26/05/2019
Chúa Nhật 6 PHỤC SINH năm C
(phần II)
Phụng
Vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 6 Phục Sinh năm C
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH NĂM C
Cv 15,1-2.22-29; Kh
21,10-14.22-23; Ga 14,23-29
VAI TRÒ CỦA THÁNH THẦN
“Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy,
Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26)
Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1
Lời rao giảng của các môn đệ thời Giáo hội sơ khai đã thu
hút được một số lượng lớn những người tin theo, trong đó có cả người Do thái và
Dân ngoại. Hai thánh Phaolô và Banaba là những sứ giả nhiệt thành rao giảng Tin
Mừng cho Dân ngoại, nhưng hai ngài cũng gặp không ít khó khăn, một trong số đó
là câu hỏi liệu Dân ngoại có cần phải cắt bì và giữ luật Môsê để được ơn cứu độ
hay không. Đoạn sách Công vụ Tông đồ hôm nay là một lời giải đáp rõ ràng và thỏa
đáng.
Trước hết, vấn nạn đặt ra là một tình huống mới mẻ trong
thời Giáo hội sơ khai khi mà các tín hữu gốc Do thái vẫn tiếp tục giữ những luật
lệ và truyền thống của họ, trong đó có luật cắt bì. Vậy nên mới có những người
Do thái đòi buộc các tín hữu gốc Dân ngoại cũng phải giữ giống như họ. Khi vấn
nạn đặt ra không thể được giải quyết bằng những tranh luận ở “địa phương”, người
ta đã phải cử đại diện đi gặp gỡ và trình bày vấn nạn với cấp “trung ương” tại
Giêrusalem. Như thế, dù chưa thật sự có một sự phân cấp rõ ràng, các tín hữu thời
đó vẫn xem các Tông đồ và kỳ mục tại Giêrusalem, cách riêng là hai thánh Phêrô
(Cv 15,7-11) và Giacôbê (Cv 15,13-21), như là những người có tiếng nói quyết định.
Sau nữa, việc Hội thánh tại Giêrusalem vừa viết thư, vừa
cử những người có uy tín trong Hội thánh là Giuđa và Xila đến gặp các tín hữu
trong các cộng đoàn địa phương để trả lời cho thắc mắc của họ. Quả vậy, bức thư
của “anh em Tông đồ và kỳ mục” vừa thể hiện sự hiệp thông giữa “trung ương” và
“địa phương”; vừa coi trọng vai trò quan trọng của hai thánh Phaolô và Banaba,
“những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giêsu Kitô” (Cv 15,26). Hơn nữa,
bức thư còn đề cao vai trò của Thánh Thần, Đấng đóng vai trò không thể thiếu
trong quyết định quan trọng của Hội thánh (15,28). Nhờ ơn Thánh Thần mà quyết định
của Hội thánh “mẹ” Giêrusalem đem lại nhiều ích lợi cho các Kitô hữu gốc Dân
ngoại.
Cuối cùng, câu trả lời chính thức của Hội thánh tại
Giêrusalem là lời khẳng định rõ ràng và chắc chắn rằng các tín hữu gốc Dân ngoại
không cần phải giữ những khoản luật theo truyền thống Môsê, ngoại trừ một số điều
có thể gây cớ vấp phạm. Như thế, cách thức Giáo hội thời sơ khai giải quyết vấn
đề vừa cho thấy sự hiệp thông, vừa thể hiện sự uyển chuyển nhưng dứt khoát vì lợi
ích của Dân ngoại, theo đó Dân ngoại không cần phải cắt bì như là dấu chỉ của
việc tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu.
2. Bài đọc 2
Thị kiến của tác giả sách Khải Huyền mô tả quang cảnh của
Thành Giêrusalem trên trời (21,10), trong đó đoạn 21,12-14 cho thấy cảnh trí
bên ngoài, và đoạn 21,22-23 mô tả nét đặc biệt và vẻ xán lạn rực rỡ bên trong của
Thành.
Trước hết, quang cảnh bên ngoài của Thành cho thấy chiều
cao, và chiều rộng, như muốn ám chỉ sức chứa rất lớn của Thành. Nhờ đó, Thành
không chỉ được dành cho mười hai chi tộc Israel (21,12b), nhưng còn dành cho cả
các Dân ngoại nữa, những người nhờ ánh sáng của Thành soi dẫn mà qui tụ về (x.
21,24.26). Thành mở ra bốn hướng đông tây nam bắc, mỗi hướng có ba cửa (chỉ sự
hoàn hảo) như là dấu chỉ về tính phổ quát của Thành Giêrusalem mới; Thành này
không đặt nền tảng trên mười hai chi tộc Israel nữa mà trên nền tảng mười hai
Tông Đồ. Đây chính là hình ảnh của Hội Thánh, được xây dựng trên nền tảng đức
tin của mười hai Tông Đồ là những người đã đi theo Đức Kitô, nghe giáo huấn của
Người, được chứng kiến cái chết và sống lại của Người (x. Cv 1,21-22). Hội
Thánh mở ra và đón nhận tất cả mọi người, kể cả Dân ngoại, nếu họ tin vào Đức
Giêsu nhờ chứng tá của các Tông Đồ.
Sau nữa, khung cảnh bên trong cho thấy hai điểm đặc biệt
của Thành. Một là, Thành mới không hề có Đền Thờ vì “Đức Chúa và Con Chiên là Đền
Thờ của Thành” (21,22). Quả vậy, Đền Thờ trong thành Giêrusalem dưới đất là nơi
Thiên Chúa hiện diện giữa dân Người để họ tôn thờ, nhưng Thành Giêrusalem mới
vào thời cánh chung không cần Đền Thờ nữa vì con người được trực tiếp chiêm ngưỡng
và hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Thiên Chúa và Con Chiên là Đức Kitô
chính là Đền Thờ cho họ tôn thờ. Hai là, Thành mới không cần ánh sáng của mặt
trời, mặt trăng vì vinh quang của Thiên Chúa và Con Chiên là đèn chiếu soi
(21,23). Thật vậy, chính vinh quang Thiên Chúa và Đức Giêsu làm cho Thành rực
lên ánh sáng: ánh sáng chiếu soi cho Dân ngoại tìm đến, ánh sáng loại bỏ đêm tối,
để những ai được chiếu sáng sẽ được hiển trị đến muôn đời muôn thuở (x.
21,24-25; 22,5).
Tóm lại, nhờ ánh sáng của Thiên Chúa và Con Chiên là Đức
Giêsu, Thành Giêrusalem mới không chỉ chiếu soi cho mười hai chi tộc Israel mà
còn cho cả Dân ngoại, để bất kỳ ai tin vào Thiên Chúa và Đức Giêsu Phục Sinh,
nhờ lời chứng của các Tông Đồ, đều được hiển trị trong ánh sáng vinh quang của
Thành Giêsusalem trên trời.
3. Bài Tin Mừng
Bối cảnh của đoạn Tin Mừng là những lời tâm tình của Chúa
Giêsu với các môn đệ trước khi Người bước vào cuộc thương khó. Những lời trăn
trối của Chúa Giêsu mạc khải về một số điểm thần học quan trọng.
Điểm thứ nhất là lời mạc khải về tương quan tình yêu và
hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Đối với Chúa Giêsu, ai yêu mến Người và giữ
lời của Người, tức lời Chúa Cha ban cho Người, thì không chỉ được Chúa Cha yêu
mến, mà còn được chính Chúa Cha và Chúa Giêsu “ở lại”. Như vậy, việc yêu mến và
giữ lời của Chúa Giêsu vừa tạo nên tương quan tình yêu hai chiều, vừa đem lại sự
hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người. Tương quan tình yêu và tình trạng hiệp
thông trọn vẹn này chỉ xảy ra vào thời cánh chung khi Chúa Giêsu hiện thực hóa
lời hứa “đi dọn chỗ cho anh em”, và sẽ “lại đến và đem anh em về với Thầy, để
Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (x. Ga 14,2-3).
Điểm thứ hai là lời hứa của Chúa Giêsu về vai trò quan trọng
của Chúa Thánh Thần. Quả vậy, Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, Đấng không chỉ đến ở
với các môn đệ luôn mãi để che chở, bảo vệ các ông khỏi cảnh mồ côi (14,16.18)
mà còn giúp các ông nhớ lại và hiểu cách trọn vẹn những gì Chúa Giêsu đã dạy
các ông (14,26). Chúa Giêsu đã từng khẳng định với thánh Phêrô, và qua thánh
nhân với các môn đệ khác rằng, “việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau
này anh sẽ hiểu” (13,7). Nếu các môn đệ “sau này” có thể nhớ lại và hiểu cách đầy
đủ những gì Chúa Giêsu đã dạy không phải vì tự thân các ông sáng suốt hơn, khôn
ngoan hơn, mà là do ơn của Chúa Thánh Thần.
Điểm thứ ba là lời Chúa Giêsu ban bình an cho các môn đệ.
Trước lúc rời xa các môn đệ, Chúa Giêsu hiểu rõ tâm trạng xao xuyến và sợ hãi của
các ông. Bình an mà Người ban cho các ông “không theo kiểu thế gian”, nghĩa là,
không phải tình trạng hòa bình vì không có chiến tranh, hay tâm trạng không còn
lo lắng, sợ hãi, bất an, hoặc sung sướng, thoải mái về mặt tâm lý, nhưng là
tình trạng của người sống trong ân sủng cứu độ của Thiên Chúa. Nhờ ân sủng cứu
độ này, ân sủng được ban do lòng yêu mến, các môn đệ vẫn có thể sống trong bình
an và vui mừng ngay cả khi Đức Giêsu về với Thiên Chúa, Đấng cao trọng hơn Người,
Đấng sẽ ban ơn cứu độ chung cuộc cho các ông vì đã đặt trọn niềm tin vào Người
(14,27-29). Một khi tin tưởng chắc chắn như thế, các môn đệ không có gì phải
xao xuyến hay sợ hãi, nhưng sống trong bình an thật sự.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG
1/ Vấn nạn mà các Kitô hữu gốc Dân ngoại gặp phải đã được
giải quyết cách tốt đẹp nhờ quyết định khôn ngoan và biểu lộ sự hiệp thông của
những người lãnh đạo Giáo hội “mẹ” tại Giêrusalem với cộng đoàn địa phương. Đằng
sau quyết định này là vai trò của Thánh Thần, Đấng làm nên sự hiệp thông giữa
các Kitô hữu, dù có những khác biệt. Tôi có sẵn sàng gác qua một bên những khác
biệt để xây dựng sự hiệp thông trong Giáo hội? Tôi có để cho Thánh Thần hướng dẫn
để sống khoan dung mà cởi mở đón những người khác với tôi?
2/ Thị kiến của tác giả sách Khải Huyền cho thấy viễn cảnh
của Thành Giêrusalem, nơi qui tụ tất cả mọi người từ khắp bốn phương trời, nhờ
ánh vinh quang của Thiên Chúa và của Con Chiên, tức là Đức Giêsu Phục Sinh. Đó
là hình ảnh của Hội thánh phổ quát dành cho tất cả những ai tin vào Thiên Chúa
và Con của Người là Đức Giêsu Kitô. Cuộc sống của tôi có là ánh sáng dẫn mọi
người đến với Hội thánh?
3/ Trước khi chịu khổ nạn, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ
vào trong mối tương quan hiệp thông với Thiên Chúa. Người cũng ban Thánh Thần để
giúp các ông ghi nhớ và hiểu biết cách sâu xa hơn những gì Người đã chỉ dạy.
Người còn để lại cho các ông bình an là ân sủng cứu độ, để giúp các ông kiên vững
trong những lúc gian nan, thử thách. Tôi có sẵn sàng đáp lại lời mời gọi sống
hiệp thông với Thiên Chúa nhờ yêu mến và giữ lời Người? Tôi có mở lòng ra cho
ơn huệ Thánh Thần để mỗi ngày một hiểu biết Thiên Chúa hơn? Ơn bình an của Chúa
Giêsu có làm cho tôi thêm kiên vững trong đức tin, nhất là những khi gặp khó
khăn, thử thách?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Qua Đức Kitô phục
sinh, Thiên Chúa Cha đã ban tặng bình an và ân huệ Thánh Thần cho các môn đệ
cùng mọi người chúng ta. Trong tâm tình cảm mến tri ân, cộng đoàn chúng ta cùng
tha thiết dâng lời cầu xin.
1. Đức Kitô đã thiết lập Hội thánh trên nền tảng các tông
đồ. Chúng ta cùng cầu xin cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, và toàn thể hàng Giám Mục
luôn xứng đáng là những người kế vị đầy nhiệt tâm của các tông đồ, biết quyết định
sáng suốt và hành động khôn ngoan trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
2. “Thầy ban bình an của Thầy cho các con.” Chúng ta cùng
cầu xin cho các dân tộc và mọi gia đình trên thế giới được sống trong bình an
đích thực mà Đức Kitô ban tặng cho nhân loại; cách riêng cho những nơi đang có
xung đột và chiến tranh mau tìm được những giải pháp thích hợp để tái lập hòa
bình.
3. “Chính Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều.” Chúng ta
cùng cầu xin cho mọi kitô hữu và cách riêng những người Công Giáo Việt Nam luôn
biết lắng nghe và tuân theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để tích cực góp
phần xây dựng sự hiệp thông trong Hội thánh cũng như dấn thân vào các hoạt động
xã hội.
4. “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy.” Chúng ta cùng cầu
xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta ngày càng thêm lòng yêu mến Chúa,
luôn say mê học hỏi Lời Chúa và trung thành tuân giữ giới răn của Người; hầu trở
nên khí cụ hữu hiệu đem bình an và tình yêu của Thiên Chúa đến cho mọi người.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, xin nhận
lời chúng con cầu nguyện và tuôn đổ ân huệ của Chúa Thánh Thần xuống trên chúng
con, giúp chúng con biết vâng nghe và thực thi những giáo huấn của Con Một
Chúa. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
SCĐ Chúa Nhật 6 PS Năm C
Chủ đề :
Ơn ban của Chúa Giêsu phục
sinh :
Đấng Phù Trợ, Bình an. tình yêu.
Đấng Phù Trợ, Bình an. tình yêu.
“Chúa Cha sẽ sai Đấng Phù Trợ đến với anh em”(Ga 14,26)
I. Dẫn
vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Trong
Thánh lễ hôm nay, chúng ta sẽ nghe những lời Chúa Giêsu nói trước khi Ngài ra
đi chịu chết. Ngài bảo chúng ta hãy tuân giữ những huấn lệnh của Ngài. Ngài hứa
ban Thánh Thần cho chúng ta và ban bình an cho chúng ta.
Đó
chính là những lời trăn trối của Chúa, những điều Ngài tha thiết nhất. Chúng ta
hãy chăm chỉ lắng nghe và cố gắng thực hiện.
II. Gợi
ý sám hối
–
Chúa đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”. Chúng ta chưa yêu mến Chúa
thật vì chúng ta không tuân giữ Lời Chúa.
–
Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Nhưng chúng ta nhiều khi không sống
theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
–
Chúa đã ban bình an cho chúng ta. Nhưng chúng ta nhiều khi không sống bình an
hòa thuận với nhau.
III.
Lời Chúa
1.
Bài
đọc I (Cv 15,1-29)
Đang
khi Phaolô và Barnaba truyền giáo cho dân ngoại, thì những người do thái từ
Giêrusalem đến buộc dân ngoại tòng giáo phải cắt bì và tuân giữ lề luật của
Môsê. Hai vị truyền giáo không đồng ý nên trình vấn đề lên Hội Thánh.
Hội
Thánh đã họp hội nghị ở Giêrusalem và ra quyết định : “Thánh Thần và chúng
tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những
điều cần thiết này : là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết,
ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm”.
2.
Tin
Mừng (Ga 14,23-29)
Có thể
coi đoạn Tin Mừng này là một bài giáo lý về Chúa Ba Ngôi : Trong đoạn Tin
Mừng này, Chúa Giêsu nhắc tới cả 3 ngôi Thiên Chúa : “Ai nghe các giới răn
Thầy truyền và tuân giữ…. Ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến… Đấng Phù
Trợ, là Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Ngài sẽ dạy các con
mọi điều và sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.
Như
thế, giáo lý cơ bản về Ba Ngôi là :
–
Chúa Cha là Đấng sai Chúa Con đến với loài người
–
Chúa Con vâng lời Chúa Cha đến với loài người để dạy loài người những lệnh truyền
–
Chúa Thánh Thần lại được Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Con, để dạy loài người
hiểu sâu hơn những lệnh truyền của Chúa Con.
Thái
độ con người phải có đối với Ba Ngôi :
– Yêu
mến Chúa Con nên tuân giữ những điều Ngài dạy.
–
Chúa Thánh Thần sẽ giúp đỡ họ làm điều đó
– Kết
quả : Ba Ngôi sẽ “yêu mến”, “tỏ mình ra” và “ở trong” người ấy.
3.
Bài
đọc II (Kh 21,10-23)
Một
thị kiến khác về Thành Giêrusalem mới :
–
Thành từ trên trời ngự xuống
– Rất
xinh đẹp và tươi sáng
–
Thành không có đền thờ vì chính Thiên Chúa là đền thờ của thành ; thành
cũng không có mặt trời và mặt trăng vì chính Thiên Chúa là ánh sáng của thành.
IV. Gợi
ý giảng
1. Bình an
Trong
triều của một vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau.
Một hôm nhà vua phán : “Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai
người là người giỏi nhất. Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo
cùng một đề tài, đó là bình an”.
Hai họa
sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình. Bức họa
của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng : những ngọn đồi nhấp nhô
bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng. Toàn cảnh gợi
lên một cảm giác thanh thản, thoải mái. Sau khi xem xong. nhà vua nói : “Bức
họa này rất đẹp, nhưng nó làm ta buồn ngủ quá”. Bức họa của người thứ hai vẽ một
thác nước. Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng
nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói : “Đây đâu phải là một cảnh bình
an”. Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp : “Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa
xem”. Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà nảy giờ ông chưa chú ý :
Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ
đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình
nở ra. Nhà vua nói : “Ta rất thích bức tranh này. Nó đã chuyển tải được một
ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo
trộn của cuộc đời”. Và nhà vua đã đặt tác giả của nó là người họa sĩ hạng nhất
của triều đình.
Chúa
Giêsu đã nói : “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an cho các
con không theo kiểu thế gian. Lòng các con đừng xao xuyến, các con đừng sợ
hãi.” Những lời này Ngài nói giữa bữa Tiệc ly. Phải chăng đây là một thời điểm
không thích hợp để nói về bình an, vì khi ấy hoàn cảnh bên ngoài rất là xáo trộn ?
Không, trái lại rất thích hợp. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về
bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài.
Bình
an không phải giống như yên ổn, vì yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên
trong. Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên
Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế,
không có bình an cho kẻ dữ.
Bình
an là kết quả của lòng trông cậy vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là
điều quan trọng bậc nhất trong đời. Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những
xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được.
Đó
chính là thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng được. (FM)
2.
Hiện
diện của kẻ vắng mặt
Có một
nhà chuyên môn sưu tầm các loài bướm. Ngày nọ, khi bước vào một công viên, ông
đã gặp tổ kén lạ. Ông liền bứt cành cây đem kén bướm về nhà. Ít ngày sau, ông
thấy nhúc nhích bên trong kén, nhưng con bướm vẫn chưa phá kén bay ra.
Hôm
sau, kén lại nhúc nhích, nhưng chẳng có gì khác lạ. Lần thứ ba, vẫn thấy như
trước, ông liền lấy dao rạch kén, thế là con bướm bò ra ngoài. Tuy nhiên, bướm
không tăng trưởng và chẳng bao lâu thì chết.
Sau
này, ông được người bạn là nhà sinh vật học cắt nghĩa như sau : Thiên
nhiên đã xếp đặt cho con bướm phải đấu tranh mới thoát ra khỏi cái kén, vì nhờ
đấu tranh gian khổ mà nó có thể phát triển mạnh mẽ để sinh tồn.
*
Muốn
làm cánh bướm bay trên ngàn hoa rực rỡ, bướm phải làm kiếp sâu lặng lẽ, cô tịch
trong vỏ kén lặng lờ, khuất nẻo. Muốn làm con bướm bay trong bầu trời xanh ngắt,
bướm phải là con sâu đen đủi xấu xa, vặn vẹo đau đớn trong tổ kén đợi chờ.
Để trở
nên những tín hữu Kitô vững mạnh, tăng triển về đường thiêng liêng, chúng ta phải
trải qua một thời kỳ gian khổ để tiến triển về mặt tâm linh, chúng ta cũng phải
vượt qua đấu tranh thử thách. Nhưng trong những thời điểm ấy, Thiên Chúa luôn
bên cạnh chúng ta, cho dù chúng ta không nhìn thấy Người.
Lúc sắp
sửa ra đi, để trấn an các tông đồ, Chúa Giêsu đã hứa rằng, dù vắng mặt, nhưng
Người vẫn luôn hiện diện giữa các ông và ban bình an cho các Ông. Sự hiện diện
của kẻ vắng mặt ! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có những kẻ yêu nhau mới nhận ra
mà thôi. Từ sau biến cố Phục Sinh, Chúa Giêsu đã trở nên con người của mọi thời
đại.
Người
hiện diện trong những kẻ yêu mến Người : “Ai yêu mến thầy, Cha của Thầy và
Thầy sẽ đến ở lại với người ấy” (Ga 14,23).
Người
hiện diện trong những kẻ thực hành và giữ lời Người : “Ai yêu mến Thầy,
thì sẽ giữ lời Thầy… Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của
Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 23,24).
Người
hiện diện không chỉ đơn độc, nhưng là hiện diện cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh
Thần. Cả Ba Ngôi cùng đến thăm và ở lại trong những ai yêu mến Chúa Giêsu và
tuân giữ lời Người.
Nếu
Chúa Cha chính là Thiên Chúa trong tình trạng vô hình, thì Chúa Giêsu cũng là
Thiên Chúa đã hiện diện, nói năng, hành động để cứu chuộc con người ; và
Thánh Thần cũng là Thiên Chúa, Đấng kéo dài cách thiêng liêng sự hiện diện, lời
nói và hành động của Chúa Giêsu và Chúa Cha.
Vì thế,
Thánh Thần sẽ thông truyền trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa cho con người, khi
soi sáng dạy dỗ con người dần dần hiểu Lời Thiên Chúa, Lời đó chính là Chúa
Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha : “Thánh Thần sẽ dạy cho anh em mọi
điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga
14,26).
Với lời
hứa này, kể từ ngày lễ Hiện Xuống đầu tiên, Thánh Thần đã soi sáng và hướng dẫn
Giáo hội hiểu thấu triệt Lời Chúa trong Kinh Thánh, để trình bày một cách sáng
tỏ hơn, và để giải quyết những vấn đề mới mẻ cho từng thời đại. Vì thế mà các
Công đồng liên tiếp được triệu tập dưới sự bảo trợ của Thánh Thần.
*
Lạy
Chúa Ba Ngôi, xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người trong lòng chúng
con, trong lòng Giáo hội, và trong lòng thế giới :
Để
chúng con luôn yêu mến và tuân giữ Lời Người.
Để
chúng con được soi sáng và hướng dẫn bởi Thánh Thần.
Và
để chúng con được canh tân và tái tạo mỗi ngày trong Thiên Chúa Tình Yêu. Amen. (TP)
3.
“Nếu
ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy”
Sau
khi tha thiết nói với các môn đệ những lời thân tình nhất xuất phát từ đáy lòng
trong một bài nói chuyện dài mà thánh Gioan đã chép lại suốt trong hai chương
13 và 14, Chúa Giêsu đúc kết lại trong một lời khuyên ân cần : “Nếu ai yêu
mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy”. Giữ lời Chúa là giữ lời nào ? Thưa là giữ
chính cái điều mà Chúa Giêsu đã nhấn mạnh lặp đi lặp lại nhiều lần trong suốt
hai chương 13 và 14 này “Chúng con hãy yêu thương nhau.
Thế
nhưng, yêu thương thì có gì là khó đâu mà Chúa phải dạy, phải nhắc và phải nhấn
mạnh như là một giới răn mới của Chúa, một lời trối trăn cuối cùng trước khi
Ngài ra đi chịu chết ? Bởi vì tự trong bản tính, con người có sẵn nhu cầu
tình cảm muốn yêu thương : mới sinh ra tự nhiên đức bé thèm khát tình
thương của cha mẹ, lớn lên người thanh niên nam nữ tự nhiên muốn yêu thương một
người nào đó, và suốt đời ai cũng muốn sống trong tình yêu thương cho đến chết.
Yêu thương là việc tự nhiên, là quá dễ dàng, cần gì Chúa Giê-su phải dạy dỗ ?
Chúng
ta đừng coi thường Lời Chúa, mà phải phân biệt rõ những mức độ yêu thương, và
tìm hiểu xem Chúa muốn ta yêu thương như thế nào.
– Yêu
thương có khi là một điều quá dễ : Người ta sung sướng khi yêu thương, người
ta ham thích yêu thương, người ta thèm khát yêu thương và người ta làm đủ cách
để được yêu thương. Thí dụ như một đức bé mồ côi thèm khát tình yêu thương của
cha mẹ ; hay một người tuổi trẻ thèm khát tình yêu thương của một người
tình. Sở dĩ yêu thương mà thích, mà sung sướng là vì yêu thương ở mức độ này có
nghĩa là đón nhận : nhận được những sự chăm sóc, chiều chuộng, vuốt ve, âu yếm.
– Yêu
thương có khi là một điều hơi khó, người ta phải hơi cố gắng mới yêu thương được.
thí dụ tôi thương một người bạn. Người bạn đó mượn tôi một số tiền hay nhờ tôi
làm giúp một công việc khó khăn. Tôi hơi tiếc, hơi ngại nhưng vì yêu thương bạn
mà tôi cố gắng đưa tiền, cố gắng chịu cực để giúp bạn. Yêu thương ở mức độ này
có nghĩa là chi đi, cho đi một phần của những gì mà tôi quý chuộng.
– Và
sau cùng, yêu thương có khi là một điều hết sức khó, vì yêu thương mà người ta
phải đau khổ, phải hy sinh thật nhiều. Thí dụ nàng Kiều vì thương cha già sắp
lâm vòng tù tội mà phải bán mình để chuộc cha. Yêu thương ở mức độ này có nghĩa
là phải cho đi hoàn toàn, cho đi tất cả.
Tóm lại
có ba mức độ yêu thương :
– Yêu
thương rất dễ khi được đón nhận.
– Yêu
thương hơi khó khi phải cho đi một phần những gì mình quý giá.
– Và
yêu thương hết sức khó khi phải cho đi hoàn toàn, hy sinh tất cả.
Khi
trối “chúng con hãy yêu thương nhau”, Chúa Giê-su muốn chúng ta yêu thương ở mức
độ thứ ba này.
Chúa
nói “nếu ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy”. Mà Lời của Thầy là “chúng con
hãy yêu thương nhau”, yêu thương ở múc độ cao nhất là dám cho đi tất cả, hy
sinh hoàn toàn. Chúng ta có vâng giữ Lời Chúa để tỏ ra chúng ta yêu mến Chúa
hay không ?
Trước
hết trong gia đình, giữa vợ chồng với nhau. Ôn lại cuộc sống gia đình, hẵn nhiều
vợ chồng người thấy rằng đã có một thời vợ chồng đã yêu thương nhau say đắm, hầu
như lúc nào cũng quấn quít bên nhau. Đó là thời kỳ đầu tiên, yêu thương là quá
dễ vì khi đó yêu thương là đón nhận, nhận những nét duyên dáng, nhận những cảm
xúc bồng bột mà tuổi trẻ đang thèm khát. Sau đó tới một thời vợ chồng không còn
quá say đắm nhau nữa mà phải đối diện với thực tế của cuộc sống gia đình :
phải làm lụng cực nhọc, phải chịu đựng những tính ý khác biệt của nhau… Khi đó
thì đã thấy hơi cực, hơi khó rồi. Nhưng vì thương vợ thương chồng mà họ cố gắng
chịu cực, chịu khó. Tình yêu như thế là đã lên đến mức độ hai : yêu thương
là cho đi. Thế nhưng có một số vợ chồng càng về già càng chán ngán nhau :
vợ thì bệnh hoạn quanh năm suốt tháng, chồng thì lẩm cẩm khó tính hay chửi bới
cộc cằm. Sống chung với một người như thế chẳng còn thấy một chút thú vị mà chỉ
toàn bổn phận, cực nhọc, khổ sầu. Cuộc sống lúc này đang mời gọi những vợ chồng
ấy đưa tình yêu thương của mình lên mức độ thứ ba, mức độ cao nhất, là mức độ
cho đi hoàn toàn, hy sinh tất cả. Hãy cố gắng hy sinh cho nhau thì mới là yêu
thương thật, mới là làm theo lời Chúa dạy “chúng con hãy yêu thương nhau”.
Bây
giờ chúng ta hãy nhìn đến liên hệ của mình với những người khác. Thì cũng thế :
có những người mình yêu thương thật dễ, đó là những người có lợi cho mình, hay
giúp đỡ mình, hay an ủi mình. yêu thương những người này dễ vì yêu thương là
đón nhận. Có những người khác yêu thương họ mình thấy có khi dễ có khi khó vì họ
có khi làm mình vui có khi khiến mình buồn, nhưng mình vẫn cố gắng thương họ được,
vì yêu thương họ mình vừa được đón nhận mà vừa phải cho đi. Nhưng có những người
chẳng mang lại cho mình lợi lộc gì cả mà chỉ toàn làm cho mình cực lòng, mất
mát, khổ đau, thí dụ như những người nghèo, những người bệnh, những người tội lỗi,
những kẻ thù… Nhưng xin được lưu ý rằng chính đây là những người Chúa muốn ta
yêu thương, Chúa muốn ta hy sinh, Chúa muốn ta cho đi hoàn toàn. Chúa đã nói ”
nếu chúng con chỉ yêu thương những kẻ mến chuộng mình thì nào có công gì ?
Những người thu thuế há không làm như thế sao ?
Yêu
thương mới xem ra thì quá dễ. Hay nói đúng hơn yêu thương theo khuynh hướng tự
nhiên thì quá dễ, vì theo tự nhiên người ta chỉ yêu thương khi được đón nhận,
chỉ yêu thương những ai có lợi cho mình.
Nhưng
yêu thương cho đúng nghĩa, yêu thương đúng như ý Chúa muốn thì lại hết sức khó,
vì đòi hỏi ta phải cho đi, phải hy sinh, đòi ta phải yêu thương cả những người
không có lợi cho ta mà còn làm khổ ta.
Nhưng
đó là mức độ yêu thương cao nhất, có yêu thương được như vậy thì mới là làm
theo Lời Chúa. có làm theo Lời Chúa thì mới là yêu mến Chúa thật.
Xin
Chúa giúp chúng ta biết cho đi, biết hy sinh để thực sự yêu thương như Chúa muốn
trong tương quan giữa vợ chồng con cái trong gia đình, cũng như trong tương
quan giữa chúng ta với mọi người khác.
4.
Để
cho đi
Trong
bữa Tiệc ly, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ hai Ngài sắp ra đi. Chẳng lạ gì khi
các ông buồn. Họ không muốn Ngài ra đi. Họ muốn giữ Ngài lại mãi bên họ. Thật
không dễ chịu chút nào khi một người thân yêu ra đi. Cũng không dễ chịu gì khi
để mất đi một món đồ hay một con vật mà mình yêu thích.
Một cậu
bé nhìn thấy một chú chim non rơi từ chiếc tổ trên cành xuống nằm trên mặt đất.
Cậu lượm nó lên, sưởi ấm nó. Một lát sau chú chim tỉnh dậy. Nhưng thay vì đặt
chú chim trở về tổ, cậu đem nó để trong một chiếc lồng. Hằng ngày cậu mang cho
nó rất nhiều thức ăn và nước. Chú chim ngày càng khoẻ mạnh. Nó bắt đầu bay và
hót. Cậu bé rất thích. Nhưng một hôm chú chim cứ đập cánh xành xạch vào thành
chiếc lồng. Cậu bé không hiểu nên hỏi cha mình. Người cha giải thích :
– Tại
vì nó không hạnh phúc đó.
Cậu
bé cãi lại :
– Con
đã đặt vào lồng cho nó tất cả những gì nó cần rồi kia mà.
–
Nhưng vẫn còn thiếu cái điều mà chim yêu quý nhất.
– Điều
gì ?
– Đó
là tự do.
– Bộ
cha muốn con thả cho nó đi sao ?
–
Đúng thế.
–
Nhưng con không thể cho nó đi. Nó đâu có biết là bên ngoài chiếc lồng này có rất
nhiều hiểm nguy đang rình rập nó.
–
Nhưng con phải chấp nhận như thế.
Cậu
bé nài nỉ :
– Cha
ơi, con thương nó lắm.
– Nếu
con thương nó thì con phải để cho nó đi.
Cậu
bé đành mở cửa lồng cho chú chim bay đi. Lòng cậu rất buồn. Nhưng chú chim vừa
ra khỏi lồng đã cất tiếng hót líu lo, tỏ vẻ như trước đây chưa bao giờ vui vẻ
và hạnh phúc như thế. Khi đó cậu bé không buồn nữa mà cảm thấy vui lây.
Các
tông đồ không muốn Chúa Giêsu ra đi. Nhưng như thế là các ông không biết nghĩ
cho Chúa mà chỉ nghĩ cho mình. Chúa Giêsu biết thế nên mới nói : “Nếu các
con yêu mến Thầy thì các con hẳn vui mừng vì Thầy về cùng Cha Thầy”. Về cùng
Cha, đó là mục tiêu cả đời của Chúa Giêsu.
Tình
yêu chiếm hữu thì rất thông thường. Nhiều cha mẹ cũng thương con kiểu đó. Họ đã
ban sự sống cho chúng, nhưng họ không để cho chúng phát triển sự sống của chúng
theo cách của chúng. Nhiều cặp vợ chồng cũng vậy. Họ cứ muốn người vợ hay người
chồng của mình sống theo cách sống của mình.
Tình
yêu chiếm hữu gây ra rất nhiều đau khổ. Còn tình yêu không chiếm hữu thì phát
sinh nhiều điều kỳ diệu cho cả hai phía, chẳng hạn : đổi mới, lớn lên,
phát triển v.v.
Phải
biết để cho những người hoặc những gì mình yêu thích ra đi. Làm như thế quả là
mất mát đấy. Nhưng mất cái hiện tại để được cái tương lai, mất điều mình yêu
quý mà sẽ được điều đáng quý hơn. Bởi vậy, trước khi ra đi, Chúa Giêsu đã
nói : “Thầy ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy nếu Thầy không ra đi
thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con ; nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ
sai Đấng ấy đến với các con” (Ga 16,17) (FM)
5.
Bình
an nội tâm
Có
người cứ nuôi mãi thù hận nên trong lòng không có bình an. Ngược lại, người có
bình an trong lòng thì cuộc sống vui vẻ hạnh phúc.
James
và John là hai người láng giềng của nhau. Ruộng của họ nằm sát bên nhau. Năm đó
thời tiết khô hạn nên việc cày bừa rất vất vả. James rất khó chịu. Anh cứ lấy
roi quất lia quất lịa lên con ngựa đang kéo cày. Nhưng càng bị quất thì con ngựa
càng tỏ ra bướng bỉnh. James biết rằng lúa mì trong mảnh ruộng người hàng xóm
cao hơn lúa của anh. Mỗi khi nhìn sang mảnh ruộng ấy, anh có cảm tưởng là anh
chàng hàng xóm đang nhạo cười mình.
John
thì trái lại. Dù cũng vất vả nhọc nhằn, nhưng anh luôn bình thản và cứ kiên trì
trong công việc. Thỉnh thoảng anh ngừng lại cho con ngựa được nghỉ ngơi. Anh
nhìn sang ruộng của James và thấy rất tệ. Anh muốn sang giúp lắm nhưng biết rằng
anh kia sẽ không bao giờ chịu. Thôi thì đành để James làm một mình vậy.
Điều
khác biệt giữa hai người láng giềng này không phải ở tình hình bên ngoài mà ở
tình trạng nội tâm. Chúng ta nhìn thế giới và tha nhân không phải như cái họ
là, mà như cái ta là. Vì tâm hồn của John vui vẻ nên anh nhìn đời một cách lạc
quan. James thì trái lại, bởi nội tâm bất an nên nhìn cái gì bên ngoài cũng khó
chịu. (FM)
6.
Chuyện
minh họa
Ngày
8.10.1952, một vụ án xảy ra tại Bavière, một thiếu nữ 18 tuổi tên là Emma bị thảm
sát cách tất tưởi. Chuyến xe lửa vừa tới nhà ga, các chị em đồng hành ngạc
nhiên vì không thấy Emma đâu, nên báo cho “Ông Xếp” nhà ga hay tin. Thế là lập
tức các nhân viên hỏa xa chia nhau đi tìm kiếm doc theo đường xe lửa suốt hai
tiếng đồng hồ mới phác giác ra xác Emma đang nằm xõng xượt trong vũng máu, chân
tay bị chặt cụt.. Xếp ga mở cuộc điều tra. Tất cả mọi người hành khách bị thẩm
vấn đều trả lời là không biết gì cả. Trong số đó có một chàng thanh niên 24 tuổi.
Khi được hỏi thì anh trả lời ấp úng là không biết gì cả. Nhưng vì có vẻ ngây
ngô thành thật nên người ta cũng bỏ qua.
Hai
tuần sau, chàng trai này đến gõ cửa Tu viện các Cha dòng Bênêđitô xin nhập
Dòng. Anh được nhận. Sau hai năm thử luyện thấy không có gì ngăn trở, Bề Trên
nhận anh vào Tập viện. Khoảng tháng 10, trước ngày vào Tập viện, anh đến chỗ đường
sắt nơi đã tìm thấy xác Emma nằm trong vũng máu. Anh quỳ chắp tay cầu nguyện.
Ngày hôm sau, lúc sáng sớm tinh sương, anh tới mồ Emma, người mà chính anh đã
giết chết. Anh đã la lên trong tiếng khóc nức nở : “Tôi không chịu được nữa”.
Rồi anh đi tự nộp mình cho cảnh sát và thú tất cả tội lỗi của anh. Cái tội mà
người ta đã quên đi vì không điều tra manh mối gì. Anh thú nhận là anh đã xô
Emma xuống và đâm chết vì nghe cô ta nói là cô ta không biết đến anh nữa. Vì thế
nên anh đã nổi cơn điên nên đã hành động độc ác như thế.
Câu
truyện trên cho chúng ta thấy, dù bốn bức tường kín nơi Tu Viện cũng không trấn
an được tiếng lương tâm ray rứt, không làm cho người thanh niên phạm tội ác được
bình an tâm hồn, cho dầu không một ai hay biết tội lỗi của anh ta.
Vậy
muốn được bình an hạnh phúc thật, con người cần phải có tâm hồn trong sạch, sống
trong ơn nghĩa Chúa. Tâm hồn biết hối cải, biết sống nhân từ, biết yêu thương
và tha thứ, như chính Chúa đã làm gương và dạy chúng ta noi theo bắt chước. (Lm
Minh Vận, CMC. Trích Vietcatholic ngày 2.5.2003)
V. Lời
nguyện cho mọi người
Chủ tế :
Anh chị em thân mến, Thánh thần là Đấng soi sáng, hướng dẫn và nâng đỡ đời sống
đức tin của người Kitô hữu. Vì thế, chúng ta cùng khẩn cầu Thiên Chúa ban Thánh
thần cho chúng ta :
1. Con thuyền Hội thánh không bao giờ chìm
dù gặp phong ba bão táp liên miên / là nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh thần /
Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Thánh thần luôn gìn giữ các vị mục tử / để
các ngài lèo lái con thuyền Hội thánh đến bình an.
2. Phúc thay ai xây dựng hòa bình / vì
họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô
hữu / biết chân thành cộng tác với mọi người thành tâm thiện chí / để
mưu tìm hòa bình cho thế giới hôm nay.
3. Chúa Giêsu nói : / Thầy để lại
bình an cho anh em / Thầy ban cho anh em phúc bình an của chính Thầy /
Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang gặp khủng hoảng trong cuộc sống /
tìm được sự bình an thanh thản nơi tâm hồn / nhờ tín thác vào Chúa.
4. Chúa Giêsu nói : / Ai yêu mến
Thầy / thì sẽ giữ lời Thầy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn
giáo xứ chúng ta / luôn hết lòng tuân giữ mọi Lề Luật của Chúa / để tỏ
lòng yêu mến Người.
Chủ tế :
Lạy Chúa, xin ban Thánh thần là nguồn mạch tình yêu xuống cho chúng con, để Người
giúp chúng con luôn sống bác ái yêu thương như Chúa đã dạy. Chúng con cầu xin
VI.
Trong Thánh Lễ
– Sau
kinh Lạy Cha : Đọc chậm rãi và tâm tình lời nguyện “Lạy Chúa Giêsu, Chúa
đã nói với các tông đồ rằng Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban
bình an cho các con…”
VII.
Giải tán
Chúa
Giêsu đã nói : “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an cho các
con…” Chúc anh chị em ra về bình an.
Lm.
Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio
Divina: Chúa Nhật VI Phục Sinh (C)
Chủ
Nhật 26 Tháng Năm, 2019
Chúa
Thánh Thần sẽ giúp chúng ta hiểu Lời Chúa Giêsu
Ga
14:23-29
1. Lời
Nguyện Mở Đầu
Lạy
Thiên Chúa Toàn Năng ngự trên cao,
Chúa
đã biến đời sống mỏng manh của chúng con thành đá tảng đền thờ Chúa ngự.
Xin
hãy hướng dẫn tâm trí chúng con biết đập vỡ những phiến đá trong sa mạc,
để
cho nước có thể chảy ra hầu làm dịu cơn khát của chúng con.
Nguyện
xin cho sự nghèo nàn về cảm xúc của chúng con che phủ chúng con như tấm áo
choàng trong bóng tối của đêm đen.
Và
xin Chúa hãy mở lòng trí chúng con để chúng con có thể nghe được tiếng vang vọng
của sự im lặng cho đến lúc bình minh,
Xin
hãy ấp ủ chúng con trong ánh sáng của buổi rạng đông,
Xin
hãy mang đến cho chúng con,
Với
than hồng từ lửa của những người chăn chiên của Đấng Tuyệt Đối
Là những
người canh thức cho chúng con được gần với Thầy Chí Thánh, hương vị của kỷ niệm
thánh.
2.
Bài Đọc
a)
Tin Mừng:
23 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng môn đệ rằng: “Ai
yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ
đến và ở trong người ấy. 24 Kẻ không yêu mến Thầy, thì
không giữ lời Thầy. Lời các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng
là của Cha Thầy, Đấng đã sai Thầy. 25 Thầy đã nói với các
con những điều này khi còn ở với các con. 26 Nhưng Đấng
Phù Trợ, là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy
các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với
các con. 27 Thầy để lại bình an cho các con; Thầy ban bình
an của Thầy cho các con; Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng
các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi. 28 Các con đã nghe
Thầy nói với các con rằng: “Thầy đi, rồi Thầy trở lại với các
con”. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng, vì Thầy về
với Cha; bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. 29 Giờ đây Thầy nói với
các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin.
b)
Giây phút thinh lặng:
Chúng
ta hãy để cho Lời Chúa vang vọng ở trong lòng chúng ta.
3.
Suy Niệm
a)
Một vài câu hỏi gợi ý:
– “Và Chúng Ta sẽ đến và ở
trong Người ấy”: nhìn vào trong trại nội tâm của chúng ta, liệu
chúng ta sẽ tìm thấy được căn lều của sự hiện diện (shekinah) của Thiên
Chúa chăng?
– “Kẻ không yêu mến Thầy thì không
giữ lời Thầy”: có phải những lời này của Chúa Kitô chỉ là sáo ngữ đối
với chúng ta bởi vì chúng ta không có lòng yêu mến không? Hay là
chúng ta có thể nói rằng chúng ta xem những lời này như kim chỉ nam cho cuộc
hành trình của chúng ta không?
– “Chính Chúa Thánh Thần sẽ nhắc
nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”: Chúa Giêsu
về cùng Chúa Cha, nhưng mọi điều Người đã nói và làm hãy còn ở lại với chúng
ta. Bao giờ thì chúng ta sẽ có khả năng nhớ được những việc kỳ diệu
mà ân sủng Thiên Chúa đã hoàn thành trong chúng ta? Chúng ta có lãnh
nhận hoặc chấp nhận được tiếng nói của Chúa Thánh Thần cho chúng ta biết trong
lòng về ý nghĩa của tất cả các việc đã xảy ra không?
– “Thầy ban bình an của
Thầy cho các con: bình an của Chúa Kitô Phục Sinh”: Đến khi nào thì
chúng ta mới có thể từ bỏ được những lo lắng và đam mê trong đời sống chúng ta,
những điều đã lôi kéo chúng ta xa rời nguồn mạch hữu thể? Lạy Thiên
Chúa của bình an, đến khi nào thì chúng con sẽ sống chỉ riêng cho Chúa, sự bình
an chờ đợi của chúng con?
– “Thầy nói với các con trước
khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin”: Trước khi việc
xảy ra… Chúa Giêsu ưa nói cho chúng ta biết trước những gì sẽ xảy ra, để khi những
việc này xảy ra thì chúng ta không bị ngỡ ngàng, thiếu chuẩn bị. Nhưng,
chúng ta đã sẵn sàng để đọc thấy những dấu chỉ các sự việc của chúng ta với những
lời nghe được từ Chúa chưa?
b)
Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Để
tìm một nơi gọi là nhà cho chúng ta, Thiên Đàng không có một chỗ nào tốt hơn là
một trái tim con người biết yêu thương. Bởi vì một quả tim mở rộng
yêu thương thì nới rộng ranh giới và các chướng ngại bởi thời gian và không
gian đều biến mất. Sống trong yêu thương cũng bằng sống trong Thiên
Đàng, bằng sống trong Chúa Giêsu, Đấng là tình yêu, và tình yêu vĩnh cửu.
Câu
23: Chúa
Giêsu phán cùng môn đệ rằng: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và
Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Trong
nguồn gốc của tất cả các kinh nghiệm tâm linh thường luôn có động tác đi tới. Bước
một bước nhỏ, rồi sau đó mọi việc chuyển động một cách nhịp
nhàng. Và chỉ cần bước một bước: Nếu ai yêu mến Thầy: Có
thể nào người ấy cũng yêu mến Thiên Chúa chăng? Và làm thế nào mà thấy
được khuôn mặt của Người không còn ở trong đám đông nữa? Yêu mến: Yêu
mến thực sự có nghĩa là gì? Một cách khái quát, yêu mến đối với
chúng ta có nghĩa là mong muốn mọi việc tốt lành cho người mình yêu, muốn được
gần bên nhau, quyết định những việc để xây dựng tương lai, hy sinh bản thân…
yêu mến Chúa Giêsu thì không giống như thế. Yêu mến Chúa Giêsu nghĩa
là làm theo những gì Người đã làm, đừng thoái lui khi phải đối diện với đau đớn,
hoặc sự chết; hãy yêu mến như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta… và trong tình
yêu này Lời của Người đã trở thành của ăn hằng ngày và cuộc sống đã trở thành
Thiên Đàng bởi vì có sự hiện diện của Chúa Cha.
Các
câu 24-25. Kẻ không
yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời các con nghe, không phải
là của Thầy, nhưng là của Cha Thầy, Đấng đã sai Thầy. Nếu không
có tình yêu, thì hậu quả thật là thảm khốc. Lời của Chúa Giêsu chỉ
có thể tuân giữ được khi có lòng yêu thương trong trái tim, bằng không chúng vẫn
chỉ là những lời đề nghị vô lý. Những lời này không phải là những lời
nói xuông của một người thường, mà đây là những lời phát xuất từ trái tim của
Chúa Cha kêu gọi mỗi người chúng ta hãy trở nên giống Người. Trong
cuộc sống, đây không phải là một lời yêu cầu quá đáng, ngay cả khi họ là những
người rất tốt. Thật là cần thiết để là những con người, những người
con, được trở nên hình ảnh giống như Chúa, Đấng không bao giờ ngừng nghỉ cho đi
hoàn toàn chính bản thân mình.
Các
câu 25-26. Thầy
đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Đấng
Phù Trợ, là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy
các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với
các con. Ghi nhớ là một hành động của Chúa Thánh Linh; khi trong
thời đại của chúng ta, những gì xảy ra trong quá khứ được xem như là mất đi
vĩnh viễn và trong tương lai lại có một cái gì đó như là đe dọa lấy đi niềm vui
của chúng ta hôm nay, chỉ có sự thổi hơi của Chúa Thánh Linh trong bạn mới có
thể giúp bạn nhớ được những điều ấy. Để ghi nhớ những gì đã được
nói, mỗi lời nói từ miệng Thiên Chúa phán ra dành cho bạn, và đã bị lãng quên bởi
vì sự thật là thời gian đã qua đi.
Câu
27. Thầy
để lại bình an cho các con; Thầy ban bình an của Thầy cho các con; Thầy ban cho
các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và
đừng sợ hãi. Sự bình an của Chúa Giêsu để lại cho chúng ta không
phải là không có các mâu thuẫn, sự tĩnh lặng của cuộc sống, sức khỏe
…. mà là sự phong phú của tất cả các điều tốt lành, không có sự lo lắng
khi phải đối mặt với những gì sẽ xảy ra. Chúa không bảo đảm với
chúng ta một cuộc sống hoàn hảo, nhưng sự liên hệ viên mãn cha con trong một
tình yêu thương gắn bó với các công việc của Người thì tốt cho chúng
ta. Chúng ta sẽ có sự bình an, ngay khi chúng ta đã học được cách
tin tưởng vào việc mà Chúa Cha đã chọn cho chúng ta.
Câu
28. Các
con đã nghe Thầy nói với các con rằng: “Thầy đi, rồi Thầy trở lại với
các con”. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng, vì Thầy
về với Cha; bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Chúng ta trở lại với câu
hỏi về tình yêu. Nếu các con yêu mến Thầy, các con phải vui mừng. Nhưng
câu nói này của Thầy Chí Thánh có nghĩa gì? Chúng ta có thể điền
thêm vào những chữ sau và nói: Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con
phải vui mừng vì Thầy về với Cha Thầy …. Nhưng bởi vì các con chỉ nghĩ đến cho
chính bản thân các con, các con buồn bã vì Thầy sắp sửa rời xa các
con. Tình yêu của các môn đệ là một tình yêu vị kỷ. Các
ông không yêu Chúa Giêsu vì các ông không nghĩ đến Người, mà các ông chỉ nghĩ đến
bản thân mình thôi. Sau đó, tình yêu mà Chúa Giêsu đòi hỏi là tình
yêu như thế này! Một tình yêu có thể vui mừng khi thấy người khác được
hạnh phúc. Một tình yêu có khả năng không nghĩ đến bản thân mình như
trung tâm điểm của vũ trụ, nhưng là một nơi chốn mà người ta được cảm thấy có sự
cởi mở để cho đi và có thể nhận lãnh: không đổi chác, mà như là một
kết quả của món quà nhận được.
Câu
29. Giờ
đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con
tin. Chúa Giêsu nói trực tiếp với các môn đệ vì Người biết các ông
sẽ còn bối rối và sẽ chậm nhận ra điều này. Lời của Chúa đã không biến
mất, chúng vẫn còn hiện hữu trên thế gian này, trân quý qua sự hiểu biết trong
đức tin. Một cuộc gặp gỡ với Đấng Toàn Năng, Đấng mà luôn luôn vì
con người và mãi mãi yêu thương con người.
c)
Suy Niệm:
Tình
yêu: một từ
ngữ kỳ diệu và cổ xưa, xưa như trái đất, một chữ rất quen thuộc đã được phát
sinh ở trên đời của mỗi người ngay lúc người ấy được tạo dựng. Một
chữ đã được viết trong các thớ thịt của loài người từ lúc bắt đầu cho đến lúc kết
thúc, như một công cụ của hòa bình, như của ăn và quà tặng, như chính mình, như
loài người, như Thiên Chúa. Một chữ được giao phó cho lịch sử qua cuộc
sống mỗi ngày của chúng ta. Tình yêu, một hiệp ước mà đã luôn luôn
có chỉ một tên: loài người. Đúng thế, bởi vì tình yêu xảy
ra cùng lúc với loài người: tình yêu là không khí để loài người thở,
tình yêu là của ăn đã được ban phát cho loài người, tình yêu là tất cả những gì
người ta ký thác vào, tình yêu là sự liên kết hợp nhất biến loài người thành mảnh
đất của tín thác. Tình yêu đó với Thiên Chúa đã nhìn thấy qua sự tác
tạo và ban phát của Người: “Thiên Chúa thấy tốt đẹp”. Và
Thiên Chúa đã không rút lại lời giao ước khi loài người đã tự biến mình thành một
vật loại bỏ hơn là một món quà tặng, một cái vả vào má hơn là một sự âu yếm, một
hòn đá ném đi hơn là một giọt nước mắt im lặng. Thiên Chúa lại càng
yêu thương hơn qua ánh mắt và trái tim của Chúa Con, cho đến tận thế. Loài
người đã trở thành ngọn đuốc tội lỗi, và Chúa Cha đã mở rộng tay cứu rỗi họ một
lần nữa, chỉ vì tình yêu, trong ngọn Lửa của Chúa Thánh Thần.
4.
Cầu Nguyện
Thánh
Vịnh 37:23-31
Chúa
giúp con người bước đi vững chãi,
Con
người ưa chuộng đường lối họ bước theo;
Dầu họ
có vấp cũng không ngã gục,
Bởi
vì đã có Chúa cầm tay.
Từ nhỏ
dại, tới nay tôi già cả;
Chưa
thấy người công chính nào bị bỏ rơi;
Hoặc
con cháu họ phải ăn mày thiên hạ.
Ngày
ngày họ rộng rãi từ tâm và cho mượn cho vay,
Và
con cháu họ mai sau hưởng phúc lành.
Hãy
làm lành, lánh dữ;
Bạn sẽ
được một nơi ở muôn đời.
Bởi
vì Chúa yêu thích điều chính trực;
Người
sẽ chẳng bỏ rơi những bậc hiền đức.
Người
công chính sẽ được gìn giữ mãi mãi,
Quân
bất chính sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt.
Dòng
giống ác nhân rồi cũng phải tru di.
Còn
người công chính được đất hứa làm gia nghiệp,
Và định
cư tại đó mãi muôn đời.
Miệng
người công chính niệm lẽ khôn ngoan,
Và lưỡi
họ nói lên điều chính trực.
Luật
Thiên Chúa, họ ghi tạc vào lòng,
Bước
chân đi không hề lảo đảo.
5.
Chiêm Niệm
Lạy
Chúa, con trông thấy Chúa ngự trị trong đời sống hằng ngày của con nhờ vào Lời
Chúa đã cùng đồng hành với con trong những khoảnh khắc đẹp nhất của con, khi
tình yêu của con dành cho Chúa trở nên dũng cảm, mạnh mẽ và con đã không nao
núng khi phải đối diện với những gì con cảm thấy không thuộc về
con. Chúa Thánh Thần như một ngọn gió: thổi đến nơi mà Người muốn đến
và nơi mà tiếng nói của Người chưa được nghe; Chúa Thánh Thần đã trở thành một
phần không gian trong con, và giờ đây con có thể thưa với Chúa rằng Người giống
như một người bạn thân để con luôn nhớ tới. Trở lại để nhớ tới những
lời đã nói, đến các sự kiện chúng con đã sống, để cảm nhận được sự hiện diện
trong khi trên đường đi, đã giúp bình an cho tâm hồn. Con luôn cảm
thấy sự ngự trị này sâu thẳm trong con hơn bao giờ hết, trong mọi lúc, qua sự
thinh lặng, một trong những câu nói của Chúa hiện về trong tâm trí con, hay một
lời mời gọi của Chúa, một lời nói của Chúa về lòng bác ái yêu thương, hoặc khoảnh
khắc thinh lặng của Chúa. Những đêm cầu nguyện của Chúa cho phép con
được cầu nguyện với Chúa Cha và để tìm được sự bình an. Lạy Chúa, sự
mỏng dòn yếu đuối được che dấu trong các lời khẩn cầu của con, xin hãy ban cho
con biết trân quý tất cả những gì thuộc về Chúa: một quyển sách, khi
được mở ra, trong đó có lời giải thích một cách dễ hiểu về ý nghĩa của sự hiện
diện của con nơi đây. Xin hãy ban cho những lời của con được là nơi
cư ngụ của Lời Chúa, xin cho cơn đói khát của con là nhà Chúa, bánh hằng sống,
xin cho nỗi đau khổ của con trở thành ngôi mộ trống và tấm khăn liệm được gấp lại
để mọi việc mà Chúa muốn có thể được thực hiện, cho đến hơi thở cuối
cùng. Lạy Chúa, con yêu mến Chúa, Chúa là đá tảng của con.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét