Trang

Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

03-02-2013 : CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN năm C (PII)


Chúa Nhật 4 thường niên, năm C
(Phần II)


Suy niệm:Ðoạn Tin Mừng hôm nay nói về việc Ðức Giêsu về quê hương mình giảng dạy... Mọi người đều thán phục Ngài vì những lời Ngài giảng thật uy quyền. Nhưng họ không chấp nhận Ngài chỉ vì Ngài là con ông Giuse nghèo khó, thất học.
Các khuôn về Ðấng Mê-si-a quyền thế mà họ ngộ nhận khiến họ không thể chấp nhận Ngài. Chúa Giêsu đã dùng Kinh Thánh để thức tỉnh họ, nhưng họ không nghe lại còn thô bạo trục xuất và tính ám hại Ngài. Nhưng giờ Ngài chưa đến, nên Ngài đã ung dung rẽ lối mà đi giữa họ một cách bình thản.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng con đã nhận ra rằng: con người không thể sung sướng, bình an, hạnh phúc nếu không biết nghĩ tốt cho người  khác, và như thế, cũng là không biết chấp nhận chính Chúa. Lạy Chúa, xin hãy biến đổi chúng con trở thành người con ngoan của Chúa, người anh chị em tốt của mọi người. Amen.
Ghi nhớ : "Chúa Giêsu, như Êlia và Êlisê, không phải chỉ được sai đến với người Do-thái".
www.phatdiem.org
03/02/13 CHÚA NHẬT TUẦN 4 TN – C
Lc 4,21-30

ĐỪNG ĐỂ QUEN QUÁ HÓA NHÀM
Đức Giê-su nói :"Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình." (Lc 4,24)
Suy niệm: Dương Phủ đi tìm Phật để học đạo. Dọc đường ông gặp một vị lão tăng và hỏi: Phật ở đâu? Lão tăng bảo ông cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải trên người, đi dép ngược là chính Đức Phật đó. Dương Phủ nghe lời quay về. Về tới nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi cửa. Mẹ ông nghe tiếng con mừng quá, chạy vội ra, quấn vội chiếc mền vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa cho ông. Ông nhận thấy nơi mẹ ông đúng những chi tiết như lão tăng đã mô tả. Ông chợt hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa mà là chính mẹ ông ở trong nhà mà bấy lâu ông không biết.
Chúa Giêsu nói: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận ở quê hương mình.” Lời Chúa hôm nay nghiệm đúng lời cảnh báo của Gioan Tẩy Giả cho người Do Thái: Vì quen quá hoá nhàm nên Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia đang ở giữa họ mà họ không nhận biết.
Mời Bạn: Những thói quen, tật xấu, định kiến khiến cho cung cách suy nghĩ, hành động của chúng ta bị chi phối, bị đóng khung cứng nhắc. Vì thế chúng ta khó nhận ra được con người đích thực của chính mình cũng như giá trị tốt đẹp của tha nhân và cũng do đó không thể nhận ra ý định của Thiên Chúa nơi mình cũng như nơi người khác.
Sống Lời Chúa: Tập nhận ra ưu điểm của người khác, nhất là của những người mà mình không có thiện cảm.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ nếp nghĩ cứng nhắc đầy thành kiến để con nhận ra sự thật về chính mình, nhận ra giá trị thật về anh chị em con và nhất là nhận ra sự thật về chính Chúa là Đấng khôn ngoan, quyền năng và yêu thương. 
www.5phutloichua.net

KHÔNG ĐƯỢC CHẤP NHẬN
Tin Ðức Giêsu là ngôn sứ, là Mêsia, là Con Thiên Chúa, điều đó chẳng dễ dàng chút nào. Người không tin cũng có thể đưa ra bao lập luận.


Suy nim:

            Tin là thái độ căn bản trong cuộc sống. Chẳng ai có thể sống mà không tin. Không tin người này nhưng lại tin người kia. Không tin lý thuyết này nhưng lại tin giả thuyết nọ. Thành ra ai cũng phải chọn một niềm tin. Không phải chọn một cách vu vơ, mù quáng, nhưng một cách sáng suốt và tự do. Ðiều khó là giữ cho lòng mình được tự do thanh thoát, không bị những định kiến ràng buộc hay tư lợi chi phối, nhờ đó chúng ta dám chọn sự thật, dù sự thật đó làm đổ nhào mọi điều ta nghĩ, và xoay lại hướng đi của cả đời ta.
            Có lẽ dân làng Nadarét ít có thứ tự do này. Khi Ðức Giêsu giảng trong hội đường Nadarét thân quen, họ đã ngỡ ngàng thán phục trước lời Ngài nói. Hãnh diện biết mấy khi một thành viên trong làng nay được tiếng tăm lẫy lừng khắp miền Galilê! Nhưng tin Ðức Giêsu là một ngôn sứ
lại là điều họ không làm được. “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” Ký ức của họ vẫn còn giữ nguyên những hình ảnh của Ðức Giêsu  sống tại đây hơn ba mươi năm qua. Một cuộc sống quá đỗi bình thường! Một ông thợ mộc, con một ông thợ mộc khác. Gốc gác, họ hàng của Ðức Giêsu, họ đều nắm rõ. Tiếc là họ đã không thể đi xa hơn. Cái hiểu biết trước đây khiến họ mãn nguyện, tự hào, và tưởng mình chẳng còn gì để biết thêm về Giêsu. “Những gì ông đã làm ở Caphácnaum, hãy làm ở đây xem.” Người làng Nadarét không tin Ðức Giêsu là ngôn sứ. Họ muốn Ngài chứng minh bằng phép lạ. Họ muốn thấy tận mắt, chứ không chỉ nghe nói thôi. Nhưng Ðức Giêsu không làm phép lạ để ép người ta tin. Chính lòng tin đưa đến phép lạ, mà Ngài lại chẳng gặp lòng tin nào nơi người đồng hương. Lòng chai đá cứng cỏi của họ chuyển thành sự phẫn nộ, khi Ðức Giêsu kể chuyện hai ngôn sứ Êlia và Êlisa được Thiên Chúa sai đến thi ân cho dân ngoại. Dân làng không giữ được Ðức Giêsu cho riêng mình. Khi thấy mình chẳng còn chút đặc quyền, đặc lợi, thì họ tìm cách thủ tiêu Ngài.
            Tin Ðức Giêsu là ngôn sứ, là Mêsia, là Con Thiên Chúa, điều đó chẳng dễ dàng chút nào.
Người không tin cũng có thể đưa ra bao lập luận. Ðiều cần thiết là phải tìm kiếm chân lý với cả tâm hồn. Chúa Thánh Thần vẫn soi sáng cho người thành tâm thiện chí. Hôm nay, chúng ta đã biết, tin và gần gũi Ðức Giêsu, nhưng chúng ta vẫn có nguy cơ tương tự như người Nadarét: tưởng mình đã múc cạn được mầu nhiệm hay muốn độc quyền giữ Ðức Giêsu cho mình.

Cầu nguyn:

            Lạy Chúa Giêsu, dân làng Nadarét đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công. Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người. Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối, trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn. Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin. Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
 
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Chúa Giêsu, như Êlia và Êlisê, không phải chỉ được sai đến với người Do-thái".

ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN TIẾP CHÚA.


Sau khi rao giảng một thời gian, Chúa Giêsu trở về làng cũ. Thoạt nghe Chúa rao giảng, họ khâm phục tán thành. Nhưng sau đó họ lại xua đuổi và muốn giết Chúa. Thật là đáng buồn. Đúng như lời thánh Gioan đã viết: “Người đã đến nhà nhưng người nhà không nhận biết Người”. Tại sao có cảnh trái ngang đau lòng như thế? Thưa vì tư tưởng của Thiên Chúa khác với tư tưởng của họ.
Chúa đi tìm đức tin còn họ đi tìm lợi lộc. Khi đi rao giảng, Chúa muốn đem cho ta niềm tin. Niềm tin đã là khởi điểm của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta có niềm tin. Niềm tin đã là kết quả của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi phép lạ dẫn đến niềm tin. Nhưng dân làng Nazareth không nhìn thấy điều đó. Họ không tin Người là Đấng Cứu Thế. Lời giảng của Người không đưa họ tới đức tin và Thiên Chúa, vào Nước Trời. Họ chỉ mong được có phép lạ. Vì họ chỉ mong được lợi lộc vật chất: được khỏi bệnh; được ăn no. Mong ước của họ không gặp được mong ước của Chúa.
Chúa sống trong khiêm nhường nhưng họ sống trong kiêu căng. Chúa không bao giờ làm phép lạ với mục đích biểu diễn. Chúa chỉ làm phép lạ đê giải nghĩa mầu nhiệm Nước Chúa. Chúa không làm phép lạ khi ma quỷ cám dỗ Chúa trong hoang địa. Chúa không xuống khỏi thập giá khi dân chúng thách thức Chúa trên Núi Sọ. Nên hôm nay Chúa cũng không làm phép lạ để thoả mãn tính hiếu kỳ và tính kiêu căng của dân làng Nazareth. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ được vinh dự có người đồng hương quyền phép. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ cũng được nở mày nở mặt với Capharnaum. Suy nghĩ của họ rất khác với suy nghĩ của Chúa.
Chúa có tâm hồn mở rộng trong khi tâm hồn họ hẹp hòi. Họ mong ước Chúa là người làng Nazareth thì phải dành mọi ưu tiên cho dân làng từ việc rao giảng cho đến việc làm phép lạ. Tất cả phải bắt đầu và bó gọn trong làng. Nhưng Chúa Giêsu, khi trích dẫn chuyện tiên tri Elia ở nhà bà goá Sarepta trong thời hạn hán, làm cho bình dầu và hũ bột của gia đình bà không bao giờ vơi và chuyện tiên tri Elisa chữa tướng Naaman, người Syria khỏi bệnh phong, đã cho thấy Nước Chúa không chỉ bó hẹp lại trong phạm vi người thân thuộc nhưng phải mở rộng tới tất cả mọi người. Không chỉ những người trong đạo Do Thái mà cho cả những người ngoại đạo nữa. Hai nhãn quan khác hẳn nhau.
Tôi là người có đạo. Nhưng biết đâu tôi không đón nhận được Chúa vì tôi cũng giống như dân làng Nazareth, đến với Chúa chỉ mong được lợi lộc vật chất, đến với Chúa chỉ vì hư danh, đến với Chúa với tâm hồn hẹp hòi. Hôm nay tôi xin Chúa thanh tẩy tâm hồn tôi khỏi thói ham mê lợi lộc, thói phô trương bề ngoài và thói hẹp hòi khép kín, để tôi được đón nhận Chúa và để tôi trở nên tông đồ của Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Giữ đạo tốt để được may mắn. Bạn có ý nghĩ như thế không?
2. Bạn khó chịu khi người ngoại đạo được may mắn. Thái độ này có đúng không?
3. Thường thường, bạn đi tìm Chúa, tha thiết cầu nguyện để đạt được điều gì? Để được may mắn, khỏi tai hoạ, hay để được hiểu biết, yêu mến Chúa?
(ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.)

Lectio: Chúa Nhật IV Thường Niên (C)

Chúa Nhật, 3 Tháng 2, 2013
Chúa Giêsu nối kết Kinh Thánh với cuộc sống
Dân chúng làng Nagiarét không phục Chúa Giêsu và đuổi Người đi
Lc 4:21-30
 1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.   Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn gốc của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo sự thinh lặng trong chúng con để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tác Tạo và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn gốc của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã gửi Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.
  2.  Bài Đọc  
 a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:

Trong Chúa Nhật thứ tư mùa Thường Niên, phần Phụng Vụ trình bày cho chúng ta về cuộc xung đột xảy ra giữa Chúa Giêsu và dân chúng làng Nagiarét.  Điều này xảy ra vào một ngày Thứ Bảy trong lúc cử hành Lời Chúa tại hội đường cộng đoàn, sau khi Chúa Giêsu đọc đoạn Kinh Thánh trích từ sách tiên tri Isaia.  Chúa Giêsu trích dẫn lời ngôn sứ Isaia như để giới thiệu chương trình hoạt động của mình và lập tức bổ sung một lời nhận xét rất ngắn gọn.  Thoạt đầu, tất cả mọi người đều kinh ngạc và vui mừng.  Nhưng khi họ nhận ra được tầm quan trọng của chương trình của Chúa Giêsu liên quan tới cuộc sống của mình, họ nổi loạn và muốn giết Chúa.  Những loại mâu thuẫn này vẫn còn tồn tại cả đến ngày nay.  Chúng ta chấp nhận người khác, miễn là họ hành động phù hợp với ý tưởng của chúng ta, nhưng khi họ quyết định đón nhận vào trong cộng đoàn những người mà chúng ta loại trừ, thì chúng ta chống đối.  Đây là những gì đã xảy ra tại làng Nagiarét.
 Tin Mừng Chúa Nhật tuần này bắt đầu với câu 21, một lời nhận xét ngắn của Chúa Giêsu.  Chúng tôi mạn phép bao gồm cả lời nhận xét trong các câu 16 đến 20 dẫn trước đó.  Điều này cho phép chúng ta có thể đọc văn bản sách Isaia được trích dẫn bởi Chúa Giêsu và để hiểu rõ hơn về cuộc xung đột, đó là kết quả của việc đọc văn bản này cùng với lời nhận xét ngắn gọn.  Khi đọc, thiết tưởng chúng ta nên lưu ý hai điều:  “Làm cách nào mà Chúa Giêsu khiến cho lời của ngôn sứ Isaia trở thành hiện thực?  Người dân nảy sinh phản ứng gì về việc hiện thực hóa lời của ngôn sứ Isaia?    
 b)  Phần phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Lc 4:16:  Chúa Giêsu đến Nagiarét và tham gia vào việc hội họp cộng đồng
Lc 4:17-19:  Chúa Giêsu đọc sách của tiên tri Isaia
Lc 4:20-21:  Chúa Giêsu nối kết Kinh Thánh với đời sống trước mặt dân làng chăm chú lắng nghe
Lc 4:22:  Phản ứng mâu thuẫn của công chúng
Lc 4:23-24:  Chúa Giêsu chỉ trích phản ứng của dân chúng
Lc 4:25-27:  Chúa Giêsu làm sáng tỏ lời Kinh Thánh, trích dẫn lời ngôn sứ Êlia và Êlisêô
Lc 4:28-30:  Phản ứng tức giận của những người muốn giết Chúa Giêsu 
 c) Tin Mừng: 

16 Người đến Nagiarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày nghỉ lễ, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. 17 Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: 18 "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, 19 công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
20 Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. 21 Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". 22 Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: "Người này không phải là con ông Giuse sao?" 23 Và Người nói với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: 'Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình!' Điều chúng tôi nghe xảy ra ở Cápharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông'". 24 Người nói tiếp: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. 25 Ta bảo thật với các ngươi, đã có nhiều bà góa trong Israel thời Êlia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; 26 dầu vậy, Êlia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà góa tại Sarépta thuộc xứ Siđon. 27 Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Êlisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria".
28 Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, 29 họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. 30 Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
 Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
 4.  Một vài câu hỏi gợi ý:
 Để giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.
 a)  Điểm nào trong bài Tin Mừng đã làm bạn hài lòng nhất hoặc đánh động bạn nhất?  Tại sao?
b)  Vào ngày nào, tại đâu, qua những ai và bằng cách nào mà Chúa Giêsu trình bày chương trình của mình?        
c)  Nội dung chương trình của Chúa Giêsu là gì?  Ai là những người bị loại trừ mà Chúa Giêsu muốn đón chào?
d)  Chúa Giêsu đã làm hiện thực lời của ngôn sứ Isaia bằng cách nào? 
e)  Người ta phản ứng như thế nào?  Tại sao?
f)  Chương trình của Chúa Giêsu có thể nào cũng là chương trình của chúng ta không?  Những người đang bị loại trừ mà chúng ta nên đón nhận vào trong cộng đoàn chúng ta ngày nay là ai?
 5.  Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề
 a)  Bối cảnh lịch sử để định vị văn bản: 

Trong xã hội Do Thái thời xưa, một đại gia đình hoặc một dòng họ hoặc cộng đoàn, là căn bản của đời sống xã hội.  Nó cung cấp sự bảo vệ cho gia đình và người thân, nó bảo đảm sự sở hữu đất đai, nó là phương tiện chủ yếu của truyền thống và sự bảo vệ danh phận của người ta.  Nó là phương cách cụ thể cho tình yêu Thiên Chúa hóa thân trong tình yêu của người xung quanh.  Bảo vệ gia tộc, cộng đồng, tương đương với việc bảo vệ Giao Ước với Thiên Chúa.
Vào thời Chúa Giêsu, một chế độ nô lệ đôi đã được đóng dấu trên cuộc sống của người dân và góp phần vào sự tan rã của gia tộc, cộng đồng:  (i) chế độ nô lệ chính trị của chính quyền vua Hêrôđê Antipa (từ năm thứ tư trước Công Nguyên đến năm 39 sau Công Nguyên) và (ii) chế độ nô lệ của các chức sắc tôn giáo.  Bởi vì sự khai thác và đàn áp của chế độ chính trị của vua Hêrôđê, được hỗ trợ bởi đế chế La Mã, nhiều người đã không có một mái nhà cố định và bị loại trừ và thất nghiệp (Lc 14:21; Mt 20:3,5-6).  Gia tộc, cộng đồng, đã bị suy yếu.  Gia đình và người thân thuộc đã không giúp đỡ, không bảo vệ.  Các chức sắc tôn giáo, được duy trì bởi các người có thẩm quyền về tôn giáo thời bấy giờ, thay vì củng cố cộng đồng để họ có thể đón chào những kẻ bị loại trừ, lại đi thêm sức cho chế độ nô lệ này.  Lề Luật Thiên Chúa đã được dùng để hợp thức hóa việc loại trừ hay gạt ra ngoài lề xã hội của nhiều người:  phụ nữ, trẻ em, người Samaritanô, khách ngoại kiều, người phong cùi, kẻ bị quỷ ám, người thu thuế, người bệnh tật, người què cụt tàn tật, kẻ tê liệt. Trái với tình huynh đệ mà Thiên Chúa mơ ước cho tất cả mọi người!  Do đó, tình trạng chính trị kinh tế lẫn hệ tư tưởng tôn giáo đã âm mưu với nhau làm suy yếu cộng đồng địa phương và ngăn cản sự biểu lộ của Vương Quốc Thiên Chúa.
Chúa Giêsu phản ứng với tình trạng này với dân của Người và trình bày một chương trình mà sẽ thay đổi nó.  Trải nghiệm của Đức Giêsu về Thiên Chúa là tình yêu của Chúa Cha, ban cho Người khả năng đánh giá thực tại và nhìn thấy những gì sai trái với đời sống của dân mình.

b)  Lời bình luận về văn bản:
 Lc 4:16:  Chúa Giêsu đến Nagiarét tham gia vào việc hội họp tại hội đường
Được quyền năng Thần Khí Chúa thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilêa và bắt đầu rao giảng Tin Mừng về Vương Quốc Thiên Chúa (Lc 4:14).  Người đi đến các làng mạc rao giảng trong các hội đường và cuối cùng đến làng Nagiarét.  Người trở về cộng đoàn, nơi từ thuở ấu thơ trong ba mươi năm, Người đã tham dự vào các buổi nhóm họp hằng tuần.  Vào ngày Thứ Bảy sau khi đến Nagiarét, Đức Giêsu, như thường lệ, đi vào hội đường để tham gia vào việc cử hành nghi thức và đứng lên để đọc.
 Lc 4:17-19:  Chúa Giêsu đọc một đoạn Kinh Thánh trích từ sách tiên tri Isaia 
Vào thời ấy, có hai bài đọc trong buổi lễ cử hành ngày Thứ Bảy.  Bài đọc thứ nhất liên quan đến Lề Luật của Thiên Chúa, được trích từ sách Ngũ Kinh và cố định.  Bài thứ hai được trích từ những cuốn sách về lịch sử hoặc sách các tiên tri, và được chọn bởi người đọc.  Người đọc có thể lựa chọn.  Đức Giêsu đã chọn bài trích từ sách tiên tri Isaia để trình bày bản tóm tắt sứ vụ của Người Tôi Tớ Chúa, và cũng nó cũng phản ảnh tình cảnh người dân miền Galilêa vào thời bấy giờ.  Nhân danh Thiên Chúa, Đức Giêsu đảm trách nhiệm vụ bảo vệ cuộc sống của dân tộc Ngài, lãnh nhận sứ vụ Tôi Tớ Chúa, và dùng lời ngôn sứ Isaia, công bố trước tất cả mọi người:  “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa” (Is 61:1-2).  Người áp dụng truyền thống cổ xưa của các ngôn sứ và công bố “năm hồng ân của Chúa”.  Lời bày tỏ này tương đương với việc công bố năm thánh, hoặc là, Chúa Giêsu mời gọi dân chúng của làng mình bắt đầu đổi mới, viết lại lịch sử từ tận gốc rễ của nó (Đnl 15:1-11; Lv 25:8-17).  
 Lc 4:20-21:  Chúa Giêsu liên kết Kinh Thánh vời đời sống trước mặt dân làng chăm chú lắng nghe

Khi Người đọc xong, Chúa Giêsu gấp sách lại, trao cho thừa tác viên và ngồi xuống.  Khi ấy Đức Giêsu chưa phải là người điều hợp của cộng đồng, Người là một giáo dân và nên chỉ tham dự vào việc cử hành nghi thức như tất cả những người khác.  Người đã trẩy đi xa khỏi cộng đồng trong nhiều tuần, sau đó đã tham gia hoạt động của Gioan Tiền Hô và đã nhận lãnh phép rửa bởi Gioan trong sông Giođan (Lc 3:21-22).  Hơn thế nữa, Người đã trải qua hơn bốn mươi ngày trong sa mạc, suy gẫm về sứ vụ của mình (Lc 4:1-2).  Ngày Thứ Bảy sau khi trở về với cộng đồng, Chúa Giêsu được mời đọc sách.  Tất cả đều chăm chú và tò mò:  “Ông ta sẽ nói gì?”  lời nhận xét của Chúa Giêsu thì ngắn gọn, thực sự rất ngắn gọn.  Người hiện thực hóa văn bản, nối kết nó với đời sống dân chúng nói rằng:  “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”.
 Lc 4:22:  Phản ứng mâu thuẫn của dân chúng
Phản ứng của dân chúng thật là mâu thuẫn.  Thoạt đầu, thái độ của họ là của những người chăm chú, kinh ngạc và tán tụng.  Sau đó, ngay lập tức, lại có phản ứng tiêu cực.  Họ nói:  “Người này không phải là con ông Giuse hay sao!”  Tại sao họ lại cảm thấy chướng tai gai mắt như thế?  Bởi vì Đức Giêsu nói về việc đón tiếp người nghèo khó, kẻ mù lòa, người bị giam cầm và áp bức.  Họ không chấp nhận đề nghị của Người.  Và như thế, chỉ khi Chúa Giêsu trình bày dự án của mình để chào đón những kẻ bị loại trừ, thì chính Người lại bị loại trừ!
Nhưng cũng có một động cơ khác.  Điều quan trọng cần lưu ý các chi tiết về lời trích dẫn mà Chúa Giêsu dùng từ Cựu Ước.  Trong lời nhận xét ở các câu Lc 3:4-6 vào ngày Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng, Luca có đưa ra một lời trích dẫn từ sách tiên tri Isaia dài hơn để cho thấy rằng việc mở cửa cho các dân ngoại đã được báo trước bởi các ngôn sứ.  Ở đây chúng ta có điều như thế này.  Đức Giêsu trích dẫn lời từ sách Isaia cho đến chỗ nói rằng:  “công bố năm hồng ân của Chúa”, và bỏ ra phần còn lại của câu nói rằng “và một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta, Người sai tôi đi an ủi tất cả những kẻ khóc than” (Is 61:2b).  Dân chúng làng Nagiarét thách thức sự thật Chúa Giêsu đã bỏ bớt phần minh chứng.  Họ muốn Ngày sắp đến của Vương Quốc Nước Trời phải là ngày báo phục lại những kẻ đã áp bức người dân.  Do đó, những ai khóc than sẽ được hồi phục lại quyền của họ.  Dù sao chăng nữa, sự trông đợi, Nước Thiên Chúa sắp đến sẽ không thay đổi bộ máy bất công.  Đức Giêsu bác bỏ lối suy nghĩ này, Người từ chối việc trả thù.  Kinh nghiệm của Người về Thiên Chúa, Chúa Cha, đã giúp Người hiểu rõ hơn về ý nghĩa chính xác của những lời tiên tri.  Phản ứng của Người, không giống như của người dân làng Nagiarét, cho chúng ta thấy rằng hình ảnh cũ về Thiên Chúa như một vị quan tòa nghiêm khắc và hay báo thù thì mạnh mẽ hơn là hình ảnh Thiên Chúa của Tin Mừng, một Chúa Cha yêu thương luôn đón chào những kẻ bị loại trừ.
 Lc 4:23-24:  Chúa Giêsu chỉ trích phản ứng của người dân
Đức Giêsu diễn giải phản ứng của người dân và xem đó như là một hình thức ganh tị:  “Thày lang ơi, hãy chữa lấy mình!  Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Cápharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!”  Danh tiếng Chúa Giêsu đã lan tràn khắp cả miền Galilêa (Lc 4:14) và dân làng Nagiarét đã không được hài lòng rằng Chúa Giêsu, một người con từ miền đất của họ, đã làm những điều tốt đẹp nơi miền đất người khác mà không làm tại đất nhà mình.  Nhưng có một lý do sâu xa hơn cho phản ứng này.  Ngay cả khi Chúa Giêsu đã làm tại Nagiarét những việc Người đã làm tại Cápharnaum, họ vẫn không chịu tin Người.  Họ biết Chúa Giêsu:  “Ông ta là ai mà dạy dỗ chúng ta?  Người ấy không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4:22).  “Ông này không phải là bác thợ mộc sao?” (Xem Mc 6:3-4).  Ngày nay cũng vậy, điều này xảy ra quá thường xuyên:  khi một giáo dân rao giảng trong nhà thờ, nhiều người sẽ không chấp nhận điều đó.  Họ bỏ đi và nói:  “Ông đó hoặc bà đó cũng như chúng ta thôi:  họ biết gì mà nói!”  Họ không thể tin rằng Thiên Chúa có thể nói qua những người bình thường nhất.  Máccô thêm rằng Chúa Giêsu đau lòng vì sự cứng lòng của dân Người (Mc 6:6).
 Lc 4:23-27:  Chúa Giêsu làm sáng tỏ lời Kinh Thánh, trích dẫn lời ngôn sứ Êlia và Êlisêô
Để xác nhận rằng sứ vụ của Người thực sự là việc đón chào những kẻ bị loại trừ, Chúa Giêsu dùng hai đoạn Kinh Thánh nổi tiếng, câu chuyện của ngôn sứ Êlia và của Êlisêô.  Cả hai cho thấy tâm lý khép kín của người dân Nagiarét, và phê bình họ.  Trong thời tiên tri Êlia, có nhiều bà góa trong Israel, nhưng tiên tri Êlia đã được sai đến với một bà góa dân ngoại vùng Sarépta (1 V 17:7-16).  Vào thời tiên tri Êlisêô, cũng có nhiều người phong cùi trong Israel, thế mà tiên tri Êlisêô đã được sai đến với một dân ngoại người Syria (2 V 5:14).  Một lần nữa, mối quan tâm của Luca cho thấy rằng sự cởi mở ra với dân ngoại đến từ chính Chúa Giêsu.  Đức Giêsu cũng đã phải đối mặt với những khó khăn giống như các cộng đoàn trong thời Luca đã gặp.
 Lc 4:28-30:  Phản ứng tức giận của những người muốn giết Chúa Giêsu
Việc đề cập đến hai đoạn Kinh Thánh này tạo ra sự căm phẫn hơn trong dân chúng.  Cộng đồng Nagiarét thậm chí còn muốn giết Chúa Giêsu.  Người vẫn giữ bình tĩnh.  Sự giận dữ của người khác sẽ không khiến cho Chúa phân tâm khỏi mục đích của mình.  Luca cho thấy để khắc phục được trạng thái tâm lý đặc quyền và đóng cửa đối với người khác thì khó khăn như thế nào.  Điều tương tự cũng xảy ra vào ngày nay.  Nhiều người Công Giáo trong chúng ta lớn lên với một não trạng khiến chúng ta tin rằng mình thì tốt lành hơn những người khác và người khác phải trở nên giống chúng ta để được cứu rỗi.  Chúa Giêsu không bao giờ nghĩ theo cách này.
 c)  Phần phụ chú:
 §  Ý nghĩa của Năm Thánh:
 Vào năm 2000, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã mời gọi người Công Giáo cử hành Năm Thánh.  Việc cử hành những ngày quan trọng là một phần của đời sống.  Điều này cho phép chúng ta khám phá ra và làm sống lại nhiệt tình ban đầu của chúng ta.  Trong Kinh Thánh, “Năm Thánh” là một quy luật quan trọng.  Lúc đầu, đã có sắc lệnh là mỗi năm thứ bảy, đất bán hoặc cho thuê phải được trả về với gia tộc đầu tiên.  Mọi người có thể quay trở về với tài sản của mình.  Điều này ngăn chặn việc kinh tế bị ứ đọng và bảo đảm đời sống cho các gia đình.  Trong Năm Thánh, đất đai được bán lại, nô lệ được chuộc lại, các trái nợ được hủy bỏ (xem Đnl 15:1-18).  Việc cử hành Năm Thánh vào mỗi bảy năm không phải là dễ dàng (xem Gr 34:8-16).  Sau thời gian lưu đày, tục lệ cử hành Năm Thánh mỗi 50 năm bắt đầu, đó là, mỗi bảy lần của bảy năm (Lv 25:8-17).  Mục đích của Năm Thánh đã và vẫn còn là để khẳng định các quyền hạn của người nghèo khó, đón chào những kẻ bị loại trừ và tái hòa nhập họ vào trong xã hội.  Năm Thánh là một công cụ pháp lý để trở lại ý thức sâu sắc về Lề Luật Thiên Chúa.  Đó là dịp để cho của cải được luân lưu, để khám phá và sửa chữa các lỗi lầm và bắt đầu mọi thứ một lần nữa.  Chúa Giêsu bắt đầu việc rao giảng của Người bằng cách công bố Năm Thánh, “Năm Hồng Ân của Chúa”.
 6.  Cầu Nguyện với Thánh Vịnh 72 (71)
“Người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó đang khóc than!”


Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.

Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân.
Người sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
đập tan lũ cường hào ác bá.
Nguyện chúc Người tuổi thọ sánh vầng ô,
như bóng nguyệt đến muôn đời muôn kiếp!

Mong Người xuống tựa mưa sa nội cỏ,
ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.

Dân vùng sa mạc khúm núm quy hàng,
tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
Từ Tácsít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, Sơ-va,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự.

Người giải thoát bần dân kêu khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,
chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ,
giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn,
từng giọt máu họ, Người đều coi là quý.

Tân Vương vạn vạn tuế!
Thiên hạ sẽ đem vàng Ả-rập tiến dâng lên,
và cầu xin cho Người luôn mãi,
ngày lại ngày chúc phúc cho Người.
Mong cho xứ sở đầy dư gạo thóc,
đỉnh non cao sóng lúa rì rào,
trổ bông vàng đẹp tựa núi Li-băng,
thâu lượm được nhiều như cỏ dại.

Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.
Chúc tụng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa Israel,
chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu.
Muôn muôn đời xin chúc tụng danh Chúa hiển vinh,
ước gì vinh quang Chúa chiếu toả khắp hoàn cầu!
Amen! Amen!

7.  Lời Nguyện Kết
 Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin chúng con, trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.
 www.dongcatminh.org






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét