06/12/2015
Chúa Nhật
2 Mùa Vọng Năm C
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa:
Chúa Nhật II Mùa Vọng - Năm C
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG – C
(Br 5,1-9; Pl 1,4-6. 8-11; Lc 3,1-6)
(Br 5,1-9; Pl 1,4-6. 8-11; Lc 3,1-6)
DỌN ĐƯỜNG ĐÓN CHÚA
Có tiếng người hô trong hoang
địa:
“Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa,
sửa lối cho thẳng để Người đi”
(Lc 3,4)
“Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa,
sửa lối cho thẳng để Người đi”
(Lc 3,4)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1
Bối
cảnh của đoạn sách ngôn sứ Barúc là thời kỳ hậu lưu đày. Dân Chúa được hồi
hương nhưng việc tái thiết Đền Thờ và xây dựng lại đất nước gặp muôn vàn khó
khăn. Điều này làm cho lòng dân ngã lòng và chán nản. Đặt trong bối cảnh đó,
đoạn sách ngôn sứ Barúc là một lời khích lệ tinh thần dân Chúa, vì dù giữa bao
biến động của lịch sử, Thiên Chúa không hề bỏ rơi nhưng vẫn luôn đồng hành với
họ.
Trước
hết, ngôn sứ mời gọi thành Giêrusalem hãy cởi bỏ nỗi u sầu, khổ nhục của một
thời kỳ đen tối đã qua, và hãy mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Chính Thiên Chúa là Đấng sẽ ban bình an cho dân Ngài, “bình an xây dựng trên
công chính” và sẽ cho dân mặc lấy vinh quang của Ngài, “vinh quang phát xuất từ
lòng kính sợ Thiên Chúa” (Br 5,4). Dù trong cảnh đau thương của kiếp lưu đày,
nếu dân Chúa vẫn một lòng sống công chính và biết kính sợ Thiên Chúa, thì chính
Ngài sẽ ban cho dân vinh quang của Ngài, vinh quang chiếu tỏa cho khắp cả hoàn
cầu (Br 5,3).
Sau
nữa, ngôn sứ khích lệ dân cư Giêrusalem hãy đứng lên, vui mừng và tự hào vì
Chúa chính là Đấng qui tụ con cái tản lạc từ khắp đông tây về một mối. Nếu ngày
xưa con cái dân Chúa phải bước đi trong lầm lũi, tủi nhục của cảnh lưu đày, thì
nay họ được trở về trong ánh sáng rực rỡ của vinh quang Thiên Chúa. Thiên Chúa
không hề bỏ rơi họ trong cảnh khốn cùng, nhưng hằng dõi bước theo họ cho đến
khi trở về trong hân hoan (Br 5,5-6).
Cuối
cùng, chính Thiên Chúa ra lệnh dọn đường để chào đón dân Ngài trở về. Núi cao
phải được bạt cho thấp, gò nổng phải được san bằng, thung lũng phải được lấp
đầy, để dọn đất phẳng phiu mà đón dân Chúa tiến bước an toàn (Br 5,7). Thiên
Chúa, Đấng từ bi và đầy công chính, sẽ như rừng xanh và quế trầm tỏa bóng trên
Israel, dẫn họ đi trong ánh sáng vinh quang của Ngài (Br 5,8-9). Thiên Chúa
thật là Đấng dọn đường để dân Chúa trở về trong hoan lạc và bình an.
Dù
phải đối diện với bao khó khăn khi trở về từ cuộc lưu đày, dân Chúa vẫn có lý
do để vui mừng và hân hoan vì có Chúa là Đấng luôn đồng hành và che chở họ, bảo
đảm họ được trở về trong an bình và hoan lạc.
2. Bài đọc 2
Đoạn
thư thánh Phaolô gởi cho các tín hữu Philípphê đặt trong bối cảnh của ngày
quang lâm. Để dọn đường cho ngày Chúa trở lại, thánh Phaolô dâng lời cầu nguyện
và mong mỏi các tín hữu Philípphê tiếp tục rao giảng Tin Mừng, thể hiện tình
yêu mến và sống công chính.
Trước
hết, khi cầu nguyện, thánh Phaolô bày tỏ niềm vui vì sự nhiệt thành của các tín
hữu Philípphê trong việc cộng tác vào sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Sự nhiệt thành
đó, dưới cái nhìn của thánh Phaolô, phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng đã khởi sự
một việc tốt lành như thế nơi họ thì cũng sẽ đưa tới chỗ hoàn thành. Vậy, con
đường mà các tín hữu Philípphê cần phải đi, trong khi chờ đợi Đức Kitô quang
lâm, là tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng mà Thiên Chúa đã khởi sự nơi họ.
Sau
nữa, trong khi chờ đợi ngày Chúa quang lâm, thánh Phaolô còn mời gọi các tín
hữu Philípphê sống tình yêu mến. Tình thương phát xuất từ Đức Kitô, được cụ thể
hóa nơi lòng quý mến mà thánh nhân dành cho họ, cần phải được thể hiện ra trong
đời sống của các tín hữu Philípphê. Thánh nhân mong mỏi tình thương mến giữa họ
phải ngày càng dồi dào hơn, để mỗi ngày hiểu biết và cảm nếm hơn nữa tình
thương của Thiên Chúa.
Cuối
cùng, để dọn đường cho ngày Chúa lại đến, thánh Phaolô mong mỏi cho đời sống
của các tín hữu Philípphê ngày càng trở nên tinh tuyền và không làm điều gì
đáng trách. Nhờ ơn sủng của Đức Kitô, chính đời sống công chính của họ là hoa
trái dồi dào mà họ dâng lên Thiên Chúa để tôn vinh và ngợi khen Ngài. Đó là
cách thức xứng hợp để chờ đợi Chúa đến trong ngày quang lâm.
3. Bài Tin Mừng
Để
chuẩn bị cho sứ vụ của Chúa Giêsu, ông Gioan Tẩy Giả được sai đi trước như là
người dọn đường. Sự hiện diện của Gioan Tẩy Giả trong một thời khắc của lịch sử
nhân loại nhằm giới thiệu Con Thiên Chúa, Đấng nhập thể để đi vào lịch sử con
người nhằm mang con người về với Thiên Chúa.
Trước
hết, tương tự cuộc truyền tin cho ông Dacaria (1,5) và việc loan báo sự ra đời
của Đức Giêsu (2,1-2),thánh Luca đặt sứ vụ công khai của ông Gioan Tẩy Giả, và
đồng thời cũng là khai mạc sứ vụ của Chúa Giêsu (3,1-2), vào trong bối cảnh
lịch sử nhân loại. Tác giả Tin Mừng thứ ba muốn xác quyết rằng Thiên Chúa đã
thực sự hiện diện trong dòng lịch sử con người. Quả thật, vào một thời khắc xác
định trong dòng chảy không ngừng của lịch sử nhân loại, Thiên Chúa đã đến “cắm
lều” (Ga 1,14) và sống giữa con người để thực hiện công trình cứu độ của Ngài.
Hơn
nữa, thánh Luca xác định rõ ràng rằng sứ vụ của Gioan Tẩy Giả là dọn đường theo
lệnh của Thiên Chúa (3,2). Trước kia ngôn sứ Isaia được sai đi để kêu gọi dọn
đường cho Đức Chúa đến, thì nay Gioan Tẩy Giả đến để làm cho nên trọn lời ngôn
sứ xưa. Việc dọn đường không chỉ ở bên ngoài (lấp đầy thung lũng, bạt thấp núi
đồi, uốn đường cho thẳng), không chỉ là phép rửa mang tính nghi thức bên ngoài,
mà là một sự hoán cải (μετάνοια), một sự thay đổi từ bên trong, một sự từ bỏ
con đường lầm lạc mà trở về với Chúa. Một sự thay đổi triệt để như thế là điều
kiện để được thứ tha tội lỗi (3,3).
Sau cùng, tất cả việc chuẩn bị, dọn đường, hoán cải đều nhằm để
được “thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (3,6). Chính ông Simêon khi ẵm Hài Nhi
Giêsu trên tay cũng đã thốt lên: “chính mắt con được thấy ơn cứu độ” (x. Lc 2,25-32). Như thế, ơn cứu độ
không còn là một lời công bố, một lời hứa viễn vông mà được cụ thể hóa nơi Đức
Giêsu. Thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa không gì khác hơn là được gặp gỡ, tiếp xúc
với một con người, Đức Giêsu Kitô. Thêm vào đó, ơn cứu độ không chỉ là vinh
quang của dân Chúa, mà được dành sẵn cho muôn dân và là ánh sáng cho dân ngoại
(2,31-32). Ơn cứu độ, theo cái nhìn của tác giả Tin Mừng thứ ba, dành cho tất
cả mọi người phàm [πᾶσα σὰρξ] (3,6). Bất cứ ai được có tâm hồn sám hối, dứt bỏ
những gì sai trái mà quay về đường chính trực, đều xứng đáng được thấy ơn cứu
độ, đều được gặp chính Đức Giêsu.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG
1/ Chính
lúc dân Chúa chán nản, thất vọng, u sầu, Thiên Chúa vẫn ở kề bên họ để an ủi và
khích lệ. Chính Chúa là Đấng quy tụ dân Chúa tản lạc về; Ngài dọn đường để dân
trở về với Ngài trong bình an và hân hoan vui sướng. Những lúc tôi lạc bước,
sai lầm, thất vọng chán nản, Chúa không hề hất hủi, bỏ rơi, nhưng dọn sẵn cho
tôi con đường để trở về với Ngài trong bình an. Tôi có sẵn sàng lên đường trở
về với Chúa những lúc lạc xa Ngài?
2/ Để đón
chờ ngày Đức Kitô trở lại, thánh Phaolô khích lệ và cầu nguyện cho các tín hữu
Philípphê hãy tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng mà Thiên Chúa đã khởi sự nơi
họ, hãy sống với nhau trong tình yêu mến, và hãy sống thánh thiện, tinh tuyền.
Trong tâm tình Mùa Vọng, mùa kỷ niệm Con Thiên Chúa nhập thể và trông đợi Người
trở lại trong vinh quang, thánh Phaolô cũng mời gọi tôi hăng say rao giảng Tin
Mừng, sống chứng tá tình thương và mỗi ngày nên tinh tuyền, thánh thiện. Tôi có
sẵn sàng đáp trả lời mời gọi này?
3/ Thánh
Gioan Tẩy Giả được Thiên Chúa sai đi trước để dọn đường cho Đấng Cứu Độ. Bất cứ
ai được có tâm hồn sám hối, dứt bỏ những gì sai trái mà quay về đường chính
trực, đều xứng đáng được thấy ơn cứu độ, đều được gặp chính Đức Giêsu là Đấng
Cứu Độ. Tôi cũng được mời gọi dọn đường cho Chúa đến, trước là trong lòng tôi
để tôi cũng được biến đổi mà trở nên sứ giả của ơn cứu độ cho muôn người. Tôi
có sẵn sàng cộng tác với Chúa?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh
chị em thân mến! Thiên Chúa đã yêu thương ban tặng ơn cứu độ cho nhân loại
trong Đức Giêsu Kitô, Con Một yêu dấu của Người. Với tâm tình hân hoan chờ đón
và quyết tâm dọn lối sửa đường cho Chúa đến, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội
Thánh có sứ mạng giới thiệu và dọn đường để Chúa đến với mọi tâm hồn. Chúng ta
cùng cầu nguyện cho các thành phần trong Hội Thánh luôn ý thức chu toàn sứ mạng
ấy qua nỗ lực dấn thân hằng ngày nhằm diễn tả trung thực khuôn mặt của Đức Kitô
cho thế giới.
2. Chúa
Kitô là ánh sáng và nguồn hy vọng cho trần gian. Chúng ta cùng cầu nguyện cho
các nhà lãnh đạo trên thế giới biết quan tâm nhiều hơn đến những người nghèo
khổ và bị bỏ rơi, giúp họ tìm thấy ánh sáng và có thêm niềm hy vọng trong cuộc
sống hiện tại.
3. “Hãy
lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi kitô
hữu biết tích cực sống tinh thần tỉnh thức của Mùa Vọng bằng quyết tâm loại trừ
những thói hư tật xấu, nỗ lực canh tân đời sống và thực thi các mối phúc của
Tin Mừng.
4. Thánh
Phaolô tuyên bố: “Tôi yêu mến tất cả anh em với tâm tình của Ðức Giêsu Kitô.”
Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết đến với
nhau bằng sự khiêm tốn chân thành, yêu thương và phục vụ theo gương Chúa Giêsu.
Chủ tế: Lạy
Chúa là Cha rất nhân lành, xin đón nhận những ước nguyện của cộng đoàn chúng
con và ban ơn phù trợ, giúp chúng con tích cực hoán cải hầu xứng đáng đón nhận
hồng ân cứu độ mà Con Chúa đem đến cho nhân trần. Người hằng sống và hiển trị
muôn đời.
Chủ đề :
Dọn đường cho Chúa đến
"Hãy dọn đường cho Chúa" (Lc 3,4)
Sợi chỉ đỏ :
Ý tưởng chính của Chúa nhật II này là dọn đường cho Chúa đến.
- Trong bài đọc I (Br 5,1-9), ngôn sứ Barúc thông báo
"Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nỗng có tự lâu đời, phải
lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu"
- Trong bài Tin Mừng (Lc 3.1-6), Gioan tẩy giả kêu gọi người ta
dọn đường cho Chúa đến bằng cách sám hối hoán cải đời sống.
- Và trong bài đọc II (Pl 1,4-6.8-11), Thánh Phaolô kêu gọi tín
hữu Philipphê dọn đường bằng cách bồi dưỡng tình mến cho ngày càng thêm dồi dào
và cố gắng sống tinh tuyền không làm gì đáng trách trong khi chờ đợi Chúa quang
lâm.
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lẽ ra con người phải tìm đến với Chúa, thế mà chính Chúa tìm đến
với con người. Chúa đến với chúng ta, đó là một vinh dự và là một ơn lành trọng
đại. Nhưng vì không ý thức về vinh dự và ơn lành trọng đại đó nên chúng ta
không thiết tha mấy với việc Chúa đến, và cũng chẳng quan tâm chờ đón Ngài.
Xin Chúa giúp chúng ta hiểu được tình thương của Ngài và tích cực
đón tiếp Ngài.
II. Gợi ý sám hối
- Chúa biết chúng con khốn khổ nên muốn đến cứu chúng con. Vậy
mà chúng con cứ muốn ở lì trong khốn khổ và không cần tới Chúa.
- Chúa chính là Đấng cứu độ duy nhất của chúng con. Vậy mà chúng
con vẫn coi tiền tài, danh vọng và lạc thú của thế gian này như là cứu tinh của
đời mình.
- Chúa luôn chờ đón chúng con, nhưng chúng con ít khi tìm đến với
Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Br 5,1-9)
Ba-rúc là thư ký của ngôn sứ Giêrêmia. Quyển sách mang tên ông
cũng được viết vào thời dân Do thái đang bị lưu đày.
Trong trích đoạn này, tác giả an ủi dân bằng cách loan báo ngày
giải thoát :
- Đó sẽ là một ngày đổi đời : "Hãy cởi bỏ áo tang khổ
nhục và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu"
- Là ngày con cái Israel sẽ được quy tụ lại và trở về Giêrusalem
thân yêu : "Kìa xem con cái ngươi từ Đông sang Tây tụ họp về"
- Tất cả mọi điều tốt đẹp đó đều là việc làm của Thiên
Chúa : "Thiên Chúa sẽ dẫn Israel đi trong hoan lạc, dưới ánh vinh
quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Ngài"
2. Đáp ca (Tv 125)
Tâm tình hân hoan của người thoát cảnh lưu đày trở về quê hương.
Kèm theo tâm tình hân hoan này là tâm tình cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa :
"Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ… Bấy giờ
trong dân ngoại người ta bàn tán : việc Chúa làn cho họ vĩ đại thay"
3. Tin Mừng (Lc 3.1-6)
Thánh Luca viết đoạn Tin Mừng này nhằm 3 ý :
a. Muốn cho thấy Chúa Giêsu là một nhân vật có thật trong lịch sử.
Bởi thế Luca liệt kê những nhân vật lịch sử đang hành quyền lúc Gioan Tẩy giả bắt
đầu rao giảng. Trong số những nhân vật ấy,
- Có những người đang nắm quyền thuộc lãnh vực chính trị, như
Hoàng đế Tibêriô, Tổng trấn Phonxiô Philatô, các Tiểu vương Hêrôđê, Philípphê,
Lyxania.
- Có những người đang nắm quyền thuộc lãnh vực tôn giáo, như các
thượng tế Khanna và Caipha.
Lãnh địa mà họ đang hành quyền vừa là phần đất do thái (như
Giuđê, Galilê), vừa là phần đất lương dân (như Iturê, Trakhônít, Abilên).
b. Khi kê khai những nhân vật đang cầm quyền vừa trong lãnh vực
tôn giáo lẫn lãnh vực chính trị, vừa ở đất do thái vừa ở đất lương dân, Thánh
Luca còn muốn nói Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ phổ quát, chẳng những cho người do
thái mà còn cho mọi dân tộc.
c. Và Gioan Tẩy giả chính là kẻ tiền hô dọn đường cho Ngài.
4. Bài đọc II (Pl 1,4-6.8-11)
Philipphê là giáo đoàn được Phaolô yêu thương đặc biệt, bởi họ
luôn trung thành thực hiện những lời ông khuyên nhủ. Trong trích đoạn hôm nay,
Phaolô khuyến khích họ gia tăng lòng mến, tiếp tục hoàn thành điều tốt đẹp
Thiên Chúa đã khởi sự nơi họ, để trở nên tinh tuyền không có gì đáng trách
trong ngày Chúa lại đến.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Thiên Chúa không quên dân Ngài
Không ai trong chúng ta muốn bị người ta quên lãng. Dù vậy ai
trong chúng ta cũng có chút ít kinh nghiệm về cảm giác bị lãng quên.
Người ta tổ chức một cuộc họp có liên quan đến chúng ta, thế mà
người ta quên mời chúng ta. Chúng ta đã đóng góp công sức rất nhiều vào một
công trình nào đó, nhưng dường như chẳng ai biết đến phần đóng góp ấy. Ngày
sinh nhật của chúng ta đã đến, nhưng không ai nhớ mà mừng cả. Thực ra những trường
hợp vừa kể chỉ là chúng ta bị quên vì người ta sơ ý mà thôi. Vậy mà chúng ta
cũng rất buồn, vì chúng ta nghĩ rằng người ta đã không nhớ đến chúng ta, người
ta không coi chúng ta ra gì.
Có một loại quên khác trầm trọng hơn, đó là người ta hoàn toàn
không còn nhớ đến chúng ta nữa. Chẳng còn ai quan tâm tới chúng ta, mọi người
như không nhớ là chúng ta vẫn còn hiện hữu. Nghĩa là không những chúng ta bị
quên mà còn bị bỏ rơi nữa. Bị cảm giác như thế này thì đau khổ hơn nhiều.
Một Linh mục kia được các Linh mục bạn và các giáo dân ngưỡng mộ,
quý mến. Thế rồi ngài mắc một chứng bệnh nên bị buộc phải về hưu, cả quãng đời
còn lại phải ngồi trên chiếc xe lăn. Ban đầu, người ta đến nhà hưu thăm ngài rất
đông. Nhưng năm tháng trôi qua, dòng người tuôn đến thăm viếng ngày càng giảm bớt
và cuối cùng khô cạn hẳn. Không một bức thư, không một cú điện thoại. Tuyệt đối
không còn gì cả, mà chỉ toàn là cô độc, lặng thinh, trống vắng. Ngài buồn nản
vô cùng, nhất là những khi nhớ lại bao nhiêu công sức mình đã nhiệt tình đổ ra
để phục vụ mọi người.
Rồi một hôm có một Linh mục cùng lớp ngày xưa ghé thăm. Vị Linh
mục về hưu mừng rỡ vô hạn. Hai người đã nói chuyện huyên thuyên với nhau rất
lâu. Cuối cùng vị Linh mục về hưu hỏi : "Anh nghĩ là có ai còn nhớ đến
tôi không ?" Vị Linh mục bạn không trả lời. Mà biết trả lời thế nào
đây !
Quả thực, bị quên lãng là điều chẳng tốt đẹp gì cả, trái lại còn
cực kỳ đau khổ. Chúng ta cũng có thể nghĩ như thế về Chúa. Khi một điều gì xấu
xảy đến cho ta thì ta nghĩ "Chúa đã quên tôi rồi". Và chúng ta nghĩ
tiếp : "Chúa không còn thương tôi nữa, Ngài không chăm sóc tôi nữa".
Đó cũng là cảm nghĩ của dân do thái thời ngôn sứ Ba-rúc, thế kỷ
II trước công nguyên. Đất nước họ đã rơi vào tay quân thù, thành thánh của họ bị
tàn phá, Đền thờ chỉ còn là một đống gạch vụn, con cái họ bị lưu đày. Bởi thế họ
hỏi nhau "Thiên Chúa ở đâu rồi ? Ngài có còn nhớ đến những lời đã hứa
chăng ?" Và họ kết luận : Chúa đã quên chúng ta !
Nhưng ngôn sứ Ba-rúc trấn an rằng Thiên Chúa không bao giờ quên
dân Ngài, những đau thương sầu khổ của họ sẽ sớm chấm dứt, Thiên Chúa sẽ mang
con cháu họ trở về quê hương. Họ cần phải dọn đường cho Ngài đến cứu họ. Những
lời này có sức an ủi rất lớn lao, và dân chúng lại hồ hỡi. Quả thực, những tù
nhân lưu đày đã trở về cố hương. Dù vậy, lời Chúa hứa vẫn chưa thực hiện trọn vẹn
mà phải chờ tới khi Đấng Messia đến.
Gioan Tẩy Giả là người loan báo rằng Đấng Messia đã đến. Chúa
Giêsu chính là Đấng Messia ấy, và còn là Con Thiên Chúa. Việc Con Thiên Chúa đến
với loài người là bằng chứng rõ ràng Thiên Chúa không bao giờ quên dân Ngài. Dù
khi mọi người đều đã quên chúng ta, nhưng Thiên Chúa vẫn nhớ đến chúng ta. Ngài
không thể nào không nhớ đến chúng ta, bởi vì chúng ta là con cái yêu dấu của
Ngài.
Hơn nữa, vì chúng ta thích được người khác nhớ đến, nên chúng ta
cũng hãy nhớ đến người khác, nhất là nhớ đến những người đã làm điều tốt cho
chúng ta và những người đã từng hy sinh cho chúng ta. Mùa Giáng sinh là thời
gian nhớ đến tha nhân. Những cách thức nho nhỏ biểu lộ lòng mình nhớ đến người
khác là gởi một món quà, hay một tấm thiệp, đi kèm với một lời chúc xuất phát tự
tấm lòng và củng cố bằng lời cầu nguyện cho nhau. (FM)
* 2. Mở rộng lòng ra đón nhận ơn cứu độ
Ơn cứu độ là một đề tài lớn của Mùa Vọng. Hôm nay phụng vụ hô lớn
cho mọi người nghe rằng : "Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng, thung
lũng phải lấp cho đầy, núi đồi phải san cho phẳng và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ
của Chúa". Thật là những lời rất an ủi vì chúng cho thấy Thiên Chúa rất
yêu thương con người.
Thế nhưng có người nghĩ rằng để được Chúa yêu thương thì mình phải
hoàn hảo. Nghĩ thế nên họ cố gắng luyện tập mọi nhân đức và tránh không bao giờ
phạm tội. Tuy nhiên đó là dựa vào sức mình. Phần Thiên Chúa thì khó mà cứu độ
những kẻ dựa vào sức mình như vậy.
Có một thầy tu kia tên là Ambrôsiô, rất đạo đức, rất thông minh,
và cũng rất cần cù. Thầy được mời đi giảng tĩnh tâm nhiều nơi, và ai nấy đều
kinh ngạc vì kiến thức và uy tín của Thầy. Thầy sung sướng vì đã làm chủ được mọi
việc mình làm.
Nhưng đột ngột thầy ngã bệnh, không còn làm gì được nữa. Ban đầu
Thầy rất tuyệt vọng. Nhưng sau một thời gian, Thầy chợt nghĩ phải biết cách
dùng cơn bệnh của mình để hiểu được những khổ đau của người khác. Thế là Thầy
vui sống với cơn bệnh của mình. Khi có ai đến với Thầy, Thầy chia xẻ những suy
nghĩ của mình và an ủi, khuyến khích họ. Kết quả là thời gian nằm bệnh của Thầy
còn sinh hoa quả nhiều hơn thời gian Thầy còn khoẻ mạnh. Trước khi chết, Thầy
viết : "Trước đây tôi đã đi theo một hướng, rồi thình lình tôi bị buộc
phải đi theo một hướng khác. Nhưng nhờ đó tôi đã học biết về bản thân mình và về
người khác nhiều hơn gấp bội so với những gì tôi học biết trong những năm trước
khi bệnh".
Có rất nhiều hoàn cảnh lạ lùng mở lòng chúng ta ra đón nhận những
điều Chúa muốn ban cho chúng ta. Khi chúng ta đến với Chúa trong tư thế của người
tự mãn và hùng mạnh, thì khi đó chúng ta đẩy Ngài ra xa. Còn khi chúng ta đến với
Ngài mà cảm thấy yếu đuối, nghèo nàn, thì khi đó chúng ta mời Ngài vào lòng
mình. Chính những sự bất toàn của linh hồn chúng ta mở rộng lòng chúng ta đón
nhận ơn ban của Chúa, vì đó là những vết thương thu hút cặp mắt nhân từ của
Chúa, làm cho chúng ta đáng được Ngài thương xót và chữa lành. Chúa Giêsu đã
nói : "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần".
(FM)
*3. Sám hối canh tân
Đời chiến Quốc, nhà du thuyết Tô Tần sang Nước sở, phải đợi suốt
ba ngày mới được vào ra mắt vua Sở.
Nói xong câu chuyện, Tô Tần xin cáo biệt đi ngay.
Vua Sở bảo :
Quả nhân nghe tiếng tiên sinh quý như nghe tiếng một bậc danh
nhân xưa. Nay tiên sinh đã không quản xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không
chịu ở lại là cớ làm sao ?
Tô Tần thưa :
- Tôi xem ra thấy nước Sở này có đồ ăn đắt hơn ngọc, củi đắt hơn
quế, quan khó được trông thấy như ma, vua khó được yết kiến như trời. Nay nhà
vua muốn bắt tôi ở lại để ăn ngọc thổi quế, nhờ ma thấy trời hay sao ?
Vua Sở khẩn khoản nói :
Xin mời tiên sinh cứ ở lại, quả nhân đã hiểu rõ quá rồi.
Một đất nước mà vật giá đắt đỏ : "Củi quế gạo
châu", vua quan xa cách dân chúng, thì nhân dân trong nước khổ sở
biết bao. Cái đáng khen của vua Sở là sau khi nghe Tô Tần bình phẩm về tình
hình kinh tế chính trị của đất nước mình, thì ông liền nhận ra sai lầm và quyết
tâm sửa chữa.
Mỗi lần Mùa Vọng đến, lại có một Tô Tần xuất hiện để vạch ra những
lỗi lầm của chúng ta và nhắc chúng ta sám hối canh tân. Đó chính là Gioan Tẩy
Giả : "Có tiếng kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường cho Chúa sửa
lối cho thẳng để Người đi" (Lc 3,4).
Nếu Tô Tần là nhà du thuyết cho nước Sở, thì Gioan chính là ngôn
sứ của dân tộc Do Thái. Ông đã thấy các nhân vật đạo đời : Từ hoàng đế
Tibêriô đến quan tổng trấn Philatô, từ vua Hêrôđê, Philip, Lyxaria cho đến các
vị thượng tế Hanna và Cai pha ; lòng người đầy những khúc quanh lồi lõm,
thung lũng hố sâu, núi đồi hiểm trở.
Gioan nhắc lại lời ngôn sứ Isaia : "Mọi thung
lũng, phải lấp cho đầy, khúc quanh co, phải uốn
chongay, đường lồi lõm, p hải san cho phẳng (Lc 3,5). Ông
kêu gọi mọi người sửa sang đường sá. Nhưng con đường quan trọng chính là đường
vào cõi lòng :
Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi.
Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, tính toán lệch lạc.
Phải san cho phẳng những núi đồi ngạo nghễ của tự mãn tự kiêu.
Phải bạt cho thấp những gồ ghề lồi lõm của bất công, bất chính.
Nếu sám hối là dọn đường của lòng mình, thì chúng ta hãy dẹp bỏ
những chướng ngại của tâm hồn, để Chúa có thể đến và ngự lại trong đó.
Nếu Gioan là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu, thì chúng ta
sẽ là sứ giả chuẩn bị cho Người đến từng ngày trong cuộc sống của anh em.
Thiên Chúa chỉ có thể đến gặp con người trên những con đường
ngay thẳng, phẳng phiu. Và ơn Cứu Độ của Người cũng chỉ ban cho những ai rộng
tay đón nhận.
Lạy Chúa, thật là khó khi nhận mình lầm lỗi, và cũng không dễ
dàng khi phải sửa chữa lỗi lầm.
Xin ban cho chúng con ơn sám hối, dám đi đến những hành động cụ
thể, và can đảm chấp nhận cắt tỉa đớn đau, để chúng con xứng đáng đón rước Chúa
đến mang nguồn vui ơn Cứu Độ. Amen.(TP)
*4. Cách dọn đường cho Chúa ngày hôm nay
Nếu chúng ta muốn đón Chúa – dù Ngài đến bằng cách nào chăng nữa
– thì chúng ta cũng phải chuẩn bị, phải dọn đường cho Ngài đến với chúng ta.
Ngôn sứ Ba-rúc cũng như Gioan Tiền Hô đều nhắc lại lời Kinh Thánh dạy chúng ta
cách dọn đường cho Chúa : «Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp
núi cao và gò nồng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng
phiu, để Ít-ra-en tiến bước an toàn dưới ánh sáng vinh quang của Thiên
Chúa». Và «Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng
để Ngài đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp,
khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng».
Cách nói đầy hình tượng của Thánh Kinh thật đơn sơ dễ hiểu :
Công việc dọn đường cho Chúa của chúng ta là chấn chỉnh đời sống, là điều chỉnh
tư tưởng, lời nói, việc làm của mình. Đó chính là ý nghĩa của từ «metanoia»,
nghĩa là hoán cải, thay đổi, trở lại, không chỉ trong hành động vi phạm các
nguyên tắc luân lý, mà cả trong lời nói và suy nghĩ, não trạng, trong hiểu biết
của chúng ta nữa.
Ngày nay việc chuẩn bị đón Chúa trong Mùa Vọng dễ bị «nhiễu» bởi
những cách chuẩn bị bề ngoài và nặng tính thương mại. Hang Đá, Máng Cỏ đủ kiểu
đủ mầu, đèn hoa rực rỡ, cờ xí tung bay… đẹp thì đẹp thật đấy, nhưng là những
hình ảnh rất xa lạ với cảnh Bê-lem đích thực. Tệ hơn nữa, có không ít người lại
bị nhiễm cách người đời mừng Lễ Thiên Chúa giáng trần, bằng những hàng
hóa «de luxe» (=sang trọng) và những bữa tiệc linh đình, phung
phí, thậm chí tội lỗi nữa.
Vì thế, mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn Kitô hữu chúng ta
hãy tự kiểm điểm một cách chân thành và khiêm tốn :
1/ Sự hiểu biết của tôi về Thiên Chúa, về Giáo Hội, về cách sống
Đạo… và rao giảng Tin Mừng đã tạm đủ và phù hợp với Tin Mừng và Giáo Huấn của
Giáo Hội chưa ? Tôi phải làm gì để có được một hiểu biết đầy đủ hơn về
Thiên Chúa, về Giáo Hội, về cách sống Đạo, về cách rao giảng Tin Mừng ?
2/ Cách suy nghĩ, cách đánh giá con người và sự việc của tôi dựa
vào Phúc Âm và Giáo Huấn của Giáo Hội hay dựa vào dư luận và thói thường của thế
gian ?
3/ Mọi hành động của tôi (làm ăn, buôn bán, việc đạo, việc đời…)
nhằm mục đích làm đẹp lòng Thiên Chúa và sinh ích sinh lợi (vật chất, tinh thần,
tâm linh) cho bản thân tôi và những người chung quanh (gia đình, bạn bè, lối
xóm, khu vực…xã hội) hay chỉ nhằm thỏa mãn lòng ích kỷ và các dục vọng xấu
trong tôi ?
Chắc chắn khi thành thật trả lời các câu hỏi trên mỗi người, mỗi
cộng đoàn chúng ta sẽ thấy«thung lũng» phải lập đầy, «núi đồi» phải
san bằng, «đường quanh co» cần phải uốn ngay trong tư tưởng, lời
nói, hành động thường ngày của mình.
***
Lạy Chúa, xin hãy đến với con ! với gia đình, với giáo xứ
và với dân tộc con ! Lạy Chúa, xin hãy tu sửa lòng trí và cách sống của
chúng con ! (Giêrônimô Nguyễn văn Nội)
* 5. Lạc quan
Biết bao người bi quan với cuộc đời và với thế giới. Chúng ta đã
nghe quá nhiều những nhận định chán chường, như : Đời là bể khổ ; đời
là con đường đi vào ngõ cụt ; tha nhân là hỏa ngục v.v.
Nhưng giọng điệu của Lời Chúa hôm nay khác hẳn : "Thiên
Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của Ngài" (bài đọc
1) ; Ngay cả những người đang "nghẹn ngào ra đi gieo giống"
cũng có thể mong chờ "mùa gặt mai sau khấp khởi mừng" (Đáp
ca) ; "Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành
như thế, cũng sẽ đưa công việc đó cho tới chỗ hoàn thành" (bài đọc
2) ; "Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa"
(Tin Mừng)
Người đời bi quan là vì họ không có đức tin. Kitô hữu thì phải lạc
quan vì có đức tin. Ánh sáng đức tin giúp chúng ta giúp chúng ta thoát khỏi kiểu
nhìn những biến cố một giới hạn và cục bộ, nhưng mở rộng tới tầm nhìn toàn diện
lịch sử diễn tiến theo chương trình của Thiên Chúa.
* 6. Bài giải thích của Origène (+ 253)
Câu Cựu Ước được trích dẫn là của ngôn sứ Isaia : "Có
tiếng người hô trong hoang địa : Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối
cho thẳng để Người đi" (Is 40,3) Con đường mà chúng ta phải dọn
cho Chúa là con đường nào ? Phải chăng là con đường vật chất ? Thế
nhưng Lời Chúa có cần đi con đường này không ? Hay là phải dọn cho Chúa
con đường nội tâm và thu xếp trong tâm hồn chúng ta những con đường ngay thẳng
và liền lạc ? Vâng, đây chính là con đường mà Ngôi Lời Thiên Chúa vạch
trong tâm hồn con người để nó có khả năng đón nhận Lời Ngài.
Tâm hồn con người thật rộng rãi và dễ đi, miễn là nó thanh sạch.
Bạn có muốn biết con đường ấy rộng lớn thế nào không ? Hãy xem nó có thể
chứa đựng biết bao hiểu biết thần linh. Chính tâm hồn con người thố lộ :
"Quả chính Ngài ban cho tôi trí tri cách vật, biết được cơ cấu càn khôn
và năng lực của ngũ hành, mối đầu, mút cuối và khoảng giữa các thời, đông chí hạ
chí đắp đổi và thời tiết tuần hoàn, tần niên chu kỳ, vị trí tinh sao, bản tính
loài vật, bản năng mãnh thú, sức mạnh tinh thần, tâm tư người thế, phân loại thảo
mộc, dược tính rễ cây. Mọi điều ẩn tàng hay minh bạch, tôi đều đã biết. Phải,
chính tay thợ làm ra mọi sự đã dạy dỗ tôi, sự khôn ngoan" (Kn 7,17-23).
Bạn thấy đấy, tâm hồn con người đâu phải là nhỏ vì có thể chứa đựng bấy nhiêu
điều ấy. Bạn phải hiểu rằng nó rộng lớn không phải về những chiều kích thể chất,
mà về năng lực của tư tưởng, có thể ôm trọn những hiểu biết chân lý to lớn dường
ấy.
Để giúp những người đơn sơ nhận biết sự to lớn của tâm hồn con
người, tôi sẽ đưa ra những thí dụ quen thuộc. Tất cả mọi thành thị chúng ta đi
qua, chúng ta đều giữ lại trong tâm trí : những nét đặc thù của chúng,
hoàn cảnh ở các nơi, những tường lũy, những dinh thự… Tất cả đều ở lại trong
tâm hồn chúng ta. Con đường mà chúng ta đã đi qua, nó cũng ở lại như vẽ như in
trong trí nhớ của chúng ta. Biển cả mà chúng ta đã bơi lội, chúng ta vẫn còn giữ
lại trong ý tưởng một cách thầm lặng. Tôi xin lặp lại, chẳng nhỏ bé đâu cái tâm
hồn có khả năng ôm ấp biết bao điều như thế ấy ! Và nếu nó không nhỏ vì có
thể ôm ấp bao điều như vậy, ta có thể dọn đường cho Chúa và sửa thẳng lối lại để
cho Đấng là Lời và Khôn ngoan có thể đi. Hãy dọn đường cho Chúa bằng một cách sống
đáng khen, bằng những việc làm tuyệt hảo ; hãy san phẳng con đường để Ngôi
Lời có thể đi mà không gặp cản trở nào. Rồi Ngài sẽ ban cho bạn được hiểu biết
về những mầu nhiệm và về việc Ngài ngự đến, "kính dâng Ngài vinh quang
và uy quyền đến muôn thuở muôn đời" (1 Pr 4,11)
7. Chuyện minh họa ý nghĩa Mùa Vọng
Tôi đưa một người bạn mù ra sân bay. Khi đến nơi, tôi bảo người
đó "Tôi đi lo chút việc. Anh đứng đây chờ tôi nhé. Đừng đi đâu cả". Rồi
tôi đi mua vé, gởi một lá thư và đọc thông báo về các chuyến bay. Khi tôi quay
lại, tôi thấy người bạn mù vẫn đứng đấy. Người ta chen lấn chung quanh anh, một
người phu khuân vác đây xe trước mặt anh, một đứa bé ngạc nhiên nhìn anh chăm
chăm, một người bán báo rao inh ỏi trước mặt anh... Nhưng anh vẫn đứng yên, nét
mặt bình thản, không chút nghi ngờ, không hề sợ sệt. Anh tin chắc tôi sẽ trở lại
đón anh.
Cảnh một người mù nhắm mắt đứng yên chờ tôi trở lại khiến tôi
liên tưởng tới thái độ người tín hữu phải có trong Mùa Vọng để đón chờ Chúa đến.
(Willi Hoffsuemmer).
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Thiên Chúa mời gọi con người
hiệp thông với Chúa và với nhau. Để đáp lại lời mời gọi đó, con người phải hoán
cải con tim, rồi suốt cuộc đời, phải ăn năn sám hối. Với lòng thống hối chân
thành vì những lỗi lầm đã phạm, chúng ta cùng khiêm tốn nguyện xin :
1. Sứ điệp của thánh Gioan Tẩy giả được đúc kết trong lời mời gọi ; /
Anh em hãy sám hối / vì Nước Trời đã đến gần / Chúng ta hiệp lời cầu
xin cho mọi thành phần trong Hội thánh / luôn ý thức thân phận tội lỗi của
mình / và quyết tâm đổi mới đời sống / để xứng đáng đón mừng mầu nhiệm
Giáng sinh.
2. Trên thế giới ngày nay / tội ác vẫn lan tràn khắp
nơi / đặc biệt là tội buôn bán phụ nữ và trẻ em / Chúng ta hiệp lời cầu
xin hiệp lời cầu xin cho các nhà lãnh đạo của hết thảy mọi quốc gia / tìm
được những biện pháp thích hợp / để tiêu diệt tội ác đáng ghê tởm này.
3. Ngày nay có một số người hầu như mất hết ý thức về tội lỗi /
họ coi việc phạm tội là bình thường / vì lương tâm họ đã trở nên xơ cứng /
Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban ơn soi sáng / để mọi người biết cố gắng
lánh xa tội lỗi / và tích cực làm nhiều việc thiện.
4. Trong một thế giới còn nhiều bạo lực / bất công / hận
thù / chia rẽ / cần có những người dám xả thân / mang sứ điệp
yêu thương của Chúa đến cho mọi người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi
thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / trở nên những chứng nhân của
Thiên Chúa là tình yêu / bằng chính đời sống bác ái yêu thương của mình.
Chủ tế : Lạy Chúa là Cha nhân hậu từ bi, để hết thảy mọi
người có thể nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa, chúng con phải sống gương mẫu trong
đời sống tin cậy mến. Vì thế, xin Chúa thương ban ơn trợ giúp để chúng con biết
sống theo lời dạy dỗ của Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, là Đấng hằng sống và hiển
trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
Trước kinh Lạy Cha : Chúng ta hãy hướng lòng về Cha trên trời
và tha thiết cầu xin Ngài khấng cho Con của Ngài đến thăm viếng chúng ta.
Trước lúc Rước Lễ : Chúa Giêsu sắp đến với tâm hồn chúng ta
bằng chính Mình và Máu Thánh Ngài. Chúng ta hãy dọn con đường tâm hồn mình cho
ngay thẳng và thanh sạch để đón rước Ngài.
VII. Giải tán
Đáp lại lời kêu gọi của Thánh Gioan Tẩy giả, tuần này chúng ta
hãy dọn dẹp con đường tâm hồn của mình : lấp đầy những chỗ trũng, san bằng
những mô cao, uốn thẳng những quanh co. Có như thế chúng ta mới có thể lãnh nhận
ơn cứu độ Chúa ban.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa
Nhật II Mùa Vọng (C)
Chúa Nhật, 6 Tháng 12, 2015
Lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả
Dọn đường cho Chúa đến
Lc 3:1-6
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc
Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.
Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã
giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn
về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết
thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng
nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời
sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó
và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn
đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm
chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn
mạch của tình anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa
Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa
Thánh Thần đến với chúng con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Văn bản Tin Mừng của Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng nói với chúng ta
về ông Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ, sống trong hoang địa dọn đường cho Chúa. Trong
nhiều thế kỷ, người ta đã sống trong kỳ vọng về sự giáng thế của Đấng Mêssia,
và ách đô hộ của người La Mã ngày càng nặng nề hơn bao giờ hết đã làm gia tăng
ước muốn sự hiện đến của Đấng Giải Thoát, Đấng Cứu Độ. Sự hiện diện
của ông Gioan trong hoang địa là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa một lần nữa đến
thăm dân Người. Ơn cứu chuộc đã đến trong tầm tay!
Thánh Luca cẩn thận đặt việc xuất hiện của ông Gioan Tẩy Giả
trong bối cảnh chính trị-xã hội và tôn giáo thời bấy giờ. Về mặt
chính trị-xã hội, Philatô là quan tổng trấn xứ Giuđêa, Hêrôđê là thủ hiến xứ
Galilêa, Anna và Caipha là các thượng tế. Sau đó, bằng cách dùng một
văn bản Kinh Thánh, Luca đặt Gioan trong bối cảnh tôn giáo của kế hoạch Thiên
Chúa và nói rằng ông đến để chuẩn bị cho việc thực hiện niềm hy vọng xuống thế
làm người của Đấng Thiên Sai.
b) Phần phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Lc 3:1-2: Đặt việc làm của Gioan trong thời gian và
không gian
Lc 3:3: Tóm tắt các hoạt động chính trị của Gioan
Lc 3:4: Ánh sáng Kinh Thánh làm sáng tỏ các hoạt động
của Gioan
c) Tin Mừng:
1 Đời hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm, Phongxiô Philatô
làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilêa, còn em là Philípphê
làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania làm thủ hiến xứ Abilêna; 2 Anna
và Caipha làm thượng tế; có lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, trong
hoang địa.
3 Ông liền đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối cầu
ơn tha tội, 4như lời chép trong sách Tiên tri Isaia rằng:
"Có tiếng kêu trong hoang địa:
Hãy dọn đường Chúa,
hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng,
5 hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi;
con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng,
con đường gồ ghề hãy san cho bằng.
6 Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.
a) Điều gì trong bài Tin Mừng này đã làm bạn hài lòng
nhất hoặc đánh động bạn nhất? Tại sao?
b) Ông Gioan xuất hiện ở đâu và khi
nào? Ý nghĩa của việc xác định thời gian vàkhông
gian này là gì?
c) Các tài liệu tham khảo Kinh Thánh để hiểu biết những
hoạt động của Gioan có ý nghĩa gì?
d) Hoang địa, đường, lối, thung lũng, núi, đồi, đường
quanh co, đường gồ ghề: để hiểu rõ hơn về các hoạt động của Chúa
Giêsu, những hình ảnh này có ý nghĩa gì?”
e) Sứ điệp của bài Tin Mừng này đối với chúng ta ngày
nay là gì?
5. Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề
a) Bối cảnh xưa và nay
* Luca đặt các hoạt động của ông Gioan Tẩy Giả vào
năm thứ mười lăm đời hoàng đế Tibêriô, đế quốc La Mã. Tibêriô ở ngôi
hoàng đế từ năm 14 đến năm 37 sau Công Nguyên. Vào năm 63 trước Công
Nguyên, hoàng đế La Mã đã đem quân xâm chiếm vùng Paléstine và áp đặt một chế độ
nô lệ hà khắc đối với người dân. Các cuộc nổi dậy của dân chúng liên tục
theo nhau tiếp nối, đặc biệt trong miền Galilêa, nhưng đã bị trấn áp dã man bởi
binh lính La Mã. Từ năm thứ tư trước Công Nguyên đến năm 6 sau Công
Nguyên, trong thời gian đó Áckhêlao làm thủ hiến, bạo loạn đã xảy ra trong miền
Giuđêa. Vì việc này đã buộc thánh Giuse và đức Maria trở về Nagiarét
trong xứ Galilêa mà không về làng Bétlêhem xứ Giuđêa (Mt 2:22). Vào
năm thứ 6 sau Công Nguyên, thủ hiến Áckhêlao đã bị truất phế và xứ Giuđêa trở
thành một tỉnh thuộc địa của La Mã mà quan tổng trấn được chỉ định trực tiếp bởi
Hoàng Đế Rôma. Philatô là một trong các vị quan tổng trấn
này. Ông ta cai trị từ năm 25 đến năm 36. Điều thay đổi
này trong chế độ chính trị đã mang lại thời kỳ khá yên ổn, nhưng thỉnh thoảng
cũng có những vụ nổi dậy, điển hình là tên phiến loạn Baraba (Mc 15:7) và cuộc
đàn áp trực tiếp bởi người La Mã (Lc 13:1), đã là những nhắc nhở về mức độ vô
cùng nghiêm trọng của tình hình. Bất cứ một va chạm nhỏ nào cũng đủ
để tạo ra ngọn lửa cho cuộc nổi dậy! Yên ổn chỉ là một thỏa thuận tạm
ngưng, một cơ hội được tạo ra bởi lịch sử, bởi Thiên Chúa, để người ta nhìn lại
cuộc hành trình họ đã thực hiện (xem Lc 13:3-5) và do đó, tránh được sự hủy diệt
hoàn toàn. Người Rôma rất tàn nhẫn. Bất kỳ cuộc nổi dậy
nào sẽ báo hiệu sự phá hủy của Đền Thờ và Dân Tộc (Ga 11:48; xem Lc 13:34-35;
19:41-44).
* Trong bối cảnh này, vào khoảng năm 28 sau Công Nguyên, Gioan Tẩy
Giả xuất hiện như một ngôn sứ trong hoang địa. Luca nói về sự kỳ vọng
lớn phát sinh trong dân chúng liên quan đến việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả,
là người đã công bố phép rửa hoán cải cho sự tha thứ tội lỗi. Ngày
nay cũng có một khát vọng lớn cho sự chuyển đổi và làm hòa với Thiên Chúa, tự
biểu lộ theo nhiều cách khác nhau: sự tìm kiếm ý nghĩa đời sống, cuộc tìm
kiếm tâm linh, phong trào quốc tế của Diễn Đàn Xã Hội Thế Giới “Một thế giới
khác là điều có thể”, và nhiều phong trào tôn giáo khác nữa. Các cán
sự xã hội và các chính trị gia đang tìm kiếm một thế giới nhân bản hơn và do đó
xác nhận lòng khát vọng hoán cải và hòa giải với Thiên Chúa. Mùa Vọng
là thời gian thích hợp để hồi phục trong chúng ta lòng mong ước cho sự thay đổi,
cho sự hoán cải và cho việc đến gần Thiên Chúa hơn.
b) Lời bình luận về văn bản:
Lc 3:1-2: Nhắc nhớ lại những tiên tri xưa
Phương cách mà Luca giới thiệu lời rao giảng của Gioan thì tương
tự như những lời tựa cuốn sách của các tiên tri xưa. Những lời này đề
cập đến tên của các vị vua vào thời gian hoạt động của các tiên
tri. Này nhé, ví dụ, sách tiên tri Isaia (Is 1:1), sách tiên tri
Giêrêmia (Gr 1:1-3), sách tiên Hôsê (Hs 1:1), sách tiên tri Amốt (Am 1:1) và
các tiên tri khác. Luca làm điều tương tự như vậy để nói rằng nếu cả
500 năm không có một tiên tri nào, thì giờ đây một tiên tri mới đã xuất hiện với
tên là Gioan, con ông Giacaria và bà Êlisabéth. Luca lo lắng với việc
đặt các sự kiện này trong thời gian và không gian. Ông giới thiệu
tên của quan tổng trấn và các thủ hiến và mô tả những nơi Gioan làm việc. Thật
ra, lịch sử ơn cứu độ không tách biệt với lịch sử loài người và lịch sử cá
nhân.
Mối quan tâm này của Luca, gợi lên sự tò mò của chúng
ta. Ngày nay, khi một người được thụ phong linh mục hay khấn trọn,
thông thường thì in một tấm thiệp thánh ghi nhớ ngày và nơi chốn lễ thụ phong
hoặc lễ khấn và một câu nói có ý nghĩa từ Kinh Thánh hay của một vị thánh được
ghi vào để thể hiện tầm quan trọng của việc thụ phong hay lễ khấn trong đời của
người ấy. Tuy nhiên, chúng ta không bao giờ bắt gặp một thấm thiệp
thánh nói rằng, ví dụ, “Vào năm thứ năm dưới triều đại tổng thống Bush, tổng thống
của Hiệp Chủng Quốc; ông Blair là thủ tướng của vương quốc Anh; ông Prodi là thủ
tướng nước Ý, ông Zapatero là thủ tướng nước Tây-ban-nha; và Giáo Hoàng Joseph
Ratzinger, được gọi là Đức Thánh Cha Biển Đức thứ 16, tôi đã thụ phong chức
linh mục để loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, ban ánh sáng cho người mù
lòa, để giải thoát kẻ bị áp bức và công bố năm Hồng Ân của Chúa!” Tại
sao Luca lại chọn cho biết các ngày của lịch sử cứu rỗi cùng với những ngày của
lịch sử nhân loại?
Lc 3:3: Ăn năn thống hối và sự tha thứ
Ông Gioan đi khắp miền sông Giođan rao giảng phép rửa sám hối để
cầu ơn tha tội. Ăn năn (tiếng Hy Lạp là metanoia)
có nghĩa là thay đổi, không chỉ trong hành vi đạo đức của một người, mà cũng
còn trong tâm lý của người ấy nữa. Thay đổi trong cách suy nghĩ của
người ta! Mọi người nhận thức được rằng cách suy nghĩ của họ bị ảnh
hưởng bởi “men của người Pharisêu và men của Hêrôđê” (Mc 8:15), đó là bởi lời
tuyên truyền của chính quyền và bởi các viên chức tôn giáo, đã sai trái và phải
sửa đổi. Sự tha thứ mang đến sự hòa giải với
Thiên Chúa và với những người chung quanh. Bằng cách này, Gioan đang
công bố một phương cách mới cho người ta liên kết với Thiên Chúa. Sự
hòa giải cũng sẽ là dấu ấn của việc rao giảng của Chúa Giêsu: hòa giải
đến những “bảy mươi lần bảy” (Mt 18:22).
Lc 3:4-6: Định nghĩa sứ vụ của Gioan
Thánh Luca trích dẫn văn bản sau đây từ lời tiên tri Isaia để
giúp độc giả hiểu rõ hơn về ý nghĩa lời rao giảng của Gioan: “Có tiếng
hô: ‘Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa. Giữa
đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng
ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống,
nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu; bấy giờ
vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy vì rằng miệng
Đức Chúa đã tuyên phán’” (Is 40:3-5). Trong văn bản này, tiên tri
Isaia công bố sự trở lại của dân chúng từ nơi lưu đày về lại Paléstine và ông
mô tả nó như thể đó là một cuộc Xuất Hành. Giống như người dân trở về
từ việc nô dịch ở Babylon, rời bỏ đất Ai Cập và một lần nữa bước chân vào sa mạc. Đối
với Luca, Chúa Giêsu bắt đầu một cuộc xuất hành mới được chuẩn bị bằng lời rao
giảng của Gioan trong hoang địa. Các sách Tin Mừng của Mátthêu (Mt
3:3) và Máccô (Mc 1:3) cũng trích dẫn cùng một đoạn của sách tiên tri Isaia,
nhưng các ông chỉ trích dẫn phần đầu (Is 40:3). Luca trích dẫn đầy đủ
bản văn đến điểm mà tiên tri Isaia nói rằng: “và mọi người phàm sẽ
cùng thấy vinh quang của Thiên Chúa” (Is 40:5). Câu nói “mọi người phàm”
có nghĩa là tất cả nhân loại. Sự khác biệt nhỏ này cho
thấy mối quan tâm của Luca cho các giáo đoàn, rằng các tiên tri đã dự báo việc
mở rộng này đến cho các dân ngoại! Chúa Giêsu đã đến không chỉ riêng
cho người Do Thái mà để cho “mọi người phàm” có thể nhìn thấy quyền năng cứu độ
của Thiên Chúa. Luca viết sách Tin Mừng của ông cho giáo đoàn ở Hy Lạp,
mà hầu hết là những dân ngoại đã tòng giáo.
c) Phần phụ chú để giúp hiểu rõ hơn bài Tin Mừng:
Gioan, vị tiên tri – Từ thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên, lời
tiên tri đã chấm dứt. Có lời chép rằng: “ngôn sứ cũng chẳng
còn” (Tv 74:9). Người ta phải sống trong kỳ vọng của lời ngôn sứ được
hứa hẹn bởi Môisen (Đnl 18:15; 1 Mcb 4:46; 14:41). Thời gian chờ đợi dài
đăng đẵng này đã kết thúc với sự xuất hiện của Gioan (Lc 16:16). Người
ta đã không coi Gioan là kẻ nổi loạn như Baraba, hoặc giống như một Kinh sư hay
người Pharisêu, mà như là một ngôn sứ được mong mỏi bởi tất cả mọi người (Lc
1:76). Nhiều người nghĩ rằng ông là Đấng Cứu Thế. Ngay cả
trong thời thánh Luca, vào những năm 80, vẫn còn những người nghĩ rằng Gioan là
Đấng Cứu Thế (Cv 19:1-6).
Gioan xuất hiện và công bố: “Hãy ăn năn sám hối, vì
Nước Trời đã gần kề!” (Mt 3:2). Ông đã bị bỏ tù vì lòng can đảm của
mình trong việc tố cáo các tội lỗi của người ta và của những kẻ cầm quyền (Lc
3:19-20). Khi Chúa Giêsu nghe được tin Gioan đang ở trong tù, Người
đã trở về Galilêa và công bố cùng một sứ điệp như Gioan: “Thời kỳ đã
mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin
vào Tin Mừng” (Mc 1:15) Chúa Giêsu tiếp tục công việc nơi Gioan bỏ dở
và tiến xa hơn. Phần Cựu Ước kết thúc với Gioan và trong Chúa Giêsu
phần Tân Ước bắt đầu. Ngay cả Chúa Giêsu còn nói: “Ta nói
cho anh em biết: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao
trọng hơn ông Gioan; tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng
hơn ông” (Lc 7:28).
Nội dung lời rao giảng của Gioan (Lc 3:7-18) –
Ông Gioan thu hút đám đông dân chúng bằng lời rao giảng về phép rửa
của sự hoán cải và tha thứ tội lỗi. Điều này cho thấy rằng người ta
đã sẵn sàng để thay đổi và muốn liên kết với Thiên Chúa trong một đường lối mới. Gioan
tố cáo tội lỗi và lên án những kẻ có đặc quyền. Ông nói rằng: là con cháu
của Abraham thì không có bảo đảm gì cũng như không có bất kỳ lợi thế nào trước
mặt Thiên Chúa. Ông nói: Đối với Thiên Chúa, hòn đá và
con cháu Abraham đều như nhau, bởi vì “Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá
này trở nên con cháu ông Abraham!” (Lc 3:8). Điểm lợi thế của một
người trước nhãn quan của Thiên Chúa thì không phải là đặc quyền làm con cháu của
ông Abraham mà là các hành động đã nảy sinh hoa trái tốt lành.
Luca nói về ba loại người đến hỏi ông Gioan: “Chúng
tôi phải làm gì?”: của đám đông (Lc 3:10), của những kẻ
thu thuế (Lc 3:12) và của các binh lính (Lc 3:14). Câu trả lời cho đám
đông thì đơn giản: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có
gì ăn, thì cũng làm như vậy!” (Lc 3:11) Đây là một câu trả lời rõ
ràng: chia sẻcủa cải là điều kiện để nhận được sự hiện
diện của Thiên Chúa và để vượt qua từ thời kỳ Cựu Ước sang Tân Ước. Trong
câu trả lời của ông dành cho những người thu thuế (Lc 3:13) và binh lính (Lc
3:14), Gioan yêu cầu điều tương tự, nhưng áp dụng cho tình cảnh của họ. Những
người thu thuế thì không được đòi hỏi những gì quá mức ấn định. Việc
khai thác người dân bởi các kẻ thu thuế đã là một bệnh dịch trong xã hội thời bấy
giờ. Các binh lính không được hà hiếp ai, cũng không tống tiền người
ta, và phải an phận với số lương của mình.
Vào những năm 80, khi Luca đang viết sách Tin Mừng, nhiều người
vẫn còn cho rằng ông Gioan là Đấng Cứu Thế (Xem Cv 19:3; 13,
15). Luca trích dẫn lời của Gioan để giúp người đọc đặt để hình ảnh
của Gioan trong khuôn khổ của lịch sử cứu độ. Ông Gioan thừa nhận rằng
Chúa Giêsu là Đấng mạnh mẽ hơn. Sự khác biệt giữa ông và Chúa Giêsu
là ân sủng của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ được truyền qua Chúa
Giêsu. Luca cho thấy rằng khái niệm của ông Gioan về Đấng Cứu Thế
cũng chưa hoàn hảo. Đối với Gioan, Đấng Mêssia sẽ là một vị thẩm
phán nghiêm khắc, sẵn sàng để ban ra sự phán xét và hình phạt (Lc
3:17). Có lẽ đó là lý do tại sao ông Gioan, sau đó, đã gặp khó khăn
trong việc nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Mêssia (Lc 7:18-28), bởi vì Đức Giêsu đã
không hành xử giống như một vị phán quan nghiêm khắc trừng phạt. Thay
vì đó, Người lại nói: “Ta không phán xét ai cả!” (Ga 8:15;
12:47). Thay vì phán xét và trừng phạt, Chúa Giêsu cho thấy sự dịu
dàng, đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ăn uống với họ.
6. Cầu Nguyện với Thánh Vịnh 15 (14)
Lạy Chúa, ai được vào ngụ trong nhà Chúa?
Lạy CHÚA, ai được vào ngụ trong nhà Chúa,
được ở trên núi thánh của Ngài?
Là kẻ sống vẹn toàn,
được ở trên núi thánh của Ngài?
Là kẻ sống vẹn toàn,
luôn làm điều ngay thẳng,
bụng nghĩ sao nói vậy,
miệng lưỡi chẳng vu oan,
bụng nghĩ sao nói vậy,
miệng lưỡi chẳng vu oan,
không làm hại người nào,
chẳng làm ai nhục nhã.
Coi khinh phường gian ác,
chẳng làm ai nhục nhã.
Coi khinh phường gian ác,
trọng ai kính CHÚA TRỜI,
lỡ thề mà bị thiệt, thì cũng chẳng rút lời,
cho vay không đặt lãi,
lỡ thề mà bị thiệt, thì cũng chẳng rút lời,
cho vay không đặt lãi,
chẳng nhận quà hối lộ mà hại đến người ngay.
Phàm ai làm những điều này
không hề nao núng chuyển lay bao giờ.
Phàm ai làm những điều này
không hề nao núng chuyển lay bao giờ.
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp
chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa
soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời
Chúa đã mặc khải cho chúng con. Nguyện xin cho chúng con, được trở
nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực
hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha
trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét