Chúa Nhật 03/02/2013
CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN
(Phần I)
BÀI
ĐỌC I: Gr 1, 4-5, 17-19
"Ta sẽ đặt ngươi
làm tiên tri trong các dân tộc".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Trong thời vua Giosia, lời Chúa phán
cùng tôi rằng: "Trước khi Ta tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết
ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt
ngươi làm tiên tri trong các dân tộc.
Vậy phần ngươi, ngươi hãy thắt lưng,
hãy chỗi dậy, và nói cho họ biết tất cả những điều Ta truyền dạy cho ngươi.
Đừng run sợ trước mặt họ, vì Ta không làm cho ngươi kinh hãi trước mặt họ. Hôm
nay Ta làm cho ngươi nên một thành trì vững chắc, một cậy cột bằng sắt, một
vách thành bằng đồng trước mặt các vua Giuđa, các hoàng tử, các tư tế và dân
chúng xứ này. Họ sẽ chiến đấu chống ngươi, nhưng họ không thắng được ngươi, vì
Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 70, 1-2. 3-4a. 5-6ab. 15ab và 17
Đáp: Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh (c. 15a).
1)
Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con tủi hổ muôn đời; theo đức
công minh Chúa, xin cứu nguy và giải thoát con, xin ghé tai về bên con và giải
cứu. - Đáp.
2)
Xin trở nên thạch động để con dung thân, và chiến luỹ vững bền hầu cứu độ con:
vì Chúa là Đá Tảng, là chiến luỹ của con. Lạy Chúa con, xin cứu con thoát khỏi
tay đứa ác. - Đáp.
3)
Bởi Ngài là Đấng con mong đợi, thân lạy Chúa. Lạy Chúa, Ngài là hy vọng của con
tự hồi thanh xuân. Ngay từ trong bụng mẹ, con đã nép mình vào Chúa; từ trong
thai mẫu, Chúa là Đấng bảo vệ con, con đã luôn luôn cậy trông vào Chúa. - Đáp.
4)
Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh, và suốt ngày kể ra ơn Ngài giúp đỡ.
Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu, và tới bây giờ con còn kể (ra)
những sự lạ của Ngài. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 12, 31 - 13, 13 (bài dài)
"Đức tin, đức
cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, anh em hãy cầu mong
những ơn cao trọng hơn. Và tôi chỉ bảo cho anh em một con đường hoàn hảo nhất.
Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác
ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi
được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khôn ngoan; nếu tôi có đầy
lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là
không. Nếu tôi phân phát mọi của cải tôi có để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp
mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi.
Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác
ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận,
không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng
chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.
Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên
tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất. Vì
chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng
khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói
như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã
trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt
như qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới
hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức
cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng
hơn cả. Đó là lời Chúa.
Hoặc
đọc bài vắn này: 1 Cr 13, 4-13
Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác
ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận,
không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng
chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.
Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên
tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biết mất. Vì
chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng
khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói
như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã
trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt
như qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới
hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức
cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng
hơn cả. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có lời ban sự
sống. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 4, 21-30
"Chúa Giêsu, như
Êlia và Êlisê, không phải chỉ được sai đến với người Do-thái".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói trong
hội đường rằng: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa
nghe". Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời
từ miệng Người thốt ra, và họ nói: "Người này không phải là con ông Giuse
sao?"
Và Người nói với họ: "Hẳn các
ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: 'Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính
mình!' Điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê
hương ông'". Người nói tiếp: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một
tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật với các ngươi, đã có
nhiều bà goá trong Israel thời Elia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu
tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Elia không được sai đến
cùng một nguời nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc
xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, thế
mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người
Syria".
Khi nghe đến đó, mọi người trong hội
đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn
Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm.
Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi. Đó là lời Chúa.
Suy niệm
: Phản Ứng Của Hội Ðường Thành Nadarét
Chúa nhật trước, chúng ta thấy Ðức Giêsu khởi sự đi
giảng đạo, Người đã vào hội đường Nadarét, xưng mình là vị tiên tri Thiên Chúa
hứa sẽ gởi đến cho dân Người. Hơn nữa, khi áp dụng lời sách Isaia về người Tôi
tớ Thiên Chúa vào cho mình, Ðức Giêsu đã khẳng định Người là Cứu thế đến công
bố năm hồng ân của Thiên Chúa tức là khai mạc thời đại cứu độ mọi người. Hôm
nay, thánh Luca cho chúng ta thấy phản ứng của người đồng hương với Ðức Giêsu
trước những lời xác quyết của Người.
Ðó là thái độ cố hữu của người Do Thái, như Giêrêmia đã
kinh nghiệm. Ðó cũng có thể là cách trả lời của chúng ta đối với mọi mạc khải
của Thiên Chúa nơi các ngôn sứ của Người, nếu chúng ta không nghe lời thánh
Phaolô mà đặt đức ái lên trên hết. Vậy chúng ta hãy suy nghĩ về cả ba bài Kinh
Thánh hôm nay để hiểu mình và sửa mình cho xứng đáng với ơn Chúa muốn cứu độ
chúng ta.
1. Thái Ðộ Cố Hữu Của Người
Do Thái
Không dân tộc nào được Chúa yêu thương như cộng đồng
con cái Israen. Không phải vì họ có những đức tính trổi vượt hơn hết mọi dân
tộc; nhưng chỉ vì Thiên Chúa đã khấng chọn họ làm dân riêng của Người. Họ có
luật pháp là mạc khải khôn ngoan cao cả của Thiên Chúa. Họ còn thường được các
tiên tri đến dạy dỗ. Ðó là những ngôn sứ thay mặt Thiên Chúa đến soi sáng và
hướng dẫn họ sống theo luật pháp, hầu được đẹp lòng Chúa và hưởng các ân huệ
Người ban.
Nhưng Do Thái lại là dân cứng đầu cứng cổ. Họ vứt bỏ
đường lối của Thiên Chúa để đi theo lòng dục của mình. Vị tiên tri nào Chúa gửi
tới cũng gặp nhiều chống đối và khó khăn. Một phần nữa cũng vì có quá nhiều
những tay bịp bợm, lạm dụng sự mê tín của quần chúng tự xưng là sứ giả của
Thiên Chúa. Nên bên cạnh một số ít tiên tri thật, có nhan nhản những tiên tri
giả và những kẻ "muốn làm nghề tiên tri". Vì sự hiện diện và hoạt
động của những kẻ này, các ngôn sứ của Chúa phải tăng thêm nỗ lực để khẳng định
Lời Chúa và ơn gọi của mình. Và thường khi các ngài phải "chết để nói lên
lời". Giêrêmia là một trong những vị đại tiên tri. Ông là một trong 4 đại
tiên tri còn để lại văn phẩm. Không vị tiên tri nào đã gặp nhiều đau khổ vì ơn
gọi như ông.
Thế nên, xét về phương diện đau khổ, ông là vị tiên tri
gần với Ðức Giêsu Kitô hơn hết. và Phụng Vụ hôm nay đã theo truyền thống coi
ông là hình ảnh báo trước về nhà tiên tri thành Nadarét có định mệnh "phải
chịu đau khổ". Chúng ta đọc lại những chương 36-45 trong sách Giêrêmia để
xem nhà tiên tri này đã khổ sở thế nào. Người ta chống đối, muốn bịt miệng ông,
bắt ông phải vào tù ra khám, và có lần đã muốn chấm dứt đời ông rồi. Nhưng
trong mọi trường hợp, Giêrêmia vẫn cương quyết công bố Lời Chúa và khẳng định
ơn gọi thiêng liêng của mình.
Bài đọc hôm nay không cố ý mô tả cuộc đời thơ ấu của
Giêrêmia đâu. Nhưng đây là cái nhìn của một người rất đứng tuổi và chín chắn
nghĩ lại ơn gọi của mình, để làm chứng cho mọi người thấy thiên mệnh đã đè
xuống trên ông.
Ðồng bào của Giêrêmia, tức là cộng đồng con cái Israen
vẫn tin rằng Thiên Chúa là nguồn gốc mọi sự và con người cũng do tay Người nặn
lên. Nhưng điều ít ai để ý, là trước khi Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ và muôn
vật hữu hình này, Người đã có một kế hoạch rất rõ ràng. Ơn gọi của các tiên tri
nằm trong kế hoạch ấy.
Thế nên "trước khi Ta nắn ngươi trong lòng mẹ, Ta
đã biết ngươi; và trước khi lọt dạ mẹ, Ta đã tác thánh ngươi. Ta đã đặt ngươì
làm tiên tri cho các dân tộc". Và để chứng minh điều này, Giêrêmia nói
thêm rằng: khi được gọi, ông chưa biết nói, nhưng Chúa bảo chính Người sẽ ban
Lời cho ông để ông chỉ có việc nói những lời của Người mà thôi.
Ðó là những lời thành thật. Chúng ta không có gì phải
nói thêm. Chúng ta chỉ để ý đến lời Giêrêmia khẳng định mình đã được đặt làm
tiên tri cho "các dân tộc". Ý ông muốn nói sấm ngôn của Chúa, mạc
khải của Người, không dành riêng gì cho dân Do Thái, nhưng cho mọi dân nước và
thời đại. Tính cách phổ cập này thêm vinh dự cho ơn gọi tiên tri tự nó đã cao
quý vì phát xuất từ Thiên Chúa. Tuy nhiên ơn gọi này lại rất bi đát. Những lời
sau của Giêrêmia tóm tắt định mệnh của ông.
Ông phải "nai lưng", tức là phải lấy thế để
chiến đấu, vì người ta sẽ tuyên chiến với ông. Họ cưỡng lại mọi lời ông nói, vì
lời của ông diễn tả ý Chúa chứ không chiều theo dục vọng của loài người.
Ðó là tiêu chuẩn để phân biệt các tiên tri giả và các
tiên tri thật. Những người này dù bị chống đối và đau khổ vẫn như thành trì,
trụ sắt và tường đồng, cự lại các vua và khanh tướng. Không phải vì họ có can
đảm phi thường, nhưng chỉ vì Chúa đã giữ lời hứa với các tiên tri của Người
"Ta sẽ ở với ngươi khiến chúng không làm gì được ngươi".
Thật ra không phải vị tiên tri nào cũng thoát khỏi bàn
tay sát nhân của loài người độc dữ đến nỗi sau này có lần Ðức Giêsu phải kêu
lên "Giêrusalem, Giêrusalem, kẻ giết hại các tiên tri" (Mt 23,37). Và
có như thế, các tiên tri mới là những người báo trước vị tiên tri sẽ phải đến
trong thời kỳ sau hết, Người cũng sẽ bị giết, nhưng sự sống lại của Người sẽ
làm chỗi dậy mọi bậc tiên tri đến trước hầu cho thấy "thủ lãnh thế gian bị
luận phạt".
Hôm nay bài Tin Mừng Luca cho chúng ta thấy vị tiên tri
này. Không những Người đã gợi lại mà còn thực hiện bài sách Giêrêmia. Chúng ta
hãy quan sát Người theo lời thuật của Luca.
2. Phản Ứng Của Hội Ðường
Thành Nadarét
Ðức Giêsu bấy giờ vừa giảng xong. Người ta thán phục
Người. Họ cảm thấy như có một nguồn ân sủng thoát ra từ môi miệng của Người.
Nhưng Người không là con nhà ông Giuse sao? Suy nghĩ này làm chứng họ không
muốn khiêm nhường đón nhận sứ điệp cứu độ đến với họ qua một con người bình thường
ở giữa họ. Ðức Giêsu chua chát nghĩ đến câu: "Không tiên tri nào được tôn
trọng ở quê nhà".
Và từ đó, Luca nghĩ rằng Ðức Giêsu đã nhìn xa hơn nữa,
không những Người thấy những kẻ đồng hương với Người ở Nadarét không muốn chấp
nhận Người; nhưng qua họ, Người còn thấy rõ cả dân tộc Do Thái nữa cũng sẽ
không đón nhận. Họ cậy mình đã có luật pháp và không muốn bị xáo trọn bởi một
luồng gió mới nào nếu người khởi xướng không làm được những dấu lạ điềm thiêng
như Môsê ngày trước. Nghĩa là họ chỉ muốn mãi mãi là những người xác thịt, coi
trọng những cái bề ngoài và không bao giờ muốn trở nên trưởng thành, biết ý
thức về ý nghĩa của luật pháp như các tiên tri thường hướng dẫn. Tín ngưỡng của
họ trở thành thứ tôn giáo của chữ viết, và của hình thức, chứ không muốn là sự
sống tinh thần như Thiên Chúa kêu gọi. Do đó, họ rất ít nghe lời các tiên tri.
Hơn nữa, họ còn bỏ rơi các ngài. Thường khi họ còn giết chết các ngài nữa. Mà
các ngài đâu có thiếu gì các quyền năng? Êlya không có quyền đóng góp cửa trời
và làm mưa sao? Thế mà có ai trong dân Do Thái được nhờ ông? Trái lại một góa
phụ ở Sarepta thuộc dân ngoại đã được ông cứu đói. Êlisê cũng vậy. Ông là tiên
tri rất mạnh thế.
Tuy nhiên cũng chẳng ai trong dân Do Thái được cho lành
bệnh, đang khi Naaman, một bậc khanh tướng ngoại đạo đã được ông chữa khỏi bệnh
cùi. Luca trích dẫn những câu chuyện này để phục vụ ý kiến của ông khi viết
cuốn Tin Mừng thứ ba. Ông có ý diễn tả rằng dân Do Thái đã không biết đón nhận
nhà tiên tri ở giữa họ là Ðức Giêsu thành Nadarét. Và vì vậy sự nghiệp ân sủng
của Người đã được chuyển sang cho dân ngoại là Hội Thánh hiện nay.
Luca đã không muốn lợi dụng câu chuyện đã xảy ra trong
Hội đường Nadarét để tổng quát hóa công cuộc cứu thế của Ðức Giêsu Kitô và để
báo trước đau khổ vinh quang đang chờ đợi Người. Người đã đến giữa dân Người,
rao truyền tin mừng cứu độ, nhưng thân nhân của Người và dân Người đã không đón
nhận, nên ơn cứu độ của Người mang đến đã chuyển sang dân ngoại là Hội Thánh
chúng ta ngày nay.
Lời khẳng định này, làm sao người Do Thái có thể chịu
đựng được? Họ đã nhất tề đứng lên, hung hăng lôi Ðức Giêsu ra khỏi thành, đưa
Người lên một sườn đồi và định tâm đẩy Người xuống cho chết đi. Nhưng Người đã
nhẹ nhàng đi qua mặt họ để tiếp tục cuộc hành trình.
Bằng những lời đơn sơ này, Luca muốn báo trước cuộc tử
nạn của Ðức Giêsu. Người sẽ bị người Do Thái kéo ra khỏi thành và đóng đinh
trên sườn đồi... Nhưng Người sẽ nhẹ nhàng linh diệu thoát khỏi nơi họ đẩy Người
tới để sống lại vinh quang, tiếp tục công việc cứu thế của Người.
Như vậy, có thể nói, bài Tin Mừng hôm nay không chỉ đơn
sơ thuật lại những gì xảy ra trong hội đường ở Nadarét. Hoặc Luca đã dùng câu
chuyện này để vẽ ra trước tất cả định mệnh của vị tiên tri đến rao giảng ơn cứu
độ cho dân Người. Người cũng bị đối xử không hơn gì các tiên tri đi trước. Như
bài sách Giêrêmia đã nói. Nhưng cũng như tiên tri này đã loan báo, Người thật
là sứ giả của Thiên Chúa gửi đến báo cho các dân tộc. Hoặc đúng hơn, Luca đã
dùng những biến cố trong cuộc đời của Ðức Giêsu Kitô, và đặc biệt những sự kiện
tử nạn và phục sinh của Người, làm đèn chiếu sáng lên câu chuyện xảy ra tại hội
đường ở Nadarét và thuật lại sự kiện theo ánh sáng mầu nhiệm chết và sống lại
của Ðức Giêsu Kitô.
Dù sao, bài Tin Mừng hôm nay không những cho chúng ta
thấy cuộc đời vất vả của Chúa Cứu Thế, nhưng còn muốn gợi lên phản ứng tự nhiên
của loài người xác thịt đối với tin mừng cứu độ và hạnh phúc đang dành cho
lương dân đón nhận tin mừng.
Chúng ta dĩ nhiên không muốn cư xử như người Do Thái.
Nhưng để được như vậy, phải làm gì? Xin vị tông đồ các dân ngoại soi sáng giúp
đỡ chúng ta.
3. Con Ðường Chúng Ta Phải
Ði
Thánh Phaolô gởi thư cho giáo dân Côrintô. Ở đây người
ta đang háo hức được các ơn lạ để phục vụ Chúa, họ thèm ơn nói tiếng lạ, ơn
tiên tri, ơn chữa bệnh, ơn xưng đạo mạnh mẽ hơn. Nhưng thánh tông đồ thấy có
nhiều khuynh hướng chuộng hào nhoáng trong những sự háo hức này. Ðó không phải
là con đường nên đi vào. Nó sẽ biến những tín hữu trở thành những con người xác
thịt như dân Do Thái ngày trước.
Và thánh nhân đã chỉ cho mọi người thấy con đường phải
đi vào. Ðó là bác ái. Thiếu bác ái mọi đặc sủng kia sẽ rỗng tuyếch. Vì người ta
muốn phục vụ ư? Ao ước làm được những sự ngoạn mục, thật là vô ích. Ðức Giêsu
đến phục vụ không làm như vậy. Người đã yêu thương chúng ta và yêu thương cho
đến chết. Thế nên đối với thánh Phaolô, ở đây, con đường bác ái yêu thương rất
cụ thể.
Nó có hai hạng người làm đối tượng: kiên nhẫn với kẻ
thiếu nhân đức và giúp đỡ những kẻ thiếu thốn. Ðối với cả hai hạng người, kẻ
bác ái phải có những thái độ chứng tỏ lòng kiên nhẫn và bộc lộ lòng quảng đại.
Tiêu cực, họ không được nóng nảy, bực tức, hoặc chán nản, tuyệt vọng; còn tích
cực, họ phải duy trì niềm vui, tin tưởng và kiên trì. Ðược như vậy, đức bác ái
sẽ toàn thắng sự dữ và giúp đỡ được hiệu năng.
Thế nên, so sánh với những đặc sủng mà người ta ao ước
như các ơn nói tiếng lạ, ơn nói tiên tri, ơn chữa bệnh, ơn giảng đạo, đức bác
ái rõ ràng trổi vượt. Tất cả các ơn kia có ngày sẽ hết. Chúng chỉ cần cho đời
tạm này. Nhưng lòng bác ái sẽ tồn tại mãi mãi đi theo ta sang cả thế giới bên
kia. Mà sánh với hai nhân đức khác là đức tin và đức cậy, nhân đức bác ái vẫn
trổi hơn. Cả ba nhân đức này đều cần thiết cho đời sống đạo và cho mọi nhân đức
khác. Cả ba cũng theo ta sang cả đời sau, theo nghĩa đức tin là trạng thái cởi
mở tâm hồn nhận biết Chúa thì đời sau vẫn cần; và đức cậy cũng sẽ cần vì là
trạng thái của linh hồn muốn được Chúa yêu thương. Nhưng đức mến sẽ tồn tại và
cao quý hơn hết vì nó làm cho chúng ta kết hợp với Thiên Chúa là bản chất của
đời sóng hạnh phúc sau này ở trên trời.
Thế nên chúng ta hãy đi vào con đường bác ái. Trươc
đây, người Do Thái không đi con đường ấy nhưng bước theo hướng xác thịt hời hợt
bề ngoài vì họ như là trẻ con đối với thời đại Thánh Thần yêu mến đã được đổ
xuống trong Hội Thánh. Ngày nay được phúc ở trong thời đại sung mãn, chúng ta
phải đi vào con đường trưởng thành là bác ái.
Và giờ đây hơn bao giờ hết khi cử hành thánh lễ, chúng
ta được đưa vào con đường bác ái. Không những chúng ta được thấy Ðức Giêsu đến
rao giảng tin mừng cứu độ như là vị tiên tri cao trọng hơn mọi tiên tri. Người
còn thể hiện mầu nhiệm tử nạn phục sinh để hoàn thành sứ mệnh tiên tri của
Người một cách siêu việt hẳn hơn Giêrêmia ngày trước... Và hơn cả hôm Người ở
trong hội đường ở Nadarét.
Mầu nhiệm bàn thờ đây còn tuôn đổ Thánh Thần yêu mến
cho những ai thành khẩn tham dự. Nhưng cử hành thánh lễ sốt sắng bao nhiêu, họ
phải sống bác ái chân thật và cụ thể bấy nhiêu để lấy kiên nhẫn lướt thắng sự
tội và lấy phục vụ xóa bỏ nghèo khó. Phấn đấu hết mình cả về phương diện tinh
thần cả về phương diện vật chất là nhiệm vụ của những ai đi trong con đường bác
ái. Ai đã dự lễ mà có thể từ chối đi vào con đường ấy?
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Chủ Nhật
IV Thường Niên, Năm C
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Sứ vụ
khó khăn của ngôn sứ
Con người nông nổi thích được khen
tặng và những ai ca tụng họ; ngược lại, họ ghét những ai phê bình cho dù biết
đó là sự thật. Ngôn sứ được kêu gọi để nói sự thật; vì thế, họ sẽ bị những con
người nông nổi ghen ghét và truy tố.
Các Bài đọc hôm nay tập trung trong
sứ vụ của ngôn sứ và những thách đố người ngôn sứ phải đương đầu với. Trong Bài
đọc I, Thiên Chúa tuyển chọn ngôn sứ Jeremiah trước khi ông được tạo thành
trong dạ mẹ, thánh hóa và trao sứ vụ trước khi ông lọt lòng mẹ. Ngài hứa sẽ bảo
vệ và ban chiến thắng nếu ông trung thành với sứ vụ Ngài trao ban. Trong Bài
đọc II, thánh Phaolô nêu bật một đức tính quan trọng ngôn sứ phải có là đức mến
đối với Thiên Chúa và với tha nhân. Nếu không có đức mến, ngôn sứ không thể chu
toàn sứ vụ của mình. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trở về quê quán Nazareth để rao
giảng Tin Mừng. Ngài thách đố những người đồng hương phải thay đổi lối suy nghĩ
và cách biểu tỏ niềm tin nơi Thiên Chúa. Hậu quả họ đã không thay đổi, lại còn
tức giận toan tính xô Ngài xuống vực thẳm; nhưng Ngài can đảm bước qua giữa họ
mà đi.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi.
1.1/
Mối liên hệ hai chiều giữa Thiên Chúa và ngôn sứ: Ngôn sứ là người "nói thay"
hay là "miệng lưỡi" của Thiên Chúa; chứ không phải là người nói trước
hay tiên báo những gì sẽ xảy ra, cho dù nhiều lần những gì ngôn sứ nói được ứng
nghiệm trong tương lai. Trong trình thuật hôm nay, ngôn sứ Jeremiah nêu bật
những gì liên quan đến ơn gọi làm ngôn sứ.
(1)
Thiên Chúa tuyển chọn và trao sứ vụ cho ngôn sứ: Không ai có thể tình nguyện làm ngôn
sứ, nhưng phải được Thiên Chúa tuyển chọn từ khi người đó chưa hình thành trong
lòng mẹ: "Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi;
trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ
cho chư dân."
(2)
Ngôn sứ phải can đảm nói những gì Thiên Chúa truyền: Ngôn sứ là phát ngôn
viên chính thức của Thiên Chúa; vì thế, ông phải nói những gì Thiên Chúa
truyền, chứ không phải những gì ông muốn nói hay thiên hạ thích nghe. Nếu vì
bất cứ lý do gì ngôn sứ không nói những gì Thiên Chúa truyền, ông không còn là
ngôn sứ của Thiên Chúa: "Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền
cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng,
chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn."
1.2/
Thiên Chúa ban ơn và bảo vệ ngôn sứ của Ngài: Thiên Chúa biết rõ những khó khăn ngôn
sứ phải đương đầu với, Ngài hứa với ngôn sứ hai điều: (1) Ngài luôn bảo vệ họ
khỏi mọi người hãm hại: "Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành
trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Judah đến các
thủ lãnh, các tư tế, và toàn dân trong xứ." (2) Lời hứa chiến thắng:
"Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì - sấm ngôn
của Đức Chúa - có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi." Nhiều khi Thiên
Chúa để các ngôn sứ bị thiệt thân để làm chứng cho Ngài; dẫu vậy, Ngài sẽ cho
ngôn sứ được sống lại vinh quang với Ngài sau cái chết ở đời này.
2/
Bài đọc II: Tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả: con đường đức
mến.
2.1/
Đức mến là động lực thúc đẩy mọi việc tốt lành: Thánh Phaolô biết con người luôn khát
khao được trở nên trọn lành; vì thế, Ngài khuyên các tín hữu Corintô:
"Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao
trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả."
Con đường hoàn hảo nhất Ngài nói ở đây là con đường đức mến: mến Chúa và yêu
người. Một người cần phải có nhân đức nền tảng này trước khi có tất cả những
điều tốt lành khác. Theo Phaolô, đức mến là ân huệ của Thiên Chúa ban cho con
người, chứ không phải nhờ luyện tập mà có. Giống như các nhân đức đối thần, con
người phải luyện tập để cho đức mến ngày càng phát triển và đạt tới mức hoàn
hảo. Nếu không có nhân đức này, tất cả các ân huệ và các việc tốt lành khác sẽ
không phát triển được, và sẽ từ từ biến mất. Thánh Têrêsa Hài Đồng cùng một tư
tưởng với Phaolô: nếu không có đức mến, nhiệt thành truyền giáo sẽ tắt ngúm và
mong ước tử đạo cũng không còn.
2.2/
Ngôn sứ không thể thiếu đức mến: Thánh Phaolô quả quyết: "Giả như tôi được
ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có
được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng
chẳng là gì."
Điều này đúng trong phương diện kỹ
thuật: Các chuyên gia không phải chỉ có kiến thức về phương diện chuyên môn;
nhưng còn phải có lòng yêu thích lãnh vực đó; nếu không, họ dễ chán nản bỏ cuộc
và không dám hy sinh mọi sự cho nghề nghiệp của mình.
Điều này càng đúng cho các ngôn sứ,
họ phải có lòng yêu mến sự thật và mong muốn mang sự thật họ biết về Thiên Chúa
cho tha nhân; để tha nhân cũng được giải thoát bởi sự thật. Đức mến là động lực
thúc đẩy ngôn sứ thực thi sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Mến Chúa là yêu thương tha
nhân; nếu không có đức mến, ngôn sứ không thể chu toàn sứ vụ của mình. Ngôn sứ
không thể nhìn thấy dân chúng lầm lạc xa Thiên Chúa. Họ không mừng khi thấy sự
gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Ngôn sứ phải kiên nhẫn trong việc
đưa tội nhân về cùng Thiên Chúa. Họ rao giảng Tin Mừng không vì lợi lộc thấp
hèn, nhưng để đem Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Vì lòng yêu mến Thiên Chúa và
tha nhân, ngôn sứ có thể chịu đựng tất cả, miễn sao cho mọi người được hưởng ơn
cứu độ.
2.3/
Đức mến tồn tại muôn đời: Theo Phaolô, đức mến cao trọng hơn cả, vì chỉ có đức mến vững
bền mãi mãi. Phaolô lý luận: "Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên
tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết
ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng
có hạn. Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi."
Phaolô lý luận tương tự khi so sánh
ba nhân đức đối thần: "Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn
tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến." Khi con người được về chung hưởng
hạnh phúc với Thiên Chúa, họ không cần đức tin vì được diện kiến Thiên Chúa mặt
đối mặt, họ cũng không cần đức cậy, vì họ đang được hưởng những gì bấy lâu nay họ
trông cậy; nhưng họ cần đức mến để tiếp tục yêu Thiên Chúa cách nồng nàn.
3/
Phúc Âm: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
3.1/
Người ngôn sứ dám thách thức khán giả đương đầu với sự thật: Trình thuật hôm nay
tường trình biến cố Chúa Giêsu về quê Nazareth để rao giảng Tin Mừng cho những
đồng hương. Sau khi đã đọc Sách của ngôn-sứ Isaiah, Ngài bắt đầu giảng dạy và
nói về sứ vụ ngôn sứ của Ngài: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý
vị vừa nghe." Ngài thách đố khán giả đồng hương trực diện với ba điều quan
trọng:
(1)
Niềm tin chỉ đặt căn bản trên phép lạ là niềm tin không chắc chắn: Chúa Giêsu biết người
Do-thái thích phép lạ. Họ đã nghe biết những phép lạ Ngài làm; và họ đang mong
Ngài làm phép lạ như Ngài đã từng làm ở Capernaum. Chúa Giêsu muốn nhắc nhở họ:
tin Thiên Chúa thì quan trọng hơn tin những phép lạ Ngài làm. Phép lạ được làm
là để khơi dậy niềm tin; nếu sau khi đã chứng kiến phép lạ mà vẫn không tin,
phép lạ mất mục đích của nó. Hơn nữa, niềm tin chỉ dựa trên phép lạ sẽ không
vững bền, và sẽ dễ dàng bị mất khi không thấy phép lạ nữa.
(2)
Đừng có thái độ khinh thường những người mình đã quá quen thuộc: Chúa Giêsu nói với họ
một sự thật: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận
tại quê hương mình.'' Tục ngữ Việt-nam cũng nói lên thói xấu này: "gần
chùa gọi bụt bằng anh." Người Do-thái đã quá quen thuộc với Thiên Chúa,
nên họ đâm ra khinh thường và không biết nhận ra những hồng ân Ngài đổ xuống
trên họ. Con người phải biết thân phận và giới hạn thụ tạo của mình khi đứng
trước nhan Thiên Chúa.
(3)
Nhiều Dân Ngoại biểu lộ đức tin vào Thiên Chúa mạnh mẽ hơn người Do-thái: Chúa Giêsu đưa ra hai
trường hợp với mục đích nêu bật đức tin của Dân Ngoại: (1) "Vào thời ông
Elijah, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội,
thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà
nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Zareptha miền Sidon." (2)
"Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Elisha, thiếu gì người phong hủi ở trong nước
Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Syria
thôi." Bà góa thành Zareptha và ông Naaman được giúp đỡ vì họ đã tin và
thi hành những gì các ngôn sứ truyền cho họ phải làm. Người Do-thái đã biết quá
nhiều về Thiên Chúa và uy quyền làm phép lạ của Ngài, lẽ ra họ phải biểu lộ đức
tin cách chắc chắn hơn Dân Ngoại; nhưng thực tế nhiều lần cho thấy Dân Ngoại
biểu lộ niềm tin vào Thiên Chúa cách chắc chắn hơn họ.
3.2/
Phản ứng của dân chúng: Trình thuật cho chúng ta thấy thái độ nông nổi và dễ dàng thay
đổi của dân chúng. Khi mới nghe những gì Chúa Giêsu giảng dạy, "họ thán
phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người." Nhưng sự thật chưa đủ để
thuyết phục họ đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, họ đang trông chờ Ngài làm phép lạ.
Sự thật mất lòng, họ tức giận khi bị
Chúa Giêsu bắt phải đương đầu với sự thật: "Nghe vậy, mọi người trong hội
đường đầy phẫn nộ." Họ không thể chịu đựng nổi sự xỉ nhục khi nghe Chúa
Giêsu so sánh họ với Dân Ngoại; vì họ vẫn tự mãn cho họ là Dân Chúa, là con
cháu tổ-phụ Abraham, và xứng đáng được hưởng mọi đặc quyền của Ngài. Dân Ngoại
sinh ra để làm nô lệ và không xứng đáng được hưởng ơn cứu độ. Nhưng chỉ có sự
thật mới giải thoát: con cái Thiên Chúa mà không tin Thiên Chúa hay ngôn sứ
Ngài gởi tới, có xứng đáng làm con cái của Thiên Chúa không? Không những từ
chối sự thật, họ còn muốn tiêu hủy Chúa Giêsu, nguồn gốc mọi sự thật và là
Người đang nói sự thật cho họ. Giận quá mất khôn: "Họ đứng dậy, lôi Người
ra khỏi thành - thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để
xô Người xuống vực."
Không một chút sợ hãi, "Người
băng qua giữa họ mà đi." Khốn thay cho những con người từ chối và tiêu hủy
sự thật.
ÁP DỤNG
TRONG CUỘC SỐNG:
-
Tất cả chúng ta đều đã nhận lãnh chức vụ ngôn sứ khi chịu Phép Rửa Tội để rao
giảng, sống, và làm chứng cho Tin Mừng.
-
Khi thi hành sứ vụ ngôn sứ, chắc chắn chúng ta sẽ bị thế gian từ khước, truy
tố, và ngay cả đe dọa đến tính mạng. Thiên Chúa, Đấng trao ban sứ vụ và thánh
hóa ngôn sứ, sẽ tiếp tục ban ơn, bảo vệ, và hứa sẽ giúp ngôn sứ chiến thắng mọi
nguy hiểm của thế gian.
-
Đức bác ái là quà tặng Thiên Chúa ban cho các ngôn sứ. Sứ vụ rao giảng sẽ có
ngày chấm dứt; nhưng đức bác ái sẽ tồn tại muôn đời.
Linh mục Anthony Đinh
Minh Tiên OP
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Hai
3 THÁNG HAI
Trong Lãnh Vực Y Tế …
Trong các chuyến viếng
thăm mục vụ của tôi, nhất là tại những nước đang phát triển, tôi nhận thấy rằng
lãnh vực y tế là một lãnh vực đang khẩn thiết đòi ta phải đấu tranh cho con
người. Chẳng hạn, người ta ngày càng chú ý đến kỹ thuật, nhưng lại không phải
bao giờ cũng quan tâm bảo vệ quyền của con người.
Đau khổ, bệnh tật và
chết chóc là những thực tại rất căn bản của cuộc nhân sinh. Tất cả chúng ta
phải cộng tác với nhau để giải quyết – một cách đầy nhân tính – những vấn đề hệ
lụy của các thực tại ấy. Giúp đỡ các bệnh nhân vượt qua cơn bệnh của họ một
cách bảo đảm phẩm giá – đó chắc chắn là điều mà nhân loại kỳ vọng từ khoa học,
từ kỹ thuật và từ việc sử dụng thuốc men. Nhưng để được như thế, không thể
không có một nhãn quan sáng tỏ về bổn phận phải tuyệt đối tôn trọng con người.
Con người là tạo vật duy nhất siêu vượt trên thực tại vật chất – bởi vì con
người không chỉ là vật chất mà còn là tinh thần. Đó phải là điểm qui chiếu
thường xuyên của chúng ta trong lãnh vực y khoa, nếu chúng ta thực sự muốn
tránh những hậu quả khôn lường gây ra cho xã hội. Tôn trọng phẩm giá của nhân
vị – đó là bổn phận của tất cả chúng ta.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 03-2
Chúa Nhật IV Thường Niên
; Gr 1, 4-5. 17-19; 1Cr 12,31-13,13; Lc 4, 21-30
LỜI
SUY NIỆM: “Họ bảo nhau: Ông này không phải là con ông Giuse đó sao” (Lc 4,22b).
Dưới
con mắt của loài người, thường khâm phục và tôn vinh những người có học vị, có
địa vị cao với quyền lực hay ít là xuất thân từ những gia đình hay nơi chốn đầy
quyền uy danh giá. Nên người Do-Thái khi nhìn vào Chúa Giêsu họ chỉ thấy Ngài
là con bác thợ mộc mà thôi. Trong Kinh
Thánh chúng ta lại thấy Thiên Chúa luôn chọn những con người thật bé nhỏ: như
Đavít là người con út trong gia đình để làm vua dân tộc mà Chúa đã chọn. Chọn
một gia đình mà cả hai quá già nua để sinh đấng tiền hô dọn đường cho Đấng Mêsia.
Khi Chúa Giêsu sống tại thế Ngài lại sống với, sống cùng và sống vì người
nghèo, vì những người khốn cùng. Điều này giúp cho chúng ta tin là: chúng ta
cũng đang được Ngài ngắm đến, và sẽ được Ngài ở cùng trong hoàn cảnh và thân
phận của chúng ta.
Mạnh
Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Thánh Blaise, (c. 316)
Chúng ta biết nhiều về sự
sùng kính của Kitô Hữu đối với Thánh Blaise hơn là tiểu sử của ngài. Trong Giáo
Hội Ðông Phương, ngày lễ kính ngài được coi là một ngày lễ lớn. Công Ðồng Oxford,
vào năm 1222 đã cấm làm việc xác trong ngày lễ Thánh Blaise. Người Ðức và người
Ðông Âu rất kính trọng thánh nhân, và trong nhiều thập niên, người Công Giáo
Hoa Kỳ thường chạy đến với thánh nhân để xin chữa bệnh đau cổ họng.
Chúng ta được biết Ðức Giám
Mục Blaise chịu tử đạo ngay trong giáo phận của ngài ở Sebastea, Armenia, năm
316. Mãi cho đến 400 năm sau mới có huyền thoại viết về ngài. Theo đó, Thánh
Blaise là một giám mục tốt lành, làm việc vất vả để khuyến khích giáo dân sống
lành mạnh về tinh thần cũng như thể xác.
Mặc dầu Chỉ Dụ
Toleration, năm 311, đã cho phép tự do tôn giáo ở Ðế Quốc Rôma hơn năm năm,
nhưng ở Armenia, việc bách hại vẫn còn dữ dội. Hiển nhiên là Thánh Blaise buộc
phải rời bỏ giáo phận và sống trong rừng núi. Ở đó ngài sống trong cô độc và
cầu nguyện, làm bạn với thú rừng.
Một ngày kia, có nhóm thợ
săn đi tìm thú dữ để sử dụng trong đấu trường và tình cờ họ đã thấy hang động
của Thánh Blaise. Từ kinh ngạc cho đến sợ hãi, họ thấy vị giám mục đi lại giữa
đám thú dữ một cách điềm tĩnh để chữa bệnh cho chúng. Nhận ra ngài là giám mục,
họ bắt ngài về để xét xử. Trên đường đi, ngài ra lệnh cho một con sói phải thả
con heo nó đang cắn giữ vì đó là của người đàn bà nghèo. Khi Thánh Blaise bị
giam trong tù và bị bỏ đói, người đàn bà này đã đền ơn ngài bằng cách lẻn vào
tù cung cấp thức ăn cho thánh nhân.
Ngoài ra, truyền thuyết
còn kể rằng, một bà mẹ có đứa con trai bị hóc xương đã chạy đến ngài xin cứu
giúp. Và sau lời truyền của Thánh Blaise, đứa bé đã khạc được chiếc xương ra
khỏi cổ.
Agricolaus, Thủ Hiến xứ
Cappadocia, tìm mọi cách để dụ dỗ Thánh Blaise bỏ đạo mà thờ tà thần. Lần đầu
tiên từ chối, ngài bị đánh đập. Lần kế tiếp, ngài bị treo trên cây và bị tra
tấn bằng chiếc lược sắt cào vào thân thể. Sau cùng ngài bị chém đầu.
Daminhvn.net)
++++++++++++++++++
03 Tháng
Hai
Ngôn Ngữ Của Tình Yêu
Có lẽ cái tên của Helen
Keller, một cô gái câm điếc người Mỹ, đã trở thành bậc khoa bảng, không còn xa
lạ với chúng ta nữa. Vừa được 19 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất
hạnh này trở thành mù lòa và câm điếc. Thế giới của âm thanh và màu sắc đã khép
hẳn cánh cửa lại với cô.
Làm thế nào để truyền thụ
kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù lòa? Cha mẹ của cô bé dường như
muốn bó tay. Nhưng có một cô giáo tên là Anna Sullivan đã không muốn bỏ cuộc.
Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là còn có thể truyền thông và liên lạc
với cô gái mù lòa và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn tay của cô. Chỉ có
thể tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, nhưng Helen Keller đã có thể học xong
Ðại Học, tốt nghiệp Tiến sĩ và trở thành văn sĩ.
Cho người mù lòa và câm điếc
chạm vào một sự vật và viết lên tên gọi của sự vật ấy: đó là phương pháp của cô
giáo Anna Sullivan. Dạy về những sự vật cụ thể như cái bàn, cuốn sách, cành
cây, con chó xem ra không hẳn là điều
khó. Nhưng làm thế nào để diễn tả cho Helen hiểu được những ý niệm trừu tượng
như tình yêu chẳng hạn?
Ngày kia, cô giáo Anna
Sullivan đã viết lên tay của Helen Keller hai chữ "Tình Yêu" rồi ôm
trầm lấy cô bé hôn lấy hôn để với tất cả sự thành thật và nhiệt tình của cô.
Lần đầu tiên trong đời, cô gái câm điếc mù lòa bỗng cảm thấy tim mình đập mạnh
và cô hiểu được thế nào là Yêu Thương.
Ngôn ngữ của Tình Yêu là
những hành động cụ thể.
Ánh mắt trìu mến, những âu
yếm vuốt ve của người mẹ đối với đứa con mới lọt lòng có giá trị hơn bất cứ một
quyển sách biên khảo nào về tình yêu. Nhưng mồ hôi và nước mắt, những hy sinh
hằng ngày của người cha giúp con cái hiểu được thế nào là Yêu thương hơn bất cứ
lời dẫn giải nào về Tình Yêu. Và có lẽ cũng thừa thãi để bảo rằng khi hai người
yêu nhau thì sự thinh lặng và những cử chỉ âu yếm có sức mạnh hùng hồn hơn
những lời nói hoa mỹ, những trống rỗng.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Ngài
tỏ tình, Ngài bộc lộ tình yêu với con người không chỉ bằng những lời nói suông,
mà bằng cả lịch sử của những can thiệp, những thể hiện cụ thể.
Một tình yêu không được chứng
tỏ bằng những hành động cụ thể là một tình yêu giả dối, lừa bịp.
Ðạo Kitô của chúng ta là Ðạo
của Tình Yêu. Một người kitô không sống Tình Yêu, không viết lên hai chữ Tình
Yêu bằng những hành động cụ thể đối với tha nhân, người đó chỉ là một người
Kitô giả hiệu, một Ðức Tin không việc làm là một Ðức Tin chết. Một lòng Mến
không được thể hiện bằng hoa trái của lòng Mến chỉ là lòng Mến giả tạo.
(Lẽ Sống)
3-2
Thánh Blaise
(c. 316)
Chúng ta được biết Ðức Giám Mục Blaise chịu tử đạo ngay trong giáo phận của ngài ở Sebastea, Armenia, năm 316. Mãi cho đến 400 năm sau mới có huyền thoại viết về ngài. Theo đó, Thánh Blaise là một giám mục tốt lành, làm việc vất vả để khuyến khích giáo dân sống lành mạnh về tinh thần cũng như thể xác.
Mặc dầu Chỉ Dụ Toleration, năm 311, đã cho phép tự do tôn giáo ở Ðế Quốc Rôma hơn năm năm, nhưng ở Armenia, việc bách hại vẫn còn dữ dội. Hiển nhiên là Thánh Blaise buộc phải rời bỏ giáo phận và sống trong rừng núi. Ở đó ngài sống trong cô độc và cầu nguyện, làm bạn với thú rừng.
Một ngày kia, có nhóm thợ săn đi tìm thú dữ để sử dụng trong đấu trường và tình cờ họ đã thấy hang động của Thánh Blaise. Từ kinh ngạc cho đến sợ hãi, họ thấy vị giám mục đi lại giữa đám thú dữ một cách điềm tĩnh để chữa bệnh cho chúng. Nhận ra ngài là giám mục, họ bắt ngài về để xét xử. Trên đường đi, ngài ra lệnh cho một con sói phải thả con heo nó đang cắn giữ vì đó là của người đàn bà nghèo. Khi Thánh Blaise bị giam trong tù và bị bỏ đói, người đàn bà này đã đền ơn ngài bằng cách lẻn vào tù cung cấp thức ăn cho thánh nhân.
Ngoài ra, truyền thuyết còn kể rằng, một bà mẹ có đứa con trai bị hóc xương đã chạy đến ngài xin cứu giúp. Và sau lời truyền của Thánh Blaise, đứa bé đã khạc được chiếc xương ra khỏi cổ.
Agricolaus, Thủ Hiến xứ Cappadocia, tìm mọi cách để dụ dỗ Thánh Blaise bỏ đạo mà thờ tà thần. Lần đầu tiên từ chối, ngài bị đánh đập. Lần kế tiếp, ngài bị treo trên cây và bị tra tấn bằng chiếc lược sắt cào vào thân thể. Sau cùng ngài bị chém đầu.
Lời Bàn
Bốn thế kỷ đủ để những điều tưởng tượng xen lẫn với những dữ kiện có thật. Ai dám đoan chắc tiểu sử Thánh Blaise là có thật? Nhưng chi tiết của một đời người thì không cần thiết. Thánh Blaise được coi là một thí dụ điển hình về quyền năng của những ai tận hiến cho Ðức Kitô. Như Ðức Kitô đã nói với các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly, "Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, hãy xin bất cứ gì anh em muốn thì sẽ được ban cho" (Gioan 15:7). Với đức tin, chúng ta có thể vâng theo sự dẫn dắt của Giáo Hội để được sự che chở của Thánh Blaise.Lời Trích
"Qua lời cầu bầu của Thánh Blaise, là giám mục và là vị tử đạo, xin Thiên Chúa chữa con khỏi bệnh tật của cổ họng và khỏi mọi sự dữ. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần" (Kinh cầu Thánh Blaise).
www.nguoitinhuu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét