Trang

Thứ Hai, 10 tháng 11, 2025

11.11.2025: THỨ BA TUẦN XXXII THƯỜNG NIÊN - THÁNH MÁC-TI-NÔ, GIÁM MỤC - Lễ Nhớ

 11/11/2025

 Thứ Ba tuần 32 thường niên.

 Thánh Máctinô, giám mục.

 Lễ nhớ

 


Thánh nhân sinh khoảng năm 316 trong một gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận bí tích thánh tẩy, sau đó bỏ binh nghiệp. Trước tiên, người làm đồ đệ của thánh Hilariô, lập đan viện Liguygê, nước Pháp. Rồi khi được đặt làm giám mục giáo phận Tua (372), người thành lập nhóm đan sĩ truyền giáo. Cùng với họ, người đi giảng Tin Mừng ở các vùng quê thuộc miền Turen và các vùng phụ cận. Người qua đời năm 397.

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Kn 2, 23 – 3, 9

“Ðối với con mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết, nhưng thật ra các ngài sống trong bình an”.

Trích sách Khôn Ngoan.

Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa để sống vĩnh viễn. Nhưng bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian: kẻ nào thuộc về nó thì bắt chước nó.

Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Ðối với con mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết, và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra, các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài có chịu khổ hình, lòng cậy trông của các ngài cũng không chết.

Sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao, vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét xử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời.

Các ngài đã tin tưởng ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 16-17. 18-19

Ðáp: Tôi chúc tụng Thiên Chúa trong mọi lúc

Xướng: Tôi chúc tụng Thiên Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Thiên Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.

Xướng: Thiên Chúa để mắt coi người hiền đức, và tai Người lắng nghe tiếng họ cầu. Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần gian.

Xướng: Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Người cứ họ khỏi mọi nỗi âu lo. Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữu những tâm hồn đau thương dập nát.

 

Alleluia: Cl 3, 16a và 17c

Alleluia, alleluia! – Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em; anh em hãy nhờ Ðức Kitô mà tạ ơn Chúa Cha. – Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 17, 7-10

“Chúng tôi là đầy tớ vô dụng: vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán: “Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về liền bảo nó rằng: “Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa”, mà trái lại không bảo nó rằng: “Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống”? Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng không.

“Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: “Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm”.

Ðó là lời Chúa.

 


 

Chú giải về Sách Khôn Ngoan 2,23—3,9

Đây là một đoạn văn tuyệt vời và đáng đọc thường được đọc trong các Thánh lễ cầu hồn và chúng ta cũng đọc vào ngày 2 tháng 11, Lễ Các Đẳng Linh Hồn. Đoạn văn này nói về cái chết và sự bất tử, tràn đầy hy vọng:

…Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta để được bất diệt và theo hình ảnh vĩnh cửu của Người…

Thiên Chúa phán trong chương mở đầu của Sách Sáng Thế:

Chúng ta hãy tạo dựng con người theo hình ảnh của chúng ta, giống như chúng ta… (Sáng Thế  1,26)

Trong Sách Sáng Thế, ý nghĩa chủ yếu của đoạn văn này là nhân loại được trao trách nhiệm quản lý phần còn lại của tạo vật và sống trong chân lý và tình yêu. Nhưng trong bài đọc hiện tại, trọng tâm là bản chất vĩnh cửu của Thiên Chúa mà Người muốn chia sẻ với toàn thể nhân loại.

Sự bất tử đó đã bị đặt dấu hỏi bởi cái chết đã đến thế gian “do lòng đố kỵ của kẻ thù [Satan]”, như thể muốn nói rằng, Tổ Tiên Đầu Tiên của chúng ta đã bị cám dỗ phạm tội vì lòng đố kỵ của Sa-tan khi họ được dự phần vào sự bất tử của Đức Chúa Trời, điều mà chính hắn đã đánh mất bởi sự bất tuân của mình (xem Khải Huyền 12,9 và 20,2). Tất cả những ai đầu hàng trước sự dẫn dắt gian dối của Sa-tan sẽ gặp cùng một số phận:

Các ngươi bởi cha mình là ma quỷ mà ra, và các ngươi chọn làm theo dục vọng của cha mình. Nó đã là kẻ giết người ngay từ ban đầu và không đứng vững trong lẽ thật vì không có lẽ thật trong nó… (Gioan 8,44)

‘Cái chết’ mà Sa-tan mang đến ở đây chủ yếu là cái chết thuộc linh, sự xa cách đời đời với Đức Chúa Trời, mà cái chết thể xác là một trong những hậu quả của nó.

Nhưng linh hồn của người công chính ở trong tay Đức Chúa Trời, và không có sự hành hạ nào có thể chạm đến họ.

Ngược lại, số phận của những người “ngay thẳng”, những người hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa trong mọi phương diện, được Ngài bảo vệ đặc biệt và “sẽ không còn đau khổ nào chạm đến họ”.

Trên thực tế, khi con người qua đời – ngay cả người tốt – thì bề ngoài, trông không giống như vậy:

Trong mắt những kẻ ngu muội, họ dường như đã chết, và sự ra đi của họ được coi là một thảm họa, và việc họ rời xa chúng ta là sự hủy diệt của họ…

Ngay cả khi những người tốt và thánh thiện rời bỏ chúng ta, điều đó cũng được coi là một bi kịch và một cú sốc không chỉ đối với chúng ta, mà còn đối với họ. Chúng ta tự hỏi: “Họ đã làm gì để bị đưa đi như thế này?”

Nhưng đối với những người thực sự tốt, thực tế lại hoàn toàn khác. Thực tế, khi chết:

…họ được bình an.

Không chỉ tất cả những yếu tố tiêu cực đã được loại bỏ khỏi cuộc sống của họ, mà họ còn ở trong trạng thái an toàn và hạnh phúc trọn vẹn dưới sự bảo vệ và trong sự thân mật với Chúa. Như Kinh Nguyện Thánh Thể III đã nói khi nói về người chết:

Nơi đó, chúng con hy vọng được chia sẻ vinh quang của Chúa khi mọi giọt lệ được lau khô. Vào ngày đó, chúng con sẽ thấy Chúa, Thiên Chúa của chúng con, như Ngài vốn có.

Cái chết của họ dường như là một hình phạt, sự từ chối món quà sự sống, nhưng thực ra:

...hy vọng của họ tràn đầy sự bất tử.

Đối với một Ki-tô hữu, đức tin đi đôi với hy vọng, một niềm hy vọng vững chắc rằng một ngày nào đó sẽ được đoàn tụ mãi mãi với Chúa Kitô, Chúa chúng ta. Niềm hy vọng đó là sự bất tử (trong tiếng Hy Lạp là athanasia).

Kỳ lạ thay, đây là lần đầu tiên thuật ngữ athanasia xuất hiện trong sách cuối cùng của Cựu Ước. Đối với người Hy Lạp, đó là một thuật ngữ quen thuộc có nghĩa là một sự tưởng nhớ không bao giờ chết, hoặc sự bất tử của linh hồn. Ở đây, nó rõ ràng được sử dụng theo nghĩa thứ hai và cụ thể hơn, nói về một sự bất tử được ban phước trong sự đồng hành mật thiết với Thiên Chúa như phần thưởng cho một cuộc sống ngay thẳng—một cuộc sống sống theo ý muốn của Thiên Chúa. Đây chính là hy vọng của tác giả Thánh Vịnh, người không thể chấp nhận việc mất đi tình bạn với Thiên Chúa qua cái chết:

Vì vậy, lòng tôi vui mừng, linh hồn tôi hân hoan;

thân thể tôi cũng được nghỉ ngơi an toàn.

Vì Chúa không bỏ rơi tôi nơi Âm phủ

cũng không để người thánh Chúa thấy vực sâu. (Thánh Vịnh 16,9-10)

Vào thời Cựu Ước, số phận của tất cả mọi người sẽ bị giam cầm mãi mãi trong cõi âm ty này, được gọi là Sheol. Tác giả sách Khôn Ngoan có một thái độ tràn đầy hy vọng hơn nhiều, khiến lời cầu nguyện của tác giả Thánh Vịnh trở thành hiện thực cho tất cả những người ngay thẳng.

Thực tế, đối với người ngay thẳng, nỗi đau của cái chết chỉ như một cái chạm nhẹ vào cổ tay, so với những phước lành đang chờ đợi ở thế giới bên kia:

...vì Đức Chúa Trời đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với Ngài...

Nỗi buồn và đau đớn là cách Đức Chúa Trời thử thách và thanh tẩy người ngay thẳng:

...vì Đức Chúa sửa phạt những kẻ Ngài yêu thương và sửa phạt mọi đứa con Ngài tiếp nhận. (Híp-ri 12,6)

...như vàng trong lò lửa, Ngài đã thử nghiệm họ, và như của lễ thiêu, Ngài đã chấp nhận họ.

Người ta có thể hiểu tại sao những kẻ làm điều ác lại gặp phải những thời điểm khó khăn. Khó hiểu hơn tại sao người tốt lại phải chịu đau khổ. Nhưng như tác giả đã nói, đau khổ trong trường hợp của người tốt có tác dụng thanh tẩy. Hình ảnh này giống như cuộc thiêu hủy, trong đó nạn nhân bị thiêu rụi hoàn toàn trong lửa. Tương tự như vậy, khi bị đặt vào lửa, mọi tạp chất đều được loại bỏ khỏi vàng mới khai thác. Ngay cả Chúa Giê-su, chính Con Thiên Chúa, cũng đã chịu thử thách như vậy và bước vào vinh quang của Ngài.

Trong thời gian được viếng thăm, họ sẽ tỏa sáng và chạy như tia lửa xuyên qua rơm rạ.

‘Thăm viếng’ ở đây diễn tả sự phán xét yêu thương của Thiên Chúa đối với những người trung thành với Ngài (nhưng lưu ý rằng sau này trong sách Khôn Ngoan, thuật ngữ tương tự được dùng để chỉ sự trừng phạt kẻ ác trong phán quyết cuối cùng của Thiên Chúa).

Hình ảnh tia lửa chạy qua rơm rạ, còn sót lại sau khi cắt lúa, được sử dụng trong nhiều đoạn Kinh Thánh và tượng trưng cho ảnh hưởng của cơn thịnh nộ báo thù của Thiên Chúa hoặc sự trả thù của dân Israel đối với kẻ thù. Ở đây, nó được sử dụng hơi khác một chút, có lẽ để chỉ sự tham gia của những người công chính được vinh quang vào việc loại bỏ cái ác, trước khi Vương quốc Thiên Chúa được thiết lập, mà họ là bằng chứng rõ ràng. Và như vậy:

Họ sẽ cai trị các quốc gia và thống trị các dân tộc, và Chúa sẽ trị vì họ đến muôn đời.

Rõ ràng, họ sẽ phán xét các quốc gia không cùng đẳng cấp với Thiên Chúa. Nhưng chính sự ngay thẳng của họ sẽ hoàn toàn trái ngược với những người không vâng theo ý muốn của Chúa trong cuộc sống.

Và cuối cùng:

Những ai tin cậy Ngài sẽ hiểu được chân lý…

Những ai hoàn toàn phó thác bản thân mình vào đức tin và tin tưởng vào ý muốn của Chúa trong cuộc sống, sau khi chết, sẽ biết rằng họ thực sự đang bước đi trên con đường chân lý, con đường của sự chính trực và trọn vẹn mà họ đã đạt được. Họ cũng sẽ:

…ở lại với Ngài trong tình yêu thương, vì ân điển và lòng thương xót ở cùng những người thánh của Ngài, và Ngài gìn giữ những người được Ngài chọn.

Một cuộc sống đức tin nơi Chúa Kitô và Con Đường của Ngài sẽ không thể có nếu không có một cuộc sống yêu thương—yêu Chúa, yêu tha nhân, yêu chính mình. Trong cái chết, họ sẽ thực sự biết và được đưa vào Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu. Đây chính là Thiên Đàng!

Vậy thì, chúng ta hãy chuẩn bị tinh thần để cái chết của mình cũng sẽ là cánh cổng dẫn đến hạnh phúc trọn vẹn và sự kết hợp với Chúa. Chúng ta chuẩn bị cho thời điểm đó bằng cách mỗi ngày tìm kiếm và gặp gỡ Chúa trong mỗi người và trong mọi trải nghiệm.

 


Chú giải về Luca 17,7-10

Hôm nay, chúng ta có thêm một lời cảnh báo từ Luca (và chỉ được tìm thấy trong Phúc Âm của ông) về tính tự mãn. Khi đọc dụ ngôn này, chúng ta phải cẩn thận - cũng như nhiều dụ ngôn khác - để không làm rối trí bằng cách lôi kéo vào những vấn đề không hợp thời. Chúa Giêsu hỏi:

Ai trong các ngươi lại bảo đầy tớ mình vừa đi cày ruộng hay chăn chiên ngoài đồng về: 'Mau lại đây ngồi vào bàn ăn'?

Chẳng lẽ chúng ta không mời nó ngồi xuống, dùng bữa tối và nghỉ ngơi cho ngon lành sao?

Chẳng lẽ các ngươi không bảo nó: 'Hãy dọn bữa tối cho ta, đeo tạp dề vào hầu bàn cho ta ăn uống, rồi sau đó ngươi sẽ ăn uống' sao?

Liệu chúng ta có thể bày tỏ lòng biết ơn đối với một người hầu chỉ làm những gì được giao phó không?

Ở đây, chúng ta hãy tạm gác lại những hiểu biết hiện tại của mình về quyền của người lao động, dân chủ và những tệ nạn cùng hậu quả lâu dài của mọi hình thức nô lệ. Không ai vào thời Chúa Giêsu, dù là chủ hay nô lệ, lại nghĩ đến việc thắc mắc những gì Người nói. Đồng thời, chúng ta có thể nhớ Chúa Giêsu đã nói rằng những người hầu tỉnh thức sẽ được chủ nhân chào đón, người sẽ cho họ ngồi xuống và đích thân phục vụ họ (xem Luca 12,37), và Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đồ như một tấm gương phục vụ.

Điều chúng ta đang đề cập ở đây là mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Điều Chúa Giêsu muốn nói là Thiên Chúa không bao giờ cần phải biết ơn chúng ta về bất cứ điều gì chúng ta làm cho Người. Dù chúng ta làm bao nhiêu cho Người, chúng ta cũng không bao giờ có thể khiến Người mắc nợ chúng ta. Mọi điều chúng ta dâng cho Thiên Chúa (hoặc cho Thiên Chúa qua người khác) chỉ đơn giản là trả lại cho Người một phần nhỏ những gì Người đã ban cho chúng ta. Lời Tiền Tụng IV cho các Thánh Lễ Ngày Thường có chép rất hay:

Chúa không cần chúng con ngợi khen, nhưng lòng chúng con muốn tạ ơn Chúa chính là món quà của Người. Lời cầu nguyện tạ ơn của chúng ta chẳng thêm gì vào sự vĩ đại của Người, nhưng làm cho chúng ta lớn lên trong ân sủng của Người.

Thiên Chúa không bao giờ có thể mắc nợ chúng ta. Người không bao giờ có thể mang bất kỳ nghĩa vụ nào đối với chúng ta. Có lẽ đó là điều một số người Pha-ri-sêu nghĩ. Họ tin rằng, vì họ đã tuân giữ Luật pháp một cách hoàn hảo, nên Chúa nợ họ ơn cứu rỗi. Chúng ta thấy điều đó trong cảnh người Pha-ri-siêu và người thu thuế cầu nguyện trong Đền thờ, nơi lời cầu nguyện của người Pha-ri-sêu tạo ấn tượng rằng Chúa nên vô cùng biết ơn khi có được, giữa biết bao người vô tâm, một người tốt như chính Ngài.

Chúng ta cũng có thể tự mình làm điều tương tự khi, chẳng hạn, chúng ta nghĩ rằng bằng cách đọc một số lời cầu nguyện hoặc thực hiện một số hành động nhất định (như cầu nguyện chín ngày, cầu xin ơn xá tội và hành hương), Chúa nên chú ý và làm những gì chúng ta bảo Ngài làm hoặc ban cho chúng ta những gì chúng ta cầu xin.

Tất cả cuộc sống của chúng ta theo Phúc Âm không phải là một lời khen ngợi dành cho Chúa. Ngược lại, chúng ta không bao giờ có thể biết ơn Ngài đủ vì đã chỉ cho chúng ta con đường đến chân lý, tình yêu, tự do và hạnh phúc mà Chúa Giê-su đã dạy chúng ta, và vì đã ban cho chúng ta ân sủng để bước đi trên Đường Lối của Ngài. Với Chúa, mọi sự cho đi của chúng ta chỉ là sự đáp trả không hoàn hảo và cục bộ.

 

https://livingspace.sacredspace.ie/o1323g/

 

 


Suy niệm: Tinh Thần Phục Vụ Ðích Thực

Nhân vật nổi tiếng trong Giáo Hội hiện nay được thế giới nhắc nhớ và thương mến nhất, hẳn phải là Mẹ Terêsa Calcutta, một người đã được nhiều giải thưởng nhất: giải Magsaysay do chính phủ Phi Luật Tân dạo thập niên 60; đầu năm 1971, Mẹ lại được Ðức Phaolô VI trao giải Gioan XXIII vì hòa bình; giải thưởng Kenedy do chính phủ Hoa Kỳ tặng, tất cả số tiền nhận được, Mẹ đã dùng để xây dựng trung tâm Kenedy tại một khu ổ chuột ở ngoại ô Calcutta; tháng 12/1972 chính phủ Ấn nhìn nhận sự đóng góp của Mẹ và trao tặng Mẹ giải Nêru; nhưng đáng kể hơn nữa là giải Nobel Hoà bình năm 1979, đây là giải thưởng đã làm cho tên tuổi Mẹ Têrêsa được cả thế giới biết đến, cũng như những lần khác, khi một viên chức chính phủ Ấn gọi điện thoại để chúc mừng, Mẹ đã trả lời: "Tất cả vì vinh quang Chúa".

"Tất cả vì vinh quang Chúa", đó là động lực đã thúc đẩy Mẹ Têrêsa dấn thân phục vụ người nghèo trên khắp thế giới. Với bao nhiêu danh vọng và tiền bạc do các giải thưởng mang lại, Mẹ vẫn tiếp tục là một nữ tu khiêm tốn, nghèo khó, làm việc âm thầm giữa những người nghèo khổ nhất. Thông thường, các giải thưởng cho một người nào đó như một sự nhìn nhận vào cuối một cuộc đời phục vụ làm việc hay một công trình nghiên cứu; nhưng đối với Mẹ Têrêsa, mỗi giải thưởng là một bàn đạp mới, một khởi đầu cho một công trình phục vụ to lớn hơn và làm cho nhiều người biết đến và ngợi khen Thiên Chúa nhiều hơn.

Qua cuộc đời của Mẹ Têrêsa, chắc chắn thế giới sẽ hiểu hơn thế nào là tinh thần phục vụ đích thực trong Giáo Hội. Một Giáo Hội càng phục vụ thì bộ mặt của Chúa Kitô phục vụ càng sáng tỏ hơn; trái lại, khuôn mặt Chúa Kitô sẽ lu mờ đi, nếu Giáo Hội chưa thể hiện được tinh thần phục vụ đích thực của Ngài.

Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay mời gọi chúng ta nhìn nhận những thiếu sót của chúng ta: có lẽ dung mạo của một Chúa Kitô phục vụ và phục vụ cho đến chết chưa được phản ảnh trên gương mặt của các Kitô hữu; tinh thần phục vụ đích thực của Kitô giáo vẫn chưa được sáng tỏ và thể hiện qua cách sống của các Kitô hữu. Chúa Giêsu đã khẳng định: "Khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận mà thôi". Ðầy tớ là người làm tất cả những mọi sự vì chủ, đầy tớ là người hoàn toàn sống cho chủ. Dĩ nhiên, ở đây, Chúa Giêsu không có ý đề cao quan hệ chủ tớ trong xã hội. Ngài đã xem quan hệ trong xã hội con người và Thiên Chúa như một quan hệ chủ tớ; Ngài đã chẳng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như một người Cha và mời gọi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha đó sao?

Như vậy, ở đây, Chúa Giêsu chỉ muốn dùng hình ảnh người đầy tớ vốn có trước mắt người Do thái, để nói lên tương quan đích thực giữa con người và Thiên Chúa, đó là con người chỉ sống thực sự khi nó sống cho Thiên Chúa mà thôi. Cái nghịch lý lớn nhất mà Kitô giáo đề ra là càng tìm kiếm bản thân, càng sống cho riêng mình, con người càng đánh mất chính mình; trái lại, càng sống cho Thiên Chúa, càng tìm kiếm vinh danh Thiên Chúa, nghĩa là càng phục vụ vô vị lợi, con người càng lớn lên và càng tìm lại được bản thân; giá trị đích thực của con người như Chúa Giêsu đã dạy và đã sống chính là phục vụ một cách vô vị lợi. Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến Chế "Vui Mừng và Hy Vọng" đã để lại một châm ngôn đáng được chúng ta Suy niệm và đem ra thực hành: "Con người chỉ tìm gặp lại bản thân bằng sự hiến thân vô vị lợi mà thôi".

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại định hướng cơ bản trong cuộc sống chúng ta: đâu là mục đích và ý nghĩa cuộc sống chúng ta? đâu là giá trị đích thực mà chúng ta đang tìm kiếm và xây dựng trong cuộc sống hiện tại.

(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét