22/05/2016
Chúa Nhật tuần 8 thường niên
Chúa Ba Ngôi.
Lễ Trọng
(phần II)
Phụng
vụ Lời Chúa: Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi - Năm C
CHÚA NHẬT BA
NGÔI
Cn 8:22-31; Rm 5:1-5
Ga 16:12-15
Cn 8:22-31; Rm 5:1-5
Ga 16:12-15
MẦU NHIỆM BA NGÔI
MẦU NHIỆM TÌNH YÊU
MẦU NHIỆM TÌNH YÊU
“Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy;
Thánh Thần sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy
mà loan truyền cho các con.”
(Ga 16,15)
Thánh Thần sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy
mà loan truyền cho các con.”
(Ga 16,15)
I. CÁC BÀI ĐỌC
Các bài đọc ngày Chúa nhật lễ Chúa Ba Ngôi trình bày cho chúng ta những chứng cứ trong Thánh Kinh về Ba Ngôi Thiên Chúa. Bài đọc I trích từ sách Châm Ngôn là bài ca ngợi khen Đức Khôn Ngoan. Dù chưa phải là mạc khải rõ ràng về một ngôi vị Thiên Chúa khác với Chúa Cha, nhưng có thể tìm thấy những tương quan với Ngôi Lời mà thánh Gioan trình bày trong
Tin Mừng thứ tư. Trong Tân Ước, mạc khải về Ba Ngôi được trình bày rõ ràng hơn bởi chính Chúa Giêsu cũng như bởi các Tông đồ.
1. Bài đọc I (Cn 8, 22-31)
Đức Khôn Ngoan trong sách Châm ngôn được nhân cách hóa, được diễn tả như một ngôi vị, và được gọi là người phụ nữ Khôn Ngoan. Đoạn trích sách Châm ngôn chúng ta nghe trong bài đọc I hôm nay là một bài ca, gồm những lời ngợi ca mà chính Đức Khôn Ngoan ngợi khen mình. Trước hết Đức Khôn Ngoan nói về nguồn gốc nguyên thủy của mình: Người được Thiên Chúa tạo thành đầu tiên, trước tất cả mọi loài thụ tạo khác. Người là chứng nhân khi Thiên Chúa tạo thành thế giới vũ trụ bởi vì Người đã hiện diện trước từ đời đời. Bằng hai cách diễn tả: Đức Khôn Ngoan hiện hữu “trước khi” các sự vật được tạo thành, và “khi” các sự vật được tạo thành Đức Khôn Ngoan đã hiện diện, tác giả sách Châm ngôn nhấn mạnh sự hiện diện của Đức Khôn Ngoan trong suốt công trình tạo dựng và như thế làm nổi bật sự trổi vượt của Đức Khôn Ngoan trên hết mọi loài thụ tạo. Đức Khôn Ngoan hiện diện bên Thiên Chúa và
như là dụng cụ của Người; Đức Khôn Ngoan làm vui lòng Thiên Chúa và là trung gian giữa Thiên Chúa và loài người.
Như thế, Đức Khôn Ngoan được trình bày như một sự nhân cách hóa ám dụ của phẩm tính của Thiên Chúa. Thiên Chúa dùng phẩm tính này để tạo thành và hướng dẫn vũ trụ và các loài cư ngụ trong đó cách quan phòng. Chính Đức Khôn ngoan sẽ là thầy dạy, hướng dẫn những người không được học hỏi để họ có thể tham dự vào quyền năng tạo thành của Thiên Chúa. Đức Khôn Ngoan cũng ban sự sống và những lời cố vấn cho các vua để họ có thể lãnh đạo cách đúng đắn. Đức Khôn Ngoan còn là trung gian giữa Đấng sáng tạo và thế giới được tạo thành, Người làm cho thế giới nhận biết về Thiên Chúa, dạy cho họ biết ý định của Thiên Chúa dành cho con người, và hướng dẫn con người tuân theo những quy luật để điều hành vũ trụ như cộng tác vào chương trình của Đấng sáng tạo.
2. Bài đọc II (Rm 5,1-5)
Thánh
Phaolô giải thích cho các tín hữu Roma hệ quả của niềm tin vào Đức Kitô phục sinh. Nhờ đức tin, các tín hữu được cứu độ và nên công chính, và nhờ đó được hòa giải với Thiên Chúa và tận hưởng sự bình an mà không có đau khổ nào có thể xâm chiếm, cũng như mang lấy một niềm hi vọng vững bền và sự tin tưởng vào sự bảo đảm chắc chắn của ơn cứu độ. Như thế hệ quả đầu tiên của sự công chính chính là sự bình an. Đây không chỉ đơn giản là sự bình an
trong tâm trí hay lương tâm vì được tha tội, nhưng là bình an vì được sống trong quan hệ tràn đầy với Thiên Chúa. Chính trong sự bình an này mà không có đau khổ khó khăn nào làm cho người tín hữu chao đảo hay thất vọng. Chính nhờ Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng, và nhờ chính sự chết và sống lại của Người, con người thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, được tha thứ, giao hòa, và cứu độ. Đức Giêsu chính là đấng trung gian và đấng giao hòa con người với Thiên Chúa.
Hiệu quả thứ hai của ơn công chính là niềm hi vọng vào vinh quang của Thiên Chúa. Đây chính là mục đích của cuộc sống con người, nhưng vì tội lỗi mà họ đã lạc xa niềm hi vọng này. Nay nhờ Đức Giêsu, đấng trung gian, và nhờ ân sủng của sự chết và sống lại của Người, con người có thể đạt tới niềm hi vọng vĩnh cửu trong vinh quang của Thiên Chúa. Chính niềm hi vọng này giúp tín hữu chịu đựng các gian nan thử thách. Niềm hi vọng vào vinh
quang của Thiên Chúa không phải là ảo huyền, hay làm cho người ta thất vọng, ngược lại là một niềm hi vọng vững chắc vì được đặt nền tảng trên tình yêu Thiên Chúa dành cho loài người, tình yêu mà Thiên Chúa đổ tràn đầy trong tâm hồn con người nhờ Chúa Thánh Thần mà Người đã ban. Thánh Phaolô lần đầu tiên nhắc đến Chúa Thánh Thần và vai trò của Người. Vai trò của Chúa Thánh Thần được nói đến ở đây chính là phương thế mà Thiên Chúa tuôn đổ tình yêu của Người cho loài người.
Như thế thánh Phaolô trong đoạn thư gửi gíao đoàn Roma đã nhắc đến Ba Ngôi Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc loài người. Thiên Chúa Cha yêu thương loài người sa ngã vì tội lỗi và phải chịu đựng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, đã sai chính
Ngôi Hai Con Một Người đến để cứu độ họ. Đức Giêsu chính là con Thiên Chúa trở thành Đấng trung
gian giao hòa con người với Thiên Chúa bằng chính sự chết và sống lại của Người. Công trình cứu độ loài người còn được sự cộng tác của Chúa Thánh Thần, đấng làm chứng và thánh hóa tâm hồn con người.
3. Bài Tin Mừng (Ga 16,12-15)
Trước khi rời bỏ các môn đệ, Đức Giêsu đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho họ. Chúa Thánh Thần chính là Đấng bào chữa, Đấng an ủi, và trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Người được gọi là Thần Chân lý. Là Thần Chân lý vì công việc của Người là hướng dẫn các môn đệ của Đức Giêsu tới chân lý vẹn toàn. Khi Đức Giêsu còn ở giữa họ, Người dạy dỗ họ nhiều điều, nhưng họ chưa thể thấu hiểu. Khi Chúa Thánh Thần đến, Người sẽ hướng dẫn họ mỗi ngày đi vào chiều sâu của chân lý, để họ có thể hiểu những điều mà trước đây họ chưa thể cảm nhận được. Sự hiểu biết này sẽ không dừng lại ở sự thông hiểu của trí tuệ nhưng còn dẫn đến một cuộc sống tương xứng với những giáo huấn của Đức Giêsu.
Chúa Thánh
Thần không tự nói điều gì nhưng chỉ những gì Người nghe, những điều mà Chúa Con đã dạy các môn đệ, hay là những điều mà Chúa Cha đã mạc khải. Điều này nhấn mạnh sự liên kết hòa hợp giữa Chúa Thánh Thần với Chúa Cha và Chúa Con. Người tham gia vào việc thông truyền mạc khải nhờ sự liên hệ của Người với Đức Giêsu, như Đức Giêsu đã thông truyền mạc khải nhờ bởi sự liên hệ với Chúa Cha. Chúa Thánh Thần không dạy về chính mình, nhưng là về Chúa Con, Người tôn vinh Chúa Con và chứng tỏ rằng Người đến để tiếp tuc công việc của Chúa Con, Người là Đấng được Chúa Con sai đến để dạy dỗ các môn đệ. Soi sáng hướng dẫn các môn đệ hiểu rõ về giáo huấn của Đức Giêsu, làm cho họ hiểu hơn biết hơn về con người và sứ vụ của Đức Giêsu, chính là làm cho Đức Giêsu được tôn vinh.
Chúa Thánh
Thần, như Đức Giêsu, cũng là sứ giả của Chúa Cha. Người không chỉ giải thích và hướng dẫn các môn đệ về giáo huấn của Đức Giêsu, nhưng còn giới thiệu Chúa Cha cho mọi người, vì chính khi nhận biết Chúa Con cũng là nhận biết Chúa Cha.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. Ý thức hơn khi làm dấu Thánh Giá: tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
2. Chúc tụng Thiên Chúa Cha vì tình yêu Người dành cho nhân loại. Tin tưởng rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nên Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Vì thế, dầu cho khó khăn nguy hiểm, thử thách đau khổ, chúng ta luôn tin tưởng tín thác vào Thiên Chúa, Cha chúng ta.
3. Tin tưởng vào Đức Giêsu tử nạn và phục sinh, Đấng trung gian giao hòa ta với Chúa Cha. Người đã hi sinh vì tội lỗi chúng ta. Ghi nhớ điều này để cố gắng hoán cải thay đổi cuộc sống, tránh xa con đường tội lỗi làm chúng ta xa cách Thiên Chúa.
4. Để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta trong cuộc sống. Biết chọn lựa theo sự hướng dẫn của lương tâm chân chính với niềm tin Chúa Thánh Thần đang dẫn dắt chúng ta.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Qua Đức Giêsu Kitô, tất cả chúng ta được mời gọi thông dự vào sự sống và vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta cùng thành tâm cảm tạ Chúa và tha thiết dâng lời cầu xin.
1. Hội Thánh có sứ mạng giới thiệu tình thương cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi cho mọi người. Xin cho các thành phần trong Hội thánh luôn hiệp nhất yêu thương, và phản ánh trung thực tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng
2. Thiên Chúa
Cha là Đấng giàu lòng thương xót. Chúng ta cùng cầu xin cho những ai đang khát khao tìm kiếm chân lý được ơn nhận biết Chúa là Thiên Chúa thật, và luôn biết sống chia sẻ trao ban trọn vẹn cho nhau theo gương yêu thương của Thiên Chúa.
3. Đức Kitô là Ðấng cứu độ duy nhất của trần gian. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các Kitô hữu luôn xác tín và kiên trì bước theo Chúa Kitô, trung
thành thực thi mọi giáo huấn của Chúa, cũng như can đảm làm chứng cho Người trong môi trường sống hằng ngày.
4. Chúa Thánh
Thần là Ðấng thánh hóa nhân loại. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn ngoan
ngoãn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, nỗ lực nên thánh mỗi ngày qua việc chu toàn mọi bổn phận mà Chúa trao phó.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã giao hòa thế gian với Chúa trong Đức Kitô và ban Thánh Thần thánh hóa nhân loại; xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và giúp chúng con luôn ý thức sống mầu nhiệm hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi, hầu xứng đáng với danh nghĩa là con cái Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Chủ đề :
Vai trò Ba Ngôi Thiên Chúa
trong đời sống tín hữu
trong đời sống tín hữu
"Chúa Thánh Thần sẽ dẫn chúng con đến sự thật
toàn vẹn" (Ga 1613)
Sợi
chỉ đỏ :
- Bài đọc I (Cn 8,22-31) : Sự Khôn Ngoan của
Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ.
- Đáp ca (Tv 8) : Thiên Chúa đã đặt con người
cai trị những công trình của Ngài.
- Tin Mừng (Ga 16,12-15) : Thánh Thần dạy chúng
ta tất cả sự thật.
- Bài đọc II (Rm 5,1-5) : Nhờ Chúa Giêsu Kitô
và trong Chúa Thánh Thần, chúng ta được thông phần sự sống của Thiên Chúa.
I.
Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một trong ba mầu nhiệm
căn bản của đức tin chúng ta, căn bản vì có ảnh hưởng quan trọng trên cách sống
đức tin của chúng ta. Nhưng hình như từ trước tới nay chúng ta chưa ý thức bao
nhiều về tầm quan trọng ấy.
Trong Thánh lễ này, chúng ta xin cho Lời Chúa soi
sáng cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng ấy, và xin ơn Chúa giúp chúng ta sống
đức tin của mình một cách tích cực hơn.
II.
Gợi ý sám hối
- Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhưng chúng ta chưa
mấy tin tưởng phó thác vào tình yêu Chúa.
- Chúa Con đã chịu chết để Thiên Chúa tha thứ tội lỗi
chúng ta. Nhưng chúng ta không biết tha thứ cho nhau.
- Chúa Thánh Thần muốn mọi người sống yêu thương
nhau như anh em cùng một Cha trên trời. Nhưng chúng ta thường nhìn người chung
quanh như những kẻ xa lạ, thậm chí là những kẻ thù.
III.
Lời Chúa
1. Bài đọc I (Cn 8,22-31)
Trích đoạn này trình bày Ngôi Hai như là Sự Khôn
Ngoan của Thiên Chúa.
- Ngài hiện hữu từ thuở đời đời.
- Ngài đóng vai trò chủ chốt trong việc tạo dựng.
- Ngài vừa ở bên cạnh Thiên Chúa, vừa gần gũi với
loài người.
2. Đáp ca (Tv 8)
Đây là một bài ca tụng công trình tạo dựng của Thiên
Chúa, đặc biệt con người là thụ tạo cao quý nhất, chỉ thua kém thiên thần một
chút.
3. Tin Mừng (Ga 16,12-15)
Đoạn Tin Mừng này nói đến sự liên hệ giữa Ba Ngôi,
nhưng đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Chúa Thánh Thần :
- Tất cả những gì mà Chúa Con mặc
khải đều là do lãnh nhận từ Chúa Cha.
- Chúa Thánh Thần sẽ dạy các môn đệ
hiểu rõ tất cả những gì Chúa Con đã dạy, nhờ đó các môn đệ được dẫn đến sự thật
toàn vẹn.
4. Bài đọc II (Rm 5,1-5)
Đoạn thư Phaolô này cũng nói đến vai trò của Ba Ngôi
trong cuộc sống người tín hữu : NhờChúa Giêsu Kitô và
trong Chúa Thánh Thần, chúng ta được thông phần sự sống củaThiên
Chúa.
IV.
Gợi ý giảng
1. Sự thật toàn vẹn
Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn ta đến sự thật toàn vẹn.
Sự thật toàn vẹn là gì ? Đó chính là điều Chúa Giêsu ngụ ý trong câu đầu
bài Tin Mừng hôm nay "Thầy còn nhiều điều muốn nói với chúng con, nhưng
bây giờ chúng con không có sức chịu nổi". Trong khoảng thời
gian Chúa Giêsu sống cạnh các môn đệ, có nhiều điều Chúa Giêsu vừa mới nói hé một
chút thì các môn đệ đã không chịu nổi nên Chúa Giêsu thôi không nói nữa. Thí dụ
khi hai người con của bà Giêbêđê đến xin Chúa cho họ được ngồi hai bên tả hữu
Ngài, Chúa Giêsu hỏi lại"Nhưng chúng con có uống nổi chén đắng của
Thầy không ?" Hai ông tuy đáp liều là nổi nhưng sau đó không dám xin
nữa và Chúa Giêsu cũng không nói thêm gì nữa. Trong câu chuyện ấy, sự thật toàn
vẹn mà Chúa Giêsu chưa nói rõ chính là chén đắng. Một lần khác Chúa
Giêsu vừa mở miệng báo tin Ngài sẽ bị bắt bị hành hạ và bị giết chết, thì Phêrô
cũng không chịu nổi nên vội lên tiếng can ngăn. Trong chuyện này, sự thật toàn
vẹn mà Chúa Giêsu chưa thể nói rõ chính là mầu nhiệm đau khổ của Thập
giá. Trong đêm thứ năm trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu quỳ trước các
môn đệ và rửa chân cho họ, Phêrô lại một lần nữa không chịu nổi nên cự nự
"Không đời nào con để Thầy rửa chân cho con". Ở đây sự thật toàn vẹn
mà Chúa Giêsu cũng chưa tiện nói hết là sự hạ mình của Ngài và
của các môn đệ. Tóm lại sự thật toàn vẹn là các môn đệ phải chấp nhận số
phận của Thầy mình, phải tự khiêm tự hạ, phải chịu đau khổ chịu bắt bớ và có thể
chịu chết giống như Thầy. Nhưng trong tất cả những lần kể trên Chúa Giêsu
không nói hết ý nghĩ của mình được vì các môn đệ đã không chịu nổi. Về sau khi
Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời, Chúa Thánh Thần đã dẫn các môn đệ đến sự thật
toàn vẹn ấy, và khi đó, nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, các ông đã chịu nổi,
chẳng những chịu nổi mà còn vui lòng chịu : một lần kia vì đã rao giảng về
Chúa Giêsu, các tông đồ bị bắt giam trong tù hết một đêm, sau đó bị điệu ra Thượng
Hội đồng, bị đánh đòn một trận rồi mới được thả ra. Sách Công vụ viết khi ấy
các ông lòng đầy hân hoan vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa
Giêsu. Thánh Phaolô cũng thế, sau biết bao gian truân nguy hiểm vì loan báo Tin
Mừng, ngài nói "Tôi sung sướng vì được thông phần cuộc khổ nạn của Chúa
Giêsu Kitô trong thân xác tôi". Ngài còn nói "Vinh dự của chúng ta là
thập giá Đức Kitô", cái thập giá mà những người trí thức hy lạp
coi là điên rồ và những người do thái sùng đạo coi là cớ vấp phạm.
2. "Khi tôi ngắm cõi trời"
Một đêm nào đó trời thanh mây tạnh, chúng ta hãy ra
khỏi nhà, ngước mắt nhìn lên bầu trời. Chúng ta thấy gì ? Chúng ta sẽ thấy
các tinh tú hằng hà sa số, có cái sáng nhiều có cái sáng ít, có cái nằm riêng rẻ
có cái ở trong một chùm sao.
Trong hằng hà sa số các tinh tú ấy, trái đất chúng
ta chẳng đáng là gì cả. Một hành tinh nhỏ bé, rất nhỏ bé.
Thế mà Thiên Chúa lại quan tâm đặc biệt đến hành
tinh nhỏ bé này. Trong vô vàn tinh tú, chỉ có hành tinh nhỏ bé này được hai
vinh dự vô cùng to lớn :
- Vinh dự to lớn thứ nhất là con người trên hành
tinh nhỏ bé này được Thiên Chúa đặt làm chủ tể mọi loài trong vũ trụ rộng lớn
bao la.
- Vinh dự to lớn thứ hai là không một hành tinh nào
khác ngoài hành tinh này được Ngôi Hai Thiên Chúa đến cư ngụ. Chẳng những thế,
Ngài còn chịu chết ở cái hành tinh nhỏ bé này nữa.
Tác giả Thánh Vịnh 8 đã ngỡ ngàng không hiểu nỗi
tình yêu bao la của Thiên Chúa và hạnh phúc vô cùng của con người : "Khi
tôi nhìn ngắm cõi trời, công cuộc tay Chúa tạo ra, mặt trăng và muôn tinh tú mà
Chúa tôi gầy dựng, thì nhân loại là chi mà Chúa tôi nhớ đến, con người là gì mà
Chúa để ý chăm nom. Chúa dựng nên con người chỉ kém thiên thần một chút. Chúa trang
sức con người bằng danh dự với vinh quang. Chúa đặt con người cai trị các công
trình tay Chúa tác thành. Chúa đặt muôn vật dưới chân con người."
3. Một cuộc sống đáng mơ ước
Chúng ta không sống cô độc một mình, nhưng cùng sống
với những người khác : gia đình, vợ chồng, bạn bè, đồng nghiệp, cộng đoàn
giáo xứ v.v.
Trong những cộng đoàn sống chung ấy, chúng ta thường
mơ ước :
- Phải chi mọi người đều "trong suốt"
với nhau, nghĩa là ai nấy cũng hiểu nhau vì ai nấy đều chân thành tỏ cho nhau hết
mọi ý nghĩ của mình.
- Phải chi mọi người đều hết lòng yêu
thương nhau, nghĩa là chỉ có yêu thương chứ không hề có một chút gì là ganh
ghét, đố kỵ, e dè nhau…
- Phải chi mọi người đều hết sức hợp
tác giúp nhau trong mọi công việc.
- Phải chi mọi người đều chia xẻ tất
cả những gì của mình để tất cả đều là của chung.
Đó chính là cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Chúng ta mơ ước cuộc sống đó. Mơ ước này không phải
chỉ là ước mơ suông không bao giờ đạt được. Chúa Giêsu nói Thiên Chúa sẵn sàng
thông chia cho chúng ta cuộc sống ấy nếu chúng ta biết thông hiệp với Ba Ngôi
Thiên Chúa.
4. Vài suy nghĩ về Thiên Chúa là Cha
a/ Thế nào là một người cha ?
- Cha là kẻ yêu thương con mình bằng một tình yêu vô
cùng quảng đại
. Ngay cả trước khi đứa con sinh
ra : vừa biết nó thụ thai thì đã yêu thương và nôn nóng chờ ngày nó sinh
ra.
. Ngay cả khi chưa biết sau này nó sẽ
ra sao : chưa biết sau này nó đẹp hay xấu, thông minh hay ngu đần, khoẻ mạnh
hay yếu ớt, tốt hay xấu, hiếu thảo hay ngỗ nghịch… Chỉ vì nó là con cho nên mình
yêu thương nó.
- Cha là kẻ muốn cho con mình tất cả những gì mình
có :
. Người cha nào cũng muốn đứa con khoẻ
như mình, thông minh như mình, giỏi như mình, khéo như mình, có của cải địa vị
như mình, hạnh phúc như mình… Thậm chí còn hơn mình… Và làm tất cả để đứa con
được như thế.
- Cha là kẻ không bao giờ quên con và bỏ con :
. Chỉ có con quên cha và bỏ cha, chứ
không hề có cha quên con và bỏ con. Dù đứa con ấy xấu xa và ngỗ nghịch đến đâu
đi nữa, Cha vẫn yêu thương nó.
- Hạnh phúc và đau khổ của người Cha là do thấy con
hạnh phúc hay đau khổ.
. Cha sung sướng khi thấy con vui, con khoẻ, con
thành đạt… Cha đau buồn khi thấy con bất hạnh, khổ sở…
- Cha là kẻ lệ thuộc con :
. Yêu thương ai là lệ thuộc người ấy, là để cho người
ấy có quyền trên mình, mình ở thế yếu đối với người ấy.
. Trẻ con dù rất yếu ớt nhưng lại có quyền lực rất lớn
trên cha mẹ. Do đó chúng nhõng nhẽo, đòi cái này cái nọ, giận không thèm ăn uống
khi không được cho cái mà chúng đòi… Những yêu sách ấy của chúng đã làm cho cha
mẹ phải "điêu đứng" khổ sở.
b/ Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của
chúng ta
Tất cả những gì ta đã nói về người cha tự nhiên đều
đúng với Thiên Chúa, và đúng một cách tuyệt đối, trọn vẹn :
- Cha là kẻ yêu thương con mình bằng một tình yêu vô
cùng quảng đại : "Từ muôn đời Chúa đã yêu con"
- Cha là kẻ muốn cho con mình tất cả những gì mình
có :
. Sách Sáng thế nói Thiên Chúa dựng nên con người
theo hình ảnh Ngài.
. Tin Mừng Ga ghi lại lời Chúa Giêsu
"Mọi sự của Cha là của Con" (Ga 17,10)
- Cha là kẻ không bao giờ quên con và bỏ con :
. Điều này hoàn toàn và tuyệt đối đúng với Thiên
Chúa : "Con người có thể sống không Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa
không thể thôi làm Cha được" (Louis Evely).
. Dụ ngôn người cha nhân hậu và đứa con
hoang đàng minh họa điều này rất rõ.
- Hạnh phúc và đau khổ của người Cha là do thấy con
hạnh phúc hay đau khổ.
. "Thiên Chúa là người táo bạo nhất trong thiên
hạ, bởi vì Ngài đã dám đặt tất cả hạnh phúc của mình trong hành vi yêu thương.
Ngài đã để hạnh phúc mình tuỳ thuộc vào một kẻ khác" (Louis Evely)
- Cha là kẻ lệ thuộc con :
. "Thiên Chúa là Cha, Cha cách trọn vẹn, hoàn
toàn. Chúng ta thì khác, chúng ta chỉ là cha một ít thôi. Đồng ý rằng ta là cha
của con cái chúng ta, nhưng chúng ta cũng còn lệ thuộc đủ mọi thứ khác như là
công việc, nghề nghiệp, cuộc sống hôn nhân, những sở thích riêng tư, những
thành công, những việc giải trí của mình, và chúng ta lại cũng còn lệ thuộc về
chính mình nữa. Chúng ta không là cha cho đủ… Chỉ một mình Thiên Chúa mới là
Cha mà thôi. Đối với Con của Ngài, Ngài đã hiến mình trọn vẹn. Nơi Ngài không
còn có một phần nhỏ nhoi nào là quay trở về mình, là tìm "cái tôi" nữa"
(Louis Evely)
* Tóm lại Thiên Chúa là Cha ở chỗ "Thiên Chúa
chỉ biết yêu thương và trao ban. Ngoài ra Ngài không là cái gì khác nữa"
(Louis Evely)
5. Thiên Chúa trổi vượt trên cha mẹ trần thế
Trong phòng xử án Toà án nhân dân Thành phố Hồ chí
Minh sáng ngày 16-8-1996, ngay ở hàng ghế đầu, suốt những giờ xét xử của Hội đồng
xử án, một người đàn bà với đôi mắt ướt đẫm nước mắt, cứ nhìn đăm đăm vào chiếc
lưng của bị cáo đang đứng trước vành móng ngựa. Đó là chiếc lưng của đứa con đầu
lòng của bà trong chiếc áo tù, và có in ký hiệu "AB". Cho đến khi
công tố viên đọc xong lời buộc tội và đề nghị mức án "hai mươi năm tù vì tội
giết người" bà bỗng nấc lên một tiếng rồi ngất xỉu. Bà ngất xỉu có lẽ vì
bà chịu đựng không nổi mức án dành cho con bà : 20 năm tù vì cái tội giết
người ; mà người nó định giết không ai khác hơn là chính bà. Bà là mẹ của
bị cáo và cũng chính là người bị hại !
Hơn một năm trước đây, vào ngày 16 tháng 7, 1995,
chính nó đã cầm một thanh gỗ tròn dài nửa mét đánh vào đầu bà, rồi cầm một con
dao đâm vào ngực bà. Người đầm đìa máu bà ngã xuống ngất xỉu - vì con. Hôm nay
bà lại ngã xuống, ngất xỉu... cũng vì con.
Con bà - Lương Quốc Tuấn, sinh năm 1976, ở quận 11,
làm thợ cửa sắt. Từ khi lên 5 tuổi, cha của Tuấn đã bỏ mẹ con Tuấn đi sống với
người khác. Mẹ của Tuấn lặn lội nuôi hai đứa con thơ lớn lên. Thế mà... Sáng
hôm đó, chúa nhật, Tuấn dậy trễ. Tuấn hỏi xin mẹ mấy ngàn ăn hủ tiếu. Mẹ Tuấn
không cho, bảo lấy mì ăn liền nấu ăn. Tuấn khai trước toà : "Mẹ nói từ
ngày quen con nhỏ đó thân ốm nhom ốm nhách, không tiền không bạc... mẹ không
cho tiền còn nói nọ nói kia..." Thế là Tuấn đã làm cái điều mà có lẽ nghe
đến, ai cũng phải thấy rợn cả người : đánh, giết mẹ ! Với 10 vết
thương, chỉ có hai vết ở tay, còn lại toàn ở đầu và ngực nhưng khi từ bệnh viện
sau sáu ngày điều trị trở về, bà lại ráng sức để xách đồ ăn vào thăm con đang bị
giam trong tù ! Sợ con bị đưa ra toà, bà đã viết giấy bãi nại xin xóa tội
cho con. Và trước toà, bà cứ khóc nói : "Từ nhỏ đến khi lớn nó ngoan
lắm. Nó không uống rượu, không hút thuốc, xin toà giảm tội !" Rồi bà
nức nở tỏ ra ray rứt, ân hận, trách mình : "Tôi không nuôi nó ăn học
đến nơi đến chốn. Nó phải đi làm sớm, lúc học xong lớp 8." Hoàn toàn bà
không hề nhắc gì đến cái tội tày trời mà đứa con của mình đã mắc phải.
Bên trong phòng xử án, khi bà tỉnh lại, phóng viên
Hoàng Chức Nguyên đến xin hỏi chuyện bà, bà lại khóc nói : "Tôi không
nói được gì đâu, đau đớn quá." Khi có các phóng viên đến chụp ảnh con bà
đang bị một tay còng vào ghế, bà van nài : "Xin đừng chụp ảnh con
tôi..." Khi những người công an còng hai tay con bà giải đi, bà đã lao người
với theo, bà ngã trong vòng tay của người quen. Lúc ấy phóng viên lại thấy rất
rõ một vết thẹo trên trán bà. Vết thẹo do chính tay con bà cầm một thanh gỗ đập
vào để lại... (theo Tuổi Trẻ 17-8-1996, trang 2).
Chắc không ai lại không bị đánh động do câu chuyện vừa
kể. Một đàng là khối tình quá lớn nơi người mẹ, đàng khác là điều gì đó hơn là
sự vô ơn bạc nghĩa về phía người con, có khi những con vật không xử sự với mẹ
chúng cách tàn nhẫn đến như vậy ! Nhưng như vậy lại càng làm nổi bật khối
tình trước sau như một, vô điều kiện và cho không nơi người mẹ. Thử hỏi do đâu
mà người mẹ có được thứ tình yêu cao cả đến như thế ? Ta nên để ý về lời cắt
nghĩa của sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo về vấn đề này liên quan tới Thiên
Chúa Ba Ngôi như sau :
"Khi gọi Thiên Chúa là "Cha", ngôn ngữ
đức tin chủ yếu muốn nêu lên hai khía cạnh : Thiên Chúa là nguồn gốc đầu
tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu
thương chăm sóc mọi con cái. Nơi Thiên Chúa, tình cha con trìu mến này cũng có
thể diễn tả qua tình mẫu tử. Hình ảnh này làm rõ nét hơn tính nội tại của Thiên
Chúa, mối thâm tình giữa Thiên Chúa và thụ tạo. Như vậy, ngôn ngữ đức tin được
hình thành từ kinh nghiệm về cha mẹ trần thế, những người dưới một khía cạnh
nào đó, là đại diện đầu tiên của Thiên Chúa nơi con người. Nhưng kinh nghiệm đó
cũng cho thấy là cha mẹ trần thế có thể làm sai lệch và bóp méo hình ảnh làm
cha làm mẹ. Cho nên, cần phải nhắc lại là Thiên Chúa vượt trên sự phân biệt
phái tính của người phàm. Người không là nam mà cũng không là nữ. Người là
Thiên Chúa. Vì Người là nguồn gốc và là chuẩn mực cho chức năng làm cha làm mẹ,
nên Người luôn trổi vượt trên cha mẹ trần thế : không ai là cha một cách
trọn hảo như Thiên Chúa (GLGHCG,239).
Bạn
có tin vui nào để nói với gia đình này ?
Nhưng câu chuyện lại cho thấy một hình ảnh của một
gia đình bi đát. Chồng đã bỏ vợ và hai con nhỏ, nay đứa con đầu lòng lớn lên
dám đâm chém người mẹ đã sinh ra mình, để rồi lãnh 20 năm tù ! Nếu Thiên
Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời
là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái, Ngài có kế hoạch nào hữu hiệu
để cứu vãn gia đình này chăng ? Nếu bạn là người từng tìm hiểu và chia sẻ
đời sống Tin Mừng của Đức Kitô, Đấng cứu độ trần gian, chính bạn có tin vui nào
để nói với gia đình này, với người mẹ đáng kính, người con ngồi tù, hoặc với
người bố đi hoang cần được kêu gọi trở về ? Ở đây không bàn về công tác xã
hội nhưng chủ yếu bàn về niềm tin, khởi đi từ niềm tin đối với Thiên Chúa Ba
Ngôi.
Nhờ lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết
Thiên Chúa cách chắc chắn, dựa vào những công trình của Người. Hãy coi người mẹ
trong câu chuyện nói trên là công trình kỳ diệu biết bao về yêu thương. Nhưng
còn có một loại nhận biết khác, mà con người không thể đạt tới bằng sức lực của
chính mình, đó là loại nhận biết nhờ mạc khải của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là CHA
theo một nghĩa chưa từng có : Người không chỉ là cha vì là Tạo Hoá, từ
muôn thuở Người là Cha trong tương quan với Con duy nhất, Ngôi Con từ muôn thuở
cũng chỉ là Con trong tương quan với Ngôi Cha : "Không ai biết Người
Con trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha trừ Người Con và kẻ mà Người
Con muốn mạc khải cho." (Mt 11,27) - GLGHCG, 240.
Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu báo tin sẽ cử một Đấng
Bào Chữa khác, đó là Chúa Thánh Thần. Người tác động từ thuở khai thiên lập địa
(x. St 1,2). Người đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy (Kinh Tin Kính Nixêa
Contantinôpôli). Nay Người sẽ ở lại với và trong các môn đệ (x.Ga 14,17) để dạy
bảo (Ga 14,26) và dẫn đưa họ đến sự thật trọn vẹn" (Ga 16,13). Chúa Thánh
Thần được mạc khải như một Ngôi Vị Thiên Chúa, khác với Đức Giêsu và với Chúa
Cha (GLGHCG, 243).
Mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn
trong câu chuyện, đều cần được vén màn cho thấy Thiên Chúa là hạnh phúc trường
cửu, sự sống bất diệt, ánh sáng không tàn lụi. Thiên Chúa là tình thương tràn
lan giữa Ba Ngôi vị tựa như sức nóng và ánh sáng tràn lan từ mặt trời. Thiên
Chúa tự ý muốn thông chia vinh quang sự sống hạnh phúc của Người. Đó là "kế
hoạch yêu thương của Thiên Chúa từ thuở đời đời" (x.Ep 1,9). Người đã cưu
mang kế hoạch đó từ trước khi tạo dựng vũ trụ nơi Con yêu dấu của Người là Đức
Giêsu Kitô. "Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử trong Con của Người"
(Ep 1,4-5). Ta được mời gọi "trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Người"
(Rm 8,29) nhờ "Thần Trí làm nên nghĩa tử" (Rm 8,15), kế hoạch này
đúng là "ân sủng được trao ban từ muôn thuở" (2Tm 1, 9-10) xuất phát
trực tiếp từ tình thương Ba Ngôi. Tình thương này được trải ra trong cuộc sáng
tạo, trong toàn bộ lịch sử cứu độ sau khi nguyên tổ sa ngã, trong sứ mạng của
Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Thánh Thần mà sứ mạng Hội Thánh nối tiếp (Sắc lệnh
Truyền Giáo AG 2-90).
Chính theo kế hoạch yêu thương của Ba Ngôi mà mọi
người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn, kể cả chính phạm nhân, người bố
của phạm nhân và người mẹ đáng mến của anh, đều được mời gọi đạt tới hạnh phúc
bất diệt chính họ hằng ao ước. (Lm Augustine, sj. Vietcatholic)
6. Ba Ngôi Thiên Chúa, một cộng đoàn hiệp nhất
yêu thương
Người ta kể rằng : Thánh Augustin, một hôm đi
bách bộ dọc bờ biển Địa Trung Hải, vừa đi vừa suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba
Ngôi. Bỗng nhiên Thánh nhân gặp một em nhỏ lấy vỏ sò múc nước đổ vào một cái lỗ.
Đang còn ngạc nhiên về công việc luống công vô ích này, em bé đã trả lời :
việc em múc hết nước biển đổ vào lỗ nhỏ, còn dễ hơn điều mà Thánh nhân suy nghĩ
về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Rồi em bé biến đi.
Nhớ lại lớp giáo lý xa xưa, ở đó, Chúa Ba Ngôi được
ví như một hình tam giác đều, có ba góc bằng nhau. Hay chúng ta cũng được nghe
so sánh Chúa Ba Ngôi với nước ở ba thể : khí, lỏng và rắn… Tuy nhiên, tất
cả những lối so sánh ấy dường như quá khô khan, vì không phản ánh một cách
trung thực và sống động hình ảnh thật sự của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Cách đây vài năm, vào ngày cuối của khoá học về Chúa
Ba Ngôi, cha giáo sư hỏi chúng tôi :
- Bây giờ các anh chị đã hiểu mầu nhiệm một Chúa Ba
Ngôi chưa ?
Gần như cả lớp đồng thanh :
- Thưa cha hiểu.
Cha bật cười :
- Vậy thì các anh chị giỏi hơn tôi rồi !
Dĩ nhiên, con người giới hạn của chúng ta không thể
hiểu thấu mầu nhiệm quá siêu vượt này, nhưng để sống, lại là điều hoàn toàn có
thể. Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là hình ảnh rất thân quen, rất gần gũi nếu nhìn Ba
Ngôi dưới khía cạnh tình yêu. Vâng, Ba Ngôi Thiên Chúa chính là một cộng đoàn
hiệp nhất yêu thương. Tình yêu ấy đã không giữ lại cho mình, nhưng đổ tràn vào
trần gian. Một tình yêu tràn ngập vũ trụ khi Thiên Chúa Cha dựng nên con người
theo hình ảnh của Ngài ; là tình yêu cứu độ, thứ tha qua cái chết nhục nhằn
của Chúa Con chí thánh ; là tình yêu thánh hóa, đổi mới trong Thánh Thần.
Thánh Gioan đã định nghĩa : Thiên Chúa là tình yêu. Một tình yêu chan hòa,
chia sẻ giữa Ba Ngôi : Cha trao cho Con tất cả, Con dâng tất cả cho Cha,
tình yêu khắng khít giữa Cha-Con là Thánh Thần. Tình yêu chân thực là tình yêu
hiến trao, không phải chỉ là trao quà tặng hay cái gì đó ở bên ngoài mình,
nhưng là trao đi điều quý nhất : "Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi
tặng ban cả Con Một…"
Thiết nghĩ không có hình ảnh nào diễn tả đẹp hơn mầu
nhiệm Ba Ngôi cho bằng hình ảnh một gia đình : vợ chồng yêu thương nhau và
con cái là kết tinh của tình yêu." Mình với ta tuy hai mà một… Ta thương
nhau quá nên hai hóa ra thành một". Dù là hai, bốn, mười hoặc nhiều hơn đi
nữa, nhưng gia đình, cộng đoàn chúng ta sẽ thực sự phản ánh sự hiện diện của
Thiên Chúa Ba Ngôi, nếu chúng ta chỉ có một trái tim để yêu thương, một niềm
vui để chia sẻ, một nỗi buồn để cảm thông nâng đỡ, một khát vọng nên thánh… Tiếc
rằng ngày nay, nhiều gia đình, cộng đoàn đã không còn là tổ ấm, nhưng biến thành
nhà trọ : khách đến rồi khách lại đi, chẳng cần biết những người thân yêu
của mình đang nghĩ gì, làm gì, cần gì và sống như thế nào ! Đời sống gia
đình nặng nề, khó thở và tẻ nhạt, bởi vì nơi ấy đã không còn tình yêu nữa.
Chợt nhớ lại câu chuyện khá ngộ nghĩnh xảy ra tại một
cộng đoàn các sư huynh ở Việt Nam. Cộng đoàn gồm ba vị, người Việt mình thường
quen gọi là các "phe" (frère). Lần kia, một nhân viên của sở bưu điện
đem thư đến, vừa giao thư vừa lẩm bẩm : "Nhà có ba người thì ba
phe, sống chó gì được !" (chỉ là vì trên bì thư, người gởi viết :
Kính gởi phe M., phe H., phe B.). Thật là một sự hiểu lầm tai hại !
Chúng ta sẽ mãi còn xa lạ với mầu nhiệm Ba Ngôi, nếu
chúng ta còn xa lạ với tình yêu được bắt đầu ngay trong gia đình, cộng đoàn.
Gia đình, cộng đoàn chúng ta hãy trở thành một bản nhạc du dương hòa điệu,
trong đó mỗi người là một nốt nhạc đã được Thiên Chúa đặt để. Xin đừng tự ý
thăng giáng, cũng đừng thay đổi vị trí, vai trò của mình. Hãy sống đúng bổn phận
Chúa trao, và như thế, mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn và quy hướng về tình
yêu, tình yêu của mầu nhiệm Ba Ngôi mà mỗi ngày chúng ta lặp lại nhiều lần khi
làm dấu thánh giá : Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.(Sr
Têrêsa, trích từ Vietcatholic)
7. Nhìn thấy Chúa
Một vị vua kia đến cuối cuộc đời cảm thấy buồn chán.
Ông nói : "Suốt đời ta, ta đã cảm thụ được tất cả những gì mà một con
người có thể cảm thụ được bằng các giác quan. Nhưng vẫn còn một điều ta chưa được
thấy, đó là ta chưa thấy Chúa. Bây giờ nếu ta chỉ được nhìn thấy Chúa một
thoáng thôi thì ta cũng sẽ mãn nguyện mà chết". Nhà vua tham khảo ý kiến
những bậc khôn ngoan, hứa cho họ đủ thứ phần thưởng nếu họ giúp ông thực hiện
điều mơ ước ấy. Nhưng chẳng ai giúp được.
Thế rồi có một chàng chăn cừu nghe chuyện trên và tìm
đến gặp nhà vua. Chàng nói : "Có lẽ hạ thần có thể giúp Bệ Hạ được".
Nhà vua rất sung sướng theo người chăn cừu leo lên nhiều ngọn đồi. Khi đến đỉnh
một ngọn đồi nọ, người chăn cừu đưa tay chỉ mặt trời và bảo : "Hãy
xem kìa". Nhà vua ngước mắt nhìn lên nhưng liền nhắm lại ngay vì chói quá.
Ông bảo : "Nhà ngươi muốn cho ta mù sao !" Người chăn cừu
đáp : "Tâu Bệ Hạ, đây chỉ mới là một phần nhỏ của vinh quang Thiên
Chúa mà Bệ Hạ còn nhìn không nổi. Thế thì làm sao Bệ Hạ có thể nhìn được Thiên
Chúa bằng cặp mắt bất toàn của Bệ Hạ ? Bệ Hạ phải tìm cách nhìn Ngài bằng
cặp mắt khác".
Nhà vua rất thích ý tưởng ấy, nói : "Ta
cám ơn ngươi đã mở cắp mắt trí khôn của ta. Bây giờ hãy trả lời cho câu hỏi
khác của Ta : Thiên Chúa sống ở đâu ?" Người chăn cừu lại đưa tay
chỉ lên trời : "Bệ Hạ hãy nhìn những con chim đang bay kia. Chúng sống
trong bầu không khí bao quanh. Chúng ta cũng thế, chúng ta sống trong sự bảo bọc
của Thiên Chúa. Xin Bệ Hạ đừng tìm kiếm nữa, mà hãy mở rộng mắt ra để nhìn, mở
tai ra để nghe. Thế nào Bệ Hạ cũng thấy được Ngài. Thiên đàng ở ngay dưới chân
chúng ta cũng như ở ngay trên đầu chúng ta".
Nhà vua dừng bước, cố gắng nhìn, cố gắng lắng nghe.
Thế là một cảm giác bình an lộ rõ trên khuôn mặt buồn thảm của ông. Người chăn
cừu nói tiếp : "Tâu Bệ Hạ, còn một điều nữa". Rồi chàng dẫn nhà
vua đến một cái giếng. Nhà vua nhìn xuống mặt nước bằng phẳng, hỏi :
"Ai sống dưới đó thế ?" Người chăn cừu đáp : "Thiên
Chúa". "Ta có thể nhìn thấy Ngài không ?" "Được chứ, Bệ
Hạ chỉ cần nhìn". Nhà vua chăm chú nhìn xuống giếng, nhưng chỉ thấy gương
mặt của mình phản chiếu trên mặt nước. Ông nói : "Ta chỉ thấy mặt Ta
thôi". Người chăn cừu giải thích : "Bây giờ thì Bệ Hạ đã biết
Thiên Chúa sống ở đâu rồi. Ngài sống trong Bệ Hạ đó".
Nhà vua nhận ra rằng người chăn cừu khôn ngoan và
giàu có hơn ông. Ông cám ơn chàng và trở về hoàng cung. Chẳng ai biết ông có
nhìn thấy Thiên Chúa không, nhưng ai cũng nói rằng có một điều gì đó đã biến đổi
trái tim ông, bởi vì từ đó trở đi ông đối xử rất nhân hậu với mọi người, kể cả
người đầy tớ hèn hạ nhất của ông.
Thiên Chúa ở khắp chung quanh chúng ta. Nhưng chừng
nào chúng ta chưa khám phá Ngài ở ngay trong lòng chúng ta thì Ngài như vẫn còn
ở xa, vẫn như một người lạ thờ ơ vô tình. Còn khi chúng ta cảm nhận Ngài ở
trong chúng ta thì không bao giờ chúng ta còn cảm thấy cô đơn nữa, và khi đó
chúng ta sẽ nhìn thấy thiên nhiên là một công trình của một Đấng Nghệ Sĩ thân
thiết của chúng ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi vừa ở trong chúng ta vừa siêu vượt
chúng ta. Đúng là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm tình yêu. (FM)
8. Những hình ảnh của Thiên Chúa
Người Châu Phi có một câu chuyện sau đây về Thiên
Chúa :
Một hôm Thiên Chúa đi thăm châu lục rộng lớn này và
Ngài thấy có một bộ lạc bị mất đức tin. Thế là Ngài hiện ra giữa một mảnh ruộng
đang có 4 người làm việc, mỗi người một góc. 4 người này thấy Chúa hiện ra giữa
mảnh ruộng. Họ chăm chú nhìn Ngài rồi phục mình thờ lạy.
Sau đó Thiên Chúa biến hình rồi xem sự việc sau dó
diễn tiến thế nào. 4 người kia chạy vào làng và nói rằng : đúng là có
Thiên Chúa vì họ đã thấy Ngài hiện ra. Từ này về sau chúng ta đừng sống vô thần
nữa mà phải lo thờ phượng Chúa. Mọi người nghe đều tin là Thiên Chúa đã hiện ra
thật. Nhưng một người hỏi : "Thế thì Thiên Chúa mặc áo màu
gì ?"
- Ngài mặc áo đỏ. Người thứ nhất trả lời.
- Không, Ngài mặc áo xanh. Người thứ hai cãi lại.
- Hai đứa bây sai cả. Ngài mặc áo màu lục. Người thứ
ba nói thế.
- Tất cả đều điên hết rồi. Người thứ tư la to. Ngài
mặc áo vàng.
Thế là mọi người cãi nhau chí choé, rồi ấu đả nhau.
Cuối cùng bộ lạc chia thành 4 phe.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy mọi người dân bộ
lạc ấy đều sai lầm. Thực ra mỗi người chỉ thấy một thoáng về Thiên Chúa. Lẽ ra
mỗi người phải biết rằng mình chỉ thấy được một phần thì họ cho rằng họ thấy
toàn vẹn. Nếu như họ biết lấy cái nhìn của người khác để bổ sung cho cái nhìn của
mình thì họ sẽ có một hình ảnh đầy đủ và phong phú hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa lớn hơn tất cả chúng ta. Chúng ta không
bao giờ hiểu biết trọn vẹn về Ngài. Để hiểu biết những sự dưới thế chúng ta còn
phải cố gắng rất nhiều, thế thì làm sao chúng ta nắm bắt được những sự trên trời.
Chỉ có ơn ban khôn ngoan mới giúp chúng ta hiểu được đường lối của Thiên Chúa.
Con người có thể biết những chân lý đức tin, nhưng không thể hiểu biết chính
Thiên Chúa.
Cần phải có một hình ảnh đúng đắn về Thiên Chúa, nếu
không thì mọi sự sẽ lạc hướng cả. Làm sao chúng ta có thể thờ phượng Ngài cho
phải đạo hoặc có một liên hệ đúng đắn với Ngài nếu chúng ta có một hình ảnh sai
lạc về Ngài ?
Muốn biết Thiên Chúa là thế nào, chúng ta hãy nhìn
vào Chúa Giêsu, vì, như Thánh Phaolô nói, "Ngài là hình ảnh Thiên Chúa vô
hình". Vậy, Chúa Giêsu ra sao ? Trong mọi hình ảnh Chúa Giêsu, hình ảnh
đẹp nhất là Mục Tử nhân lành. Chính Chúa Giêsu đã mô tả mình bằng hình ảnh này.
Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành, hiến mạng sống mình cho đàn chiên. Trong hình ảnh
Chúa Giêsu, chúng ta thấy được tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Còn Chúa Thánh Thần thì thế nào ? Chúa Thánh Thần
chính là tình thương giữa Chúa Cha với Chúa Con, và giữa các Đấng với chúng ta.
Mầu nhiệm Ba Ngôi không phải là vấn đề để tranh luận,
cũng không phải là vấn đề để học biết, mà là để cầu nguyện và để sống. Kitô hữu
sống trong thế giới của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới này
không phải là một thế giới ở đâu xa xôi, mà chính là thế giới mà ta sống hằng
ngày. Như câu chuyện của Châu Phi vừa kể phía trên, thế giới ấy là thế giới mà
Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta. (FM)
V.
Lời nguyện cho mọi người
Chủ
tế : Anh chị em thân mến, chúng ta cùng dâng lên Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh thần lời khẩn cầu cho Hội thánh là Mẹ chúng ta và cho toàn thể thế
giới :
1. Hội thánh là dấu chỉ tình yêu của Chúa dành cho
muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội thánh / luôn hiệp nhất trong
yêu thương và chân lý vẹn toàn.
2. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót /
Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi người / nhận biết Chúa là Cha
nhân hậu từ bi.
3. Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu độ duy nhất của trần
gian / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai thành tâm đi tìm Chúa /
đều được hạnh phúc gặp Người.
4. Chúa Thánh thần là Đấng Thánh hóa nhân loại /
Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban Thánh thần cho cộng đoàn giáo xứ chúng
ta / để Người giúp chúng ta nên thánh trong bổn phận thường ngày.
Chủ
tế : Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi toàn năng hằng hữu, xin nhậm lời chúng con
cầu nguyện và ban cho chúng con luôn cố gắng sống xứng đáng với tình thương hải
hà của Chúa. Chúng con cầu xin
VI.
Trong Thánh Lễ
- Chủ tế chú ý nhấn mạnh tất cả những đoạn kết của
các lời cầu nguyện có công thức Ba Ngôi.
- Trước kinh Lạy Cha : Lời kinh Lạy Cha sau
đây, chúng ta hãy cố gắng đọc lên với cả tâm tình con thảo như Chúa Giêsu và do
Chúa Thánh Thần khơi lên trong lòng chúng ta.
VII.
Giải tán
Chúng ta đã dâng Thánh lễ tôn kính Thiên Chúa Ba
Ngôi đầy tình yêu thương. "Xin chúc anh chị em được đầy ân sủng của Chúa
Giêsu Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần".
Lm.
Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Lễ Chúa Ba Ngôi
(C)
Chúa
Nhật, 22 Tháng 5, 2016
Lời
hứa về Chúa Thánh Thần:
Nhân
danh Chúa Cha, Chúa Giêsu sẽ gửi Chúa Thánh Thần
Ga
16:12-15
1.
Bài Đọc
a)
Lời nguyện mở đầu:
Lạy
Thiên Chúa, qua việc sai Con Một của Ngài là Chúa Giêsu xuống thế gian đã mặc
khải dồi dào tình yêu của Chúa dành cho sự cứu rỗi của muôn người, xin Người
luôn ở lại với chúng con và tiếp tục mặc khải những căn tính của Chúa về lòng
trắc ẩn, thương xót, khoan dung và chung thủy. Lạy Chúa Thánh Thần của
Tình Yêu, xin hãy giúp chúng con phát triển trong sự hiểu biết về Chúa Con để
chúng con có thể có được sự sống.
Cậy
nhờ ơn Chúa, bằng cách suy gẫm Lời Chúa trong ngày lễ này, xin cho chúng con được
trở nên hiểu biết hơn rằng mầu nhiệm của Chúa là một bài thánh ca về tình yêu
được chia sẻ. Chúa là Thiên Chúa của chúng con và không phải là Thiên
Chúa đơn độc. Chúa là Chúa Cha, Đấng toàn năng. Chúa là Chúa Con,
Ngôi Lời đã mặc lấy xác loài người, gần gũi và yêu thương trong tình anh
em. Chúa là Chúa Thánh Thần, một tình yêu ôm trọn tất cả mọi người.
b)
Bài Tin Mừng:
12 “Thầy còn nhiều điều phải nói với
các con nhưng bây giờ các con không thể lĩnh hội được. 13 Tuy
nhiên, khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy cho các con biết tất cả sự thật, vì
Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy; và Người sẽ bảo
cho các con biết việc tương lai. 14 Người sẽ làm vinh danh
Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con. 15 Tất
cả những gì Cha có, đều là của Thầy; vì thế Thầy đã nói: “Người sẽ lãnh
nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con.”
c)
Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Với lời
của thánh Augustinô chúng ta nguyện rằng: “Xin hãy ban cho con thời
gian để suy niệm về những mầu nhiệm của lề luật Chúa, xin Chúa đừng đóng chặt cửa
với những kẻ đã gõ cửa. Lạy Chúa, xin Chúa hãy thực hiện dự tính của Chúa
trong con và mở ra những trang đó. Xin Chúa ban cho con có thể tìm thấy
ân sủng Chúa và những mầu nhiệm sâu xa về Lời Chúa được mặc khải cho con khi
con gõ cửa”.
2.
Suy Gẫm
a)
Lời mở đầu:
Trước
khi chúng ta bắt đầu phần đọc Lời Chúa, điều quan trọng là chúng ta hãy tạm dừng
lại một chút trên bối cảnh của đoạn Tin Mừng phụng vụ của chúng ta. Theo
những nhà chú giải Kinh Thánh, Lời của Chúa Giêsu trong sách Tin Mừng Gioan đoạn
16:12-15 là một phần của sách Khải Huyền (13:1-17:26). Trong bài giảng từ
biệt của mình, Chúa Giêsu đã bày tỏ sự thân mật của Người, Chúa gọi các môn đệ
là bạn hữu và hứa với các ông rằng Chúa Thánh Thần sẽ đồng hành cùng các ông
khi các ông thừa nhận mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể của Người. Sau đó, các
môn đệ được mời gọi góp phần vào việc tăng tiến trong tình yêu đối với Thầy
mình là Đấng đã tự ban tặng hoàn toàn bản thân Người cho các ông.
Trong
đoạn Tin Mừng này, chúng ta có thể phân loại được ba phần hoặc ba tiến trình rõ
rệt. Phần thứ nhất gồm có các chương 13-14 và theo một chủ đề sau
đây: một cộng đoàn mới đã được thành lập trên giới răn mới của tình yêu
thương. Qua sự hướng dẫn của Chúa Giêsu, Người giải thích rằng việc thực
hành tình yêu thương là phương cách mà cộng đoàn phải đi qua trong hành trình
tiến về Chúa Cha. Trong phần thứ hai, Chúa Giêsu mô tả vị trí của cộng
đoàn ở giữa thế gian. Người nhắc nhở các ông rằng cộng đoàn mà Người vừa
thành lập phải thực hiện sứ vụ của mình ở giữa một thế giới thù địch và họ chỉ
có thể thu nhận được những thành viên mới nếu họ thực hành tình yêu
thương. Đây là ý nghĩa của việc “sinh hoa kết trái” theo phần vụ của cộng
đoàn. Điều kiện cho một tình yêu mang lại hoa trái trong thế gian là:
luôn trong tình hiệp nhất cùng với Chúa Giêsu. Vì từ Người mà sự sống
tuôn chảy – Thần Khí Chúa (Ga 15:1-6); việc hiệp nhất với Chúa Giêsu với một
tình yêu như tình yêu thương của Người để thiết lập một mối quan hệ bằng hữu giữa
Chúa Giêsu và các môn đệ của Người (Ga 15:7-17).
Sứ vụ
của cộng đoàn, giống như sứ vụ của Chúa Giêsu, sẽ được thực hiện ở giữa thế
gian đầy ghen ghét đố kỵ, nhưng các môn đệ sẽ được giúp sức bởi Chúa Thánh Thần
(Ga 15:26-16:25). Chúa Giêsu bảo các ông rằng sứ vụ trong thế gian bao
hàm sự đau khổ và vui mừng và Người sẽ vắng mặt (Ga 16:16-23a). Chúa
Giêsu đơn giản đoan chắc với các ông về sự hỗ trợ của tình yêu Chúa Cha và việc
chiến thắng thế gian của Người (Ga 16:23b-33). Phần thứ ba của đoạn Tin Mừng
này bao gồm lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: Người cầu nguyện cho cộng đoàn
đương thời của Người (Ga 17:6-19); cho cộng đoàn trong tương lai (Ga 17:20-23);
và nói lên niềm ước vọng của Người rằng Chúa Cha sẽ làm vinh hiển những kẻ đã
biết Người và, cuối cùng, sứ vụ của Chúa trong thế gian có thể được hoàn thành
(Ga 17:24-26).
b)
Suy Niệm:
- Tiếng nói của Chúa Thánh
Thần là tiếng nói của Chúa Giêsu
Trước
đây, trong sách Tin Mừng Gioan 15:15, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ về những
gì Người nghe từ Chúa Cha. Sứ điệp này đã hoặc không thể được hiểu thấu
đáo bởi chính khả năng của các ông. Lý do là các môn đệ, trong lúc ấy, đã
lơ là với ý nghĩa của cuộc tử nạn của Chúa Giêsu trên thập giá và việc thay thế
phương cách cứu độ cũ bằng phương cách mới. Với cái chết của Chúa Giêsu,
một dũng lực cứu chuộc mới và dứt khoát đã đi vào đời sống của nhân loại.
Các môn đệ sẽ hiểu Lời và các việc làm của Chúa Giêsu sau khi Người phục sinh
(Ga 2:22) hoặc sau cái chết của Người (Ga 12:16).
Trong
những lời giáo huấn của Chúa Giêsu có nhiều việc và sứ điệp được hiểu bởi cộng
đoàn môn đệ khi các ông từ từ phải đối diện với những sự việc và tình huống mới;
đó là trong đời sống hằng ngày và trong ánh sáng sự Phục Sinh mà các ông sẽ hiểu
được ý nghĩa cuộc tử nạn thần thánh của Người.
Chính
Chúa Thánh Thần, vị ngôn sứ của Chúa Giêsu, Đấng sẽ thông tri với các môn đệ về
những gì đã được nghe từ Người. Sứ vụ mà cộng đoàn của Chúa Giêsu phải
thi hành sẽ được Chúa Thánh Thần thông tri với các ông một cách trung thực
trong đó Người sẽ giải thích và giúp các ông áp dụng rằng chính Chúa Giêsu là
phương tiện để hoàn thành sự biểu hiện tình yêu của Chúa Cha. Qua các sứ
điệp tiên tri của Người, cộng đoàn sẽ không truyền đạt một giáo điều mới nhưng
thường xuyên nói về con người thực sự của Chúa Giêsu, dưới sự chứng kiến và chỉ
hướng về sứ vụ của Người trong thế gian. Tiếng nói của Chúa Thánh Thần,
mà cộng đoàn sẽ nghe, là tiếng nói của chính Chúa Giêsu. Trong khi các
tiên tri trong Cựu Ước diễn nghĩa lịch sử trong ánh sáng của sự giao ước, thì
Chúa Thánh Thần trở thành một nhân tố quyết định trong việc loan báo về Chúa
Giêsu, ban cho cộng đoàn các tín hữu chìa khóa dẫn đến sự hiểu biết lịch sử như
là một cuộc đối đầu liên tục giữa những gì “thế gian” tin tưởng và kế hoạch của
Thiên Chúa. Điểm khởi đầu cho việc đọc về sự hiện diện của Người trong thế
gian là cuộc tử nạn đau thương của Chúa Giêsu, và khi các Kitô hữu trưởng thành
trong sự hiểu biết này họ sẽ khám phá ra trong đời sống hằng ngày “tội lỗi của
thế gian” và những tác hại của nó.
Vai
trò của Chúa Thánh Thần là một nhân tố quyết định cho việc diễn giải mầu nhiệm
cuộc đời của Chúa Giêsu trong đời sống của các môn đệ: Người là hướng dẫn
viên của các ông trong việc thay mặt cho nhân loại thực hiện một cam kết công
lý. Mặt khác, để thành công trong các công việc của mình cho nhân loại,
các môn đệ đã phải lắng nghe những vấn nạn của đời sống và lịch sử, và lại còn
phải chú tâm tới tiếng nói của Chúa Thánh Thần, nguồn tin cậy duy nhất để có được
ý nghĩa đích thực của các sự kiện lịch sử trên thế gian.
- Tiếng nói của Chúa Thánh
Thần: Đấng diễn giải đích thực của lịch sử
Sau
đó, Chúa Giêsu giải thích bằng cách nào mà Chúa Thánh Thần diễn giải lịch sử và
đời sống nhân loại. Trước hết, bằng việc biểu hiện sự “vinh quang” của
Người, đó là Người sẽ lãnh nhận “từ nơi Thầy”. Một cách cụ thể hơn, “từ
nơi Thầy” có nghĩa rằng Chúa Thánh Thần truyền đi sứ điệp từ Chúa Giêsu, bất cứ
những gì Chúa Giêsu đã nói. Để thể hiện sự vinh hiển có nghĩa là biểu thị
tình yêu mà Chúa đã thể hiện bằng cái chết của mình. Những lời này của
Chúa Giêsu rất quan trọng bởi vì chúng tránh làm giảm vai trò của Chúa Thánh Thần
trở thành một sự chiếu sáng. Vai trò của Chúa Thánh Linh là để thông tri
tình yêu của Chúa Giêsu và đặt để Lời của Chúa Giêsu trong sự hài hòa với sứ điệp
của Người và cũng như với ý thức sâu sắc hơn về đời sống của Người: Tình
yêu được thể hiện bằng cách cho đi mạng sống của Người trên thập giá. Đây
là vai trò của Chúa Thánh Thần, Thần khí của sự thật. Hai khía cạnh của
vai trò Chúa Thánh Thần cho phép cộng đoàn tín hữu giải thích lịch sử là:
lắng nghe sứ điệp và hiểu thấu nó, và sống hài hòa với tình yêu. Hơn nữa,
Lời của Chúa Giêsu là để thông tri rằng chỉ có qua sự truyền đạt tình yêu của
Chúa Thánh Thần mới có thể biết rằng một người như thế nào, để hiểu mục đích của
đời sống, và để xây dựng một thế giới mới. Khuôn mẫu luôn là tình yêu
thương của Chúa Giêsu.
-
Chúa Giêsu, Chúa Cha, Chúa Thánh Thần và cộng đoàn tín hữu (câu 15)
Chúa
Giêsu có ý gì khi Người nói “tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy”?
Trước hết, điều gì mà Chúa Giêsu có đều đã được san xẻ với Chúa Cha. Món
quà tặng đầu tiên của Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu là sự vinh hiển của Người (Ga
1:14), hoặc nói một cách chính xác hơn, tình yêu chung thủy, Chúa Thánh Thần
(Ga 1:32; 17:10). Sự liên hệ này không thể được hiểu như có đặc tính thụ
động mà là có tính năng động, không ngừng nghỉ và hỗ tương. Trong ý nghĩa
này, Chúa Cha và Chúa Giêsu là một. Một sự liên hệ liên tục và hỗ tương
như thế đã thấm nhập vào hoạt động của Chúa Giêsu đến nỗi mà Người có thể nhận
ra được các dự kiến của Chúa Cha và kế hoạch của Người về toàn bộ chương trình
tác tạo. Để các tín hữu có thể hiểu và diễn giải lịch sử, họ được mời gọi
sống hòa hợp với Chúa Giêsu, chấp nhận tình yêu thực sự của Người và làm cho
tình yêu này trở nên bền vững cho những người khác. Đây là chương trình của
Chúa Cha rằng tình yêu của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ có thể được thực hiện
trong tất cả mọi người. Chương trình của Thiên Chúa được thực hiện trong
cuộc đời của Chúa Giêsu phải được thực hiện trong cộng đoàn tín hữu và hướng dẫn
sự dấn thân của người tín hữu trong nỗ lực của họ hầu cải thiện đời sống mọi
người. Những ai sẽ thi hành kế hoạch của Chúa Cha trong cuộc sống của
Chúa Giêsu? Đó là Chúa Thánh Thần, Đấng kết hợp Chúa Giêsu với Chúa Cha,
thực hiện và hoàn thành kế hoạch của Chúa Cha, và làm cho cộng đoàn tín hữu
thông phần vào công việc năng động này của Chúa Giêsu: “sẽ lãnh nhận từ
nơi Thầy”. Nhờ tác động chân lý của Chúa Thánh Thần, cộng đoàn đã lắng nghe
lời Người và thông tri với Người một cách cụ thể như tình yêu thương.
Chúa
Thánh Thần thông tri cho các môn đệ tất cả các sự thật và sự sung mãn của Chúa
Giêsu; Người ngự ở trong Chúa Giêsu; “đến” trong cộng đoàn và khi Người được
lãnh nhận những lễ dâng từ sự thông phần của cộng đoàn trong tình yêu của Chúa
Giêsu.
b)
Một vài câu hỏi gợi ý:
- Một mối nguy hiểm nghiêm trọng
đang đe dọa cộng đoàn Kitô hữu ngày hôm nay. Chúng ta có đang bị cám dỗ để phân
chia Chúa Giêsu, tuân theo Chúa Giêsu nhập thể mà qua các việc Người
làm đã thay đổi lịch sử, hay là một Chúa Giêsu vinh hiển tách lìa khỏi sự hiện
hữu của Người nơi trần thế và do đó cũng tách rời khỏi đời sống chúng ta không?
- Chúng ta có nhận thức rằng Chúa
Giêsu không chỉ là một nhân vật lịch sử mà cũng còn là Đấng Cứu Độ cho
tất cả mọi người ngày nay không? Chúa Giêsu không những chỉ là một đối tượng
của việc chiêm niệm và vui mừng, mà còn là Chúa Cứu Thế, Đấng mà chúng ta phải
tuân theo và phải hợp tác với Người không?
- Thiên Chúa không phải là một điều
trừu tượng, mà Chúa Cha đã hiển thị ra trong Chúa Giêsu.
Bạn có cam kết để “thấy Người” và nhìn nhận Người trong thân xác loài người của
Chúa Giêsu không?
- Bạn có đang lắng nghe tiếng nói của
Thần Khí Sự Thật đang thông tri với bạn về chân lý toàn mỹ của
Chúa Giêsu không?
3.
Cầu Nguyện
a)
Thánh Vịnh 103: Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến để canh tân bộ mặt
trái đất.
Đây
là một bài thánh ca hân hoan tạ ơn mời gọi chúng ta suy niệm về sự sa ngã của
nhân loại và lòng thương xót muôn đời của Thiên Chúa. Sau tội lỗi, bệnh tật
và cái chết, thì là lòng khoan dung và hành động yêu thương của Thiên
Chúa: Người ban cho chúng ta tràn ngập với những việc tốt lành suốt cả cuộc
đời chúng ta.
Linh
hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa,
Toàn
thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh!
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
Chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
CHÚA tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,
thương chữa lành các bệnh tật ngươi.
Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,
bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,
khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng.
CHÚA phân xử công minh,
bênh quyền lợi những ai bị áp bức;
mặc khải cho Môisen biết đường lối của Người,
cho con cái nhà Ít-ra-en
thấy những kỳ công Người thực hiện.
CHÚA là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương,
chẳng trách cứ luôn luôn,
không oán hờn mãi mãi.
Người không cứ tội ta mà xét xử,
không trả báo ta xứng với lỗi lầm.
Như người cha chạnh lòng thương con cái,
CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.
Nhưng ân tình CHÚA thiên thu vạn đại,
dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn.
Người xử công minh cả với đời con cháu.
Chúc tụng CHÚA đi, hỡi muôn vì thiên sứ,
bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người,
luôn sẵn sàng phụng lệnh.
Chúc tụng CHÚA đi, toàn thể thiên binh,
hằng hầu cận và tuân hành thánh ý.
Chúc tụng CHÚA đi, muôn vật Chúa tạo thành,
thuộc quyền Người thống trị khắp nơi nơi.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
Chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
CHÚA tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,
thương chữa lành các bệnh tật ngươi.
Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,
bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,
khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng.
CHÚA phân xử công minh,
bênh quyền lợi những ai bị áp bức;
mặc khải cho Môisen biết đường lối của Người,
cho con cái nhà Ít-ra-en
thấy những kỳ công Người thực hiện.
CHÚA là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương,
chẳng trách cứ luôn luôn,
không oán hờn mãi mãi.
Người không cứ tội ta mà xét xử,
không trả báo ta xứng với lỗi lầm.
Như người cha chạnh lòng thương con cái,
CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.
Nhưng ân tình CHÚA thiên thu vạn đại,
dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn.
Người xử công minh cả với đời con cháu.
Chúc tụng CHÚA đi, hỡi muôn vì thiên sứ,
bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người,
luôn sẵn sàng phụng lệnh.
Chúc tụng CHÚA đi, toàn thể thiên binh,
hằng hầu cận và tuân hành thánh ý.
Chúc tụng CHÚA đi, muôn vật Chúa tạo thành,
thuộc quyền Người thống trị khắp nơi nơi.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
b)
Lời nguyện kết:
Lạy
Chúa Thánh Thần của chân lý
Người
đã khiến chúng con trở thành con cái Thiên Chúa,
Để
chúng con có thể tiến tới với Chúa Cha trong sự tin tưởng.
Lạy
Cha, chúng con đang hướng về Cha với tất cả lòng trí chúng con
Và
chúng con cầu xin Cha:
Lạy
Cha, xin Cha sai Thánh Thần Chúa đến!
Xin
sai Thần Khí Chúa đến trên Giáo Hội.
Nguyện
xin cho mọi người Kitô hữu trưởng thành trong sự hài hòa với tình yêu của Chúa
Kitô,
Với
tình yêu của Thiên Chúa và với những người xung quanh.
Lạy
Cha, xin đổi mới lòng tín thác của chúng con vào vương quốc Cha mà Chúa Giêsu
đã được sai đến để công bố và để nhập thể vào thế gian.
Xin đừng
để cho chúng con bị thống trị bởi sự u mê hoặc bị cám dỗ bởi sự mệt mỏi.
Xin
cho cộng đoàn chúng con được là men là muối để xây dựng nền công lý và hòa bình
cho xã hội chúng con.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét