đã
trở thành một trong những nhà chính trị lỗi lạc nhất của nước Anh.
Người Mỹ thường nói:
“Mỗi đứa trẻ sinh ra đều có thể là một tổng thống tương lai của Hoa Kỳ”. Quả thực
mỗi đứa trẻ sinh ra đều mang lại hy vọng cho người lớn. Với cái nhìn đức tin
thì niềm hy vọng ấy lại càng lớn lao hơn. Đó là cái nhìn của cụ già Simêon về
Hài Nhi Giêsu. Nơi Hài nhi Giêsu, cụ đã nhận ra ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
vinh quang của Israel Dân Chúa. Thế nhưng ánh sáng và vinh quang ấy được tỏ lộ
xuyên qua tăm tối của Thập giá và khổ đau.
Đó cũng là cái nhìn
chúng ta phải có khi chiêm ngắm Hài nhi trong máng cỏ. Trong Hài nhi bé nhỏ,
chúng ta nhìn thấy Đấng cứu độ trần gian; trong cảnh nghèo hèn tăm tối của máng
cỏ, chúng ta nhận ra hào quang sáng chói của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Xuyên qua cái bé nhỏ
tâm thường nhận ra những giá trị siêu việt, xuyên qua tăm tối của thất bại khổ
đau nhận ra ánh sáng hy vọng, đó là cái nhìn đích thực của niềm tin. Chúng ta
cũng cần có cái nhìn như thế trong cách giao tiếp với tha nhân: nơi những con
người nghèo hèn thấp kém trong xã hội, chúng ta luôn được mời gọi nhận ra hình ảnh
Thiên Chúa và phẩm giá cao cả của nhân vị. Chúng ta cũng được mời gọi nhìn vào
cuộc sống hằng ngày với cái nhìn ấy: từng phút giây của cuộc sống độc điệu âm
thầm mỗi ngày đều là hạt giống của sự sống vĩnh cửu; thất bại mất mát, khổ đau
cũng là khởi đầu của những ân phúc dồi dào mà Thiên Chúa luôn có thể ban tặng
con người.
Nguyện xin Hài nhi
Giêsu củng cố chúng ta trong niềm tin ấy. Nguyện xin Đức Maria, người mà một lưỡi
gươm sẽ đâm thấu qua tâm hồn nhưng vẫn luôn tin tưởng cậy trông, phù trợ chúng
ta trong cuộc lữ hành đầy gian nan thử thách này.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 29 tháng 12 BNGS
Bài đọc: I Jn
2:3-11; Lk 2:22-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Biết Thiên
Chúa là bước đi trong đường lối của Ngài.
Quan niệm về “biết” của
người Việt-Nam gần gũi với người Do-Thái hơn Hy-Lạp. Người Hy-Lạp quan niệm biết
là họat động của tri thức, trong khi người Do-Thái quan niệm biết phải ảnh hưởng
đến đời sống. Người Việt-Nam chúng ta quan niệm “tri hành phải đồng nhất” thì mới
mang lại kết quả tốt đẹp cho con người, và chúng ta đặt tầm quan trọng trên việc
làm hơn là lời nói: “lời nói mới lung lay, nhưng gương bày lôi kéo.” Biết mà
không làm, có lợi chi đâu?
Các Bài đọc hôm nay đặt
trọng tâm vào việc biết Thiên Chúa là phải bước đi trong đường lối của Người.
Trong Bài đọc I, Thánh Gioan làm sáng tỏ quan niệm “biết Thiên Chúa” cho người
Hy-Lạp. Theo ngài, biết Thiên Chúa không phải chỉ thuần tri thức, nhưng liên
quan đến đời sống luân lý của người tin. Ngài quả quyết: “Ai nói rằng mình biết
Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật
không ở nơi người ấy.” Trong Phúc Âm, Thánh Luca nêu lên những tấm gương của những
người biết và sống theo đường lối của Thiên Chúa: Thánh Giuse, Đức Mẹ Maria, và
cụ già Simeon.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường
Đức Giêsu đã đi.
1.1/ Hai lối hiểu biết
khác nhau: Khi Kitô Giáo vượt qua lãnh thổ
Do-Thái tràn vào Hy-Lạp, Thánh-sử Gioan phải đương đầu với sự hiểu biết và lý
luận của người Hy-Lạp; một trong những điều ngài phải làm sáng tỏ là quan niệm
“biết Thiên Chúa.”
(1) Theo Hy-Lạp: Biết
Thiên Chúa là lãnh vực của trí tuệ, chứ không phải là lãnh vực của luân lý; vì
thế, một người có thể nói mình biết Thiên Chúa mà không cần giữ giới răn của
Ngài. Đối với người Hy-Lạp, con người có thể tự mình giải thóat bằng kiến thức
và suy luận (Gnosticism, chủ thuyết thuần tri thức).
(2) Theo Do-Thái: Biết
Thiên Chúa là bước đi theo đường lối của Ngài, là giữ cẩn thận các giới răn của
Ngài. Đó là lý do tại sao ngài cắt nghĩa: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận
ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người.
Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ
nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy
tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được
mình đang ở trong Thiên Chúa. Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi
trên con đường Đức Giêsu đã đi.”
1.2/ Giới răn yêu thương
vừa cũ vừa mới: “Anh em thân mến, đây không
phải là một điều răn mới tôi viết cho anh em, nhưng là một điều răn cũ mà anh
em đã có ngay từ lúc khởi đầu. Điều răn cũ ấy là lời mà anh em đã nghe. Nhưng
đó cũng là một điều răn mới tôi viết cho anh em, điều ấy thật là thế nơi Đức
Giêsu và nơi anh em, bởi vì bóng tối đang qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng.”
(1) Là giới răn cũ: vì
đã được nhắc tới ngay từ đầu. Sách Levi có giới răn này: “Ngươi phải yêu đồng
loại như chính mình” (Lev 18:19).
(2) Là giới răn mới:
vì được thực hiện bởi Đức Kitô (Jn 13:34). Có những cái cũ, nhưng trở nên mới
vì người thực hành nó; chẳng hạn, bài nhạc cũ nhưng được trình bày theo lối mới.
Cũng vậy, khi Đức Kitô sống giới răn yêu thương, Ngài mở ra cho con người một
chân trời hòan tòan mới. Ngài mở rộng giới răn yêu thương tới tội nhân và kẻ
thù. Ngài dạy: “không có tình yêu nào cao quí cho bằng tình yêu của người dám
thí mạng sống cho người mình yêu.” Ngài đã đi trước làm gương cho con người bằng
cái chết trên Thập Giá.
1.3/ Ánh sáng và bóng tối:
Thánh Gioan đồng nhất:
– Ánh sáng là yêu
thương: “Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng, và nơi người ấy
không có gì nên cớ vấp phạm.”
– Bóng tối là hận thù:
“Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong
bóng tối… Ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối và đi trong bóng tối mà chẳng
biết mình đi đâu, vì bóng tối đã làm cho mắt người ấy ra mù quáng.”
2/ Phúc Âm: Các mẫu gương của những người sống theo đường lối của Thiên
Chúa.
2.1/ Gia Đình Thánh tuân
giữ Lề Luật của Thiên Chúa: Khi đã đến ngày
lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Moses, Bà Maria và Ông Giuse đem con lên
Jerusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con
trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa,” và cũng để dâng của lễ
theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
2.2/ Ông Simeon tin vào Lời
Thiên Chúa hứa và sự thúc đẩy của Thánh Thần.
(1) Ông Simeon là người
công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần
hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy
cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy,
ông lên Đền Thờ.
(2) Lúc cha mẹ Hài Nhi
Giêsu đem con tới, ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
“Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra
đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là
ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài.”
2.3/ Ông Simeon nói tiên
tri:
(1) Về con trẻ: “Thiên
Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng
dậy. Cháu còn là mục tiêu cho người đời chống đối; và như vậy, những ý nghĩ từ
thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra.” Nhiều người bị ngã xuống hay được đứng dậy là
hòan tòan tùy thuộc vào phản ứng của họ đối với Đức Kitô. Trong cuộc đời của
Chúa, người bị ngã xuống là phần đông là các Kinh-sư và Biệt-phái, vì họ từ chối
không tin và luôn tìm cách bắt bẻ và tiêu diệt Ngài. Những người được đứng dậy
là các người thu thuế, gái điếm, và dân ngọai; tuy bị coi là tội lỗi, nhưng khi
được Chúa tỏ lòng thương xót, họ đã ăn năn và tin vào Ngài.
(2) Về Mẹ Maria: “Còn
chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” Cuộc đời của Chúa Giêsu là cuộc
đời của Mẹ; đau khổ của Con là của Mẹ. Mẹ Maria đã đồng hành với con từ lúc
sinh ra trong máng cỏ cho tới lúc sinh thì tên Thập Giá.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải chứng
minh việc biết Thiên Chúa bằng đời sống chứng nhân: tuân giữ những gì Thiên
Chúa truyền dạy.
– Giới răn quan trọng
nhất Thiên Chúa dạy chúng ta là “mến Chúa yêu người.” Chúng ta không chỉ biết
giới răn này, nhưng phải mang ra áp dụng trong cuộc đời và với mọi người.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
29/12/2018 – THỨ BẢY, NGÀY 5 TUẦN BÁT NHẬT GS
Th. Tô-ma Béc-két, giám mục, tử đạo
Lc 2,36-40
ÂN NGHĨA VỚI CHÚA
Hài Nhi, ngày càng lớn
lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa. (Lc
2,40)
Suy niệm: Nếu phải lựa chọn giữa
‘tài’ và ‘đức,’ bạn chọn điều nào? Hẳn bạn nghĩ người ta sẽ chọn ‘đức’. Thế
nhưng, trong thực tế thì không phải như vậy. Chẳng hạn, trong việc giáo dục thế
hệ tương lai, lắm giáo viên và nhà trường chạy đua theo thành tích, nhiều phụ
huynh lo lắng cho con cái học thêm cốt để có nhiều kiến thức trong khi đó việc
‘đức dục’ chỉ được một sự quan tâm rất nhỏ gần như bằng không. Những hiện trạng
đạo đức băng hoại, bạo lực học đường… cho thấy hậu quả của việc đào tạo ra những
thế hệ trẻ có ‘tài’ mà thiếu ‘đức.’ Hình ảnh trẻ Giê-su lớn lên “ngày càng thêm
khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc
2,52) là gương mẫu cho những người trẻ ngày nay biết rèn luyện mình trở nên người
‘tài đức song toàn’ và cũng là lời nhắc nhở cho các bậc làm cha mẹ và thầy cô
tránh được sự mất quân bình trong việc giáo dục con em.
Mời Bạn: Phải chăng bạn đang quá bị
áp lực trong công ăn việc làm đến độ thiếu sự quan tâm, thiếu thời gian dành
cho con cái? Hoặc bạn có đang quá lo cho con cái mình có mọi thứ kiến thức, kỹ
năng, bằng cấp mà lơ là việc giáo dục đạo đức, giáo dục đức tin cho chúng?
Sống Lời Chúa: Quyết tâm sắp xếp thời giờ,
công việc để cho con cái được học giáo lý đầy đủ và để gia đình mình có giờ đọc
kinh cầu nguyện chung với nhau để giáo dục con cái nên người vừa có tài vừa có
đức.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su
Hài Đồng, con ước mong các trẻ em hôm nay cũng được cha mẹ ý thức nuôi nấng dưỡng
dục như Đức Ma-ri-a và thánh cả Giu-se ngày xưa tại Na-da-rét. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Ơn cứu độ cho muôn dân (29.12.2018
– Thứ Bảy tuần Bát Nhật Giáng Sinh)
Suy niệm:
Luật lệ thường làm người ta cảm thấy gò bó, mất tự do.
Người Do Thái phải giữ Luật Chúa đã ban cho Môsê.
Con trai thì phải được cắt bì và đặt tên tám ngày sau khi sinh (Lc 2,21).
Con trai đầu lòng thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa (Xh 13,1-2),
nên cha mẹ phải nộp năm sê-ken bạc cho tư tế
để chuộc lại con cho mình (Ds 3,47-48).
Người phụ nữ sau khi sinh con, bị coi là nhơ uế (Lv 12, 2-8),
phải ở nhà, không được đụng đến vật thánh hay vào Đền thờ.
Bốn mươi ngày sau khi sinh con trai, bà cần làm lễ thanh tẩy.
Bà phải dâng cho Đền thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu,
và một con chim gáy hay bồ câu để làm lễ tạ tội.
Nếu nghèo, bà chỉ cần dâng một cặp bồ câu non hay chim gáy là đủ.
Giuse và Maria đã vui vẻ giữ những luật này,
dù ngày nay đối với chúng ta, chúng thật là khó hiểu và khó chấp nhận.
Hãy nhìn ngắm đôi vợ chồng nghèo lên Giêrusalem.
Họ đã vượt một quãng đường xa, với đứa con mới hơn tháng tuổi.
Maria chịu thanh tẩy, dù bà biết mình đã cưu mang Đấng Thánh.
Bà đã dâng lễ vật đơn sơ của một người nghèo (c. 24).
Dù Luật không buộc, ông bà cũng đem Con lên Đền thờ để dâng.
Họ muốn con mình thuộc trọn về Thiên Chúa (x. 1 Sm 1, 22).
Ông bà đã không đòi hỏi một đặc ân hay miễn trừ nào.
Giữ Luật là cách họ thể hiện tình yêu đối với Chúa.
Có ai nhận ra đôi vợ chồng với đứa con nhỏ này là ai không?
Có, một người công chính và sùng đạo tên là Simêon.
Thánh Thần hằng ngự trên ông (c. 25),
và nói cho ông biết ông sẽ thấy Đức Kitô trước khi lìa đời (c. 26).
Chính Thánh Thần thúc đẩy ông lên Đền thờ vào lúc này (c. 27).
Bỗng nhiên ông thấy mầu nhiệm lớn lao đang tỏa sáng,
nơi Hài Nhi bé nhỏ, con của đôi vợ chồng nghèo.
Mọi mong chờ lâu nay của ông được đền đáp.
Các mục đồng đã nhận ra Đức Kitô nơi bé thơ quấn tã, nằm máng cỏ,
còn Simêon nhận ra Ngài nơi em bé được bồng ẵm bởi đôi vợ chồng.
Ông đã bồng Hài Nhi trong vòng tay, ngất ngây vì hạnh phúc.
Môi ông bật lên lời chúc tụng của người sẵn sàng nhắm mắt ra đi.
Ơn cứu độ cho muôn dân đã đến đây rồi (cc. 30-31).
Hài Nhi bé nhỏ này là Ánh sáng cho muôn dân,
là Vinh quang cho Dân Ítraen của Đức Chúa (c. 32).
Để nhận ra Chúa trong cuộc sống buồn tẻ hay sôi động hàng ngày,
cần có sự gần gũi thân thiết với Thánh Thần như ông Simêon.
Thánh Thần như trò chuyện, mách bảo, thôi thúc ông từ bên trong.
Thánh Thần soi sáng để ông nhận ra điều lớn lao mắt phàm không thấy.
Nhưng để nghe được sự mách bảo thầm kín của Thánh Thần,
chúng ta cũng phải có sự thánh thiện và lòng khát khao như ông Simêon.
Chẳng còn mơ ước gì ngoài việc được gặp mặt Đức Kitô qua cuộc sống.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa
ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.
Chúa hiện diện lặng lẽ
như tấm bánh nơi nhà Tạm,
nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ,
những người sống không ra người.
Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục,
nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người
gặp gỡ nhau để chia sẻ Lời Chúa.
Chúa hiện diện nơi Giáo Hội
gồm những con người yếu đuối, bất toàn,
và Chúa cũng ở rất sâu
trong lòng từng kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa
đang tạo dựng cả vu trụ
và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa.
Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người
vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.
Xin cho con khám phá ra
Chúa đang hẹn gặp con
nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.
Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi,
thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa.
Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa
trên bước đường đời của con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
29 THÁNG MƯỜI HAI
Đến Gần Bởi Đức Tin
Mầu nhiệm Giáng Sinh
soi sáng chúng ta thấy rõ tiếng gọi mời người Kitôhữu yêu thương anh chị em
mình bằng tình yêu huynh đệ. Đến với nguồn suối ân sủng và yêu thương bất tận
này, chúng ta được mời gọi tiến đến cảm nếm bằng con mắt đức tin và bằng sự
khôn ngoan đích thực.
Sự khôn ngoan cho
chúng ta biết bằng cách nào chúng ta có thể sống như anh chị em của nhau, rút
ra nguồn cảm hứng và năng lực từ mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Thật vậy, khi
chúng ta tiến tới gần Bê-lem hơn, chúng ta thấy Thiên Chúa của mình bé nhỏ biết
bao. Vốn là Đấng cao cả vô hạn, nhưng Ngài đã tự hạ mình xuống làm một đứa trẻ
thấp hèn. Ngài giống chúng ta mọi sự, dù Ngài là Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã tự đồng
hóa với chúng ta và đến ở gần chúng ta quá đỗi! Nếu chúng ta đến với Ngài ở
Bê-lem với lòng đơn sơ và với sự khôn ngoan của những người chăn chiên và những
nhà đạo sĩ ấy, Đức Giêsu sẽ dạy cho ta biết cách đến gần gũi mọi người, bắt đầu
từ những người bé nhỏ thấp hèn nhất – để chúng ta có thể giúp mọi người sống
cho Thiên Chúa.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 29/12
NGÀY THỨ BẢY TUẦN
BÁT NHẬT GIÁNG
SINH.
Thánh Tôma
Becket, Gmtđ.
1 Ga 2: 3-11; Lc 2:
22-35
LỜI SUY NIỆM: “Khi đã đến ngày
lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên
Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con
trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa.”
Việc dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ cho thấy Người là con đầu lòng thuộc về Thiên
Chúa. Simêon và Anna là đại diện cho toàn thể Ítraen đang mong đợi, nay đến gặp
Đấng Cứu Độ của mình, Người là “ánh sáng muôn dân” là “vinh quang của Ítraen,”
Nhưng cũng là “dấu hiệu cho người đời chống báng”. Lưỡi gươm mà Simêon tiên báo
sẽ đâm thâu lòng Đức Mẹ Maria, loan báo hiến tế hoàn hảo và duy nhất trên thánh
giá, hiến lễ sẽ mang lại ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã “dành sẵn cho muôn ân.”
(trinh trong Thánh Mẫu Học của Lm Augustinô Nguyễn văn Trinh.)
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con tạ ơn Chúa đã cho chúng con sinh ra trong một gia
đình Công Giáo, nhờ đó chúng con đã được Rửa Tội và được dâng cho Chúa, cho Đức
Mẹ và thánh Cả Giuse. Xin cho chúng con luôn ý thức là chúng con thuộc về Chúa,
để sống xứng đàng là của Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 29-12: Thánh TOMA BECKET
Giám Mục Tử Đạo –
(1118 – 1170)
Thánh Toma Becket sinh
ra tại Luân Đôn năm 1118. Cha Ngài, ông Gibert Becket, là một hiệp sĩ người
Normandy, đã trở thành thương gia giàu có ở Luân Đôn. Mẹ Ngài cũng là người
Normandy. Ngài có ít là hai chị em mà một người sau này làm tu viện trưởng
Barking. Ngài thừa hưởng từ người mẹ lòng đạo đức, lòng sùng kính Đức Mẹ và
lòng quảng đại đối với người nghèo khó.
Từ người cha, Toma
Becket thừa hưởng một tính khí kiêu hùng và cương quyết. Dáng người cao ráo, đẹp
trai, hấp dẫn và thông minh. Sau khi theo học tại Oxford, Đức Tổng giám mục
Cantebury là Thaobald đã triệu mời Ngài làm quản trị, lo những chuyện liên hệ với
Roma. Toma Becket đã kể ra đáng kể đến nỗi vua Henri II đã đặt Ngài làm chưởng ấn
của vương quốc. Ngài thường khoe khoang, ngựa giòng chim ưng, chó quí là bạn
thân của Ngài. Bù lại sự xa hoa này, Ngài đã tỏ ra quảng đại nhiều với những hy
sinh thầm kín. Ngài cũng rất hiếu chiến và dùng đến các quyền hạn của hoàng tử
mình, Ngài đã tỏ ra có giá trong một trận chiến gần Toulouse. Ngài còn tự lượng
sức trong một trận chiến đấu đơn với một hiệp sĩ danh tiếng người Pháp.
Tổng giám mục Theobald
qua đời, và Toma được chọn làm kế vị bất kể sự chống đối Chúa hàng giáo sĩ khi
thấy “một người thế tục và ồn ào như vậy” được đưa lên tòa giám mục.
Trong khi đó, Toma
Becket đã tiên báo cho nhà vua biết rằng: – “Thưa Ngài, nếu Chúa cho phép tôi
làm Tổng giám mục Canterbury, tôi sẽ hết được Ngài sủng ái. Ngài sẽ đòi tôi nhiều
điều, và Ngài đã làm nhiêu điều chống lại Giáo hội mà tôi sẽ không thể chịu nổi.
Tình cảm của Ngài sẽ sớm đổi thành thù hận không chấm dứt nổi.
Nhưng nhà vua vẫn muốn
thấy Ngài lên ngai giám mục. Ngày 3 tháng sáu năm 1162, Toma Becket đã thụ
phong linh mục và ngày hôm sau được tấn phong giám mục. Kẻ nô bộc của các hoàng
tử đã trở thành nộ bộc của Giáo hội, và chỉ còn muốn giữ vẻ xa hoa bên ngoài,
Ngài trở nên khiêm tốn hơn, mặc áo nhặm, tha thiết yêu thương kẻ nghèo và xa
cách đối với người giàu. Những nhưng điều lo ngại của thánh nhân không tự biện
minh mãi được.
Vua Henri II bóp nghẹt
sự tự do của các tác viên Giáo hội, muốn bắt chàng giáo sĩ nước Anh phải phục
thẩm quyền các tòa án hoàng gia, tước đoạt kho tàng của dân nghèo. Trước ý muốn
của nhà vua, các vị giám mục ngập ngừng, nhiều vị khứng chịu. Nhưng Tổng giám mục
Canterbury không để mình bị quyến dũ. Tức giận, nhà vua triệu vời các giám mục
vương quốc lại.
Trong căn phòng tụ họp,
hiện ra những con người mang khí giới như s ẵn sàng tiêu diệt các Ngài. Các
giám mục và các lãnh Chúa kinh hoàng khấn nài xin vị giáo chủ nhượng bộ.
Để cứu những người
chung quanh, Toma Becket như nửa ưng thuận, đã xin hoãn lại để nghiên cứu vấn đề.
Ngài viết thư cho đức Thánh Cha xin phán định. Đức Thánh Cha đã kết án tất cả
những ai đã phát thệ. Thế là Toma Becket đã rút lại lời một cách cao thượng.
Nhà vua bắt bớ Ngài. Đáp lại các lời tố cáo, Ngài tỏ ra cương quyết và luôn giữ
được tâm hồn thanh thản. Thất vọng nhà vua hô hoán: – “Hoặc là ta mất ngôi, hoặc
là con người ấy không còn là tổng giám mục nữa”.
Các hiệp sĩ gọi Ngài
là kẻ bội phản. Toma Becket đã trả lời cho một người trong bọn họ: “Nếu
đôi tay này không phải là đôi tay của một linh mục thì ông phải biết”.
Trong một công đồng ở
Nerthampton năm 1164, Ngài lại tỏ ra chống đối và khi bị đe dọa đếng mạng sống
hoặc tù tội. Một đêm kia, Ngài đã tàng hình để thoát thân. Lang thang nhiều
ngày, Ngài tới bờ biển và được một thuyền đánh cá tiếp nhận Ngài đang lúc mệt
nhọc đến đứt hơi và đưa qua Pháp.
Vua Lu-y VII đã hân hạnh
tiếp đón vị tổng giám mục Caterbury, ông nói: – “Nước Pháp có thói quen nuôi dưỡng
vbảo vệ những người chịu đau khổ, nhất là những người bị lưu đày vì công
chính”.
Vị giáo chủ lưu ngụ tại
tu viện Pontiguy và tăng gấp nếp sống khắc khổ, đến nỗi có thể nói được đây là
cuộc “Hoán cải thứ nhì, từ đạo đức tới thánh thiện”. Ngài có giờ để cầu nguyện
và suy gẫm. Ngài tuân theo luật và nếp sống của tu viện. Dầy vậy cuộc trả thù của
nhà vua vẫn tiếp tục. Cha mẹ và bạn hữu Ngài bị tước hết tài sản, bị trục xuất
tới số 400 người. Họ buộc lòng phải đến với Ngài, làm thành một đoàn người đáng
thương. Toma Becket rất nhiệt thành năng đỡ người nghèo. Lần này bất lực vì
không thể giúp đỡ được những người thân yêu nhất đang bị khổ cực vì mình. Sau
cùng, vua Henri loan báo là sẽ tiêu diệt mọi nhà dòng Xitô, nếu một nhà dòng
Xitô nào còn tiếp tục dung duõng Ngài. Toma Becket liền đến một nữ tu viện
Bênedictô ở Sens. Những năm tháng đau khổ và trơ trọi nối tiếp nhau.
Trong khi đó, nhà vua
bị Đức Thánh Cha đe dọa, tỏ ra muốn giao hòa với vị Tổng giám mục vào những
tháng cuối cùng năm 1169. Một thứ hòa hoãn chẳng dễ gì. Nhưng vị giáo chủ đã
nói với những người muốn ngăn cuộc hồi hương của mình rằng: – “Dù có biết
chắc mình sẽ bị chặt thành trăm mảnh, tôi vẫn trở về. Đã sáu năm rồi, đoàn
chiên của tôi vắng bóng chủ chăn”.
Ngài tạo thêm nhiều
thù địch khi đưa ra những sắc lệnh huyền chức những vị giám mục muốn chống đối
lại Ngài. Khi tới Canterbury, dân chúng chen lẫn nhau giữa những khúc thánh ca
và những hồi chuông đổ dồn để đến lãnh phép lành của Ngài. Những lời đầu tiên Ngài
nói trên tòa giảng là: – “Tôi đã tới để chịu chết giữa anh em”.
Nhà vua tức giận với
cuộc trở về khải hoàn này của Toma Becket, một con người không thể lay chuyển
trong mọi việc bảo vệ những quyền tự do của Giáo hội. Người ta nghe thấy vua
Henri kêu lớn: – “Không có được lấy một người trong số những kẻ hèn ta nuôi dưỡng
đây gỡ cho chúng ta người giáo sĩ ngạo mạn này sao ?”
Khi ấy có bốn hiệp sĩ
đi Canterbury. Họ gặp vị giáo chủ trong căn phòng gần nhà thờ chính tòa với các
linh mục và tu sĩ. Họ nhục mạ Ngài, nhưng Ngài nói: – “Đừng mất thời gian đe dọa
tôi. Để sát cánh chiến đấu, các người sẽ thấy tôi luôn luôn ở trong trận chiến
của Chúa”.
Các hiệp sĩ hùng hổ đi
ra. Các giáo sĩ trách Ngài làm cho họ phải chết. Toma Becket không trốn tránh,
Ngài nói với họ: – “Tất cả chúng ta hoặc phải chết. Đừng để sự sợ hãi làm cho
chúng ta xa rời sự công chính. Tôi sẵn sàng chết vì tình yêu Chúa mà những người
này giết tôi không phải vì tình yêu như vậy”.
Và khi nghe bước chân
và tiếng kêu của các hiệp sĩ có võ trang, Ngài leo lên thang nhà thờ chính tòa
Ngài nói: – “Tôi ra tiền tuyến”.
Trả lời cho những lăng
nhục, Ngài nói: – “Tôi không phải là kẻ phản bội, nhưng là một linh mục. Tôi sẵn
sàng vì Danh đấng đã lấy máu cứ chuộc tôi … Nhưng vì Danh Thiên Chúa, đừng động
tới những người này của tôi”.
Dựa lưng vào cột, Đức
Tổng giám mục chống lại những người muốn đưa Ngài đi, đẩy những người tấn công
ngã soài xuống đất: “Tôi không đi đâu hết, hãy làm việc đó ở đây đi”.
Những người khác ngập
ngừng. Vị tử đạo lớn tiếng phú mình cho Chúa và Giáo hội: “Lạy Chúa, con phó
linh hồn con trong tay Chúa”.
Hai nhát gươm tiếp liền.
Toma Becket ngã xuống miệng còn nói: – “Vì danh Chúa Giêsu và vì Giáo hội, tôi
bằng lòng chịu chết”. Và Ngài nằm chết cạnh bàn thờ.
Cái chết của Đức tổng
giám mục làm chấn động lương tâm toàn thể Chân Au. Các phép lạ được phổ biến
trên mộ Ngài. Đức Alexander III năm 1173 đã phong Ngài làm thánh tử đạo. Nhà
vua đã thống hối công khai bên mộ Ngài và những gì khiến thánh nhân chịu khổ đã
được sua sai nhờ cái chết của Ngài. Canterbury trở thành nơi hành hương thứ nhì
sau Rôma.
(daminhvn.net)
29 Tháng Mười Hai
Hoàng Tử Và Cậu Bé Nghèo
Văn hào Anh Mark
Twain cách đây ba thế kỷ, có viết một quyển tiểu thuyết mang tựa đề “Hoàng tử
và cậu bé nghèo”. Chuyện kể lại tình bạn của hai cậu bé giống hệt nhau khiến
người ta tưởng là sinh đôi. Một trong hai cậu bé tên là Edward, hoàng tử xứ
Galles. Còn Tom Canty, người bạn của vị hoàng tử, lại là một cậu bé con nhà
nghèo.
Một ngày kia, hai cậu
bé có một ý nghĩ ngộ nghĩnh là thay đổi địa vị xã hội. Tom vào thế chỗ của vị
hoàng tử Edward trong triều đình, còn Edward thì khoác lên mình mảnh áo rách rưới
và bắt đầu cuộc phiêu lưu. Cậu lang thang đầu đường xó chợ bên cạnh những người
cùng cực nhất trong xã hội.
Thế nhưng một lúc
nào đó, hai cậu bé cũng cảm thấy mệt mỏi với trò chơi đầy phiêu lưu này. Edward
mới sực tỉnh về ngôi vị hoàng tử của mình. Trong bộ quần áo rách rưới nhơ bẩn,
cậu tìm đủ mọi cách để chứng minh rằng mình là hoàng tử nối ngôi của xứ Galles.
Nhưng cảnh sát đã không tin… Thế là hoàng tử Edward đành phải lặng lẽ bước vào
tù vì tội giả mạo.
Giữa lúc Tom, cậu
bé nghèo, sắp sửa được tấn phong làm vua, thì hoàng tử Edward xuất hiện… Không
mấy chốc cậu đã được phục hồi trong ngôi vị hoàng tử của cậu. Chính nhờ kinh
nghiệm của những tháng ngày làm người ăn xin, lang thang đầu đường xó chợ với
những người cùng khổ, mà Edward đã trở thành một vị vua đạo đức và giàu lòng
thương người.
Cũng giống như câu
chuyện trên đây, Thiên Chúa đã đến giữa loài người để hoán đổi vị thế với chúng
ta. Ngài mặc lấy thân xác nghèo hèn của chúng ta để chúng ta được mang lấy tước
phẩm được làm con Chúa. Nhờ ân sủng của Ngài, Ngài chia sẻ với chúng ta sự sống
thần linh và đón nhận trong thân xác Ngài tất cả những hệ lụy của kiếp sống khổ
đau của con người.
Mang lấy trong thân
xác Ngài khổ đau của nhân loại, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với từng người,
nhất là những người khổ đau. Ðồng hóa mình với những người đau khổ, Chúa Giêsu
vạch ra cho chúng ta con đường để gặp gỡ Ngài: Ngài hiện diện trong những đau
khổ, bé mọn nhất. Tiếp rước những người đó chính là tiếp rước Ngài.
Thiên Ðàng là một gặp
gỡ triền miên với Chúa, nhưng cuộc gặp gỡ này chỉ được chuẩn bị bằng những gặp
gỡ của chúng ta với tha nhân, chúng ta sẽ gặp được Chúa. Chúng ta khước từ tha
nhân, chúng ta cũng khước từ chính Chúa.
Tha nhân là Bí Tích của Thiên Chúa. Chính trong tha nhân mà chúng ta phải nhận ra và yêu mến Chúa.
Tha nhân là Bí Tích của Thiên Chúa. Chính trong tha nhân mà chúng ta phải nhận ra và yêu mến Chúa.
Nơi bàn thờ, vị linh mục
đọc lại lời của Chúa Giêsu: này là Mình Ta, này là Máu Ta… Khi chỉ cho chúng ta
mỗi một con người, có lẽ Chúa Giêsu cũng sẽ nói: “Này là Mình Ta…”.
Thánh lễ là một cuộc gặp
gỡ với Chúa. Cuộc gặp gỡ này chỉ có ý nghĩa và giá trị nếu trong cuộc sống hằng
ngày, chúng ta cũng biết nhận ra Chúa trong từng cuộc gặp gỡ với tha nhân… Xin
Chúa thêm Ðức Tin để chúng ta có thể nhận ra Chúa Giêsu trong tha nhân, nhất là
những người cùng khổ, bé mọn trong xã hội.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina:
Luca 2:22-35
Thứ Bảy 29 Tháng Mười
Hai, 2018
Tuần Bát Nhật Giáng
Sinh
1. Lời nguyện mở
đầu
Lạy Chúa, Cha của ánh
sáng
Cụ già Simêon đã nhận
ra Con Chúa
Như ánh sáng sẽ chiếu
trên mọi người.
Nguyện xin cho chúng
con cũng nhận ra được Chúa Giêsu,
Ngay cả khi Người đến
với chúng con trong một cách khiêm hạ
Trong hình hài và con
người của các trẻ nhỏ,
Của các người già lão,
của người nghèo khó và của những kẻ bé mọn.
Xin Chúa ban cho chúng
con cũng đón nhận Người
Như ánh sáng không chỉ
dành cho đời sống chúng con
Mà cũng là bình minh
tươi sáng cho mọi dân tộc.
Vì Chúa là Cha của tất
cả
Và Chúa Giêsu là Đấng
Cứu Chuộc và là Chúa của mọi người
Bây giờ và mãi mãi.
2. Tin Mừng theo
thánh Luca 2:22-35
Khi mãn thời hạn thanh
tẩy theo Luật Môisen, ông bà đem Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem, để dâng cho
Chúa, như đã viết trong Lề Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ
được gọi là của thánh, dâng cho Thiên Chúa”, và việc dâng lễ vật như đã nói
trong lề luật Chúa là “một cặp chim gáy, hoặc hai bồ câu con”.
Và lúc đó tại
Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính và có lòng kính sợ,
đang mong đợi niềm an ủi Israel, có Thánh Thần ở trong ông. Ông được
Thánh Thần mách bảo là sẽ không thấy giờ chết đến, trước khi thấy Đấng Kitô của
Chúa. Được Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ. Khi cha
mẹ bồng trẻ Giêsu đến để thi hành cho Người các nghi thức theo luật dạy, thì
ông ẵm lấy Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
“Lạy Chúa, bây giờ
Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt
con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng chiếu
soi các lương dân, và vinh quang của Israerl dân Chúa”.
Cha mẹ Người đều kinh
ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà,
và nói với Maria, mẹ Người, rằng: “Đây trẻ này được đặt lên, khiến
cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục
tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu
tâm hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ”.
3. Suy Niệm
– Hai chương đầu của sách Tin Mừng Luca không
phải là một câu chuyện lịch sử theo ý nghĩa mà chúng ta gán cho lịch sử. Chúng
dùng để phục vụ hơn là bất cứ điều gì khác, nó như một tấm gương phản chiếu mà
trong đó những Kitô hữu tòng giáo từ lương dân, khám phá ra rằng Đức Kitô đã đến
để thực hiện những lời tiên tri của Cựu Ước và để đáp ứng những khát vọng sâu
xa hơn của trái tim nhân loại. Sau đó, chúng là biểu tượng và là tấm
gương của những gì đã xảy ra giữa các Kitô hữu vào lúc sách Tin Mừng Luca được
viết. Các cộng đoàn đến từ Lương Dân đã được khai sinh từ các cộng
đoàn người Do Thái cải đạo, nhưng họ rất đa dạng. Tân Ước không
tương ứng với những gì Cựu Ước mường tượng và mong đợi. Đó là “dấu
hiệu của sự mâu thuẫn” (Lc 2:34), nó là cái cớ cho sự căng thẳng và là nguyên
nhân của sự đau khổ tột cùng, của sự đớn đau. Trong thái độ của Đức
Maria là hình ảnh của Dân Chúa, tác giả Luca đại diện một mẫu mực cho cách làm
thế nào để kiên trì trong Tân Ước, mà không phản bội lại Cựu Ước.
– Trong hai chương này của sách Tin Mừng Luca,
mọi việc xoay quanh việc chào đời của hai hài nhi: ông Gioan Tẩy Giả
và Chúa Giêsu. Hai chương này khiến cho chúng ta cảm thấy hương thơm
của sách Tin Mừng Luca. Trong đó, môi trường là sự dịu dàng và lời
ngợi khen. Từ đầu chí cuối, có lời ngợi khen và ca ngợi, bởi vì cuối
cùng, lòng thương xót của Thiên Chúa đã được mặc khải trong Hài Nhi Giêsu; Chúa
hoàn thành những lời hứa đã làm với các Tổ Phụ. Và Thiên Chúa hoàn
thành chúng nhân danh người nghèo khó, kẻ bần hàn, giống như bà Êlisabéth và
ông Giacaria, Đức Maria và thánh Giuse, bà tiên tri Anna và cụ ông Simêon, các
mục đồng. Tất cả họ đã biết cách chờ đợi sự xuất hiện của Chúa.
– Sự khẳng định của tác giả Luca trong việc nói
rằng Đức Maria và thánh Giuse đã làm tròn mọi việc như Lề Luật đặt ra, gợi nhớ
lại những gì thánh Phaolô đã viết trong các Thư gửi tín hữu
Galát: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới,
sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới
Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4:4-5).
– Câu chuyện của cụ già Simêon dạy rằng hy vọng,
thậm chí nếu không phải là ngay lập tức, sẽ được thực hiện vào một ngày nào
đó. Đó không phải là việc nản lòng, nó được thực hiện. Nhưng
phương cách không luôn tương ứng với những gì chúng ta tưởng tượng. Cụ
già Simêon đã chờ đợi Đấng Mêssia của dân Israel. Đi đến Đền Thờ ở
giữa nhiều cặp vợ chồng đã đem con mình đến đó, ông trông thấy việc thực hiện
niềm hy vọng của mình và niềm hy vọng của Dân Chúa Israel: “Chính mắt
con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng chiếu
soi các lương dân, và vinh quang của Israel Dân Chúa”.
– Trong văn bản của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có những
chủ đề ưa thích của thánh Luca, đó là, lời khẳng định mạnh mẽ về hoạt động của
Chúa Thánh Thần, về lời cầu nguyện và về môi trường cầu nguyện, một sự chú ý
liên tục đến hành động và sự tham gia của các người phụ nữ và mối quan tâm thường
trực đến những người nghèo khó và sứ điệp cho những người nghèo khó.
4. Một vài câu hỏi
cá nhân
* Bạn có khả
năng nhận thức được trong một em bé nghèo hèn mà lại có ánh sáng để chiếu soi
cho muôn dân không?
* Bạn có khả
năng chờ đợi cả cuộc đời mình để thực hiện niềm hy vọng của bạn không?
5. Cầu nguyện
Hát lên mừng CHÚA một
bài ca mới,
Hát lên mừng CHÚA, hỡi
toàn thể địa cầu!
Hát lên mừng CHÚA,
chúc tụng Thánh Danh!
Ngày qua ngày, hãy
loan báo ơn Người cứu độ.
(Tv 96:1-2)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét