26/05/2019
Chúa Nhật 6 PHỤC SINH năm C
(phần I)
BÀI ĐỌC I: Cv 15, 1-2. 22-29
"Thánh Thần và chúng tôi xét rằng
không nên đặt thêm gánh nặng nào khác ngoài mấy điều cần kíp".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, có mấy người
từ Giuđêa đến dạy bảo các anh em rằng: "Nếu anh em không chịu cắt bì theo
luật Môsê, thì không được cứu độ". Do đó, Phaolô và Barnaba đã tranh luận
gắt gao với họ. Bấy giờ người ta quyết định là Phaolô, Barnaba và một ít người
khác thuộc phe họ, lên Giêrusalem gặp các Tông đồ và niên trưởng, để xin giải
quyết vấn đề này.
Bấy giờ các Tông đồ, kỳ lão, cùng
toàn thể Hội thánh chấp thuận chọn ít người trong các ngài, và sai đi Antiôkia
với Phaolô và Barnaba: đó là Giuđa, gọi là Barsaba, và Sila, những vị có uy thế
giữa anh em. Các ngài nhờ tay hai ông chuyển bức thơ viết như sau:
"Anh em Tông đồ và kỳ lão
chúng tôi kính chào các anh em thuộc dân ngoại ở Antiôkia, Syria và Cilicia.
Chúng tôi nghe tin rằng có mấy người trong chúng tôi đã đến nói những lời gây
hoang mang và làm cho tâm hồn anh em xao xuyến, chúng tôi không uỷ quyền cho họ,
vì thế chúng tôi họp lại, đồng ý chọn một ít người và sai đến anh em làm một với
Barnaba và Phaolô, những anh em yêu quý của chúng tôi, tức là những người đã liều
mạng sống mình vì danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi đã sai
Giuđa và Sila đến nói miệng với anh em cũng chính những lời này: Thánh Thần và
chúng tôi xét rằng không nên đặt thêm cho anh em gánh nặng nào khác ngoài mấy
điều cần kíp này là anh em hãy kiêng đồ cúng thần, huyết, thịt thú chết ngạt và
gian dâm; giữ mình khỏi các điều đó là anh em làm phải. Chúc anh em vạn
an". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 66, 2-3. 5-6 và 8
Đáp: Chư dân, hãy ca tụng Ngài,
thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (c. 4).
Hoặc đọc: Alleluia.
1) Xin Thiên Chúa xót thương và
chúc phúc lành cho chúng con, xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan
Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên
hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ. - Đáp.
2) Các dân tộc hãy vui mừng hoan
hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu.
- Đáp.
3) Chư dân, hãy ca tụng Ngài,
thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa chúc phúc lành
cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ
Ngài. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: Kh 21, 10-14. 22-23
"Người chỉ cho tôi thấy thành
thánh do Thiên Chúa từ trời gởi xuống".
Trích sách Khải Huyền của Thánh
Gioan.
Thiên Thần đem tôi lên một núi
cao chót vót khi tôi ngất trí, và chỉ cho tôi thấy thành thánh Giêrusalem từ trời
nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Ánh sáng của nó toả ra
như đá quý, giống như ngọc thạch, óng ánh tựa pha lê. Thành có tường lũy cao lớn,
trổ mười hai cổng, trên các cổng có mười hai thiên thần, và có khắc tên mười
hai chi họ con cái Israel. Phía đông có ba cổng, phía bắc có ba cổng, Phía nam
có ba cổng, và phía tây có ba cổng. Tường thành xây trên mười hai móng có khắc
tên mười hai tông đồ của Con Chiên. Còn đền thờ, tôi không thấy có trong thành,
vì Thiên Chúa toàn năng và Con Chiên là đền thờ của thành. Thành không cần mặt
trời, mặt trăng chiếu soi: vì đã có vinh quang Thiên Chúa chiếu sáng nó, và đèn
của nó chính là Con Chiên. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán:
"Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy,
và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 14, 23-29
"Thánh Thần sẽ nhắc nhở cho các
con tất cả những gì Thầy đã nói với các con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người
ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ
lời Thầy. Lời các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Đấng đã
sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con.
Nhưng Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người
sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói
với các con. Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các
con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao
xuyến và đừng sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi
Thầy trở lại với các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì
Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với các con trước
khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin". Đó là lời
Chúa.
(thanhlinh.net)
SUY NIỆM : Thiên Chúa đã đến
cư ngụ nơi những kẻ yêu mến Người
Theo những lời đầu tiên của bài
Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa đang dặn dò môn đồ những lời cuối cùng trước
khi Người ra đi chịu chết. Bầu khí này hợp để hướng lòng chúng ta về ngày lễ
Chúa lên trời cử hành trong Chúa nhật sau. Nhưng những lời từ biệt cũng là những
cảm tình Chúa để lại mãi mãi nơi Hội Thánh, và nói về Hội Thánh. Hội Thánh đã
đón nhận những lời này để trao ban lại cho chúng ta để mọi thế hệ Kitô hữu thi
hành ý Chúa mà xây dựng Nước Trời.
Bài Tin Mừng sẽ cho chúng ta thấy
Hội Thánh đón nhận Lời Chúa như thế nào; rồi bài sách Công vụ, các Tông đồ sẽ
chứng tỏ nhiệt tình của Hội Thánh, thi hành Lời Chúa; và cuối cùng bài Khải huyền
sẽ mở ra cho chúng ta được chiêm ngưỡng trước vinh quang của Nước Trời, tức là
Hội Thánh sau này nơi Thiên Quốc.
1. Hội Thánh Ðón Nhận Lời Chúa
Tác giả Gioan đã để Chúa Giêsu ngồi
nói chuyện lâu với các tông đồ nơi bàn tiệc ly. Ông muốn dùng khung cảnh ấy để
câu chuyện được thắm thiết. Mỗi lời môn đệ hỏi là một dịp để Chúa Giêsu dốc hết
bầu tâm sự của Người. Ðoạn Tin Mừng hôm nay là Lời Chúa đáp lại câu hỏi của
tông đồ Giuđa - không phải là Iscariốt đâu. Nghe Chúa nói: "Ai yêu mến Người
thì Người sẽ tỏ mình ra cho người ấy", ông Giuđa liền hỏi: "Tại sao
Người sẽ tỏ mình ra cho chúng tôi, chứ không cho thế gian?" Ông đã phát biểu
tâm tư của hết mọi anh em, và có thể nói, của mọi người.
Thật vậy, người ta không chờ Ðức
Giêsu là Cứu Thế sao? Riêng các môn đệ, họ đi theo Người không phải vì tin rằng
Người sẽ tỏ vinh quang của Người ra và họ sẽ được xếp hàng hai bên tả hữu Người
sao? Theo quan niệm của mọi người, Ðấng Cứu Thế phải được hiển vinh. Người sẽ
lên cao trong xã hội và lấy uy quyền, đức độ của mình mà tái lập sự công chính ở
trần gian. Thế mà bây giờ Ðức Giêsu lại bảo Người sẽ chỉ tỏ mình ra cho những kẻ
mến Người và giữ lệnh Người. Số người này ít quá. Sau ba năm Người làm việc, số
người đó đang ngồi cả ở đây chung quanh bàn Tiệc Ly. Cũng có một số môn đệ
khác, đông hơn không có mặt ở đây. Nhưng cũng chưa chắc họ sẽ theo Người mãi
mãi. Con số 12 ở đây là chắc hơn cả, ấy là chưa kể lúc này chỉ còn 11, vì tên
phản phúc nộp Thầy đã ra đi rồi. Vậy nếu Chúa chỉ tỏ mình cho nhóm 12 này thì
vinh quang Ðấng Cứu Thế sẽ như thế nào? Chúng ta phải hiểu thế nào về vai trò Cứu
Thế của Ðức Giêsu? Người có phải là Cứu Thế không? Hay là chúng ta phải thay đổi
quan niệm cứu thế xưa nay của mình? Câu hỏi của tông đồ Giuđa rất quan trọng.
Và chắc chắn ai ai cũng chăm chú chờ đợi câu trả lời.
Chúa Giêsu đã lên tiếng. Người lặp
lại ý đã nói: Ai mến Người thì sẽ giữ Lời Người và Cha Người sẽ yêu mến kẻ ấy.
Rồi Người tiếp - và đây là lời Người đáp lại câu hỏi của môn đệ: "Chúng ta
sẽ đến với nó và sẽ đặt chỗ ở nơi mình nó."
Những ai nhớ Kinh Thánh hẳn đã thấy
Chúa trả lời rất đầy đủ và gẫy gọn. Nhưng sợ các tông đồ không thể hiểu hết ý của
Người. Thế nên Người còn thêm một ý tưởng tiêu cực để giúp họ dễ hiểu hơn. Người
nói: "Ai không mến Ta thì không giữ lời Ta". Và lẽ ra Người đã phải
nói thêm: "Và chúng ta sẽ không đến với nó và sẽ không đặt chỗ ở nơi mình
nó". để các tông đồ thấy rằng: quả thật Chúa sẽ chỉ tỏ mình ra cho những kẻ
mến Người và giữ lời Người mà thôi. Còn kẻ không mến Người và không giữ lời Người
sẽ không được Người tỏ mình ra. Là vì lời Người nói không phải của Người nhưng
là của Ðấng đã sai Người là Chúa Cha. Nếu người ta từ khước Lời Thiên Chúa thì
làm sao Chúa Cha và Người có thể tỏ mình ra cho họ?
Nhưng dù ý Chúa đã khá rõ như vậy,
các Tông đồ vẫn chưa thể hiểu hết. Và có lẽ chính chúng ta cũng vậy. Chúng ta hết
thảy cần được giải thích thêm. Và đây là công việc của Chúa Thánh Thần mà hôm
nay Chúa Giêsu hứa sẽ đến với các tông đồ và nhắc nhở dạy dỗ họ biết mọi sự và
hiểu mọi lời Chúa nói. Chúng ta không nên thắc mắc nhiều vì sao Chúa Giêsu đã
không làm cho môn đệ hiểu hết và hiểu ngay tức khắc sự thật mà Người muốn nói với
họ. Mầu nhiệm của Người cốt yếu nằm trong việc Người tử nạn phục sinh. Việc này
chưa xảy đến thì các sự thật về Người khó mà tỏ hiện hoàn toàn được. Trái lại,
sau khi đã tham dự việc Người chịu chết và sống lại, người ta mới có khả năng
hiểu mọi chân lý cứu độ mà Người thông tri cho họ.
Vậy nhờ ánh sáng của mầu nhiệm Tử
nạn Phục sinh chúng ta bây giờ mới lãnh hội được ý nghĩa sâu xa của Lời Chúa
đáp lại câu hỏi của tông đồ Giuđa. Ông này muốn biết vì sao Chúa chỉ tỏ mình ra
cho môn đệ, chứ không cho thế gian. Ông quan niệm Nước của Chúa phải đến theo ý
nghĩa xác thịt. Ông cũng như mọi người cứ tưởng rằng Ðấng Cứu Thế sẽ làm Vua
thiên hạ ở đời này... Ðang khi đọc lại lời các tiên tri và theo dõi giáo huấn của
Chúa Giêsu từ ngày Người ra đi giảng đạo, chúng ta phải công nhận quan niệm như
vậy không đúng tí nào. Ngay từ đầu, khi Chúa gọi các tổ phụ, Người vẫn bảo đảm
rằng Người ở với họ. Và đó là dấu hiệu họ được tuyển chọn. Lúc nhờ Môisê tập họp
con cái Israen lại thành dân riêng, Người cũng khẳng định sẽ ở với họ nếu họ giữ
giao ước của Người. Vẫn biết Người đã ban cho họ những dấu hiệu làm chứng Người
ở với họ, như Lều Giao Ước, Hòm Bia Thánh v.v... Nhưng đó chỉ là dấu hiệu và một
vài dấu hiệu thôi. Sự hiện diện của Người còn rõ rệt trong nhiều dấu hiệu khác
và đặc biệt trong cách Người dẫn dắt lịch sử Israen, như mục tử chăn dắt đàn
chiên. Dân Chúa nhận biết Người ở với họ khi Người ra tay cứu họ khỏi kẻ thù
hơn là tựa vào những dấu hiệu bề ngoài như Hòm Bia Thánh hay là Lều Giao Ước.
Chắc chắn khi thấy Chúa lấy hình lửa, khói vào đầy đền thờ mới xây, Salomon đã
cảm tạ Chúa vô vàn vì Người là Ðấng mà cả trời đất không chứa nổi, đã khấng đến
ở với dân Người trong đền thờ...
Nhưng rồi Êzêchien đã thấy khói lửa
ở đền thờ bốc lên, và đi theo đoàn người lưu đày... Những người có khuynh hướng
xác thịt vẫn ước mong được thấy có ngày đền thờ được tái thiết, Chúa lại đến ở
với dân trong đền thờ mới... Nhưng những người có tâm hồn cao thượng và ý nghĩ
tiến bộ đã nghe lời Giêrêmia và các tiên tri để trông đợi ngày Giao Ước mới được
ký kết ngay trong tâm hồn người ta và Thần khí của Chúa sẽ được đổ xuống trên
tôi tớ nam nữ của Chúa, chứng tỏ Ðấng Emmanuen, Ðấng Thiên Chúa ở cùng chúng
tôi sẽ không ở nơi các đền thờ bằng đá, gạch nhưng cần nhất là nơi tâm hồn dân
Chúa...
Ðức Giêsu từ ngày ra giảng đạo
không ngớt hướng tâm trí mọi người theo hướng ấy. Và hôm nay Người khẳng định với
môn đệ: Ai mến Người sẽ giữ lệnh Người, kẻ ấy sẽ được Thiên Chúa yêu mến; và
Cha Người với Người sẽ đến cư ngụ nơi mình họ. Dĩ nhiên Người không thể đến cư
ngụ với thân thể Người đang mang khi ngồi nói với họ đây. Nhưng khi Người đã được
tôn vinh nơi Thiên Chúa trong mầu nhiệm Phục sinh, Người sẽ ở trong vinh quang
Chúa Cha và bấy giờ cùng Chúa Cha đến ở trong tâm hồn những kẻ yêu mến Người và
giữ lệnh Người. Còn những kẻ không tin và giữ Lời Người thì tự họ đã đặt cản trở
cho Thiên Chúa đến ở với họ. Và dấu chỉ rõ ràng việc Người sẽ tỏ mình ra cho những
kẻ giữ lệnh Người là việc Thánh Thần sẽ được ban xuống cho họ, nhân danh Chúa
Giêsu Kitô.
Tất cả những điều này xảy ra. Ðức
Giêsu đã ra đi biến đổi thân xác của mình. Sau đó Người đã trở lại tỏ mình ra
cho môn đệ, chứ không cho thế gian. Rồi cũng chỉ có các môn đệ được lãnh nhận
Thánh Thần, khiến thiên hạ phải công nhận Thiên Chúa đang ở với các môn đệ của
Người...
Tuy nhiên, như đã nói, khi ở bàn
tiệc ly, các tông đồ chưa được thấy những việc này. Họ chưa hiểu được lời của
Chúa. Họ lại sắp sửa vấp phải thử thách của mầu nhiệm thập giá. Chúa Giêsu
thương họ. Người phải an ủi, nên đã nói thêm với họ: "Ta để lại bình an
cho các ngươi". Ðây không
phải là sự bình an theo nghĩa thế gian. Cũng không phải là sự bình an theo như
người Do Thái hiểu khi chào nhau để cầu xin cho nhau được sự độ trì của Thiên
Chúa. Nhưng đây là sự bình an của chính Chúa Giêsu, sự bình an Người "mua
sắm" được trong mầu nhiệm thánh giá, để giảng hòa tội nhân với Thiên Chúa,
để đưa tội nhân vào thân thể mầu nhiệm của Người cho họ được ơn tha thứ tội lỗi
và trở nên Con Thiên Chúa, để họ được Thiên Chúa làm Ðấng ở cùng họ.
Do đó, cho dù chưa đi chịu chết và sống lại, và chưa làm cho môn đệ trở
nên đền thờ Thiên Chúa ngay được, Ðức Giêsu khi để lại sự bình yên cho họ, đã
như bảo đảm cho họ sẽ được Thiên Chúa ở cùng, để khi gặp thử thách thập giá, họ
có thể vững tâm. Họ không có gì phải sợ vì rồi đây Chúa sẽ trở lại và tỏ mình
ra cho họ chứ không cho thế gian. Hơn nữa họ còn phải vui mừng vì việc Người ra
đi. Xét về bản tính nhân loại, Người vẫn ở dưới Chúa Cha và việc Người về với
Chúa Cha chỉ có lợi cho Người và cho họ. Người về để được lại vinh quang mà Người
vẫn có nơi Chúa Cha để cùng Chúa Cha trở lại với họ trong vinh quang ấy, khiến
cộng đoàn của họ sẽ không như hiện giờ nữa nhưng sẽ đổi mới và vinh quang khác
thường.
Và những điều này thật sự đã xảy ra. Sau khi Chúa Giêsu sống lại và ban
Thánh Thần xuống, cộng đoàn môn đệ đã mau biến dạng. Mọi người phải kinh ngạc,
và ai nấy phải nhận là Thiên Chúa đã đến ở cùng cộng đoàn những người yêu mến
Chúa và giữ lệnh Người. Chúng ta hãy nhìn xem cộng đoàn ấy sinh hoạt trong bài
sách công vụ hôm nay.
2. Chúa Ở Cùng Hội Thánh
Bài sách chỉ giữ lại đoạn đầu và đoạn cuối câu chuyện. Chúng ta biết có
chuyện một số người từ Giuđê xuống Antiôkia. Họ cũng là Kitô hữu nhưng trước
đây ở trong Do Thái giáo và giữ Luật Môisê. Ðến Antiôkia họ gặp các tín hữu mới,
đã trở lại từ lương dân. Những người này chỉ mến Chúa và giữ lệnh Người truyền
chứ không để ý đến những bó buộc của luật Môisê, đặc biệt luật cắt bì. Thấy vậy,
những anh em ở Giuđê đến không chịu. Họ bảo phải cắt bì và giữ luật Môisê. Họ
phản đối Barnaba và Phaolô trong vấn đề này, vì chính hai ông từ đầu, đã không
biết dạy lương dân khi tòng giáo phải giữ luật Môisê. Và họ làm cho cả miền đất
ngoại cũ này xôn xao, mất bình an. Thế là giáo dân ở Antiôkia, phải cử Phaolô
và Barnaba lên Giêrusalem với mấy anh em để gặp gỡ các bậc lãnh đạo Hội Thánh ở
Giuđê.
Ðến nơi, người ta càng thấy vấn đề nghiêm trọng. Hội Thánh ở Giuđê cũng
rất xôn xao, trước cả Antiôkia nhiều. Người ta bàn tán rất nhiều về việc Phaolô
và Barnaba không bắt lương dân tòng giáo, phải chịu cắt bì và giữ luật Môisê.
Những người chống đối thái độ "dễ dàng" này dường như muốn bám víu uy
tín của tông đồ Giacôbê đang lãnh đạo Hội Thánh ở Giêrusalem. Nhưng Phaolô và
Barnaba biết ai là người có uy quyền thật sự. Các ông đến với Phêrô xin vị tông
đồ trưởng này kể lại cho mọi người rõ Chúa Thánh Thần đã dạy dỗ ông thế nào. Và
ông đã lên tiếng thuật lại việc đã xảy ra tại nhà Cornêliô. Nhiều người lương
dân đang nghe ông giảng thì đã nhận ra được Thánh Thần hiện xuống, khiến Phêrô
dạy phải rửa tội ngay cho họ mà không cần bó buộc phải cắt bì.
Nghe Phêrô làm chứng như vậy, Giacôbê đã lên tiếng ôn hòa hơn và làm cho
Hội Thánh chấp nhận giải pháp hôm nay. Hội Thánh phủ nhận việc làm của những
anh em đã từ Giuđê đến gây xáo trộn ở Antiôkia: họ đã làm việc tự ý chứ không
có ủy nhiệm. Bù lại, Hội Thánh nhất trí cử lại một phái đoàn đến lập lại bình
an. Hội Thánh cũng lấy lại uy tín cho Phaolô và Barnaba là những anh em kính mến
đã tận hiến đời mình cho công cuộc của Chúa. Nhất là Hội Thánh ban như nói rõ:
"Thánh Thần và chúng tôi quyết định không chất thêm gánh nặng nào cho anh
em (lương dân trở lại), trừ vài điều cần kíp này..." nhưng không có vấn đề
cắt bì nói riêng và luật Môisê nói chung.
Ðó là thắng lợi cho Phaolô và Barnaba; sự vui mừng của anh em ở Antiôkia
đã không nhỏ. Nhưng đó là những điều nhất thời. Kết quả lâu dài và tồn tại là
chính sự bình an mà Hội Thánh đã đạt được ở hết mọi nơi, tại Giuđê cũng như ở
Antiôkia. Sự bình an này thật sâu rộng và phải nói là bởi trời. Nó đem lại sự
nhất trí nơi các tông đồ; nó xiết chặt. Hội Thánh Mẹ với các Hội Thánh con; nó
làm cho Hội Thánh Mẹ thấy Chúa đang ban cho mình được các dân tộc; nó khiến các
dân mới ý thức vinh dự đồng thừa tự trong Ðức Kitô. Rõ ràng đây là việc của
Thánh Thần. Chính Người đã thắng khi làm cho mọi người hiểu ý của Người đã tỏ
ra tại nhà Cornêliô. Người đã đem môn đệ của Chúa vào sự thật và đã nhắc nhở,
soi sáng để họ hiểu mọi lời Chúa đã nói. Thế nên không phải vô lý mà các môn đệ
của Chúa đã để tên Chúa Thánh Thần ngay ở văn kiện đầu tiên của Công đồng thứ
nhất của Dân Chúa. Và điều này nói lên rằng: Thiên Chúa ở cùng Hội Thánh. Người
không thụ động trong Hội Thánh nhưng luôn sinh hoạt với Hội Thánh, làm cho Lời
Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay thành sự thật ở trước mắt mọi người:
Hễ ai yêu mến Chúa và giữ lệnh Người thì Cha Người và Người sẽ đến ở nơi mình họ...
Người sẽ ban Thánh Thần đến, dạy dỗ họ và cho họ được bình an, sự bình an đặc
biệt của Người mà thế gian không có cũng chẳng ban được.
Những điều này khiến chúng ta vững vàng đi với Hội Thánh. Và cùng Hội
Thánh hướng về tương lai mà sách Khải Huyền hôm nay mô tả.
3. Hội Thánh Là Giêrusalem Mới
Tác giả Gioan đã trỏ cho thấy Tân nương, hiền thê của Chiên Con. Quang cảnh
xảy ra trên một ngọn núi hùng vĩ và cao chót vót. Không phải là núi Sion nữa để
cho thấy cũ đã qua, mới đã đến. Và Giêrusalem hiền thê của Chiên Con chưa có sẳn
ở đó, nhưng rồi đã từ trời xuống, để ai nấy đều biết đây là tạo dựng mới hoàn
toàn, phát xuất từ nơi Thiên Chúa. Hơn nữa nó còn chói lại vinh quang của Người
và ánh sáng của nó tỏa ra rất là linh diệu, không bút nào tả xiết. Tác giả
Gioan đã viết những điều như thế để chúng ta đừng ngộ nhận, tưởng rằng thiên quốc
và đời sống hạnh phúc mai này chỉ nối dài những điều mắt thấy tai nghe ở đời
này. Không, mọi sự đều mới hẳn và đến từ Thiên Chúa.
Tuy nhiên, Giêrusalem thiên quốc vẫn liên hệ mật thiết với Hội Thánh dưới
đất, vì kìa Gioan thấy nó có tường cự đại, trổ 12 cổng có khắc tên 12 chi tộc
con cái Israen, để chứng tỏ dân cũ đã đóng vai trò lịch sử của nó là mở đường
cho thiên hạ đi vào Nước Trời. Chúng ta không nên tưởng 12 thiên thần đứng ở 12
cổng có nhiệm vụ canh gác... Thời gian lựa chọn đã qua rồi. Họ đứng đó để tiếp
rước và để nói lên vinh dự của con cái Thiên Chúa từ nay được ở với các thiên
thần. Và như lời Kinh Thánh đã hứa, những kẻ ở bên đông, bên tây, bên nam và
bên bắc sẽ đến dự tiệc Nước Trời, nên ở đây sau khi nói đến 12 cổng, tác giả
Gioan đã ghi rõ mỗi phía đều có 3 cổng. Ông lập lại ý tưởng đã viết chỉ để nhấn
mạnh rằng mọi lời hứa đều đã thực hiện. Và tuy rằng 12 cổng đều mang tên 12 họ
con cái Israen, tất cả tường thành đều xây trên nền móng 12 tông đồ của Chiên
Con, để nói lên sự mật thiết giữa dân mới và dân cũ, dân mới đã duy trì dân cũ,
cũng như bây giờ cả hai dân đã được Thiên Chúa đổi mới hoàn toàn để làm thành
Giêrusalem mới xuống tự trời cao, tự nơi Thiên Chúa.
Ðiều đáng để ý nhất trong Giêrusalem mới này là không có điện thờ nữa
cũng như không có mặt trời, mặt trăng nữa; Vì Thiên Chúa toàn năng và Chiên Con
nay là điện thờ của thành và vinh quang của các Ngài là ánh sáng chiếu soi
Giêrusalem mới. Những điều này thật ý nghĩa, vì như vậy rõ ràng đã thực hiện Lời
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: Cha Người và Người sẽ đến cư ngụ nơi cộng đoàn
môn đệ của Người và Hội Thánh của Người có Thiên Chúa ở cùng họ.
Do đó, chúng ta có thể kết luận về giáo huấn của ba bài Kinh Thánh hôm
nay rằng: nhờ mầu nhiệm tử nạn phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã đến
cư ngụ nơi những kẻ yêu mến Người và giữ lệnh Người. Cộng đoàn những kẻ ấy trở
nên Ðiện thờ mới của Thiên Chúa ở trần gian để Người là Thiên Chúa ở cùng họ mọi
ngày trong đời sống. Bây giờ cộng đoàn ấy đang mở cửa để dân ngoại mọi nơi tuôn
đến đợi khi thời gian sung mãn, tất cả những gì chúng ta đang thấy nơi Hội
Thánh trần gian sẽ được siêu thăng. Vinh quang của Chiên Con và của Thiên Chúa
sẽ đổi mới Hội Thánh và biến Hội Thánh nên Tân nương trang sức rực rỡ của Chiên
Con. Người ta sẽ thấy Thiên Chúa hiện thân ở cùng Hội Thánh mãi mãi và vô tận.
Và lời Chúa nói với môn đệ ở bàn tiệc ly sẽ được thực hiện hoàn toàn nơi
Giêrusalem thiên quốc.
Cho đến ngày ấy, mỗi khi cử hành thánh lễ lời của Chúa lại được hiện tại
hóa. Tất cả những ai sốt sắng tham dự mầu nhiệm tử nạn phục sinh sẽ được Chúa
ngự đến nơi tâm hồn. Người ta trở thành Kitô hữu nhiều hơn và trở nên con cái
Thiên Chúa hoàn toàn hơn. Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trong họ, và Chúa Thánh Thần
hoạt động với họ. Họ và cộng đoàn giáo xứ của họ phải mở cửa đón nhận mọi người
từ đông tây nam bắc để Thiên Chúa ở cùng mọi người, để mọi người dần dần được
vinh quang đời sống và giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô chiếu soi và làm cho trong
sáng đợi ngày tất cả trở nên Giêrusalem thiên quốc bình an và hạnh phúc.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 6 Phục Sinh, Năm C
Bài đọc: Acts 15:1-2, 22-29; Rev 21:10-14,
22-23; Jn 14:23-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Từ Do-thái Giáo
đến Kitô Giáo
Trong Kế hoạch Cứu Độ của Thiên
Chúa, Ngài muốn chọn dân Do-thái trước để sửa dọn con đường cho Đấng Cứu Thế đến;
nhưng khi Đấng Cứu Thế đến, ơn cứu độ được mở rộng cho tất cả các Dân Ngoại. Điều
này đã được đề cập tới nhiều lần trong sách các ngôn sứ; nhưng nhiều người
Do-thái từ chối không tin Dân Ngoại cũng sẽ được hưởng ơn cứu độ như người
Do-thái. Phaolô là một trường hợp điển hình: Vì quá nhiệt thành bảo vệ Lề Luật
và truyền thống, ông đã xin giấy có đóng ấn chính thức để đi Damascus truy tố
các Kitô hữu tại đó.
Các bài đọc hôm nay dẫn chứng sự
liên tục từ Do-thái Giáo sang Kitô Giáo. Tuy có khó khăn, nhưng nhờ các nhà
lãnh đạo biết cư xử khéo léo, nên đã giúp Giáo Hội sơ khai thoát khỏi những
đáng tiếc và phát triển nhanh chóng. Trong bài đọc I, khi có sự tranh cãi về việc
có nên bắt các tín hữu Dân Ngoại phải cắt bì, các nhà lãnh đạo đã họp Công Đồng
đầu tiên tại Jerusalem để giải quyết vấn đề này. Trong bài đọc II, tác giả Sách
Khải Huyền mô tả một hình ảnh của Thành Jerusalem đến từ trời, là tập hợp của cả
12 chi tộc Israel của Cựu Ước lẫn tên của 12 tông đồ của Tân Ước. Thành Thánh vẫn
có sự hiện diện của Thiên Chúa; nhưng không có Đền Thờ, vì sự hiện diện của
Thiên Chúa và Con Chiên là Đức Kitô trong thành. Trong Phúc Âm, tuy Chúa Giêsu
không còn ở với các môn đệ nữa; nhưng Ngài gởi Thánh Thần và bình an của Ngài
xuống trên các ông. Thánh Thần sẽ nhắc lại những gì Chúa Giêsu đã nói và hướng
dẫn con người tới sự thật toàn vẹn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Điều gì cần thiết nhất
cho việc cứu độ?
1.1/ Phải chăng là việc cắt bì theo
luật Moses? Trình thuật cho chúng ta thấy rõ
vấn đề được tranh luận: “Có những người từ miền Judah đến dạy anh em rằng:
"Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Moses, thì anh em không thể
được cứu độ." Ông Phaolô và ông Barnabas chống đối và tranh luận khá gay
go với họ. Người ta bèn quyết định cử ông Phaolô, ông Barnabas và một vài người
khác lên Jerusalem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh
luận này.” Phaolô có lẽ là người hiểu biết vấn đề này hơn ai cả, vì ông đã có
kinh nghiệm bản thân bị té ngựa trên đường đi Damascus. Hậu quả của việc té ngựa
và mặc khải của Thiên Chúa dẫn Phaolô tới chỗ xác tín: “con người được trở nên
công chính do bởi niềm tin vào Đức Kitô, chứ không do bởi việc giữ Lề Luật”
(Rom 3:28).
Để giải quyết vấn đề, các nhà lãnh
đạo quyết định họp Công Đồng của Giáo Hội đầu tiên tại Jerusalem. Các đại biểu
của các giáo đoàn địa phương cũng được mời về để cùng với các tông đồ giải quyết
vấn đề. Theo trình thuật của Công Vụ Tông Đồ 15, sau khi các đại biểu nghe
Phêrô, người lãnh đạo Giáo Hội, và Giacôbê, người lãnh đạo của Jerusalem, tỏ
bày ý kiến; tất cả đều đồng ý các tín hữu Dân Ngoại không phải cắt bì như các
tín hữu Do-thái.
1.2/ Kết quả của công đồng: Bấy giờ các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh,
quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi Antioch với ông Phaolô và
ông Barnabas. Đó là ông Judah, biệt danh là Barsabas, và ông Silas, những người
có uy tín trong Hội Thánh. Các ông trao cho phái đoàn bức thư sau: “Chúng tôi
nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại
đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. Vì thế, chúng
tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với
anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Barnabas và
ông Phaolô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta. Vậy chúng tôi cử ông Judah và ông Silas đến trình bày trực tiếp những
điều viết sau đây: Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh
em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã
cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh
gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh."
2/ Bài đọc II: Thành Jerusalem chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có
vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi.
2.1/ Đền Thánh Jerusalem mới: Khi tác giả Gioan viết Sách Khải Huyền, Đền Thánh Jerusalem cũ
đã bị quân đội Rôma phá bình địa vào năm 70 AC. Từ đó đến nay, Đền Thánh
Jerusalem vẫn chưa được xây dựng lại. Đền Thánh mà chúng ta thấy hiện nay là của
người Hồi Giáo, họ gọi là Golden Dome. Người theo Do-thái Giáo chỉ còn lại bức
tường phía Tây của Đền Thờ, gọi là Bức Tường Than Khóc. Sáng chiều họ có thói
quen ra để than khóc và cầu xin cho có ngày Đền Thờ được xây dựng lại.
Thành Thánh Jerusalem được mô tả
trong trình thuật hôm nay chỉ là kiểu mẫu mà tác giả thấy trong một thị kiến.
Điều đặc biệt tác giả mô tả là thành Jerusalem mới vừa có “mười hai cửa do mười
hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái
Israel;” vừa có “tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười
hai Tông Đồ của Con Chiên.”
2.2/ Hai điểm kỳ lạ:
(1) Thành không có Đền Thờ:
“Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và
Con Chiên là Đền Thờ của thành.” Thành cũ và thành hiện nay đều có Đền Thờ (của
Hồi Giáo); nhưng thành mới trong tương lai không có Đền Thờ vì đã có sự hiện diện
của Thiên Chúa, và của Đức Kitô.
(2) Thành không cần ánh sáng:
“Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa
toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi.” Vinh quang của Thiên Chúa và của
Đức Kitô là nguồn sáng rạng ngời trong thành; vì thế thành không cần chiếu soi
bởi các nguồn sáng khác.
3/ Phúc Âm: Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi
điều Thầy đã nói với anh em.
3.1/ Yêu Chúa là giữ những gì Chúa dạy:
Ngôn sứ Jeremiah 31:31-34 nêu bật những khác biệt giữa
giao ước cũ và giao ước mới: Giao ước cũ dựa vào Lề Luật và đến từ bên ngoài,
nên không đủ sức làm cho con người chu toàn những đòi hỏi của Lề Luật. Giao ước
mới đặt căn bản trên tình yêu và đến từ bên trong, nên có sức mạnh giúp con người
chu toàn những đòi hỏi của tình yêu. Đó là lý do Chúa Giêsu đòi hỏi: "Ai
yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy
sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và
lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai
Thầy.” Theo Gioan, vâng lời là điều kiện đáp trả tình yêu của Chúa Giêsu; và ai
đã yêu mến là chu toàn mọi Lề Luật.
3.2/ Những điều Chúa Giêsu làm cho
các môn đệ:
(1) Gởi Thánh Thần đến cho các
ông: Chúa Giêsu hứa với các môn đệ: “Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang
khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân
danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều
Thầy đã nói với anh em.” Hai điều chính yếu Thánh Thần sẽ thực hiện nơi các môn
đệ: Thứ nhất, Ngài sẽ lặp lại những gì Chúa Giêsu đã nói khi còn sống trên
dương gian. Nói cách khác, Ngài không tuyên bố những gì mới lạ mà Chúa Giêsu
chưa tuyên bố cả. Nhiều người nghĩ khi được Thánh Thần soi sáng, họ sẽ nói những
điều mới lạ mà con người chưa được nghe bao giờ. Để kiểm chứng những gì một người
nói dưới ảnh hưởng của Thánh Thần, chúng ta chỉ cần đối chiếu với Phúc Âm xem
Chúa Giêsu đã nói những điều ấy chưa. Thứ hai, Thánh Thần sẽ hướng dẫn các tín
hữu tới sự thật toàn vẹn. Có nhiều khía cạnh của sự thật, sự thật toàn vẹn
không thể mâu thuẫn với nhau. Thánh Thần sẽ làm cho các tín hữu hiểu mọi khía cạnh
của sự thật nghĩa là làm cho các khía cạnh của sự thật ăn khớp với nhau, không
có gì mâu thuẫn cả.
Một điều quan trọng các tín hữu cần
nhớ là họ đang sống trong triều đại của Thánh Thần; Ngài đang tiếp tục triều đại
của Chúa Giêsu. Các tín hữu cần cầu nguyện với Ngài, nhất là những khi học hỏi
Kinh Thánh và tìm hiểu sự thật.
(2) Bình an: Chúa Giêsu hứa với
các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.
Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ
hãi.” Bình an là một trong những món quà quí giá nhất Chúa Giêsu để lại cho các
môn đệ. Bình an của Chúa Giêsu hoàn toàn khác với bình an của thế gian. Bình an
của thế gian là sự vắng mặt của chiến tranh, lo lắng hay tranh chấp; trong khi
bình an của Thiên Chúa hiện diện ngay trong chiến tranh, lo lắng và tranh chấp
này. Bình an của Thiên Chúa chỉ có khi con người sống và sẵn sàng làm chứng cho
sự thật; chứ không hy sinh sự thật để có sự bình an.
(3) Chúa Giêsu về cùng Chúa Cha:
“Anh em đã nghe Thầy bảo: "Thầy ra đi và đến cùng anh em." Nếu anh em
yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì
Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy
ra, để khi xảy ra, anh em tin.”
Người Do-thái và ngay cả các môn
đệ không thể hiểu câu Chúa Giêsu nói: "Thầy ra đi và đến cùng anh
em." Làm sao một người đã ra đi (đã chết) lại có thể trở lại với các môn đệ.
Nhưng sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Ngài hiện ra với các môn đệ nhiều lần trước
khi về với Chúa Cha. Chỉ trong ánh sáng Phục Sinh, các môn đệ mới có thể hiểu
điều này. Một điều làm rối tâm trí các môn đệ nữa là mối liên hệ giữa Thiên
Chúa và Chúa Giêsu: Là những người Do-Thái, các môn đệ chỉ tin một mình Thiên
Chúa. Dù Chúa Giêsu đã mặc khải nhiều lần cho các môn đệ về sự liên hệ giữa
Thiên Chúa và Ngài; nhưng chỉ trong ánh sáng Phục Sinh, mối liên hệ này mới bắt
đầu rõ ràng cho các môn đệ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trong Kế hoạch Cứu Độ của Thiên
Chúa, Ngài đã chọn dân tộc Do-thái để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế ra đời. Khi
Chúa Giêsu đến, Tin Mừng Cứu Độ được mở rộng ra cho mọi người.
- Khi cái mới hoàn hảo hơn đến,
cái cũ và bất toàn sẽ phải nhường chỗ cho cái hoàn hảo hơn. Chúng ta đừng ngoan
cố giữ lại những gì bất toàn trong Kế hoạch của Thiên Chúa.
- Thiên Chúa không bao giờ để con
người mồ côi, thời đại nào Ngài cũng lo liệu để chúng ta có Đấng Bảo Trợ hướng
dẫn và chăm sóc chúng ta biết đường tìm đến sự thật.
- Sống theo sự thật của Thiên
Chúa sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an thực sự trong tâm hồn; sự bình an mà
không có quyền lực nào có thể cướp đi khỏi chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên,
OP
26/05/19 CHÚA NHẬT TUẦN 6 PS – C
Ga 14,23-29
Ga 14,23-29
HIỆN DIỆN TRONG TÌNH YÊU
“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu
mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” (Ga 14,23)
Suy niệm: Có
ai nghe những lời yêu đương mà dùng tam đoạn luận để phân tích lý sự đâu, phải
không bạn? Vì thế khỏi cần cắt nghĩa dài dòng, bạn chỉ cần lắng nghe, cảm nghiệm để thấm thía càng lúc càng sâu và để lòng tràn ngập
niềm vui hạnh phúc về lời tâm tình này của Chúa Giê-su: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha
Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” Vâng, Thiên Chúa chỉ yêu thích đến
và ở lại với ai biết mở lòng ra đón nhận lời Ngài và tuân giữ.
Mời Bạn: Bạn
là người đang được Chúa yêu và được Chúa đến cư ngụ, mời bạn đưa những tâm tình
nồng nàn, thắm thiết của người đang yêu và được yêu đó vào khung cảnh gia đình
bạn, cộng đoàn bạn để biến những nơi đó thành những tổ ấm mọi người yêu thương,
hoà hợp với nhau, sống trung thành hy sinh cho nhau để mọi người cùng hạnh phúc
vì được hiện diện trong tình thương mến nhau. Còn lời chứng nào cho tình yêu
Chúa hùng hồn hơn cảnh một cộng đoàn hiện diện trong tình yêu Thiên Chúa, phải
không bạn?
Sống Lời Chúa: Ôn
lại tâm tình nồng nàn yêu thương mà bạn có được trong giờ suy niệm và chia sẻ với
tha nhân qua một nghĩa cử bác ái phục vụ.
Cầu nguyện: Ôi Giê-su, cám ơn
Chúa về bài học yêu thương Chúa dạy con hôm nay: Chúa không ưa thích ngự nơi
các đền thờ bằng gỗ đá quý mà chỉ ưa thích ở lại trong tâm hồn con, khi con biết
yêu thích sống Lời Chúa! Xin cho ánh sáng sự hiện diện của Chúa trong nhiều người
biết sống lời Chúa ngày một nồng nhiệt và toả sáng hơn.
(5phút Lời Chúa)
ĐẾN VÀ Ở LẠI
Chính Thánh Thần sẽ
giúp ta thấy Ðức Kitô thật gần để có thể say mê Ngài, thấy Lời Tin Mừng trở nên
sống động và bừng sáng để giải quyết những vấn đề mới nảy sinh.
Suy niệm:
Khi được hỏi Ðức Kitô
hiện diện ở đâu,
chúng ta thường nghĩ
ngay tới nhà thờ, nhà Tạm.
Tiếc thay lắm khi
chúng ta dừng lại ở đó.
Chúng ta ít nghĩ đến một
lối hiện diện khác của Ngài.
Không phải chỉ là ở với,
ở bên, ở trước mặt,
mà còn là ở
trong con người yếu đuối của ta.
Chúng ta ít nghĩ, vì
chúng ta không dám tin
vào hồng ân quá đỗi lớn
lao đó.
Chính vào lúc sắp chia
tay các môn đệ để về với Cha,
Ðức Giêsu đã long trọng
loan báo chuyện Ngài ở lại:
“Ai yêu mến Thầy
thì sẽ giữ lời Thầy,
Cha của Thầy sẽ yêu
mến người ấy.
Chúng ta sẽ đến với
người ấy
và sẽ làm nhà nơi
người ấy” (Ga 14,23).
Ðại từ Chúng
Ta ở đây để chỉ Chúa Cha và Chúa Con,
mà ở đâu có Chúa Cha,
Chúa Con thì cũng có Thánh Thần.
Vì yêu Ðức Kitô, tôi
được đón nhận thế giới Ba Ngôi.
Vì yêu tôi, Ba Ngôi muốn
đến thăm tôi và cư ngụ tại đó.
Trong tình yêu hai chiều
này, thiên đàng chớm nở.
Thiên đàng thật gần,
ngay trong lòng tôi.
Thiên đàng ấm áp ở nơi
nghèo hèn, bé nhỏ,
nơi tâm hồn biết yêu Ðức
Kitô và tuân giữ lời Ngài.
Ðôi khi tôi cần tự hỏi
Thiên Chúa có ở trong tôi không.
Tôi có cảm nghiệm được
chút nào sự hiện diện đó chăng?
Có bao giờ tôi thờ lạy
sự hiện diện đó của Ngài không?
Kitô hữu không chỉ là
bạn hữu của Ðức Kitô,
mà còn là người có Ðức
Kitô nơi chính mình.
Họ là những cung
thánh, những nhà thờ lưu động.
Họ không chỉ chứa đựng
Ðức Kitô như một Nhà Tạm,
họ còn nên một với
Ngài trong tình yêu.
Các bí tích chúng ta
lãnh nhận đều nhằm mục đích
làm cho tình yêu giữa
ta với Ðức Kitô được lớn lên.
Trước khi tôi rước lễ,
Ðức Kitô đã ở trong tôi rồi.
Sau khi tôi rước lễ,
Ngài cũng chẳng bỏ tôi.
Nhưng mỗi lần rước lễ,
sự hiện diện Ngài lại tăng trưởng.
Ngay cả khi không thể
đến nhà thờ,
tôi vẫn có thể gặp Ðức
Kitô nơi cung lòng mình.
Chỉ cần để lòng mình lắng
xuống,
là tôi có thể gặp Ngài
và bước vào cuộc đối thoại.
“Ai yêu mến Thầy
thì sẽ giữ lời Thầy”
Yêu mến Ðức Kitô không
phải chuyện dễ.
Yêu một người ta chưa
gặp mặt và sống xa ta 20 thế kỷ.
Giữ lời Ðức Kitô chẳng
phải chuyện dễ.
Lời đòi chúng ta ra khỏi
mình và bay lên cao.
Chính Thánh Thần sẽ
giúp ta thấy Ðức Kitô thật gần
để có thể say mê Ngài,
thấy Lời Tin Mừng trở
nên sống động và bừng sáng
để giải quyết những vấn
đề mới nảy sinh.
Hội Thánh của chúng ta
sẽ là một Hội Thánh vô hồn,
nếu chẳng có sự hiện
diện của Chúa nơi lòng các tín hữu.
Cầu nguyện:
Ngài đã xuống tận đáy lòng con,
xin cho con chỉ tập
trung
vào tận đáy lòng
con.
Ngài là thượng khách của lòng con,
xin cho con bước
vào nhà
là chính đáy lòng
con.
Ngài chọn cư ngụ trong lòng con,
xin cho con biết ngồi
yên
ngay tại đáy lòng
con.
Duy Ngài ở lại trong con,
xin cho con biết
chìm sâu
xuống tận đáy lòng
con.
Duy Ngài hiện diện trong lòng con,
xin cho con biết
xóa mình
khi Ngài ở bên con.
Khi con đã gặp Ngài,
không còn con và Ngài nữa.
Con chẳng là gì cả,
và Ngài là tất cả.
(Theo Swami
Abhisiktananda)
Lm Antôn Nguyễn
Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
26 THÁNG NĂM
Tin Mừng Cho Mọi
Người
Bạn là tín hữu? Bạn
hãy sống đức tin của mình và hãy chuyển trao đức tin cho con em mình. Hãy nêu
chứng tá đức tin bằng chính cuộc sống. Bạn hãy yêu mến Giáo Hội như một hiền mẫu.
Hãy sống trong Giáo Hội và vì Giáo Hội. Hãy dành chỗ cho mọi người trong trái
tim bạn. Hãy thứ tha nhau và hãy gieo rắc hòa bình bất cứ nơi nào bạn có mặt.
Bạn không phải là tín
hữu? Hãy tìm kiếm Thiên Chúa, vì Ngài đang kiếm tìm bạn đó!
Bạn đang gặp đau khổ?
Hãy vững lòng. Vì Đức Kitô đã từng nếm cảm niềm đau; Người sẽ ban cho bạn sức mạnh
để đương đầu với nỗi ê chề của bạn.
Bạn là người trẻ? Hãy
làm một cuộc đầu tư tốt nhất cho cuộc đời mình, vì cuộc đời bạn là một kho tàng
hết sức quí giá.
Và với tất cả mọi người,
tôi sẽ nguyện chúc: Xin ân sủng Thiên Chúa đồng hành với các bạn trong mỗi phút
giây của cuộc sống thường ngày.
Và xin đừng quên: Hãy
ân cần đón nhận các trẻ thơ ngay từ khoảnh khắc đầu tiên của các em. Ước gì lời
chào tốt lành từ ban sơ dành cho các em sẽ mở ra cho các em một cuộc sống tràn
đầy ân phúc – đó là niềm mong mỏi của bạn, của tôi, và là niềm mong mỏi của
toàn thể Giáo Hội.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 26-5
Chúa Nhật VI Phục
Sinh
Cv 15, 1-2. 22-29;
Kh 21, 10-14.22-23; Ga 14, 23-29
Lời suy niệm: “Ai yêu mến Thầy,
thì giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại
với người ấy.”
Thiên Chúa là Tình
Yêu, con người là tạo vật được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh của Ngài; và
khi Con Một của Ngài là Đức Giêsu được Ngài sai đến trên trần gian này; Chính
Chúa Giêsu cũng đã sống và thể hiện tình yêu, giới luật của Người để lại cho
nhân loại là tình yêu: “Yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta” Chỉ có
tình yêu nối kết tình yêu mới đem lại hạnh phúc cho con người. Chúa Giêsu đang
mời gọi mỗi người chúng ta yêu mến Người và giữ Lời Người, để được Chúa Cha yêu
mến và Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ đến và ở trong tâm hồn chúng ta trong suốt cuộc đời
của chúng ta..
Lạy Chúa Giêsu. Xin
Chúa ban ơn đức tin cho chúng con, để chúng con ngày càng yêu mến Chúa và tuân
giữ Lời Chúa, để chúng con được vui sống trong tình yêu của Chúa Cha và luôn có
Chúa và Chúa Cha ở trong suốt cuộc đời của chúng con.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
26-05: THÁNH PHILIPPHÊ NÊRÔ
Linh Mục (1515 -
1595)
Thánh Philipphê Nêrô
sinh năm 1515 tạo Florence. Bị mồ côi mẹ từ thuở nhỏ, nhưng Philipphê có một bà
Dì nhất mực yêu thương. Ngược lại Philipphê cũng rất vui tươi và ngoan ngùy
đang cho mọi người yêu thích. Ngài hấp thụ được đức tin sâu xa nôi cha mẹ và
các cha dòng Daminh ở tu viện thánh Marcô.
Năm 1533 Ngài đến sống
với người cậu ở gần Naples để tập nghề kinh doanh. Ong cậu không có con thừa tự
nên muốn dành gia tài cho Philipphê, nhưng thánh nhân thấy mình không có ơn gọi
để sống cuộc đời như vậy. Và Ngài đi bộ về Roma, không tính toán cũng không có
đồ dùng chi, Philipphê sẽ sống và chết tại Roma.
Một người đồng hương ở
Roma cho Philipphê một căn phòng với điều kiện là dành ít thời gian dạy dỗ cho
con cái họ. Thánh nhân đã sống đời cầu nguyện và học hành trong cô tịch, ngày
ăn một bữa với bánh mì, nước và trái ôliu, ngủ trên sàn nhà. Trong khi theo môn
triết học và thần học, Ngài vẫn tìm cách lôi kéo bạn bè vào nếp sống đạo đức,
lo cải hoá người khác. Như vậy chính thánh nhân cũng bị cám dỗ và phải cố gắng
để tự chủ, Ngài tăng thêm lời cầu nguyện và các việc hy sinh hãm mình.
Lễ Chúa Thánh Thần hiện
xuống năm 1544, trong khi cầu nguyện, Ngài thấy một vật gì như trái banh bằng lửa
xoáy vào trong tim gây nên một cơn bệnh và một vết thương xưng lên dầu không
đau đớn gì. Trong cuộc khám nghịệm sau khi chết người ta thấy hai xương sườn
phía trên bị gãy và tạo ra một khoảng rộng lớn hơn.
Sau nhiều năm, Ngài
bán hết sách vở và bắt đầu lo cho linh hồn người khác hơn là cho mình. Ngài hòa
mình với các bạn trẻ ở các ngã tư , các cửa tiệm và các bờ sông, dùng đến sức
thu hút tự nhiên lẫn siêu nhiên để dẫn họ về đường ngay.
Hòa mình vào nhóm các
nhà giảng thuyết, Philipphê đã gây được nhiều ảnh hưởng nơi các giáo dân lẫn
lương dân. Người ta cho rằng: Ngài làm nhiều phép lạ. Tuy nhiên, thánh nhân rất
khiêm tốn và không dám nhận chức linh mục. Cuối cùng theo lời khuyên của cha giải
tội, Ngài thụ phong linh mục năm 1551. Nhiệt tâm của Ngài thật mãnh liệt khi
Ngài cử hành thánh lễ đầu tiên đến nỗi như có một luồng ánh sáng từ Ngài phát
ra. Phần lớn thời gian trong ngày và cả ban đêm Ngài dành vào việc ngồi tòa giải
tội. Nhận thấy có nhiều thanh niên và trẻ em biếng nhác, Ngài mở cửa không cho
chúng vui tươi trò chuyện ca hát. Căn phòng ấy được mệnh danh là "Ngôi nhà
của nịềm vui Kitô giáo". Mỗi chiều Ngài tổ chức buổi cầu nguyện chung cho
các tín hữu. Muốn cho lời cầu nguyện khởi sắc, Ngài nhờ người bạn danh tiếng là
nhạc sĩ Palestrina phổ nhạc các thánh thi. Nhà nghệ sĩ này coi Ngài như một người
cha và đã qua đời trong cánh tay Ngài. các linh mục muốn dấn thân phù giúp Ngài
đã họp thành một hội ái hữu và đó là tiền thân của dòng giảng thuyết.
Thánh Philipphê làm việc
với một tính khí vui tươi đặc biệt. Ngày kia cộng đoàn một bạn trẻ đến báo tin
cho Ngài biết hạnh phúc của mình đã được thân phụ cho theo học luật. Sau khi
phác họa niềm vui hạnh phúc của mình như thế nào rồi, anh nghe hỏi:
- Học xong anh sẽ làm
gì ?
- Con sẽ đậu bằng tiến sĩ luật .
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ cãi những vụ kiện quan trọng, khó khăn để thành danh tiếng.
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ nên danh giá và giàu có thỏa lòng mong ước .
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ sống sung sướng và hạnh phúc.
- Rồi sao nữa ?
- Rồi sao nữa ? sao nữa ? rồi con chết.
- Thánh nhân cao giọng hỏi tiếp: Rồi sao nữa ?
- Con sẽ đậu bằng tiến sĩ luật .
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ cãi những vụ kiện quan trọng, khó khăn để thành danh tiếng.
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ nên danh giá và giàu có thỏa lòng mong ước .
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ sống sung sướng và hạnh phúc.
- Rồi sao nữa ?
- Rồi sao nữa ? sao nữa ? rồi con chết.
- Thánh nhân cao giọng hỏi tiếp: Rồi sao nữa ?
Và bạn trẻ không biết
trả lời ra sao nữa, nhưng câu hỏi đã lọt vào trong tâm hồn cho đến khi hiến
mình trong tu viện và chết lành thánh.
Cũng với tính khôi hài
này. Thánh Philipphê đã sửa dạy được nhiều nết xấu của người ta. Chẳng hạn một
phụ nữ quen tật nói xấu người khác được nghe thánh nhân dạy hãy mua một con gà
giết chết, rồi vừa đi vừa nhổ lông trên đường tới gặp Ngài. Chị ta ngạc nhiên
làm và như vậy. Tới nơi thánh nhân dạy : - Chị hãy trở về đường cũ và lượm hết
các lông đó lại.
Người phụ nữ la lối
không thể được vì gió thổi bay khắp chốn rồi. Thánh nhân mới nói: - Những lời
nói xấu vu oan cho người ta một khi ra khỏi miệng sẽ truyền từ tai này qua tai
nọ. Chị có thể lấy lại được không ?
Và thánh Nhân khuyên
nhủ : - Khi muốn nói về một người nào làm khổ mình, hãy nói với Chúa mà thôi để
cầu nguyện và giúp họ sửa sai.
Với những bức thư của
thánh Phanxicô Xavier từ phương Đông gởi về, thánh Philipphê đã tìm cách theo
Ngài để gieo vãi chính máu mình cho Chúa Kitô. Nhưng một thày dòng khổ tu đã
nói với thánh nhân : - Dân An độ của Ngài ở tại Roma này.
Thế là thánh nhân ở lại
Rôma trở thành "Tông đồ thành Rôma".
Năm 1622 khi được
phong thánh, thì Phanxicô Xavie vị "Tông đồ của dân An độ" cũng được
tuyên phong với Ngài.
Năm 1575, Đức giáo
hoàng Gregoriô XIII đã cho Ngài và anh em linh mục thuộc nhóm Ngài một nhà thờ.
Họ tái thiết thành một nhà thờ mới và ngày nay cũng chính là nhà mẹ ở Roma của
dòng giảng thuyết. Philipphê được đặt làm bề trên của hội dòng mới, dòng giảng
thuyết. Ngài hướng dẫn anh em trong dòng sống như như các linh mục triều, không
có lời khấn nào đặc biệt, nhưng liên kết với nhau trong tình yêu thương nhau,
trong một mục đích là phục vụ các linh hồn bằng việc cầu nguyện, giảng dạy và
ban các phép bí tích. Ngài không đặt ra nhiều lề luật và ngày nay có tới 40 nhà
dòng giảng thuyết gồm các phần tử sống theo đường lối của thánh Philipphê Nêrô.
Năm 1595, thánh
Philipphê ngã bệnh. Ngày 25 tháng 5 Ngài dâng lễ và ngồi tòa như thường lệ.
Nhưng sáng hôm sau Ngài bị thổ huyết, trong khi giơ tay chúc lành cho cộng đoàn
và miệng lẩm bẩm : - Đây là tình yêu của con, hạnh phúc của lòng con và thánh
nhân đã phó mình cho tình yêu.
(daminhvn.net)
26 Tháng Năm
Sức Mạnh Lời Chúa
Tokichi Ishi-I, một
tên giết người không gớm tay, đã đạt được kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng
những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi.
Hắn ta tàn nhẫn hạ
sát đàn ông, phụ nữ, kể cả trẻ em. Với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ
người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn cũng bị bắt và bị kết
án tử hình.
Lúc ở nhà tù chờ
ngày hành quyết, hai phụ nữ công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn, nhưng tất cả
những câu hỏi han, trò chuyện của họ cũng không làm cho hắn mảy may động tâm,
trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với một cặp mắt dữ tợn như một hung thú.
Cuối cùng, mất hết
kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn quyển Tân Ước, với một hy vọng
mỏng manh là hắn ta sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động nơi tiếng nói con người trở
nên hoàn toàn bất lực. Niềm hy vọng của họ đã trở thành sự thật. Ishi-I đã đọc
và những câu chuyện trong Tân Ước hình như có một sự thu hút mãnh liệt khiến hắn
cứ tiếp tục đọc, đọc mãi và cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn tả cuộc tử nạn
của Chúa Giêsu. Câu Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trên thập giá: "Lạy
Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm", đã thắng
sự chống trả cuối cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó anh thuật lại: "Ðọc đến
câu này tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh động, bị đâm thâu bằng một
con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu hay tôi phải gọi đó là
lòng thương xót của Ngài? Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết là sự
hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin".
Ông Chrgwin, tác giả
đã viết câu chuyện trên trong quyển sách mang tựa đề "Thánh Kinh trong thế
giới truyền giáo" đã kết thúc câu chuyện bằng sự ngạc nhiên tột độ của những
nhân viên nhà giam có phận sự đến dẫn độ Ishi-I đi hành quyết. Họ đã không gặp
được tên sát nhân hung bạo như họ chờ đợi, nhưng là một con người hòa nhã, lễ độ.
Ishi-I, tên sát nhân đã được Lời Chúa tái sinh.
Lời Chúa có sức mạnh vạn
năng. Lời Chúa có thể biến đổi tâm hồn một tên sát nhân giết người không gớm
tay như anh Tokichi Ishi-I và bao tâm hồn sa ngã khác. Lời Chúa có thể là động lực
cho bao công tác bác ái của các tu sĩ nam nữ, đang dấn thân phục vụ những trẻ
con bị bỏ rơi, những người già nua hấp hối không ai chăm sóc, những kẻ phải sống
bên lề xã hội.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét