18/04/2019
Thứ Năm tuần thánh.
LỄ
LÀM PHÉP DẦU
BÀI ĐỌC
I: Is 61, 1-3a. 6a. 8b-9
“Chúa đã xức dầu
cho tôi, Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, và cho họ dầu hoan
lạc”.
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Thánh
Thần Chúa ngự trên tôi: Vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng
cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương; báo tin ân xá cho những
kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân; công bố năm hồng ân của Thiên
Chúa, và ngày báo oán của Thiên Chúa chúng ta; an ủi mọi kẻ ưu phiền, đem cho
các kẻ buồn phiền ở Sion triều thiên thay tro bụi, dầu vui mừng thay tang chế,
áo hân hoan thay tâm hồn sầu muộn.
Còn
các ngươi, các ngươi sẽ được gọi là tư tế của Chúa, là thừa tác viên của Thiên
Chúa chúng ta. Ta sẽ trung thành thưởng công cho chúng, sẽ thiết lập với chúng
một giao ước vĩnh cửu. Dòng dõi chúng sẽ được nổi danh giữa các dân tộc, miêu
duệ chúng sẽ được biết đến giữa chư dân. Tất cả những ai thấy họ, đều nhận biết
họ là dòng dõi được Chúa chúc phúc. Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 88, 21-22. 25 và 27
Đáp:
Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).
Xướng:
1) Ta
đã gặp Đavit, tôi tớ của Ta, Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người, để tay Ta
bang trợ người luôn mãi, và cánh tay Ta củng cố thân danh Người. – Đáp.
2)
Thành tín và ân sủng của Ta, hằng ở với người, và nhân danh Ta, sức mạnh người
tăng thêm mãi. Chính người sẽ thưa cùng Ta: “Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và
là Đá Tảng cứu độ của con”. – Đáp.
BÀI ĐỌC
II: Kh 1, 5-8
“Người đã làm
cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của người”.
Trích
sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Nguyện
chúc cho anh em được ân sủng và bình an của Chúa Giêsu Kitô, là chứng tá trung
thành, là trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các vua trần thế, là Đấng đã yêu
thương chúng ta, Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và
đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người.
Nguyện chúc Người được vinh quang và quyền lực muôn đời. Amen.
Kìa,
Người đến trong đám mây, mọi con mắt sẽ nhìn thấy Người, và cả những kẻ đã đâm
Người cũng nhìn thấy Người, các chủng tộc trên địa cầu sẽ than khóc Người. Thật
như vậy. Amen.
Chúa
là Thiên Chúa, Đấng đang có, đã có, và sẽ đến, là Đấng Toàn Năng phán: “Ta là
Alpha và Ômêga, là nguyên thuỷ và là cứu cánh”. Đó là lời Chúa.
CÂU XƯỚNG
TRƯỚC PHÚC ÂM: Is 61, 1
Thánh
Thần Chúa ngự trên tôi: Người đã sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo
khó.
PHÚC
ÂM: Lc 4, 16-21
“Thánh Thần
Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi”.
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
Chúa Giêsu trở về Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người,
thì ngày Sabbat, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao
cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng:
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng
Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự
giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những
kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”. Người gấp sách lại,
trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú
nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà
tai các ngươi vừa nghe”. Đó là lời Chúa.
Thánh
Lễ Chiều TƯỞNG NIỆM BỮA TIỆC LY CỦA CHÚA
BÀI ĐỌC
I: Xh 12, 1-8. 11-14
“Những chỉ thị
về bữa Tiệc Vượt qua”.
Trích
sách Xuất Hành.
Tron
những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê và Aaron ở đất Ai-cập rằng: Tháng này các
ngươi phải kể là tháng đầu năm, tháng thứ nhất. Hãy nói với toàn thể cộng đồng
con cái Israel rằng: “Mùng mười tháng này, ai nấy phải bắt một chiên con, mỗi
gia đình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con chiên, thì phải
mời người láng giềng đến nhà cho đủ số người để ăn một con chiên. Chiên đó
không được có tật gì, phải là chiên đực, được một năm. Có bắt dê con cũng phải
làm như thế. Vậy phải để dành cho đến ngày mười bốn tháng này, rồi vào lúc chập
tối, toàn thể cộng đồng con cái Israel sẽ giết nó, lấy máu bôi lên khung cửa những
nhà có ăn thịt chiên. Đêm ấy sẽ ăn thịt nướng với bánh không men và rau đắng.
Phải ăn như thế này: Phải thắt lưng, chân đi dép, tay cầm gậy và ăn vội vã: vì
đó là ngày Vượt Qua của Chúa. Đêm ấy Ta sẽ đi qua xứ Ai-cập, sẽ giết các con đầu
lòng trong xứ Ai-cập, từ loài người cho đến súc vật, và Ta sẽ trừng phạt chư thần
xứ Ai-cập: vì Ta là Chúa. Máu bôi trên nhà các ngươi ở, sẽ là dấu hiệu; và khi
thấy máu, Ta sẽ đi qua mà tha cho các ngươi, và các ngươi sẽ không bị tai ương
tác hại khi Ta giáng hoạ trên xứ Ai-cập. Các ngươi hãy ghi nhớ ngày ấy, làm lễ
tưởng niệm, và phải mừng ngày đó trọng thể kính Thiên Chúa. Các ngươi sẽ lập lễ
này để mừng vĩnh viễn muôn đời”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 115, 12-13. 15-16bc. 17-18
Đáp:
Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa Kitô (x. 1 Cr 10, 16).
Xướng:
1)
Tôi lấy gì dâng lại cho Chúa để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi? Tôi sẽ
lãnh chén cứu độ, và tôi sẽ kêu cầu danh Chúa. – Đáp.
2)
Trước mặt Chúa, thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. Con là
tôi tớ Ngài, con trai của nữ tỳ Ngài, Ngài đã bẻ gẫy xiềng xích cho con. – Đáp.
3)
Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. Con
sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài. – Đáp.
BÀI ĐỌC
II: 1 Cr 11, 23-26
“Mỗi khi anh
em ăn và uống, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết”.
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh
em thân mến, phần tôi, tôi đã lãnh nhận nơi Chúa điều mà tôi đã truyền lại cho
anh em, là Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và
phán: “Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con: Các
con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người
cầm lấy chén, và phán: “Chén này là Tân ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống,
các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén
này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến. Đó là lời
Chúa.
CÂU XƯỚNG
TRƯỚC PHÚC ÂM: Ga 13, 34
Chúa
phán: “Thầy ban cho các con một giới răn mới, là các con hãy yêu thương nhau,
như Thầy đã yêu thương các con”.
PHÚC
ÂM: Ga 13, 1-15
“Ngài yêu
thương họ đến cùng”.
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Trước
ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ mình phải bỏ thế gian mà về cùng
Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì
đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô,
con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong
tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người
chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân
cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông
này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?” Chúa Giêsu đáp:
“Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”. Phêrô thưa lại: “Không
đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”. Chúa Giêsu bảo: “Nếu Thầy không rửa chân cho
con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. Phêrô liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa
không những chân con, mà cả tay và đầu nữa”. Chúa Giêsu nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ
cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy
đâu”. Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: “Không phải tất cả các con đều
sạch đâu”.
Sau
khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người
nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta
là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa
và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho
nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy
đã làm cho các con”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Từ bỏ con người và nếp sống cũ để đi vào tinh thần và sự sống mới
Thánh
lễ hôm nay rất phong phú; chứa nhiều mầu nhiệm. Ít nhất chúng ta phải suy nghĩ
về ba đề tài chính trong ba bài đọc. Không thể bỏ rơi bài nào mà không làm thiệt
hại cho mầu nhiệm cử hành hôm nay. Bài đọc I nhắc nhở hôm nay là ngày mừng lễ
Vượt qua của người Dothái; bài đọc II thuật lại việc Ðức Kitô đã lập phép Thánh
Thể trong bữa ăn vượt qua này; và bài Tin Mừng thúc giục ta bắt chước gương
Chúa thi hành việc rửa chân cho anh em.
Lễ
nghi rửa chân này xem ra không cần thiết; nhưng căn cứ vào giọng văn trang trọng
của bài Tin Mừng, chúng ta chắc chắn sẽ khám phá được nhiều điều quan trọng, nếu
biết tìm hiểu. Và cho được như vậy phải theo gương tác giả Yoan suy nghĩ việc rửa
chân trong bối cảnh của lễ Vượt qua của người Dothái và của bữa Tiệc ly mà Ðức
Kitô đã dùng để lập phép Thánh Thể.
A. Lễ Vượt Qua Của Người Do Thái
Bài sách Xuất hành có vẻ dễ hiểu; nhưng
thật sự là một bản văn gọt dũa, cân nhắc, có nhiều ám chỉ. Phải là bàn tay tư tế,
thông luật sau Lưu đày mới viết nên được một kiệt tác như vậy.
Chúa dạy dân Dothái hằng năm phải long
trọng cử hành lễ Vượt qua như là một nhắc nhở, như là một kỷ niệm (c.14). Là vì
theo nguồn gốc, đây không phải là một cuộc nhắc nhở kỷ niệm gì cả. Người Dothái
trước kia là dân du mục, sống nay đây mai đó với chiên cừu, lạc đà và dê. Vào dịp
đầu xuân, dân du mục có thói quen làm lễ lên đường, đưa đàn vật lên miền núi
cho chiên cừu gặm có. Họ chọn ngày rằm để làm lễ đó, hầu có thể ra đi ngay ban
đêm cho mát mẻ. Họ giết một con vật trong đàn để làm lễ tế, cầu xin cho mùa lên
đường năm mới được tốt đẹp. Họ lấy máu tế vật bôi lên cửa lều trại để xua đuổi
thần khí ám hại súc vật. Và để lên đường cho mau lẹ, họ nướng tế vật chứ không
bung, nấu. Họ dùng bánh không men vì không có giờ ủ và để bánh lâu hư. Họ cũng
ăn rau đắng để kháng trùng và trừ tà. Tất cả những yếu tố đó không nhắc nhở gì
cả; nhưng chỉ là phong tục của dân du mục. Và là phong tục quan trọng, không thể
bỏ qua, vì Vượt qua là xuất hành đầu năm xây dựng đời sống mới.
Thế mà năm ấy hoàng đế Aicập lại cấm người
Dothái làm lễ ấy. Ông sợ công trình xây cất đình trệ. Và nhất là ông sợ Môsê
dùng cơ hội này để đưa dân đi hẳn. Nhưng cưỡng lại làm sao được chương trình của
Chúa! Người đã quyết định giải phóng dân khỏi cảnh nô lệ lầm than. Môsê truyền
cho Dân cứ làm lễ Vượt qua, cứ trang bị lên đường. Và chính lúc Dân ăn lễ ấy,
thần tiêu diệt của Chúa đã sát hại mọi con đầu lòng người Aicập. Pharaô vội vã
giục dân ra đi. Thế là lễ Vượt qua năm ấy trở thành muôn đời đáng ghi nhớ.
Người Dothái ở bất cứ nơi nào và làm nghề
gì hàng năm cử hành lễ Vượt qua, không phải để tiếp tục đời sống du mục nữa,
nhưng để nhắc nhở, kỷ niệm cuộc giải phóng lạ lùng và tin tưởng Chúa còn giải
phóng mình ra khỏi tình trạng hiện tại, vì dù sao đã lý tưởng gì cái kiếp sống
hiện nay. Lễ Vượt qua vì thế căn cứ vào quá khứ để tin tưởng ở tương lai. Ðó là
lễ của dân tín hữu, nên Luật chỉ cho những người cắt bì được dự lễ này. Ðó còn
là lễ cho mọi người, ban ơn giải phóng mọi người, nên mọi người đều đồng tế. Sở
dĩ phải chọn tế vật vào 6 ngày trước lễ, là để đánh dấu con vật đó đã được hiến
dâng, không còn phàm tục nữa, nhắc nhở người ta thanh tẩy lòng trí mừng lễ. Việc
ăn hết và đốt cháy mọi của còn lại cũng phải hiểu theo nghĩa đó: những gì đã
dâng cúng không còn được dùng để chung với những cái phàm tục. Tất cả những yếu
tố trên đây rất thuận lợi để Ðức Kitô dùng làm lễ Vượt qua của Người, khi Người
ăn bữa Tiệc ly với các môn đệ.
B. Lập Phép Thánh Thể
Không tác giả nào đã kể lại đầy đủ bữa
ăn lịch sử ấy. Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay chỉ giữ lại phần tối thiểu và
cốt yếu. Nói đúng hơn người như chép lại một lời kinh phụng vụ, giống như các
Kinh nguyện Thánh Thể mà chúng ta vẫn đọc. Ðối với người, cũng như đối với tất
cả Giáo hội, bữa Tiệc ly chỉ còn là bữa ăn Thánh Thể. Mọi nghi lễ cũ đã bị đẩy
vào dĩ vãng. Từ nay, lễ Vượt qua chỉ còn nhắc nhở một việc: hôm ấy Ðức Kitô đã
cầm lấy bánh rượu để ban Thịt Máu Người cho môn đệ.
Nhưng muốn hiểu rõ ý nghĩa của việc trao
ban này, phải luôn luôn nhớ khung cảnh của lễ Vượt qua Dothái. Thế mà như trên
đã nói, lễ này mang nhiều ý nghĩa. Thoạt đầu dân du mục cử hành vượt qua như một
lễ lên đường, từ giã nơi đồn trú trong mùa đông tháng giá, ra đi nhắm tới những
vùng cỏ xanh tươi để súc vật được chăm nuôi nhờ thức ăn mới. Rồi Chúa đã dùng dịp
lễ này để giải phóng Dân khỏi ách nô lệ và tập họp lại thành Dân được giải
phóng. Ý nghĩa giải phóng mạnh mẽ đến nỗi hàng năm khi cử hành lễ Vượt qua, dân
Chúa vẫn tin tưởng sẽ còn được giải phóng thêm nữa khỏi những trói buộc của kiếp
sống hiện tại. Ðức Kitô lập Bí tích Thánh Thể để thay thế hẳn lễ nghi đạo cũ;
thì theo cách thức Người vẫn làm: chẳng hủy bỏ cái gì một chỉ thăng hoa mọi sự,
Người đã đem mọi ý nghĩa của Lễ Vượt qua đạo cũ vào Bí tích vừa thiết lập để
thăng tiến chúng đến chỗ hoàn toàn. Như vậy, Thánh Thể cũng là một nghi lễ Vượt
qua, một hành vi giải phóng, một cuộc Vượt qua giải phóng toàn diện và quyết liệt.
Thêm vào đó, chúng ta còn phải nhớ, mọi người ăn lễ Vượt qua này đều đồng tế, đến
nỗi người chủ tọa không "khác" lắm đối với mọi người.
Trước hết, ý nghĩa Vượt qua nổi bật
trong bữa ăn Tiệc ly. Ngay khi bước vào bàn tiệc, Ðức Yêsu đã ý thức và đã
tuyên bố: Người từng ao ước ăn bữa Vượt qua này với các môn đệ. Rồi lập tức Người
làm cho họ hiểu ngay, đây không còn là lễ Vượt qua của dân du mục hay của người
Dothái nữa, nhưng là Vượt qua của chính Người. Người sẽ vượt đời này về cùng
Chúa Cha; Người cầm lấy bánh và nói: Ðây là Mình Ta sẽ bị nộp vì chúng con. Người
cầm chén rượu và bảo: Ðây là Máu Ta sẽ đổ ra ký Giao ước mới. Chiên Vượt qua
hôm nay là chính Người. Thánh Thể mà Người vừa trao là của Vượt qua sang thế giới
mới, lương thực mà Người vừa ban cần để sống đời đời.
Và cuộc Vượt qua này giải phóng Người ra
khỏi thân phận trần ai, đưa Người về vinh quang Người vẫn có bên Chúa Cha; đồng
thời hủy Giao ước cũ, lập Giao ước mới trong Máu Người, giải phóng con người khỏi
chế độ luật pháp, đưa họ vào ân sủng tình yêu.
Mọi ngăn cách đã bị hạ, nên mọi người ăn
lễ Vượt qua đều đồng tế. Tính cách đồng đẳng giữa mọi người tham dự thật là rõ
rệt trong lễ Vượt qua của người du mục và người Dothái. Ðó là một gia đình, một
dân tộc mà mọi người là chi thể và đồng bào của nhau. Trong lễ Vượt qua của Ðức
Kitô, tính cách hòa đồng, hiệp nhất còn sâu xa hơn nữa khi chính Người trở nên
Thịt Máu cho mọi người dùng. Nhờ vậy công cuộc vượt qua và giải phóng cũng trở
nên công việc của mọi người; vì khi Thánh Thể được trao ban cho mọi người trong
ý nghĩa vượt qua và giải phóng, thì ai lãnh nhận cũng loan báo sự chết của Ðức
Kitô cho đến khi Người trở lại, tức cũng tham gia cuộc vượt qua và giải phóng của
Người.
Thế nên từ việc bánh rượu trong Thánh lễ
trở nên Thịt Máu Chúa để thực hiện việc vượt qua, các yếu tố tự nhiên ấy không
còn là lương thực tự nhiên nữa, nhưng nhờ lời thần linh đã vượt qua giới hạn của
mình để trở nên Thánh Thể. Và khi đi từ cõi tục đến cõi thánh, tức là khi được
hiến thánh, thì không những là vượt qua mà còn là giải phóng thực sự và sâu xa
nữa. Người dâng Thánh Thể và nhận lấy Thánh Thể sẽ tham dự vào sự hiến thánh
đó; họ cũng thôi là mình để trở nên chi thể Ðức Kitô; họ vượt qua giới hạn của
mình để được chia sẻ sự sống tự do của Con Thiên Chúa. Họ phải chủ động thật sự
khiến hơn bao giờ hết, trong Thánh lễ mỗi người đều thi hành chức vụ phó tế.
Ngày Chúa lập phép Thánh Thể là ngày tất
cả con cái Chúa được thi hành chức vụ tư tế để vượt qua và giải phóng mình khỏi
thân phận tội lỗi, hầu được tham dự vào sự sống giấu ẩn nơi Thiên Chúa Cha. Và
cho được như vậy, hôm nay Phụng vụ muốn chúng ta phải cử hành nghi lễ rửa chân.
C. Rửa Chân
Ðây là hành vi hi hữu mà Ðức Kitô đã
làm. Khi nào? Theo thánh Yoan, trong bữa Tiệc ly. Hơn nữa thánh Yoan còn trình
bày câu chuyện này như sự việc duy nhất mà người còn nhớ lại về bữa ăn tối ấy.
Ít ra người cũng coi việc rửa chân như có khả năng diễn tả con người Ðức Kitô
hôm trước lễ Vượt qua.
Hôm ấy Ðức Kitô biết rõ Yuđa sắp nộp Người.
Người còn ý thức Chúa Cha đã trao cho Người mọi sự. Người thấy đã đến Giờ Vượt
Qua để về cùng Chúa Cha. Người liền đứng dậy khỏi bàn ăn.
Cử chỉ ấy phải làm cho môn đệ ngạc
nhiên. Chúa đứng lên làm gì? Kìa! Người cởi áo, thắt lưng, đổ nước vào chậu và
bắt đầu đi rửa chân cho môn đệ. Thật là lạ lùng! Xưa nay có bao giờ Người làm
như vậy? Chẳng ai có thể tưởng tượng được một việc như thế. Chủ có đưa nước cho
khách rửa chân thì cũng làm vào lúc khách mới đến nhà... nhưng bây giờ thì
khách đang ngồi ăn rồi. Không ai hiểu được, nhưng chỉ một mình Phêrô dám cất tiếng
hỏi: Thầy mà lại rửa chân cho con sao? - Phải! Bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau
này con sẽ hiểu.
Sau này là bao giờ? Lâu quá đối với Phêrô. Ông chỉ biết
hiện tại; mà hiện tại thì không thể nào có việc Thầy rửa chân cho môn đệ. Ngược
lại thì có. Môn đệ được rửa chân cho Thầy, thì theo giáo dục xưa, giây phút đó
sẽ huấn luyện môn đệ thắm thiết ghê! Phêrô cương quyết từ chối. Nhưng này:
"Nếu Thầy không rửa cho con, thì con không được có phần với Thầy". Thế
là "không những Thầy cứ rửa chân, mà rửa cả mình con nữa".
Tất cả ý nghĩa của câu chuyện có lẽ nằm trong mấy câu đối
đáp này. Ðức Kitô rửa chân cho môn đệ để họ được có phần với Người. Và muốn có
phần với Người, họ phải chấp nhận Người cúi mình rửa chân cho họ. Việc Người
làm đây thật ý nghĩa và mầu nhiệm. Tác giả Yoan hay diễn tả mầu nhiệm theo kiểu
này. Tức là người hay kể một sự việc như dấu hiệu nói lên mầu nhiệm sâu xa. Và
vì thế, từ ngữ người dùng mang nặng ý nghĩa mầu nhiệm. Như ở đây, rõ rệt thái độ
Ðức Kitô đứng lên khỏi bàn ăn sau khi đã biết giờ phải về cùng Chúa Cha, là để
làm một hành vi vượt qua. Mà Vượt qua đối với Ðức Kitô là ra khỏi đời này, là
trao ban Thịt Máu, là thí bỏ mạng sống, nên đứng lên khỏi bàn ăn, Người đã cởi
áo ra, tức là lột xác và bỏ mình đi. Người hư vô hóa mình nên người tôi tớ, cúi
lưng làm công việc của tên nô lệ ngoại quốc, vì ngay người tôi tớ Dothái cũng
không buộc phải rửa chân cho chủ. Người đã hóa thành người Tôi Tớ đau khổ của Ðức
Yavê, không còn sắc thái gì nữa và đã bị liệt vào số dân ngoại, bị đóng đinh ở
ngoài thành. Hành vi rửa chân, như vậy là biểu tượng việc Người sắp hư vô hóa
mình cho đến chết và chết trên Thập giá. Thế nên lúc này không ai hiểu được. Phải
đợi khi Người đã chết và đã phục sinh, môn đệ mới khám phá ra được ý nghĩa. Thế
nên không để cho Người rửa chân, không chấp nhận việc Người chịu chết, không để
cuộc tử nạn của Người lan sang mình, Phêrô cũng như bất cứ ai, sẽ không được có
phần với Người nghĩa là kết hợp với Người và đồng dự vào gia sản các Lời Hứa của
Người.
Như vậy, lời giải thích sau này bảo rằng Ðức Kitô đã rửa
chân để làm gương cho ta, thật ra không chắc đã được viết ngay từ đầu hay chỉ
đã được thêm vào sau này. Ít ra khi muốn cắt nghĩa đến nơi đến chốn, cũng phải
nói rằng, như Ðức Kitô đã bỏ mạng sống mình vì ta, thì ta cũng phải biết bỏ mạng
sống mình vì anh em.
Thế thì lễ nghi rửa chân mà ta làm bây
giờ không tầm thường đâu. Ðây không phải là một nghi thức làm cho qua. Cũng
không phải chỉ là hành vi mỗi năm ta làm cho người khác. Có ý nghĩa đó. Và tôi
xin mọi người nhìn nhận hành vi chủ tế rửa chân cho 12 người tiêu biểu đây như
là cử chỉ biểu lộ những tâm tình chân thật muốn đền bù những thái độ bất công,
bất nhân, bất nghĩa của chúng tôi đối với mọi người. Nhưng chưa đủ! Phụng vụ
còn muốn lễ nghi rửa chân này biểu tượng hành vi lột xác, bỏ mình của Ðức Kitô
để chúng ta cùng chấp nhận, đi vào mầu nhiệm tử nạn của Người, hư vô hóa chính
mình chúng ta, để có như vậy, chúng ta mới cởi bỏ được con người cũ và người
anh em đối diện với chúng ta bây giờ mới thật sự trở thành người anh em của ta
không còn gì ngăn cách nữa.
Có như vậy, chúng ta mới thật sự cử hành
nghi lễ rửa chân như Ðức Kitô đã làm. Có như vậy, chúng ta mới có tâm tình để
tái hiện mầu nhiệm Tiệc ly như Ðức Kitô đã thiết lập chiều thứ Năm Tuần Thánh.
Có như vậy, buổi chiều hôm nay, chúng ta mới thật sự cùng làm với Người cuộc vượt
qua giải phóng, tức là từ bỏ con người và nếp sống cũ để đi vào tinh thần và sự
sống mới tự do của con cái Thiên Chúa.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời
Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn
Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần Thánh
Bài đọc: Exo 12:1-8, 11-14; I Cor 11:23-26; Jn 13:1-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình yêu Thiên Chúa: khiêm nhường phục vụ
và yêu thương đến cùng.
Con
người thường quan niệm: người có tài năng hay địa vị quan trọng không thể hạ
mình làm các việc hèn kém; vì nếu làm như thế, người khác nhìn thấy sẽ khinh
thường, và địa vị của họ sẽ bị giảm đi. Vì thế, nếu không được người khác nhận
ra và trọng dụng tài năng, người có tài sẽ bất mãn và từ chối không tham gia;
ví dụ, thành viên của HĐMV không được ăn nói trước công chúng, thành viên của
ca đòan khi không được hát solo.
Các
Bài Đọc hôm nay mở mắt cho chúng ta thấy thế nào là tình yêu và phục vụ của
Thiên Chúa. Ngài là Đấng uy quyền dựng nên và điều khiển muôn lòai, thế mà luôn
hạ mình để phục vụ và yêu thương mọi người, cho dẫu con người vô ơn và không xứng
đáng với tình yêu của Ngài. Trong Bài Đọc I, vì quá yêu thương và muốn giải
thóat người Do-thái khỏi cảnh nhục nhằn và tủi hổ của kiếp nô lệ, Thiên Chúa đã
“cõng dân Do-thái như đại bàng cõng con trên cánh” ra khỏi đất Ai-cập và đưa
dân vào Đất Hứa. Ngài truyền cho dân phải cử hành Lễ Vượt Qua để tưởng nhớ đến
tình yêu và những việc Ngài làm. Trong Bài Đọc II, Chúa Giêsu sẵn sàng chịu bẻ
nhỏ tấm bánh là thân thể của Ngài, và hy sinh đến giọt máu cuối cùng cho các
môn đệ để tỏ tình yêu và nuôi sống các ông. Ngài cũng truyền cho các ông năng cử
hành Thánh Lễ để dừng quên tình yêu của Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy cho
các tông đồ bài học khiêm nhường và yêu thương đến cùng bằng cách rửa chân cho
các ông và Ngài cũng dạy: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho
anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Lễ Vượt Qua của người
Do-thái.
Lễ Vượt
Qua là lễ trọng nhất trong ba lễ trọng của người Do-thái; vì là lễ kỷ niệm ngày
Thiên Chúa đã dùng uy quyền của Ngài để đánh phạt vua Pharao, đưa dân Do-thái
thóat khỏi làm nô lệ cho Ai-cập, và dẫn đưa dân vào Đất Hứa: “Các ngươi phải lấy
ngày đó làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Qua mọi thế hệ, các
ngươi phải mừng ngày lễ này: đó là luật quy định cho đến muôn đời.” Có nhiều điều
tương xứng với Lễ Vượt Qua mơi của Đức Kitô; nên cần một sự hiểu biết chi tiết
về Lễ Vượt Qua của người Do-thái.
1.1/ Con
Chiên Vượt Qua: Ngày mừng Lễ
Vượt Qua là 14 tháng Nissan (tháng tư): “Đức Chúa phán với ông Moses và ông
Aaron trên đất Ai-cập: Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các
tháng, tháng thứ nhất trong năm.”
– Mỗi
gia đình phải có một con chiên để ăn mừng Lễ Vượt Qua, và phải có sẵn vào ngày
10 tháng này: “Ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một
con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần
nhà mình nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được
bao nhiêu mà chọn con chiên.”
– Phẩm
chất của con chiên đó: “phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các
ngươi bắt chiên hay dê cũng được. Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này,
rồi toàn thể đại hội cộng đồng Israel đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi
lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên.” Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng
lên, ăn với bánh không men và rau đắng.
1.2/
Cách ăn Lễ Vượt Qua: Vì dân
Do-thái phải ra đi vội vã và trong đêm tối, nên họ phải chuẩn bị sẵn sàng mọi sự:
“lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy.” Vì vua Pharao từ chối không để cho
dân Do-thái ra đi, nên Thiên Chúa sẽ sát hại tất cả các con đầu lòng trên đất
Ai-cập: “Đêm ấy Ta sẽ rảo khắp đất Ai-cập, sẽ sát hại các con đầu lòng trong đất
Ai-cập, từ loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai-cập: vì
Ta là Đức Chúa.” Nhà dân Do-thái nào có máu chiên bôi trên cửa, thiên thần sẽ
đi qua, và không vào tàn sát các con đầu lòng của họ.
Cuộc
đời con người là một hành trình vượt qua, từ đời này đến đời sau. Giống như người
Do-thái, chúng ta dễ bị cám dỗ làm nô lệ cho vật chất để bằng lòng với cuộc sống
đời này, mà quên đi cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Để tránh nguy hiểm này, chúng
ta hãy noi gương họ làm hai việc quan trọng:
(1)
Luôn chuẩn bị sẵn sàng để lên đường về Nhà Cha bằng cách: “lưng thắt gọn, chân
đi dép, tay cầm gậy.” Đừng sở hữu quá nhiều của cải, chúng ta sẽ ngại ngùng
không dám lên đường.
(2)
Có máu chiên bôi sẵn trên cửa: Máu Chiên chúng ta cần là Máu cực thánh của Đức
Kitô đã đổ ra. Tham dự Thánh Lễ và rước lễ thường xuyên bảo đảm chúng ta khỏi bị
tiêu diệt muôn đời.
2/ Bài
đọc II: Mỗi lần ăn Bánh và
uống Chén này, anh em loan truyền Chúa đã chịu chết.
Trong
Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa, Lễ Vượt Qua của Cựu Ước là hình ảnh Lễ Vượt Qua
mới của Đức Kitô: Khi biết giờ Ngài sắp sửa vượt qua cuộc đời này để về cùng
Thiên Chúa, Ngài đã yêu thương con người và yêu thương họ đến cùng; Chúa Giêsu
làm cho con người hai việc chính:
2.1/ Hiến
mình làm Chiên Vượt Qua để cứu độ con người: Máu chiên bôi trên cửa của nhà người Do-thái có sức mạnh
để cứu các con đầu lòng và súc vật của họ; thịt chiên có sức mạnh để giúp họ vượt
qua Biển Đỏ để vào Đất Hứa. Cũng vậy, Máu Thánh của Chúa Giêsu đổ ra có sức mạnh
để cứu nhân lọai khỏi mọi tội; Mình Thánh giúp con người vượt qua mọi trở ngại
của biển đời để vào đất Thiên Chúa hứa là thiên đàng.
2.2/ Lập
Bí-tích Thánh Thể để tiếp tục ở lại với con người: Bữa Tiệc Ly chính là bữa tiệc Vượt Qua.
Chúa Giêsu đã lập Bí-tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly.
(2)
Bánh không men chính là Mình Chúa: Trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh,
dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình
Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.”
(3)
Máu của Chiên Vượt Qua chính là Máu Chúa: Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng
chén và nói: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống,
anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.”
Giống
như Thiên Chúa truyền cho người Do-thái phải tái diễn Lễ Vượt Qua mỗi năm, Chúa
Giêsu cũng truyền các tín hữu phải cử hành Bữa Tiệc Ly thường xuyên để loan
truyền và hưởng lợi ích từ cuộc tử nạn của Ngài: “Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến,
mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” vì
yêu thương con người.
3/
Phúc Âm: Chúa Giêsu khiêm
nhường và yêu thương rửa chân cho các môn đệ.
3.1/
Chúa biết tất cả mọi sự sẽ xảy ra và Ngài sửa sọan tất cả: Thánh sử Gioan tường thuật ba điều quan
trọng Chúa Giêsu biết rõ trước Cuộc Thương Khó của Ngài:
(1)
Biết giờ của Ngài sắp về với Thiên Chúa: “Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến,
giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha.”
(2)
Biết giờ phải từ biệt các môn đệ: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình
còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.”
(3)
Biết giờ cứu độ cho con người sắp xảy ra: “Đức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã
giao phó mọi sự trong tay Người.”
3.2/
Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ: Ba điều biết quan trọng trên thúc đẩy Chúa Giêsu sẵn sàng tỏ
tình yêu cho các môn đệ qua những việc mà các tông đồ không bao giờ dám nghĩ tới:
Trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà
thắt lưng. Rồi Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy
khăn thắt lưng mà lau.
– Cuộc
đối thọai giữa Chúa Giêsu và Phêrô: Ông thưa với Người: “Thưa Thầy! Thầy mà lại
rửa chân cho con sao?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu,
nhưng sau này anh sẽ hiểu.” Ông Phêrô lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con,
không đời nào con chịu đâu!”
Phêrô,
cũng giống như bao nhiêu con người, ông nghĩ Chúa Giêsu, là Thầy và là Chúa,
không thể hạ mình làm công việc hèn hạ như vậy. Khi Chúa Giêsu làm như thế,
Ngài tự hạ mình xuống như một người đầy tớ.
–
Chúa Giêsu cắt nghĩa cho Phêrô: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được
chung phần với Thầy.” Ông Simon Phêrô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa,
không những chân, mà cả tay và đầu con nữa.” Đức Giêsu bảo ông: “Ai đã tắm rồi,
thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em
đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!” Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người,
nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch.”
Các
nhà chú giải đều nhìn hành động rửa chân như là biểu tượng của Bí-tích Rửa Tội:
phải được rửa sạch trước khi tội được tha để chung hưởng hạnh phúc với Chúa.
3.3/
Chúa Giêsu cắt nghĩa bài học rửa chân: Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giêsu mặc áo vào, về chỗ
và nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là
“Thầy,” là “Chúa,” điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu
Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa
chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm
cho anh em.”
Rửa
chân là công việc của đầy tớ. Chúa Giêsu làm công việc của đầy tớ để phục vụ
các môn đệ. Ngài dạy các ông không có công việc hèn, nếu các ông muốn chứng tỏ
tình yêu cho Thiên Chúa và cho tha nhân, hãy làm những công việc đó. Có một sự
tương phản giữa cách thức suy nghĩ của Thiên Chúa và của con người: khi con người
muốn làm lớn, họ tránh làm việc nhỏ. Chúa Giêsu dạy làm những việc nhỏ để trở
thành lớn. Đây phải là bí quyết thành công Thiên Chúa muốn dạy con người: làm
gương sáng trong những việc nhỏ là cách dạy tốt nhất, vì lời nói lung lay,
gương bày lôi kéo. Nếu các nhà lãnh đạo và cha mẹ muốn thành công trong việc dạy
dỗ, hãy làm gương sáng cho những người dưới quyền mình. Cha mẹ sẽ hiếm có cơ hội
để chết cho con, nhưng những việc nhỏ như: nhịn ăn cho con, săn sóc con khi bệnh
tật, đau khổ khi con buồn tủi, có hiệu quả tương tự như những việc lớn vậy.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Khi
yêu ai, chúng ta hãy bắt chước Thiên Chúa yêu người đó đến cùng; đừng yêu nửa
chừng rồi bỏ, vì nếu làm như thế, chúng ta đã không trung thành, và hoang phí
những gì mình đã cố gắng từ đầu. Làm như thế chúng ta sẽ mất thời giờ và có thể
sẽ phải làm lại từ đầu lần nữa.
–
Lãnh đạo bằng yêu thương và phục vụ, không bằng truyền lệnh và đòi được phục vụ,
là cách lãnh đạo hiệu quả nhất. Khi con người cảm thấy mình được yêu thương và
chăm sóc, họ sẽ theo nhà lãnh đạo đến cùng.
–
Không có công việc hèn, chỉ có người hèn. Nếu muốn người khác làm việc đó, mình
hãy làm gương thi hành trước. Chúng ta hãy cử hành Lễ Vượt Qua và “rửa chân cho
anh chị em” thường xuyên để đừng bao giờ quên thế nào là yêu thương và phục vụ
chân thành.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
18/04/2019 – THỨ NĂM TUẦN THÁNH
Lễ Tiệc Ly Ga 13,1-15
YÊU THƯƠNG ĐẾN CÙNG
“Và Người yêu thương họ đến cùng.” (Ga 13,1)
Suy niệm: Chìa khóa
vàng giúp ta mở được Con Tim Đức Giê-su, để cảm nghiệm ý nghĩa những nghĩa cử
Ngài thực hiện trong ba ngày thánh này là câu “Và Người yêu thương họ đến
cùng.” Vâng, quả vậy, vì yêu thương họ đến cùng, Ngài lập bí tích Thánh Thể, một
sáng kiến lạ lùng để hiến chính Thịt Máu mình làm của ăn thức uống cho nhân loại,
cũng như để có thể kết hợp nên một với họ mọi ngày. Vì yêu thương họ đến cùng,
Ngài vui lòng hạ mình quỳ dưới chân các môn đệ, trở thành tôi tớ rửa chân phục
vụ các ông. Vì yêu thương họ đến cùng Ngài sẵn sàng uống cạn chén Cha trao. Và
cũng vì yêu thương họ đến cùng, Ngài sẵn lòng chịu đánh đòn, đội mão gai, vác
thập giá, đóng đinh và một cái chết đau đớn.
Mời Bạn: Cảm nghiệm
tấm lòng yêu thương đến cùng của Đức Giê-su, thánh nữ Tê-rê-xa đã sáng tác mấy
vần thơ:
“Sống
yêu thương là cho đi tất cả,
Trên
đời này không đòi hỏi công lao,
Không
tính toán, cho không kể là bao,
Vì đã
yêu có khi nào suy tính.”
Mời bạn
nghiền ngẫm đoạn Tin Mừng hôm nay nhất là câu: “Người yêu thương họ đến cùng” để
cảm nhận tâm tình của Đức Giê-su với nhân loại và với mình.
Sống Lời Chúa: Trong ba
ngày này tôi sẽ dành thời gian đọc lại trình thuật cuộc Khổ Nạn của Chúa và suy
gẫm tấm lòng yêu thương đến cùng của Ngài
Cầu
nguyện: Lạy Chúa Giê-su, cảm tạ Chúa đã yêu
thương chúng con đến cùng, đến độ Chúa cho đi tất cả những gì quý giá nhất của
Chúa, để bày tỏ lòng yêu mến không suy tính. Xin cho chúng con, trong những
ngày này, cảm nghiệm được tấm lòng của Chúa, và đền đáp cho cân xứng. Amen.
(5
Phút Lời Chúa)
Phải rửa chân cho nhau (18.4.2019 – Thứ Năm Tuần Thánh)
SUY NIỆM
Người biết mình sắp qua đời thường để lại di
chúc cho con cái.
Di chúc nói lên ước nguyện, lời nhắn nhủ hay lệnh truyền của người sắp ra đi.
Có thể nói Thầy Giêsu khi biết cuộc Khổ Nạn gần đến
cũng đã để lại một di chúc kép cho các môn đệ dấu yêu :
Ngài đã rửa chân cho các môn đệ và nhất là Ngài đã lập bí tích Thánh Thể.
Thứ Năm Tuần Thánh là ngày chúng ta đặc biệt nhớ đến di chúc ấy.
Sống di chúc của Chúa Giêsu là cách biểu lộ tình yêu đối với Ngài.
Di chúc nói lên ước nguyện, lời nhắn nhủ hay lệnh truyền của người sắp ra đi.
Có thể nói Thầy Giêsu khi biết cuộc Khổ Nạn gần đến
cũng đã để lại một di chúc kép cho các môn đệ dấu yêu :
Ngài đã rửa chân cho các môn đệ và nhất là Ngài đã lập bí tích Thánh Thể.
Thứ Năm Tuần Thánh là ngày chúng ta đặc biệt nhớ đến di chúc ấy.
Sống di chúc của Chúa Giêsu là cách biểu lộ tình yêu đối với Ngài.
Có nhiều điểm giống nhau nơi việc Rửa chân và lập Bí
tích Thánh Thể.
Cả hai đều là những cử chỉ Thầy Giêsu làm lúc cận kề cái chết.
Cả hai đều được làm trong bầu khí một bữa ăn tối gần lễ Vượt Qua.
Vào lúc cuối đời, sau bao năm tận tụy với sứ mạng phục vụ,
Thầy Giêsu muốn gói ghém trong hai cử chỉ đơn giản ấy lễ hiến dâng đời mình.
Cả hai đều tượng trưng cho cái chết tự hạ trên thập giá.
Rửa chân đòi Thầy phải cúi xuống rất sâu, phải trở thành tôi tớ phục vụ.
Rửa chân là điều mà tôi tớ không hẳn phải làm cho chủ,
thì bây giờ Thầy làm cho trò.
Cái chết trên thập giá là sự phục vụ cao nhất được diễn tả qua việc rửa chân.
Bí tích Thánh Thể còn diễn tả cách tuyệt vời hơn cái chết hy sinh ấy.
Trong bí tích này, tấm bánh trở nên Mình Thầy bị bẻ ra và trao đi.
Rượu trở nên Máu Thầy, Máu sẽ bị đổ ra cho muôn người trên thế giới.
Cả hai đều là những cử chỉ Thầy Giêsu làm lúc cận kề cái chết.
Cả hai đều được làm trong bầu khí một bữa ăn tối gần lễ Vượt Qua.
Vào lúc cuối đời, sau bao năm tận tụy với sứ mạng phục vụ,
Thầy Giêsu muốn gói ghém trong hai cử chỉ đơn giản ấy lễ hiến dâng đời mình.
Cả hai đều tượng trưng cho cái chết tự hạ trên thập giá.
Rửa chân đòi Thầy phải cúi xuống rất sâu, phải trở thành tôi tớ phục vụ.
Rửa chân là điều mà tôi tớ không hẳn phải làm cho chủ,
thì bây giờ Thầy làm cho trò.
Cái chết trên thập giá là sự phục vụ cao nhất được diễn tả qua việc rửa chân.
Bí tích Thánh Thể còn diễn tả cách tuyệt vời hơn cái chết hy sinh ấy.
Trong bí tích này, tấm bánh trở nên Mình Thầy bị bẻ ra và trao đi.
Rượu trở nên Máu Thầy, Máu sẽ bị đổ ra cho muôn người trên thế giới.
Trong cả hai biến cố Rửa chân và Bí tích Thánh Thể,
Thầy Giêsu đều mời các môn đệ tham dự cách tích cực.
Tham dự vào cái chết của Thầy bằng cách để cho Thầy rửa chân,
hay tham dự bằng cách ăn uống Mình và Máu Ngài.
Hai biến cố trên không phải là chuyện chỉ xảy ra một lần bởi Thầy Giêsu.
Thầy mời các môn đệ cũng làm như Thầy, và lặp đi lặp lại những cử chỉ đó.
“Anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14).
“Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy (Lc 22, 19).
Cúi xuống phục vụ tha nhân và lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể
sẽ giúp chúng ta tham dự vào cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu.
Thầy Giêsu đều mời các môn đệ tham dự cách tích cực.
Tham dự vào cái chết của Thầy bằng cách để cho Thầy rửa chân,
hay tham dự bằng cách ăn uống Mình và Máu Ngài.
Hai biến cố trên không phải là chuyện chỉ xảy ra một lần bởi Thầy Giêsu.
Thầy mời các môn đệ cũng làm như Thầy, và lặp đi lặp lại những cử chỉ đó.
“Anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14).
“Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy (Lc 22, 19).
Cúi xuống phục vụ tha nhân và lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể
sẽ giúp chúng ta tham dự vào cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu.
Muốn ở lại trong tình thương của Thầy Giêsu,
cần giữ lệnh Thầy truyền (Ga 15, 10).
Mà “đây là lệnh truyền của Thầy, anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12).
Hơn nữa, Thầy Giêsu còn cho ta một cách khác để ở lại trong Thầy :
“Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi,
và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56).
cần giữ lệnh Thầy truyền (Ga 15, 10).
Mà “đây là lệnh truyền của Thầy, anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12).
Hơn nữa, Thầy Giêsu còn cho ta một cách khác để ở lại trong Thầy :
“Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi,
và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56).
Thứ Năm Tuần Thánh là ngày lễ của Tình Yêu theo đúng
nghĩa nhất.
Yêu là cúi xuống phục vụ, yêu là bẻ đời mình cho tha nhân như Thầy Giêsu.
Ước gì chúng ta được ở lại trong tình yêu của Giêsu nhờ biết yêu.
Yêu là cúi xuống phục vụ, yêu là bẻ đời mình cho tha nhân như Thầy Giêsu.
Ước gì chúng ta được ở lại trong tình yêu của Giêsu nhờ biết yêu.
LỜI
NGUYỆN
Lạy Thầy Giêsu,
khi Thầy rửa chân cho các môn đệ
chúng con hiểu rằng Thầy đã làm một cuộc cách mạng lớn.
Thày dạy chúng con một bài học rất ấn tượng
khi Thầy bưng chậu nước, bất ngờ đến với các môn đệ trong bữa ăn,
khi Thầy cúi xuống, dùng bàn tay của mình để rửa chân rồi lau chân cho họ.
Chắc Thầy đã nhìn thật sâu vào mắt của từng môn đệ và gọi tên từng người.
Giây phút được rửa chân là giây phút ngỡ ngàng và linh thánh.
khi Thầy rửa chân cho các môn đệ
chúng con hiểu rằng Thầy đã làm một cuộc cách mạng lớn.
Thày dạy chúng con một bài học rất ấn tượng
khi Thầy bưng chậu nước, bất ngờ đến với các môn đệ trong bữa ăn,
khi Thầy cúi xuống, dùng bàn tay của mình để rửa chân rồi lau chân cho họ.
Chắc Thầy đã nhìn thật sâu vào mắt của từng môn đệ và gọi tên từng người.
Giây phút được rửa chân là giây phút ngỡ ngàng và linh thánh.
Lạy Thầy Giêsu,
thế giới chúng con đang sống rất thấm bài học của Thầy.
Chúng con vẫn xâu xé nhau chỉ vì chức tước và những đặc quyền, đặc lợi.
Ai cũng sợ phải xóa mình, quên mình.
Ai cũng muốn vun vén cho cái tôi bất chấp lương tri và lẽ phải.
Khi nhìn Thầy rửa chân, chúng con hiểu mình phải thay đổi cách cư xử.
Không phải là ban bố như một ân nhân, nhưng khiêm hạ như một tôi tớ.
Từ khi Thầy cúi xuống rửa chân cho anh Giuđa, kẻ sắp nộp Thầy,
chúng con thấy chẳng ai là không xứng đáng cho chúng con phục vụ.
thế giới chúng con đang sống rất thấm bài học của Thầy.
Chúng con vẫn xâu xé nhau chỉ vì chức tước và những đặc quyền, đặc lợi.
Ai cũng sợ phải xóa mình, quên mình.
Ai cũng muốn vun vén cho cái tôi bất chấp lương tri và lẽ phải.
Khi nhìn Thầy rửa chân, chúng con hiểu mình phải thay đổi cách cư xử.
Không phải là ban bố như một ân nhân, nhưng khiêm hạ như một tôi tớ.
Từ khi Thầy cúi xuống rửa chân cho anh Giuđa, kẻ sắp nộp Thầy,
chúng con thấy chẳng ai là không xứng đáng cho chúng con phục vụ.
Lạy Thầy Giêsu,
Thầy để lại cho chúng con một di chúc bằng hành động.
Thầy đã nêu gương cho chúng con noi theo,
để rửa chân chẳng còn là chuyện nhục nhã, nhưng là mối phúc.
Xin cho chúng con thấy Thầy vẫn cúi xuống trên đời từng người chúng con,
để nhờ đó chúng con có thể cúi xuống trên đời những ai khổ đau bất hạnh.
Thầy để lại cho chúng con một di chúc bằng hành động.
Thầy đã nêu gương cho chúng con noi theo,
để rửa chân chẳng còn là chuyện nhục nhã, nhưng là mối phúc.
Xin cho chúng con thấy Thầy vẫn cúi xuống trên đời từng người chúng con,
để nhờ đó chúng con có thể cúi xuống trên đời những ai khổ đau bất hạnh.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
18
THÁNG TƯ
Đức
Giêsu Có Thể Xóa Tan Các Mối Nghi Ngờ Của Chúng Ta
Chúa
Giê-su phán: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Và khi nói những lời ấy,
Người thổi hơi trên các môn đệ và phán: “Hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội
cho ai thì tội người ấy được tha; anh em cầm buộc ai thì người ấy bị cầm buộc”.
(Ga 20,21-23)
Từ
ngày đầu tiên ấy, Giáo Hội sống trong hiệu lực của giao ước mới – giao ước vĩnh
cửu. Giáo Hội sống trong hiệu lực của cái chết và cuộc Phục Sinh cứu độ của Con
Thiên Chúa. Vì thế, Giáo Hội được Đức Kitô – là chính sự sống của Giáo Hội – trực
tiếp trao cho quyền năng trên sự dữ.
Một lần
nữa, chúng ta được dẫn lên căn gác thượng. Đây là ngày thứ tám sau Phục Sinh. Đức
Giêsu hiện ra cho Tô-ma, một trong Nhóm Mười Hai. Tô-ma được mời gọi – cùng với
các đồng môn của mình – trở thành chứng nhân của Đấng Phục Sinh. Ông không có mặt
cùng với các bạn tám ngày trước đó, khi Chúa hiện ra với nhóm. Ông phải đích
thân trông thấy. Rồi, Chúa Giê-su hiện đến lần thứ hai. Người đến để thuyết phục
sự cứng cỏi của Tô-ma – và Người đã cho ông thấy chứng cứ hùng hồn của cuộc Phục
Sinh của Người.
Tô-ma
bị thuyết phục về sự Phục Sinh khi ông tận mắt nhìn thấy Chúa Giê-su và các vết
thương của Người. Ông không nghi ngờ nữa – và đã thốt lên lời tuyên xưng đức
tin hết sức triệt để: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!” (Ga 20,28).
Vâng,
Giáo Hội sống sự sống Phục Sinh của Đức Kitô ngay từ chính những ngày đầu tiên
của lịch sử mình. Giáo Hội sống trong mầu nhiệm Vượt Qua của Thầy và phu quân của
mình. Từ mầu nhiệm này, Giáo Hội nhận lãnh sức mạnh hai mặt: sức mạnh của lời
chứng và sức mạnh của ân sủng có năng lực cứu độ con người. Thời đại của Giáo Hội
chỉ bắt đầu sau Lễ Hiện Xuống. Tuy nhiên, Lễ Hiện Xuống lại khởi đầu từ chính
cuộc Phục Sinh. Thực vậy, ngay trong lần đầu tiên hiện ra với các Tông Đồ “sau
ngày sa-bát”, Chúa Phục Sinh đã nói với các ông: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”
(Ga 20,22).
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
18
Tháng Tư
Ðôi Tay Cầu Nguyện
Albrecht
Durer là một họa sĩ và điêu khắc gia nổi tiếng của nước Ðức vào thế kỷ thứ 16.
Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đó là bức tranh “Ðôi tay cầu
nguyện”.
Sự
tích của họa phẩm này như sau: Thuở hàn vi, Durer kết nghĩa với một người bạn
chí thân. Cả hai đã thề thốt là sẽ giúp nhau trở thành họa sĩ. Ðể thực hiện ước
nguyện đó, người bạn của Durer đã chấp nhận làm thuê làm mướn đủ cách để kiếm
tiền cho Durer ăn học thành tài. Theo thỏa thuận, sau khi đã thành công, Durer
cũng sẽ dùng tiền bạc của mình để giúp cho người bạn ăn học cho đến khi thành đạt.
Thế
nhưng khi Durer đã thành tài, danh tiếng của anh bắt đầu lên, thì đôi tay của
người bạn cũng đã ra chai cứng vì lam lũ vất vả, khiến anh không thể nào cầm cọ
để học vẽ nữa.
Một
ngày nọ, tình cờ bắt gặp đôi tay của người bạn đang chắp lại trong tư thế cầu
nguyện, Durer nghĩ thầm: “Ta sẽ không bao giờ hồi phục lại được năng khiếu cho
đôi bàn tay này nữa, nhưng ít ra ta có thể chứng minh tình yêu và lòng biết ơn
của ta bằng cách họa lại đôi bàn tay đang cầu nguyện này. Ta muốn ca tụng đôi
bàn tay thanh cao và tấm lòng quảng đại vị tha của một người bạn”.
Thế
là kể từ hôm đó, Durer đã để hết tâm trí vào việc thực hiện bức tranh đó. Ðó
không phải chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, nhưng là tất cả tình yêu và lòng biết
ơn mà ông muốn nói lên với một người bạn. Bức tranh đã trở thành bất hủ, nhưng
càng bất hủ hơn nữa đó là tấm lòng vàng của người bạn và tâm tình tri ân của
nhà họa sĩ.
Phúc
Âm kể lại cuộc gặp gỡ cảm động giữa Chúa Giêsu và một người đàn bà mà mọi người
đang nhìn bằng một con mắt khinh bỉ, bởi vì bà ta bị xếp vào loại người tội lỗi…
Bất chấp mọi dòm ngó và xì xào, người đàn bà đã tiến đến bên Chúa Giêsu, đập vỡ
một bình dầu thơm, đổ trên chân Chúa Giêsu và dùng tóc lau chân Ngài.
Nhiều
người xì xào, tỏ vẻ khó chịu. Chúa Giêsu đã lên tiếng biện minh cho người đàn
bà và Ngài đã tiên đoán: nơi nào tin Mừng được loan báo thì nơi đó cử chỉ của
người đàn bà được nhắc tới.
Qua lời
tuyên bố trên đây, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng: tất cả mọi nghĩa cử,
dù là một hành vi nhỏ bé đến đâu và làm cho mọi người nhỏ mọn đến đâu, cũng được
ghi nhớ muôn đời.
Tiền
của có thể qua đi, danh vọng có thể mai một, nhưng những việc làm bác ái luôn
có giá trị vĩnh cửu. Thánh Phaolô đã nói: trong ba nhân đức Tin, Cậy, Mến, chỉ
có Ðức Mến là tồn tại đến muôn đời.
Cuộc
đời của mỗi người Kitô chúng ta cũng giống như một bức tranh cần được hoàn
thành. Mỗi một nghĩa cử chúng ta làm cho người khác là một đường nét chúng ta
thêm vào cho bức tranh. Khuôn mặt của chúng ta có thể khô cằn, hoặc rướm máu vì
những cày xéo của những thử thách, khó khăn, đôi tay của chúng ta có thể khô cứng
vì những quảng đại, quên mình. Tuy nhiên, những đường nét bác ái sẽ làm cho
khuôn mặt ấy trở thành bất tử…
(Lẽ
Sống)
Lectio
Divina: Thứ Năm Tuần Thánh
Thứ
Năm 18 Tháng Tư, 2019
Chúa
Rửa Chân Cho Các Môn Đệ
Ga
13:1-15
1.
Bài Đọc – Lectio
a)
Lời nguyện mở đầu
“Lạy Chúa, khi Chúa phán, hư không trở
nên sinh động: bụi tro trở thành người sống, hoang địa trở nên vùng trù
phú… Khi con chuẩn bị để cầu nguyện, con cảm thấy khô khan, con
không biết phải nói gì. Thật rõ ràng, con không ở trong sự hòa hợp với ý
của Chúa, môi miệng con không đồng giai điệu với tâm hồn con, trái tim con
không nỗ lực để được đồng điệu với trái tim Chúa. Xin Chúa hãy đổi mới
trái tim con, xin hãy thanh tẩy miệng lưỡi con để con có thể thưa chuyện với
Chúa như Chúa muốn con làm điều ấy, để con có thể nói với những người khác như
Chúa muốn, để con có thể nói với chính mình, với nội tâm của con, như Chúa muốn.”
(L.
Renna)
b)
Bài đọc Tin Mừng
1 Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu
biết đã đến giờ mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha. Người vốn yêu
thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến
cùng. 2 Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa
Iscariốt, con của Simon, ý định nộp Người. 3 Người
biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên
Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. 4 Người chỗi
dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng; 5 rồi đổ nước vào chậu;
Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. 6 Vậy
Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định
rửa chân cho con ư?” 7 Chúa Giêsu đáp: “Việc
Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu.” 8 Phêrô
thưa lại: “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con.” Chúa Giêsu bảo:
“Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy.” 9Phêrô
liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa.” 10Chúa
Giêsu nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch.
Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu.” 11 Vì
Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: ‘Không phải tất cả các con đều sạch
đâu.’” 12 Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại,
và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa
làm cho các con chăng? 13 Các con gọi Ta là Thầy và
là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. 14 Vậy
nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa
chân cho nhau. 15 Vì Thầy đã làm gương cho các con để
các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con.”
c)
Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Trong
lắng nghe yêu thương, lời nói không cần thiết, bởi vì sự im lặng cũng là cách
nói và thông tri về tình yêu.
2.
Suy gẫm Lời Chúa – Meditatio
a)
Lời mở đầu Lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu
Đoạn
Tin Mừng hôm nay được lồng trong toàn bộ bản văn bao gồm các chương 13 đến
chương 17. Vào lúc đầu, chúng ta có khung cảnh của Bữa Tiệc Ly nơi Chúa
Giêsu chia sẻ với các môn đệ, trong đó Người đã hoàn thành cử chỉ rửa chân (Ga
13:1-30). Sau đó, Chúa Giêsu xen đan một cuộc đối thoại dài chia tay với
các môn đệ (Ga 13:31 – 14:31). Các chương 15-17 có nhiệm vụ bổ túc sâu xa
cho bài giảng của Chúa trước đó. Ngay sau đó, Chúa Giêsu bị bắt giữ (Ga
18:1-11). Dù sao chăng nữa, những sự việc được thuật lại trong các câu
13:17-26 được nối kết với câu 13:1 với Lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu. Thật
là thú vị khi chúng ta để ý đến lời chú thích cuối cùng này: từ câu 12:1
Lễ Vượt Qua không còn được gọi là lễ Vượt Qua của người Do Thái, mà là của Chúa
Giêsu. Từ bây giờ, Người, Chiên Thiên Chúa, là Đấng sẽ giải thoát con người
khỏi tội lỗi. Lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu là việc có mục đích giải thoát
loài người: một cuộc xuất hành mới cho phép đi từ bóng tối đến ánh sáng (Ga
8:12), và sẽ ban sự sống và lễ hội trong nhân loại (Ga 7:37).
Chúa
Giêsu biết rằng Người sắp sửa kết thúc cuộc hành trình của mình về cùng Chúa
Cha và, vì thế Người sắp sửa kết thúc cuộc vượt qua dứt khoát và riêng tư của
Người. Một sự ra đi như thế, về cùng Chúa Cha, xảy ra qua cây Thập Giá,
thời điểm chính trong đó Chúa Giêsu sẽ thí mạng sống của Người vì lợi ích của
nhân loại.
Nó
đánh động người đọc khi nhận thức được phương cách Thánh Sử Gioan giới thiệu
con người Chúa Giêsu thật rõ ràng, trong khi Chúa nhận thức được về những sự kiện
cuối cùng trong đời của Chúa, và do đó, về sứ vụ của Người. Vì vậy, để khẳng
định rằng Chúa Giêsu không hề bị ngã lòng hoặc bị chế ngự bởi các sự kiện đe dọa
mạng sống của mình, mà trái lại Chúa sẵn sàng dâng hiến mạng sống mình.
Trước đó, Thánh Sử đã cho thấy rằng giờ của Chúa chưa đến; nhưng bây giờ trong
việc rửa chân cho các môn đệ, Chúa nói Người biết rằng giờ của Người đã gần kề.
Một nhận thức như thế là căn bản sự diễn đạt của thánh Gioan: “Người vốn
yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến
cùng” (câu 1). Tình yêu dành cho “những kẻ thuộc về Người”, cho những ai
hình thành cộng đoàn mới, đã được hiển nhiên trong khi Người đang sống với họ,
nhưng nó sẽ tỏa sáng một cách cao độ trong cái chết của Người. Chúa Giêsu
biểu lộ tình yêu qua cử chỉ rửa chân, trong đó có giá trị biểu trưng của nó,
cho thấy một tình yêu liên tục được thể hiện qua sự phục vụ.
b)
Việc rửa chân
Chúa
Giêsu tại một bữa ăn tối thông thường với các môn đệ của mình. Người hoàn
toàn ý thức về sứ vụ mà Chúa Cha trao phó cho Người: Việc cứu rỗi nhân loại tùy
thuộc vào Người. Với một nhận thức như vậy, Chúa muốn chỉ bảo cho “những
kẻ thuộc về Người”, qua việc rửa chân, cách mà công cuộc cứu độ của Chúa Cha được
thực hiện và để cho biết trong cử chỉ như là một sự dâng mạng sống của mình cho
sự cứu rỗi nhân loại. Ý muốn của Chúa Giêsu là loài người phải được cứu rỗi,
và sự mong muốn khát khao khiến Người từ bỏ mạng sống của mình và dâng hiến.
Chúa Giêsu nhận thức được rằng Chúa Cha cho phép Người hoàn toàn tự do hành động.
Ngoài
ra, Chúa Giêsu biết rằng nguồn gốc và mục tiêu thật cho cuộc hành trình của Người
là Thiên Chúa; Chúa biết rằng cái chết của mình trên Thập Giá, sự biểu lộ tối
đa tình yêu của Người, là giây phút cuối cùng cuộc hành trình cứu độ của
mình. Cái chết của Chúa là một “cuộc ra đi”; đó là mức tột đỉnh chiến thắng
sự chết của Người. Trong việc dâng hiến mạng sống của mình, Chúa Giêsu mặc
khải cho chúng ta sự hiện diện của Thiên Chúa như sự viên mãn của cuộc sống và
khỏi phải hư mất.
Với ý
thức đầy đủ về căn tính và sự tự do hoàn toàn của mình, Chúa Giêsu sẵn sàng thực
hiện cử chỉ tuyệt vời và khiêm nhường là rửa chân. Một cử chỉ của tình
yêu như thế được diễn tả với rất nhiều động từ (tám) làm cho cảnh trở nên mê hoặc
và tràn đầy ý nghĩa. Tác giả Phúc Âm trong việc trình bày cử chỉ cuối
cùng của Chúa Giêsu đối với những kẻ thuộc về Người, dùng con số hùng biện này
của các động từ tích tụ mà không lặp đi lặp lại để một cử chỉ như vậy còn mãi
sâu đậm trong tâm trí các môn đệ và mỗi người đọc và để cho một điều răn mãi
luôn được ghi nhớ, không bao giờ bị quên lãng. Cử chỉ được Chúa Giêsu thể
hiện có ý định cho thấy rằng tình yêu thật sự được biểu lộ qua các hành động phục
vụ cụ thể. Chúa Giêsu tự cởi áo và cột ngang thắt lưng một cái khăn hoặc
tạp dề, biểu tượng của sự phục dịch. Một cách chính xác hơn, Chúa Giêsu cởi
áo của Người là một cách diễn tả ý nghĩa trọng đại của quà tặng mạng sống.
Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ điều giảng dạy gì qua cử chỉ này?
Chúa cho họ thấy rằng tình yêu được bày tỏ qua việc phục vụ, trong việc dâng hiến
mạng sống mình cho người khác như Chúa đã làm.
Vào
thời Chúa Giêsu, việc rửa chân được xem như là một cử chỉ biểu lộ lòng hiếu
khách và sự chào mừng đối với các người khách. Thông thường, việc này được
làm bởi một người nô lệ hoặc bởi người vợ, coi như công việc của người vợ và
cũng như của con gái đối với cha của họ. Bên cạnh đó, theo tục lệ nghi thức
rửa chân phải được thực hiện trước khi ngồi vào bàn ăn chứ không phải đang
trong bữa ăn. Việc gài vào hành động của Chúa Giêsu như thế có ý nhấn mạnh đến
hành động của Chúa rất đặc thù hoặc có ý nghĩa là dường bao.
Và vì
thế, Chúa Giêsu quỳ xuống để rửa chân cho các môn đệ của Người. Việc dùng
đi dùng lại cái khăn mà Chúa Giêsu thắt ngang lưng nhấn mạnh đến thái độ của việc
phục vụ là một nhân cách thường trực của Chúa Giêsu. Trong thực tế, sau
khi làm xong việc rửa chân, Chúa Giêsu sẽ không cởi bỏ cái khăn mà Người đã
dùng nó như cái tạp dề. Một chi tiết như thế có ý muốn nhấn mạnh rằng
tình-yêu-phục-vụ không kết thúc với cái chết của Người. Chi tiết nhỏ nhặt
này cho thấy chủ đích của Tác Giả Phúc Âm muốn nhấn mạnh đến ý nghĩa và tầm
quan trọng của cử chỉ của Chúa Giêsu. Bằng vào việc rửa chân cho các môn
đệ, Chúa Giêsu có ý cho các ông thấy tình yêu của Người, mà đó cũng là tình yêu
của Chúa Cha (Ga 10:30-38). Hình ảnh Đức Giêsu mặc khải về Thiên Chúa thì
thực sự gây chấn động: Người không là Đấng Tối Cao độc quyền ngự trị trên
Thiên Đàng, nhưng Chúa cho thấy Người như là một tôi tớ của nhân loại để nâng
cao nó lên đến mức thiêng liêng. Từ nguồn phục vụ thiêng liêng này tuôn
chảy, cho cộng đoàn tín hữu, rằng sự tự do xuất phát từ tình yêu dâng hiến cho
tất cả các thành viên của nó như “các chúa” (tự do) bởi vì họ là những tôi tớ.
Nó cũng giống như nói rằng chỉ có sự tự do mới tạo nên tình yêu đích thực.
Từ bây giờ, sự phục vụ mà các tín hữu sẽ làm cho loài người sẽ có mục đích là
phục hồi lại mối quan hệ giữa loài người trong đó sự bình đẳng và tự do là một
hệ quả của việc thực thi việc phục vụ đáp trả. Đức Giêsu, với cử chỉ của
Người có mục đích cho thấy rằng bất kỳ sự thống trị hoặc dự định áp đặt lên con
người thì trái với thái độ của Thiên Chúa là Đấng thay vào đó lại phục vụ loài
người để nâng họ lên bằng với mình. Bên cạnh đó, các kỳ vọng của sự vượt
trội của một người hơn một người khác không còn có bất kỳ một ý nghĩa nào, bởi
vì cộng đoàn được thành lập bởi Chúa Giêsu không có bất kỳ đặc điểm của hình
kim tự tháp, nhưng có những kích thước hàng ngang, trong đó mỗi người là để phục
vụ cho những người khác, noi theo gương của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu.
Một
cách tổng hợp, cử chỉ mà Chúa Giêsu đã làm nói lên các giá trị sau đây:
tình yêu đối với anh em đòi hỏi phải được thể hiện trong sự chấp nhận huynh đệ,
hiếu khách, đó là, trong sự phục vụ trường cửu.
c)
Sự phản kháng của Phêrô
Phản ứng
của ông Phêrô trước cử chỉ của Chúa Giêsu được thể hiện trong thái độ ngạc
nhiên và phản đối. Ngoài ra còn có một thay đổi trong cách ông liên hệ với
Đức Giêsu: Phêrô gọi Người là “Chúa” (Ga 13:6). Trong một danh hiệu
như thế, Chúa Giêsu được công nhận là ở vị trí ưu việt hơn, thay vào đó, lại
mâu thuẫn với việc “rửa chân”, đó là một hành động của một kẻ kém cỏi
hơn. Sự phản đối được thể hiện một cách mạnh mẽ bởi những lời: “Lạy
Thầy, Thầy muốn rửa chân cho con sao?” Trong mắt của Phêrô cử chỉ rửa
chân thấp hèn này đối với ông dường như là một sự đảo ngược những giá trị quy định
mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và loài người: Chúa là Thầy, còn Phêrô là
phàm nhân lệ thuộc vào Chúa. Phêrô không chấp nhận sự bình đẳng mà Chúa
Giêsu muốn tạo ra giữa loài người với nhau.
Để trả
lời cho việc hiểu lầm như thế, Chúa Giêsu mời gọi Phêrô chấp nhận ý nghĩa việc
Chúa rửa chân cho ông như là một bằng chứng cho tình yêu của Người đối với
ông. Một cách chính xác hơn, Đức Giêsu muốn ban cho ông một bằng chứng cụ
thể rằng Người và Chúa Cha yêu mến ông như thế nào.
Nhưng
trong phản ứng của Phêrô, ông vẫn chưa muốn chịu thua: ông nhất quyết từ
chối để cho Chúa Giêsu quỳ xuống rửa chân cho ông. Theo Phêrô, mỗi một
người cần phải làm theo vai trò của mình, một cộng đoàn hay một xã hội dựa trên
sự bình đẳng là một việc không thể có. Việc Chúa Giêsu từ bỏ ngôi vị cao
quý của mình để hạ mình xuống ngang hàng với các môn đệ là điều không thể chấp
nhận được. Ý tưởng về một vị Thầy như thế làm Phêrô rối trí và đưa đến việc
phản đối. Không chấp nhận sự phục vụ vì tình yêu mến của Thầy mình, thì
ông cũng không chấp nhận rằng Chúa chết trên thập giá cho ông (Ga 12:34;
13:37). Có thể nói rằng Phêrô vẫn còn xa vời với sự hiểu biết về tình yêu
đích thực là gì, và với một chướng ngại như thế là sự ngăn trở để Chúa Giêsu có
thể chỉ cho ông thấy hành động của Người.
Cùng
vào lúc ấy, nếu Phêrô chưa sẵn sàng để chia sẻ những động lực của tình yêu được
thể hiện trong việc phục vụ lẫn nhau, thì ông cũng không thể chia sẻ tình bạn với
Chúa Giêsu và thực sự chấp nhận nguy hiểm để từ bỏ chính mình.
Nghe
theo lời khuyên dạy của Chúa Giêsu: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, thì
con sẽ không được dự phần với Thầy” (câu 8), Phêrô tuân theo những lời răn đe của
Thầy, nhưng không chấp nhận ý nghĩa sâu xa việc làm của Chúa Giêsu. Ông
cho thấy đã cởi mở hơn, sẵn sàng để Chúa rửa chân cho mình, nhưng không chỉ là
chân, mà còn cả tay và đầu nữa. Có vẻ như là Phêrô dễ dàng chấp nhận cử
chỉ của Chúa Giêsu như là một hành động để thanh tẩy hoặc rửa tội hơn là một sự
phục vụ. Nhưng Chúa Giêsu trả lời rằng các môn đệ đã trở nên tinh khiết
(“sạch”) vào lúc họ đã chấp nhận để cho họ được hướng dẫn bởi Lời của Chúa, từ
bỏ những gì thuộc về thế gian. Phêrô và các môn đệ không còn cần đến nghi
thức thanh tẩy của người Do Thái nhưng bằng lòng để cho chân của họ được rửa bởi
Chúa Giêsu; hay nói đúng hơn là cho phép mình được Chúa yêu thương, ban cho họ
phẩm giá và sự tự do.
d)
Kỷ niệm Tình yêu
Sau
khi rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu có ý định để cho hành động của mình có
một giá trị lâu dài cho cộng đoàn của mình và đồng thời để lại đó một kỷ niệm
hay một giới răn là phải luôn giữ đúng mối quan hệ anh em.
Đức
Giêsu là Chúa, không phải trong chiều hướng thống trị, mà là trong chiều hướng
Người truyền đạt tình yêu của Chúa Cha (Thần Khí của Người) để cho chúng ta trở
nên con cái Thiên Chúa và đủ điều kiện trở nên giống Chúa Giêsu là Đấng tự do
trao ban tình yêu của Người cho những kẻ thuộc về mình. Chúa Giêsu đã có
ý truyền đạt một tâm tình như thế cho những kẻ thuộc về Người, một tình yêu
không loại trừ bất cứ ai, ngay cả Giuđa là kẻ sắp sửa phản bội Người. Do
đó, nếu các môn đệ gọi Người là Chúa, thì họ phải bắt chước giống như Người; nếu
các ông coi Người là Thầy là Chúa, thì họ phải nghe lời Người.
e)
Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm
–
Người chỗi dậy từ bàn ăn: Bạn sống Bí Tích Thánh Thể như thế
nào? Bạn có cho phép mình được cảm động bởi tác động của lửa tình
yêu mà bạn nhận được không hay bạn chỉ ngồi thụ động? Bạn có phải đối diện
với nguy cơ rằng Bí Tích Thánh Thể, trong đó bạn tham gia, bị lạc mất trong sự
chiêm niệm Ái Kỷ, mà không dẫn đến sự cam kết của tình đoàn kết và chia sẻ
không? Sự dấn thân của bạn cho công lý, cho người nghèo khó, có sẽ đến từ
đức tính gặp gỡ Chúa Kitô trong Thánh Thể, từ sự quen thuộc với Người không?
–
Người cởi áo khác ngoài: từ Bí Tích Thánh Thể, đi vào đời sống hằng ngày,
bạn có biết cách để loại bỏ cái áo khoác lợi ích cho riêng bạn, các toan tính của
bạn, các quyền lợi riêng tư của bạn để cho phép bản thân mình được hướng dẫn bởi
một tình yêu chân chính đối với tha nhân không? Hay là, sau khi chịu phép
Thánh Thể bạn không có khả năng rũ bỏ cái áo khoác áp đặt và kiêu căng để khoác
lên mình một cái áo khoác của đơn sơ, của khó nghèo không?
–
Người lấy khăn và thắt ngang lưng: đây là hình ảnh của “Giáo Hội của tạp
dề”. Trong đời sống của gia đình bạn, của cộng đoàn giáo hữu của bạn, bạn
có đi trên con đường của phục vụ, chia sẻ không? Bạn có trực tiếp tham
gia trong việc phục vụ người nghèo khổ và bé mọn không? Bạn có biết cách
để nhìn thấy khuôn mặt của Đức Kitô đang trông chờ được phục vụ, yêu thương
trong những người nghèo khó không?
3.
Cầu Nguyện – Oratio
a)
Thánh Vịnh 116 (114-115): 12-13; 15-16; 17-18
Tác
giả Thánh Vịnh đã tìm thấy chính mình trong thời gian và trong sự hiện diện của
cộng đoàn phụng vụ hát lên lời tạ ơn hy lễ của mình. Voltaire là người có
một thị hiếu đặc biệt cho câu 12 đã phát biểu như sau: “Tôi có thể dâng
lên Chúa được những gì để cho xứng với tất cả mọi ân sủng mà Người đã dành cho
tôi?”
Con lấy
gì dâng lại cho Chúa
để đền
đáp những điều Ngài ban tặng cho con?
Con sẽ
lãnh chén cứu độ,
và
con sẽ kêu cầu danh Chúa.
Trước
mặt Chúa thật là quý hóa
cái
chết của những bậc thánh nhân Ngài.
Con
nài van Chúa, lạy Chúa!
Con
là tôi tớ Ngài,
Con
là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tì Ngài;
Ngài
đã bẻ gãy xiềng xích cho con.
Con sẽ
hiến dâng lời ca ngợi làm hy lễ,
và
con sẽ kêu cầu danh Chúa.
Con sẽ
giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa,
trước
mắt toàn thể dân Ngài.
b)
Lời nguyện kết
Bị mê
hoặc với cách mà Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Người với những kẻ thuộc về
mình, lời cầu nguyện khởi nguyên như sau:
Lạy
Chúa Giêsu, xin hãy đến, chân con đang bẩn.
Xin
hãy trở thành một người hầu của con, hãy đổ nước vào chậu;
Xin
hãy đến, rửa chân cho con.
Con
biết chứ, những gì con đang nói đây thì thật là táo bạo,
nhưng
con sợ sự răn đe từ những lời của Chúa:
“Nếu
Thầy không rửa chân cho con,
con sẽ
không được dự phần với Thầy.”
Vậy
thì Chúa hãy rửa chân con đi,
để
con có thể được dự phần cùng Chúa.
(Bài
giảng 5 về Isaia)
Và
thánh Ambrose có một mong muốn mãnh liệt để được tương xứng với tình yêu của
Chúa Giêsu, đã thố lộ như sau:
Ôi, lạy
Chúa Giêsu của con,
xin
hãy để cho con rửa đôi chân thiêng liêng của Chúa;
chân
Chúa đã lấm bẩn khi Ngài bước vào tâm hồn con…
Nhưng
con sẽ phải lấy nước từ giếng nước nào
để rửa
chân cho Chúa đây?
Trong
sự thiếu thốn đó
con
chỉ có đôi mắt để khóc:
rửa
chân Chúa bằng nước mắt của con,
chỉ
có làm như thế thì bản thân con mới có thể trở nên tinh sạch.
(Luận
về việc đền tội)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét