Trang

Thứ Bảy, 9 tháng 5, 2015

10-05-2015 : (phần II) CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH năm B

10/05/2015
Chúa Nhật VI Phục Sinh Năm B
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật VI Phục Sinh - năm B
CHÚA NHẬT THỨ 6
MÙA PHỤC SINH NĂM B
Cv 10, 25-26.34-35.44-48
1Ga 4, 7-10
Ga 15, 9-17
LIÊN KẾT TRONG TÌNH YÊU
Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào,
Thầy cũng yêu mến anh em như vậy.
Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy

(Ga 15, 9)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1: Cv 10, 25-26.34-35.44-48
Trong khoảng thời gian 30 năm sau biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô, Giáo Hội thời Sơ Khai đã có bước tiến triển mạnh mẽ trong Đế Quốc Rôma. Dưới sức tác động của Chúa Thánh Thần, các tín hữu, nhất là những vị tông đồ xuất chúng như Phêrô, Phaolô, Gioan, Giacôbê, Stêphanô, Barnabas, đã không ngừng làm lan tỏa Tin Mừng về Chúa Kitô Phục Sinh trên toàn Đế Quốc: từ Jerusalem đến tận Rôma. Giáo Hội đã không ngừng vươn lên, từ một định chế của các tín hữu gốc Do-thái trở thành một định chế mang tầm mức “quốc tế” bao hàm đa số các tín hữu gốc dân ngoại.
Sách Tông Đồ Công Vụ minh định: Hội Thánh Chúa không phải là một thực thể chính trị nhằm đe dọa sự tồn vong của Đế Quốc Rôma, nhưng là công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng đang kiến tạo một “vương quốc” thiêng liêng, bao gồm tất cả những ai tin vào danh Đức Giêsu Kitô.
Bài đọc 1 thuộc đơn vị văn chương 9,32 – 12,24, cho chúng ta thấy việc loan báo Tin Mừng Đức Kitô Phục Sinh đã bắt đầu khởi sự nơi dân ngoại. Thánh Phêrô đã nhận được thị kiến từ Thiên Chúa, theo đó Tin Mừng cũng sẽ được loan báo cho cả dân ngoại nữa, chứ không chỉ giới hạn cho người Do-thái. Tại nhà viên đại đội trưởng người Rôma là ông Corneliô, thánh Phêrô đã xác định rõ thánh ý cứu độ phổ quát của Thiên Chúa: “Thiên Chúa không thiên vị người nào. Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và sống ngay lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (x. Cv 10, 35). Một khi Chúa Thánh Thần được ban xuống cho cả dân ngoại, thì Phêrô không thấy có lý do gì ngăn cản ngài làm Phép Rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô (x. Cv 10,45-48).
2. Bài đọc 2: 1Ga 4, 7-10
Theo truyền thống, vào những năm cuối đời, thánh Gioan Tông Đồ đã sống tại Êphêxô. Lá thư này có lẽ được viết cho chính Giáo Đoàn tại đây. 1Ga 2,19 cho chúng ta biết có một số kẻ “phản Kitô” đã tách khỏi Giáo Đoàn. Họ đang tìm cách lôi kéo nhiều người theo lạc thuyết của họ. Thánh Gioan đã viết thư này để giúp Giáo Đoàn phân định sự thật khỏi sự dối trá và lầm lạc cả trong giáo thuyết lẫn trong cung cách sống.
Những kẻ phản Kitô này không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô (x. 2, 2). Họ cũng không tin Đức Giêsu Kitô là “Đấng đã đến và trở nên người phàm” (4, 2-3). Hơn nữa, những kẻ này nhận mình có khả năng nhận biết và có sự hiệp thông trực tiếp với Thiên Chúa, nên họ không cần đến vai trò trung gian cứu độ của Đức Giêsu Kitô (x. 1, 6; 2, 4). “Chủ nghĩa ưu tuyển thiêng liêng” này xem thường vai trò của luân lý và bác ái yêu thương trong đời sống của người tín hữu. Trái lại, họ thích đề cao vai trò của các thị kiến và mặc khải thiêng liêng nơi con người. 
Bác bỏ quan điểm của những kẻ phản Kitô, trong bài đọc 2 này, thánh Gioan dạy chúng ta ba điều vừa liên hệ đến đề tài Kitô học, cứu độ học, vừa liên hệ đến đời sống thực hành đức tin của người Ki tô hữu. Ba điểm thiết yếu đó là:  
1. Chúng ta hãy yêu thương nhau vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. c7).
2. Kẻ biết yêu thương thì nhận biết Thiên Chúa (x. c7).
3. Đức Giêsu Kitô là Con Một Thiên Chúa đã đến trong thế gian, Ngài đã đến làm của lễ đền tội cho chúng ta, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống. Như thế, Thiên Chúa cho chúng ta thấy Người đã yêu thương chúng ta trước khi chúng ta biết yêu mến Người (x. cc9-10).
3. Bài Tin Mừng: Ga 15,9-17
Các chương 14-16 của Tin Mừng Gioan ghi lại nội dung bốn Diễn Từ Chia Tay của Chúa Giêsu với các môn đệ. Bài Tin Mừng Chúa Nhật VI Mùa Phục Sinh Năm B là phần cuối trong Diễn Từ thứ hai (x. Ga 15, 1-17). Qua Diễn Từ này, Chúa Giêsu mời gọi người môn đệ hãy “ở lại” trong tình thương của Người để họ “sinh được hoa trái”. Chúng ta có thể rút ra một số điểm chính trong bài Tin Mừng hôm nay:
1. Các môn đệ sẽ sinh được hoa thơm trái ngọt nếu họ “ở lại” trong Chúa, nghĩa là, khi họ gắn bó thân tình với Chúa và tín thác vào sự quan phòng yêu thương của Chúa, qua việc thực thi lệnh Chúa truyền. Nhưng tại sao người môn đệ phải “ở lại” trong Chúa mới sinh hoa kết trái như lòng Chúa mong ước? Nối kết với các câu trước đó trong Diễn từ thứ hai này (x. Ga 15, 1-8), câu trả lời là: khi không kết hiệp mật thiết với Chúa, thì họ chẳng khác nào cành nho tách rời khỏi cây nho; mà nếu không gắn liền với cây nho, thì cành nho không tự mình sinh hoa trái được (x. Ga 15, 4).
2. Người môn đệ ở lại trong Chúa cách đích thực khi họ thực thi mệnh lệnh Người truyền cho họ. Lệnh truyền đó chính là: họ hãy yêu thương nhau như chính Chúa đã yêu thương họ (x. c12). Tình yêu của Chúa dành cho các môn đệ chính là mẫu mực cho tình yêu của họ đối với nhau. Người môn đệ được mời gọi vươn tới tầm mức yêu thương cao cả của Đấng [sẽ] hiến mạng sống mình vì đoàn chiên (x. Ga 10, 15). Chính Chúa Giêsu sẽ thực hiện điều Người đang mời gọi các môn đệ thực thi: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì người bạn hữu của mình”. Như thế Người không chỉ truyền cho các môn đệ thực thi lệnh truyền yêu thương, nhưng chính Người còn là mẫu gương yêu thương cho các môn đệ noi theo.
3. Người ở lại trong Chúa có thể phải để mình được “cắt tỉa” như cành nho, để họ có sức sống mạnh mẽ hơn và sinh nhiều hoa trái hơn. Việc “cắt tỉa” này có thể bao hàm việc để Chúa loại đi khỏi họ những thứ “lá-nhánh” không cần thiết trong đời họ, vốn là những thứ chỉ làm tiêu hao tâm trí và sinh lực của họ cách vô ích. Việc cắt tỉa cũng có thể ám chỉ đến việc thanh luyện đức tin-cậy-mến và trọn cả con người họ, khi Chúa để cho họ trải qua nhiều thử thách, khó khăn và trở ngại trong đời hầu giúp họ vươn tới tầm mức của người hoàn toàn thuộc trọn về Chúa, còn Chúa là tất cả của họ theo nghĩa viên mãn nhất. Người môn đệ có lòng yêu mến Chúa, có niềm tin vững chắc, có niềm cậy trông sắt son, sẽ xem những thử thách họ phải đối diện, không loại trừ cả việc bị bách hại và tử vì đạo, như một diễm phúc Chúa dành cho họ để họ trở nên đồng hình đồng dạng với chính Đấng “đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi” (x. Rm 5, 8).
4. “Sinh được hoa trái” bền lâu biểu hiện sức sống và sự thành tựu nơi người môn đệ. Hoa trái mà họ sinh ra có thể được nhìn thấy qua đời sống nhiệt tâm cầu nguyện kết hiệp mật thiết với Chúa, qua việc sống các giá trị và đòi buộc của Tin Mừng, qua việc sống bác ái yêu thương mọi người, và qua việc hăng say loan báo Tin Mừng để từ đó Tin Mừng được lan tỏa ra khắp nơi (x. Cv 2, 42-47; 11, 19-26; 19, 8-10, v.v).
5. Mối tương quan thân tình giữa Chúa Giêsu và người môn đệ được họa theo mối tương quan mật thiết giữa Chúa Cha và Chúa Giêsu (x. thêm Ga 13, 20; 15, 18-25; 17, 18; 20, 21). Trong bài Tin Mừng hôm nay, trọng tâm đặt ở sự vâng phục và tình yêu. Vâng nghe lệnh truyền yêu thương của Chúa là mở rộng tình yêu của Chúa đến với mọi người. Việc vâng nghe lệnh truyền yêu thương này sẽ mang lại niềm vui trọn vẹn cho người môn đệ (x. c11).
II. GỢI Ý SUY TƯ PHẢN TỈNH
1. Thánh Phêrô đã minh định thánh ý cứu độ phổ quát của Thiên Chúa dành cho mọi người. Ngài cũng đã làm Phép Rửa cho gia đình viên đại đội trưởng Corneliô, mở ra một trang sử mới cho Giáo Hội, theo đó ngày càng có nhiều “dân ngoại” tin theo Đức Kitô đã được nhận làm con cái Chúa và làm thành viên của Giáo Hội. Ngày hôm nay, tôi phải làm gì để nhiều người khác nhận ra tình yêu Thiên Chúa và tin theo Đức Kitô?
2. Cộng đoàn tín hữu thời thánh Gioan phải đối diện với những vấn đề do những kẻ phản Kitô gây ra cả trong giáo thuyết lẫn thực hành. Thánh Gioan đã viết ra lá thư thứ nhất để phản bác lại những quan điểm và lối sống lầm lạc, đồng thời giúp hướng dẫn đời sống đức tin và luân lý của người tín hữu. Theo bạn, ngày hôm nay, chúng ta đang phải đối diện với những vấn đề phản Tin Mừng nào? Làm sao chúng ta có thể sống trung tín với Thiên Chúa khi phải đối diện với những vấn nạn đó?
3. Theo bạn, trong cuộc sống thường ngày, “ở lại” trong tình thương của Chúa Giêsu Kitô và “sinh được hoa trái” lâu bền nghĩa là gì? Chúng ta cần phải làm gì để có thể “ở lại” trong Chúa và “sinh được hoa trái”?
4. Phụng Vụ Lời Chúa trong Chúa Nhật Thứ VI Mùa Phục Sinh cho chúng ta nghe lại ba bài đọc này. Theo bạn, ba bài đọc này cho chúng ta hiểu biết điều gì về Đức Kitô Phục Sinh, về tình yêu và về quyền năng biến đổi của Ngài? Làm thế nào chúng ta có thể làm lan tỏa tình yêu và quyền năng biến đổi ấy của Chúa cho mọi người xung quanh?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa rất giàu lòng thương xót đã muốn quy tụ tất cả chúng ta trong tình yêu của Người qua Đức Giêsu Kitô. Với lòng biết ơn và tin tưởng, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1. Chúa Giêsu nói: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy.” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh biết kết hợp mật thiết với Chúa Kitô, sống bác ái yêu thương như Chúa truyền dạy, để Hội Thánh luôn là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người.
2. Thiên Chúa là tình yêu, chính Người đã yêu thương chúng ta trước. Xin cho những ai đang khó khăn thiếu thốn hay gặp khủng hoảng trong cuộc sống, luôn cảm nghiệm được tình yêu quan phòng của Thiên Chúa qua sự đồng cảm chia sẻ của những người chung quanh.
3. “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con.” Chúng ta cùng cầu xin cho những người đang dấn thân trong đời sống tu trì, cách riêng các thầy Phó tế sắp tiến chức Linh mục, luôn sống trung tín và can đảm làm chứng cho Tin Mừng phục sinh.
4. “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con.” Xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn ý thức sống theo gương khiêm tốn phục vụ của Chúa, vượt qua kỳ thị hay thành kiến, để góp phần xây dựng một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha rất nhân từ, xin nhận lời chúng con cầu nguyện, và xin ban Thánh Thần là nguồn mạch bình an, giúp chúng con luôn sống bác ái yêu thương như dấu chỉ của người môn đệ Chúa Kitô. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.



CHỦ ĐỀ
NHẤN MẠNH THÊM VỀ CUỘC SỐNG YÊU THƯƠNG
"Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy…
Các điều ấy Thầy đã nói với anh em
để anh em hưởng được niềm vui của Thầy"
(Ga 15,9.11)
- "Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy… Các điều ấy Thầy đã nói với anh em để anh em hưởng được niềm vui của Thầy" (Ga 15,9.11)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I (Cv 10,25-26.34-35.44-48) : Phêrô rửa tội cho Cornêliô
- Tin Mừng (Ga 15,9-17) : Tiếp dụ ngôn cây nho "Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy"
- Bài đọc II (1 Ga 4,7-10) : Tín hữu hãy yêu thương nhau vì Thiên Chúa là tình yêu.

I. Dẫn vào Thánh  lễ
Anh chị em thân mến
Bấy lâu nay, chúng ta cứ tưởng mình đã biết Thiên Chúa. Nhưng trong Thánh lễ này, thánh Gioan khuyến cáo chúng ta rằng "Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa". Thánh Gioan còn nói "Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra". Hóa ra bấy lâu này chúng ta chưa thực sự là con cái Thiên Chúa.
Chúng ta hãy tha thiết xin Chúa giúp chúng ta biết sống yêu thương để từ nay xứng đáng là con cái của Ngài.

II. Gợi ý sám hối
- Xin Chúa tha thứ những việc làm, lời nói và ý tưởng của chúng ta nghịch lại với đức yêu thương.
- Xin Chúa tha thứ vì tình thương của chúng ta còn quá giới hạn và ích kỷ, chưa biết yêu "như Chúa đã yêu".
- Xin Chúa tha thứ vì chúng ta chưa dám hy sinh vì những người mình yêu.

III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Cv 10,25-26.34-35.44-48)
Việc Phêrô rửa tội cho Cornêliô đánh dấu một bước ngoặc rất quan trọng trong cuộc sống của Giáo Hội.
- Do thái giáo xưa nay coi ơn cứu rỗi là độc quyền của dân do thái, cho nên không bao giờ chấp nhận cho một người dân ngoại làm tín hữu chính thức. Cùng lắm, nhưng người "ngoại" ấy chỉ được làm "kẻ kính sợ Chúa" mà thôi.
- Cornêliô là một người ngoại. Còn Phêrô đang là lãnh đạo của Giáo Hội. Việc Phêrô rửa tội cho Cornêliô đã mở toang cánh cửa Giáo Hội để từ nay bất cứ người nào cũng có thể gia nhập Giáo Hội.
Bước ngoặc quan trọng này do Chúa Thánh Thần thúc đẩy (chính Chúa Thánh Thần đã khuyến khích Phêrô đến nhà ông Cornêliô) và Chúa Thánh Thần chuẩn nhận (Khi Phêrô đang nói thì Thánh Thần ngự xuống trên tất cả những người đang có mặt trong nhà ông Cornêliô).

2. Đáp ca (Tv 97)
Lời Tv rất thích hợp để diễn tả tâm tình hân hoan sau sự kiện Phêrô rửa tội cho gia đình ông Cornêliô : "Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công… Chúa đã mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân… Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta".

3. Tin Mừng (Ga 15,9-17)
Tiếp tục dụ ngôn Cây nho và cành nho.
Đức Giêsu dạy : "Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân giữ lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy".
Lòng "Yêu mến nhau" mà Đức Giêsu muốn các môn đệ mình có phải vươn tới những mức độ sau đây :
- "Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con"
- "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình"

4. Bài đọc II (1 Ga 4,7-10)
Câu quan trọng nhất trong đoạn thư này là câu định nghĩa "Thiên Chúa là Tình yêu". Từ đó sinh ra những hệ luận :
- Chúng ta hãy yêu thương nhau.
- Ai yêu thương thì biết Thiên Chúa, ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa.

IV. Gợi ý giảng
* 1. "Đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời"
Trong dãy núi Alps ở Thuỵ Sĩ có một ngôi làng, và trong làng có một nhà thờ nhỏ. Mặc dù nhà thờ này chẳng có một tác phẩm nghệ thuật nào cả nhưng lại được dân làng quý mến một cách hết sức đặc biệt. Câu chuyện sau đây sẽ cho biết lý do.
Có hai anh em cùng canh tác mảnh vườn của gia đình và chia lợi tức đồng đều cho nhau. Người anh đã có gia đình, người em còn độc thân. Năm đó thời tiết khắc nghiệt nên thu hoạch rất kém. Một hôm, người em tự nhủ : "Nếu chia đều phần thu hoạch thì không công bình, vì mình thì độc thân, còn anh mình thì còn phải lo cho gia đình". Thế là mỗi đêm người em vào kho nhà mình lấy một bao lúa, đi ngang qua miếng ruộng giữa hai nhà và mang đến bỏ vào kho của người anh. Trong lúc đó, người anh cũng tự nhủ : "Nếu chia đều phần thu hoạch thì không công bình, vì mình thì đã có gia đình đỡ đần, còn em mình thì độc thân không ai giúp đỡ". Thế là mỗi đêm người anh vào kho nhà mình lấy một bao lúa, đi ngang qua miếng ruộng giữa hai nhà và mang đến bỏ vào kho của người em. Đêm nào hai anh em cũng làm như thế. Nhưng lạ thay ai cũng thấy kho lúa nhà mình chẳng vơi đi tí nào cả. Một đêm kia, hai anh em gặp nhau giữa miếng ruộng. Họ cảm động quá, vất bao lúa xuống đất và ôm nhau khóc. Thình lình, một tiếng từ trời vọng xuống : "Tại đây Ta sẽ xây nhà thờ của Ta, vì nơi nào người ta thương yêu nhau thì Ta sẽ ngự ở đó". Thế là có một ngôi nhà thờ mọc lên tại nơi đó.

* 2. Thiên Chúa là tình yêu
Ngày xưa có một chàng thanh niên hồ nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Một hôm anh tìm đến một tu sĩ nổi tiếng là đạo đức và hỏi :
- Ngài có tin Thiên Chúa không ?
- Vâng, tôi tin. Vị tu sĩ trả lời.
- Nhưng dựa vào đâu mà ngài tin như thế ?
- Tôi tin Thiên Chúa vì tôi biết Ngài. Tôi cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong tôi mỗi ngày.
- Nhưng làm sao mà cảm nhận được như thế ?
- Khi ta yêu thì ta sẽ cảm nghiệm được Thiên Chúa, và những nỗi hồ nghi sẽ tan biến như sương mai phải tan biến lúc mặt trời mọc.
Chàng thanh niên suy nghĩ một hồi, rồi hỏi tiếp :
- Xin Ngài chỉ rõ cho tôi phải làm điều đó bằng cách nào ?
- Bằng cách thực hiện những việc yêu thương. Anh hãy cố gắng yêu thương những người chung quanh anh, yêu thương tích cực và không ngừng. Khi anh học biết yêu thương ngày càng nhiều hơn thì anh cũng sẽ càng ngày càng xác tín hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự bất tử của linh hồn. Việc này đã được thử nghiệm rồi đấy. Đó là sự thật.
Vị tu sĩ trên chẳng nói gì khác hơn điều Thánh Gioan viết trong bài đọc II hôm nay : "Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu"
Thực vậy, Tình yêu là điều kiện tiên quyết để hiểu biết cuộc sống và đặc biệt là hiểu biết Thiên Chúa. Van Gogh nói : "Cách tốt nhất để biết Thiên Chúa là hãy yêu nhiều. Hãy yêu bạn mình, yêu vợ mình, yêu một cái gì đó. Rồi bạn sẽ thấy mình đang đi đúng đường dẫn tới chỗ biết Thiên Chúa".
Tình yêu là người thầy tốt nhất chúng ta có. Nhưng người thầy này không tự đến, chúng ta phải cực nhọc tìm kiếm. Thông thường phải tốn nhiều năm nỗ lực cách kiên trì người ta mới đạt được đến khả năng yêu thương.
Có một vực thẳm ngăn cách giữa việc biết Chúa và việc yêu Chúa. Không yêu Chúa thì không biết Ngài. Nhưng khi chúng ta yêu thì bực thẳm được lấp đầy ngay. Yêu là biết Chúa. Nơi nào có tình yêu thì nơi đó có Chúa, cũng như nơi nào có Chúa thì nơi đó có tình yêu. Nhưng nên lưu ý : Yêu không phải là chứng minh hay là giải thích.
Vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, cho nên mỗi người chúng ta đều có khả năng yêu thương. Tuy nhiên để được như thế thì con tim chúng ta phải lành mạnh. Thực tế là con tim chúng ta dễ bị những chứng bệnh như lạnh nhạt, trống rỗng, hẹp hòi. Chúng ta cần phải chữa trị những chứng bệnh đó để con tim chúng ta lành mạnh hầu có thể sinh những hoa trái tình yêu. (Viết theo Flor McCarthy).

* 3. Yêu thương và tôn trọng
Nhà văn nữ Harriet Beecher Stove có viết một quyển tiểu thuyết nhan đề "Túp lều Bác Tôm" kể chuyện đời của một người nô lệ da đen tên là Tôm. Chủ của bác Tôm là một trong số rất ít những người chủ da trắng biết thương yêu những người nô lệ da đen của mình. Đáp lại Bác Tôm cũng rất yêu thương chủ và tận tụy hết lòng phục vụ chủ. Nhưng ông chủ này vì làm ăn thua lỗ nên đã nợ một món tiền rất lớn. Một tên da trắng khác chuyên buôn bán nô lệ đã tìm cách nắm được các giấy nợ và dùng chúng để làm áp lực với ông Senbi, tên của ông chủ da trắng nhân hậu ấy. Hắn buộc ông phải bán bác Tôm cho hắn để trừ nợ. Lúc đầu ông Senbi nhất định không chịu. Nhưng vì tên lái buôn hăm doạ sẽ tịch thu tất cả tài sản của ông, nên cuối cùng ông đành phải bán bác Tôm. Sau đó cuộc đời bác Tôm đã phải lao đao lận đận chịu đủ thứ khổ sở và cuối cùng phải chết.
Câu chuyện này đã giúp ta hiểu rõ hơn bài Tin Mừng của Chúa nhật hôm nay. Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu nói "Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con". Trong câu này, có 3 chữ then chốt, là : yêu thương, nhau, và như.
. Chữ thứ nhất yêu thương thì chúng ta dễ hiểu, bởi vì Đức Giêsu luôn luôn dạy chúng ta phải sống yêu thương. Yêu thương là điều răn quan trọng nhất của Chúa, là điều răn gồm tóm tất cả mọi điều răn khác.
. Chữ thứ hai : nhau. Yêu thương nhau là yêu thương ai ? Đây không phải là câu Chúa nói với hai vợ chồng hay với một cặp tình nhân, người này yêu thương người kia và người kia yêu thương người này. Nhưng Chúa nói với tất cả mọi người. Vì thế ta không nên hiểu chữ nhau này theo nghĩa hẹp, chỉ nhắm đến lòng yêu thương đối với một ít người thân thiết với ta thôi, mà phải hiểu theo nghĩa rộng, chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người. Giới răn của Chúa là như vậy. Nhưng thực tế, chúng ta chỉ mở rộng con tim để yêu thương một số người rất ít thôi, có thể đếm trên đầu ngón tay, như : cha mẹ, anh chị em ruột, một vài bạn bè thân thiết, và người yêu của chúng ta. Chỉ thế thôi. Còn lại biết bao nhiêu người khác chúng ta chưa yêu thương, chúng ta không muốn yêu thương, và thậm chí chúng ta còn ghét nữa. Vì thế, vấn đề đặt ra là làm thế nào để chúng ta có thể yêu thương hết tất cả mọi người như giới răn Chúa đã dạy ?
. Chữ thứ ba là chữ như. Đây là chữ quan trọng nhất trong câu. Nếu muốn yêu thương tất cả mọi người, thì chúng ta phải làm như Đức Giêsu đã làm. Vậy, Đức Giêsu đã làm như thế nào ? Ta hãy đọc tiếp đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng : "Thầy không coi các con là tôi tớ, nhưng Thầy coi các con là bạn hữu của Thầy". Đức Giêsu là Chúa, là Thầy ; còn các môn đệ là người, là đệ tử. Cho nên nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ thì cũng được thôi. Nhưng không, Chúa không muốn coi họ là tôi tớ thấp hèn, mà muốn coi họ là bạn hữu ngang hàng với Chúa. Nghĩa là Chúa tôn trọng họ. Tình yêu của Chúa là tình yêu đi đôi với lòng tôn trọng. Vậy nếu chúng ta muốn có thể yêu thương tất cả mọi người thì chúng ta cũng phải tôn trọng tất cả mọi người, như Đức Giêsu đã yêu thương.
Có những người mà tự nhiên ta cảm thấy xa cách, khó ưa và không thể nào yêu thương được. Chẳng hạn như trong chế độ buôn bán nô lệ, rất khó có được tình yêu thương giữa một người da trắng tự do và một người da đen nô lệ. Những người da trắng thời đó coi những người nô lệ da đen như một con vật biết nói, bắt họ phải làm việc cho mình, đánh đập họ, khi chán họ thì bán cho người khác, khi tức giận thì còn có thể giết họ bỏ. Thời đó người da trắng không thể nào yêu thương người da đen. Tại sao ? Vì họ khinh miệt người da đen, nói khác đi, họ không tôn trọng người da đen. Như Bác Tôm là một người da đen, bác rất tốt, bác làm việc giỏi, bác lại có lòng đạo đức. Thế nhưng những đức tính ấy không khơi lên lòng tôn trọng và do đó lòng yêu thương của tên lái buôn nọ. Ngược lại, bác càng tốt càng giỏi chừng nào thì hắn càng muốn bắt Bác đi làm món hàng mua bán chừng nấy, vì chính những đức tính ấy càng làm cho bác thành một món hàng cao giá. Còn đối với ông Senbi, tuy là một chủ da trắng nhưng lại yêu thương bác Tôm là một người nô lệ da đen, tại sao ? Vì ông Senbi biết đánh giá đúng những đức tính của Bác. Ông không Tôm bằng thằng, bằng mày, mà gọi bằng Bác. Ông không coi Tôm là tôi mọi nhưng coi như người nhà. Đối lại Tôm cũng rất thương ông Senbi. Người ta đã xúi bác Tôm trốn đi trước khi bị tên lái buôn bắt đi bán. Nhưng Bác đã từ chối "Nếu ông chủ buộc lòng phải bán tôi để khỏi phải bán tất cả những người khác và để khỏi phải phá sản thì thôi cũng được". Tóm lại, người da trắng và người da đen này thương nhau vì hai người đã biết rõ tấm lòng của nhau, vì họ tôn trọng nhau.
Trong truyện "Túp lều Bác Tôm", ta thấy hai điều : thứ nhất, tên lái buôn da trắng không thể nào yêu thương được người nô lệ da đen là vì không có lòng tôn trọng người ấy ; thứ hai, giữa bác Tôm và ông chủ da trắng có tình thương yêu nhau là vì họ tôn trọng nhau. Như vậy, tôn trọng phá tan mọi hàng rào ngăn cách để cho người ta đến gần nhau và tình yêu thương nhau. Hơn nữa, tôn trọng còn là cái nền tảng vững chắc giúp cho tình yêu của những người đã yêu thương nhau lại càng bền vững hơn.
Đến đây chúng ta có thể rút ra những kết luận thực hành :
. Chúng ta đang thương một số người, như cha mẹ, anh chị em, bạn bè, chồng vợ, người yêu của mình. Để cho những tình yêu thương ấy được bền vững, chúng ta hãy biết tôn trọng nhau. Dù những người đó có điều gì trái ý ta, dù có điểm tính tình họ khác ta, ta cũng phải tôn trọng họ, bởi vì mọi người là một cá thể độc đáo không ai hoàn toàn giống ai. Ta không được bắt buộc ai phải giống như mình. Ta phải tôn trọng cái quyền họ có quyền khác với ta,. Có thế mới tránh được những xung đột, sứt mẻ trong tình yêu thương nhau.
. Và còn rất nhiều người mà chúng ta chưa yêu thương. Tuân giữ giới răn của Chúa, ta cũng phải cố gắng yêu thương họ. Muốn vậy, việc đầu tiên phải làm là ta phải dẹp bỏ mọi thành kiến, mọi kỳ thị, phải tôn trọng họ : tôn trọng những điểm khác biệt nơi họ, tôn trọng quyền tự do của họ, ngay cả khi họ có những khuyết điểm lỗi lầm ta vẫn phải tôn trọng con người của họ, bởi vì lỗi lầm là lỗi lầm, nhưng con người vẫn là con người, vẫn có nhân phẩm, và ta yêu thương là yêu thương chính con người đó, yêu thương chính nhân phẩm đó.
Đức Giêsu nói "Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con". Theo Lời Chúa dạy, chúng ta hãy cố gắng yêu thương tất cả mọi người, và theo gương Chúa làm, chúng ta hãy cố gắng tôn trọng tất cả mọi người.

* 4. Vài suy nghĩ vụn vặt về tình yêu
a. "Yêu thương", "Tình gia đình", "Huynh đệ", "Chia xẻ", "Hiệp thông" v.v. là những từ ngữ được nói quá nhiều nhưng nhiều khi chỉ là sáo ngữ, rỗng tuếch, ngôn hành tương phản. Chính con cũng rất nhiều lần nói như thế. Từ nay con muốn nói những chữ ấy một cách thật lòng, nhất là nói với những người cùng niềm, cùng lý tưởng với con.
b. Yêu thương, nếu chỉ là một cảm giác dễ chịu thì chưa phải là tình yêu thật. Tình yêu thật là phải cho đi, phải hy sinh. Cho đi càng nhiều, hy sinh càng lớn thì tình yêu càng đúng nghĩa. Bởi thế Đức Giêsu nói : "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình"
c. "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình". Câu Tin Mừng này khiến tôi liên tưởng tới một câu chuyện tôi đã đọc hồi còn nhỏ, tựa đề "Anh phải sống" : hai vợ chồng nghèo đi kiếm củi trên ngàn để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trời giông bão, họ bị nước cuốn trôi. Chỉ có một khúc cây đủ sức cho một người bám. Người chồng bảo vợ hãy bám vào khúc cây, vì "em phải sống để lo các con". Người vợ cũng bảo chồng "Anh phải sống". Cuối cùng người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và các con.

* 5. Ở lại trong tình thương
Đức Giêsu bảo : "Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy".
- Chữ "ở lại" mà Đức Giêsu dùng khiến tôi hình dung tình thương của Chúa như một mái nhà. Mái nhà tình thương này luôn có chỗ cho tôi. Chúa bảo tôi hãy ở trong đó mãi, đừng bỏ nhà ra đi. Nghĩa là Chúa luôn thương tôi, chỉ có tôi là có khi không ở trong tình thương đó.
- Ở trong mái nhà tình thương của Chúa, khi tôi đói thì được ăn, khi khát thì được uống, khi mệt mỏi thì có thể nghỉ ngơi, khi bệnh tật thì được chăm sóc, khi buồn phiền thì có người an ủi…
- Chúa khuyên tôi ở lại vì Ngài biết tôi có thể bỏ đi. Tôi bỏ đi khi tôi không còn coi đó là nhà mình nữa, tôi tìm một chỗ khác mà tôi nghĩ là nhà mình ; Tôi bỏ đi khi tôi tưởng là trong nhà đó người ta không thương tôi nữa do tôi đã lầm lỡ thế nào đó.
- Nhưng khi Chúa bảo tôi "hãy ở lại" nghĩa là Ngài khẳng định rằng dù tôi thế nào đi nữa thì tôi vẫn được Ngài thương yêu, và không chỗ nào khác ở ngoài là nhà thực sự của tôi.

Báo Tuổi Trẻ số ra ngày 16-9-1999 đã đưa tin : "10.645 người nghèo đã khỏi mù". Theo Hội Bảo Trợ Bệnh Nhân Nghèo TP. HCM từ đầu năm 1999 đến nay các đoàn phẫu thuật ghép thủy tinh thể nhân tạo của thành phố và các quận huyện đã đem lại ánh sáng cho 10.645 người nghèo bị mù (đạt 88% kế hoạch 1999). Trong tháng 8-1999 đã có 108 lượt tổ chức cá nhân trong và ngoài nước đóng góp hơn 2 tỷ đồng ủng hộ quỉ hội (tăng 205% so với tháng 7-1999). Hội cũng đã tài trợ cho Bệnh viện Nhi Đồng 2 trên 79,5 triệu đồng giúp phẫu thuật cho 21 trẻ em không có hậu môn bẩm sinh, và giúp Trung Tâm Răng Hàm Mặt phẫu thuật cho 178 trẻ em bị sứt môi, hở hàm ếch tại Bình Định.
*
Hầu như đọc bất cứ tờ báo nào, chúng ta cũng thấy nhan nhản các tổ chức, cá nhân đầy lòng quảng đại từ tâm. Những tâm hồn biết chăm lo cho người nghèo đói, bất hạnh. Những con tim tràn đầy yêu thương dã cùng nhịp đập với Thầy Giêsu. Những tấm lòng mau mắn đáp lại tiếng mời gọi tha thiết của Người : "Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con" (Ga.15,12).
Kể từ khi Ngôi Hai nhập thể để bày tỏ tình yêu của Ngôi Cha dành cho con người, thì mối liên hệ giữa Thiên Chúa và nhân loại hoàn toàn thay đổi : Không còn là Tạo hóa và thụ tạo, không còn là Thượng đế và phàm nhân, không còn là Chủ ông và tôi tớ, nhưng chính là "Bạn hữu thân tình".
Tình yêu đã khiến Thiên Chúa hạ mình xuống với con người, cảm thông và chia sẻ với thân phận thụ tạo : "Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết"(Ga.15,15). Tình yêu đó đã đến chỗ tuyệt đỉnh, đến nỗi thánh Gioan viết : "Người đã yêu thương họ đến cùng" (Ga.13,1). Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu cho đến chết, và chết trên thập giá. Thánh Bênađô dạy : "Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ".
Nguồn tình yêu ấy phát xuất từ Cha xuống Con, và không dừng lại như nước ao tù, nhưng luân chuyển đến mọi trái tim con người trên toàn thế giới. Nếu tình yêu đã liên kết chúng ta với Chúa, thì cũng chính tình yêu ấy sẽ liên kết cha lại với nhau : "Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con" (Ga.15,12), vẫn biết rằng, con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức "Như Thầy đã yêu". Nhưng lời mời này vẫn giục giã chúng ta hướng lên mãi theo đường Thầy đã đi.
Đức Gioan Phaolô II trong Thông điệp Ánh Sáng Rạng Ngời Chân Lý, số 20 viết : "Chữ "như" này đòi hỏi phải bắt chước Đức Giêsu, tình yêu của Người, mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể… Chữ "như" cũng chỉ mức độ mà Đức Giêsu đã yêu thương các môn đệ của mình, và các môn đệ của người cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy.
Thế giới ngày nay khao khát tình yêu đích thực. Người tín hữu Kitô phải là nhân chứng của tình yêu ấy. Chúng ta không có dịp để chết cho tha nhân như Đức Kitô, nhưng chúng ta có rất nhiều dịp để sống cho tha nhân. Sống cho tha nhân là chết cho chính mình. Chết trong những hy sinh âm thầm hằng ngày. Chết không đổ máu, nhưng đổ mồ hôi và nước mắt. Chết không chỉ một lần, nhưng chết dần chết mòn cho hạnh phúc của tha nhân, Kahil Gibran viết : "Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi".
*
Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều, nhưng chúng con đáp lại chẳng được bao nhiêu. Chúa đã đặt tha nhân bên cạnh chúng con, để chúng con có thể làm cho họ điều mà chúng con không thể làm cho Chúa. Xin cho chúng con nhận ra khuôn mặt Chúa nơi tha nhân, để chúng con yêu thương họ như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")


V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, dấu chỉ chúng ta sống hiệp thông với Đức Giêsu là tuân giữ giới răn yêu thương mà Người đã trối lại. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những ý nguyện sau đây :

1. Sứ mệnh Hội thánh là phải trở nên dấu chỉ tình thương của Chúa giữa lòng thế giới / Xin cho mỗi thành phần trong Hội thánh / luôn ý thức và thực thi sứ mệnh ấy cho những người chung quanh mình.
2. Sứ mệnh của các nhà cầm quyền trong xã hội là phục vụ công ích cho mọi người / Xin cho các nhà cầm quyền khắp nơi / biết dẹp bỏ tư lợi của bản thân và của bè phái mình / để phục vụ tất cả mọi người.
3. Chung quanh chúng ta nhiều người bệnh tật già yếu, dốt nát / bị gia đình cũng như xã hội bỏ rơi / Xin cho có nhiều người biết quan tâm để yêu thương an ủi giúp đỡ họ.
4. Sứ mệnh của mỗi Kitô hữu là phải trở nên dấu hiệu tình thương của Chúa cho mọi người chung quanh gặp gỡ / Xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta không một ai trở thành dấu hiệu của bất công gian dối, hận thù và chia rẽ.
Chủ tế  : Lạy Chúa, chúng con được hiệp thông với Chúa nhờ lời Chúa và Thánh Thể Chúa, xin giúp chúng con biết sinh hoa kết quả trong việc tha thứ giúp đỡ mọi người, để chúng con trở thành chứng nhân tình yêu Chúa cho mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.

VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha : Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho chúng ta. Chúng ta hãy hết sức sốt sắng dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha.
- Sau kinh Lạy Cha : "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự ganh ghét, thù hận, ích kỷ. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."
- Chúc bình an : Chúng ta hãy thể hiện lòng yêu thương nhau qua việc chúc bình an cho nhau một cách thật lòng.

VII. Giải tán
Thánh lễ đã xong. Chúc anh chị em về bình an và cố gắng sống yêu thương với hết mọi người.

Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Nhật VI Phục Sinh (B)
Chúa Nhật, 10 Tháng 5, 2015
Lệnh truyền của Chúa Giêsu
Ga 15:9-17


1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Cha, Cha là nguồn mạch sự sống và Cha luôn làm chúng con ngạc nhiên với những món quà của Cha.  Xin ban cho chúng con ân sủng tương ứng lời mời gọi của Chúa Giêsu, Con Cha, Đấng đã gọi chúng con là bạn hữu, để trong việc đi theo Người, là Thầy và Mục tử của chúng con, chúng con có thể học để tuân giữ lệnh truyền của Người, Lề Luật mới và vĩnh cửu đó chính là Người, con đường dẫn đến Cha và ở trong Cha.  Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Con Cha, Chúa chúng con.

2.  Phúc Âm

9 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. 10 Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. 11 Thầy nói với các con điều đó để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn. 12 Đây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. 13 Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. 14 Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền. 15 Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. 16 Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. 17 Thầy truyền cho các con điều này là các con hãy yêu mến nhau.

3.  Bài đọc
Bối cảnh của đoạn Tin Mừng chúng ta đã xác định giai điệu:  đây là bài giảng dài của Chúa Giêsu với các môn đệ trong bữa Tiệc Ly sau khi rửa chân cho các ông, theo Gioan mô tả là sứ vụ yêu thương của Chúa Giêsu thậm chí cho đến cùng, (Ga 03:1-15).  Nếu chúng ta nhìn vào những chương thu gọn này, chúng ta có thể thấy tính năng động bắt đầu từ một cử chỉ như vậy, rửa chân, một cử chỉ phù hợp với việc làm của Chúa Giêsu như là dấu hiệu danh tính của Người và khẩn cầu đến đức tin của những người tìm kiếm và lắng nghe, đến bài giảng dài nói với các môn đệ như là một sự biểu lộ của việc cho-nhận mà cũng là một dấu hiệu của thái độ cần thiết và thực tại để tìm kiếm, ngay cả điều gọi là lời cầu nguyện “hàng tư tế” của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha (Ga chương 17), lời cầu nguyện đã vượt ra ngoài phạm vi các môn đệ của Người vì lợi ích của tất cả những ai tin vào Chúa trong tất cả mọi lúc.  Có một sự chuyển động lên cao của câu chuyện kể trùng hợp với sự sống lại của Chúa Giêsu trên thập giá, một sự chuyển động lên cao được nhận thức bởi Gioan như là sự tôn vinh Chúa Giêsu và là điều mà cuối cùng mô tả lễ Phục Sinh như là sự ra đi của Ngôi Lời từ bản thể nhân loại để về với Chúa Cha.   
Trong bài giảng của Chúa Giêsu, những lời bày tỏ nối tiếp nhau một cách chặt chẽ tạo thành một cơn lốc thông tri, không giới hạn trong nhịp điệu mà cũng chẳng buồn chán. Mỗi một lời bày tỏ thì đầy đủ, đơn giản, sắc bén và đặt để Chúa Giêsu của Gioan trong một sự liên tục của các chủ đề và điều kiện yêu thích.
Trong bối cảnh ngay trước đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu nói mình là cây nho thật (Ga 15:1); một hình ảnh cho thấy hai mối quan hệ:  Chúa Cha là người trồng nho và các môn đệ là ngành nho.  Hình ảnh này mặc khải cho thấy:  ngoài việc là một lời cổ võ cho các môn đệ, nó còn đưa ra một sự thật:  Chúa Cha chăm sóc cây nho quý giá của mình, chăm sóc mối quan hệ được thiết lập giữa Đức Giêsu và các môn đệ để từ nay các môn đệ sống trong sự hiệp thông định rõ cho các ông.  Lời hô hào thúc đẩy được biểu lộ trong chính hình ảnh của nó và được làm rõ ràng và là trung tâm trong chữ “ở trong”.  Các môn đệ được kêu gọi ở trong Chúa Giêsu giống như các nhành nho ở trong cây nho để có sự sống và mang lại hoa trái.  Chủ đề mang lại hoa trái cũng là chủ đề về cầu xin và nhận lãnh lặp lại trong đoạn Tin Mừng của chúng ta, ở đây được dự đoán, đặt trước chúng ta một ví dụ của phong cách đặc biệt về gợi ý và lặp lại của Gioan.  Giai điệu của câu 9 thay đổi bởi vì không còn một hình ảnh nào khác mà là sự nhắc nhở trực tiếp đến một mối quan hệ:  "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con”.  Chúa Giêsu đặt mình trong một tác động hạ mình từ ngôi vị Thiên Chúa bước xuống loài người. Động từ “yêu” đã xuất hiện trong chương 14 trong sự nối kết với việc tuân giữ các giới răn; giờ đây trong đoạn Tin Mừng này, nó xuất hiện lần nữa trong một tổng hợp mới nơi mà “các điều răn” nhường chỗ cho “lệnh truyền” của Chúa Giêsu:  “Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau" (Ga 15:17).  Mối quan hệ đối ứng này được lặp lại tức thì theo sau một lệnh truyền sâu sắc:  “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”.  Chúa Giêsu đi từ động từ “yêu” sang danh từ “tình yêu” để cho thấy rằng hành động bắt nguồn từ Chúa Cha qua Chúa Con đến nhân loại đã tạo nên một trật tự mới của sự vật, một khả năng mà cho đến khi ấy vẫn còn là một điều không thể tưởng tượng được. Trong câu 10, sự đối ứng được thực hiện theo nghĩa ngược lại: việc tuân giữ lệnh truyền của Chúa Giêsu cho các môn đệ là cách đáp ứng tình yêu của Người trong việc liên tục và loại suy thực sự của thái độ Con Thiên Chúa đã tuân giữ lệnh truyền của Chúa Cha và vì thế ở trong tình yêu của Người.  Quan điểm này khá khác biệt với chủ nghĩa pháp quyền đã được độc quyền bởi những từ ngữ “lề luật” và “các giới răn”.  Tất cả mọi thứ được Chúa Giêsu nói đến trong quan điểm xác thật hơn của Người:  tình yêu đáp lại tình yêu, lời công bố của khả năng ở lại trong sự hiện diện của Thiên Chúa.  Ngoài ra, các từ ngữ trong câu 11 trở thành một phương cách tiến xa khỏi tâm lý mang tính pháp lý: mục đích là niềm vui, một niềm vui của mối quan hệ, niềm vui của Chúa Kitô trong các môn đệ của Người, niềm vui của họ hiện diện trong sự viên mãn của nó.
Trong câu 12, như chúng ta đã nói, Lời Chúa trở nên cấp bách hơn.  Đức Giêsu nói rằng lệnh truyền của Người chỉ gồm một điều duy nhất:  “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con”.  Hãy để ý làm thế nào mà mối giây quan hệ vẫn như vậy, luôn như một sự đáp trả:  các môn đệ sẽ yêu thương nhau trong cách thức mà Chúa Giêsu đã yêu thương họ.  Tuy nhiên, những gì sau đó tái thiết lập một cách tuyệt đối tính ưu việt của món quà của Chúa Giêsu: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình” (câu 13).  Đây là công việc vượt quá sự so sánh tình yêu của Người, một hành động nâng cao đặc tính việc tham gia lên đến tột đỉnh của nó, món quà của mạng sống.  Ở đây, chúng ta có sự lạc đề đáng chú ý trong danh xưng mới được ban tặng cho các môn đệ, ấy là “bạn hữu” thay vì “tôi tớ”.  Sự khác biệt nằm ở thực tế là tôi tớ không biết những việc gì chủ mình đang dự tính.  Tôi tớ được gọi đến để giao việc và chỉ có thế thôi.  Bài giảng của Chúa Giêsu đi theo một chủ đề:  Bởi vì Chúa đã yêu thương các môn đệ mình và sắp sửa thí mạng sống mình cho họ rằng Người đã mặc khải cho các môn đệ kế hoạch của Chúa Cha.  Chúa đã làm điều này qua các dấu chỉ và công việc làm của Người.  Người sẽ làm điều này trong việc làm cao đẹp nhất của Người, cái chết của Người trên cây thập giá.  Một lần nữa, Chúa Giêsu cho thấy mối quan hệ gần gũi của Người với Chúa Cha:  “tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết” (câu 15).  Tuy nhiên, tại tâm điểm của lời khẳng định này với các môn đệ của mình như là bạn hữu, Chúa Giêsu bày tỏ một trật tự cho các sự việc:  “Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền” (câu 14).
Những câu cuối cùng của đoạn Tin Mừng gợi nhớ lại hình ảnh của cây nho với những điều được thêm vào ở trên:  Chính Chúa Giêsu đã chọn các môn đệ chứ không phải các môn đệ chọn Chúa.  Bước khởi đầu là Người.  Tuy nhiên, tiến trình của hình ảnh cây nho trồng trong đất được trình bày khác nhau.  Các môn đệ được kêu gọi để họ có thể đi và đi mang lại hoa trái, rồi để hoa trái được tồn tại (cùng một chữ được dùng như ở lại trong tình yêu của Chúa Giêsu).
Danh tính của các môn đệ được dựa trên sự lựa chọn của Chúa Giêsu và hướng về cuộc hành trình sắp được thực hiện, hoa trái sắp nảy sinh.  Bức tranh thật hoàn hảo:  lời mời gọi trong quá khứ, hiện tại đang lắng nghe và hoa trái nảy sinh trong tương lai.  Tuy nhiên, vẫn có Một Ai Đó cần phải được lưu tâm đến, vẫn còn có một thái độ cần phải có.  “Mang lại hoa trái” có thể đưa các môn đệ tiến đến hành động đơn phương.  Tuy thế, từ ngữ “để”, nối kết việc mang lại hoa trái với những gì sau đó:  cầu xin và nhận lãnh, trải nghiệm qua nhu cầu và quà tặng dồi dào và cho đi nhưng không (“những gì các con xin”).  Ai Đó mà Chúa Giêsu mặc khải là Chúa Cha, nguồn mạch của tình yêu và sứ vụ của Chúa con, Chúa Cha là Đấng mà chúng ta có thể trông cậy vào cậy nhờ danh Chúa Con cho đến lúc nào mà chúng ta vẫn ở trong tình yêu của Người, kết luận được đưa ra trong một hình thức trang trọng và ngắn gọn:  “Thầy truyền cho các con điều này là các con hãy yêu mến nhau”.

4.  Suy gẫm

Lời của Chúa Giêsu ngay trước khi vinh quang của mình nói với Giáo Hội ý nghĩa của việc đi theo Người và lệnh truyền của Người.  Chúng là những lời mạnh mẽ, phản ánh sự vinh hiển của Chúa, Đấng tự nguyện sẽ thí mạng mình cho sự cứu rỗi thế gian (xem Ga 10:17-18); nhưng chúng cũng là những lời chính xác và do đó chúng đơn giản, cần thiết, gần gũi, kết nối và điển hình của một bài giảng từ biệt khi mà những lời lặp đi lặp lại trở nên lời kêu gọi cấp bách và nhẹ nhàng.  Làm môn đệ của Chúa Kitô việc trước hết là một ân sủng:  Chính Người đã chọn các môn đệ, chính Người đã mặc khải cho các ông về sứ vụ của mình và do đó Người đã mặc khải về “quá trình” của dự án cứu độ:  ý muốn của Chúa Cha, tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con, bây giờ được truyền đạt đến cho nhân loại.  Bấy giờ các môn đệ mới biết, không phải là những bước đầu tiên của quá khứ lịch sử ơn cứu độ và hiện tại của những ai đã chọn để sống cho riêng mình và không muốn tìm hiểu giá trị của công trình được thực hiện bởi Chúa Con do ý muốn của Chúa Cha.  Kiến thức này sẽ đòi hỏi các ông lựa chọn để không ở trong điều kỳ vọng trống rỗng và vô ích (xem 1Ga 4:8-20).  “Ở lại” trong tình yêu của Chúa Giêsu và tuân giữ “lệnh truyền” của Người là điều mặc khải hơn hết, ân sủng của khả năng tối thượng giải thoát người ta khỏi tình trạng nô lệ, ngay cả đối với Thiên Chúa và đặt họ trong một mối quan hệ mới, đầy đủ và đối ứng với Người, điển hình là tình bằng hữu.  “Ở lại trong tình yêu của Người” là những gì các sách Phúc Âm Nhất Lãm gọi là “Vương Quốc Thiên Chúa”, một giai đoạn mới trong lịch sử, ban đầu bị thương tổn và bây giờ được tự do.
Trong văn hóa người Do Thái, việc tuân giữ các giới răn được nối kết với việc giảng dạy ra vẻ thông thái thường đi vào các chi tiết nhỏ nhặt nhất.  Điều này có giá trị của nó bởi vì nó đã chứng kiến nỗ lực của những người Do Thái mộ đạo vẫn trung thành với Thiên Chúa.  Tuy nhiên, họ đã dùng sự may rủi, thông thường như tất cả các nỗ lực của loài người, rằng họ sẽ không nhìn thấy sự khởi xướng của Thiên Chúa và nhấn mạnh vào phản ứng của loài người.  Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu phục hồi và như thế đổi mới ý nghĩa của chữ “lề luật” và “các giới răn” với khái niệm “tình yêu” và lời mời gọi “ở trong”.  Khi Chúa Giêsu công bố và cho thấy tình yêu của Chúa Cha trong hành động thí mạng sống của mình cho sự cứu rỗi thế gian, Người đổi mới và nhân cách hóa sự tuân thủ này.  Đó là tình yêu cho thấy sự ưu tú của nó, không trừu tượng, mà trong khuôn mặt cụ thể và hữu hình của Chúa Kitô, Đấng yêu thương “đến cùng” và đích thân sống tình yêu cao cả nhất.  Nhiều lần Chúa Giêsu mô tả mối quan hệ của Người với Chúa Cha. Thực tế ở đây Người tự đặt mình dưới dấu hiệu của sự vâng lời Chúa Cha cho ý nghĩa mới động từ vâng phục.  Nó không phải là sự vâng phục của một người tôi tớ mà là của Con Thiên Chúa.  Công việc được thực hiện đó là “các điều răn của Cha Ta”, không phải là một cái gì đó riêng biệt từ con người của Chúa Giêsu, mà điều mà Người biết và hết lòng mong muốn.  Ngôi Lời đối với Chúa Cha là luôn luôn cùng với Chúa Cha để thực hiện những điều vui lòng Người trong sự hiệp thông cụ thể đó là thí mạng sống.  Đây chính là điều Chúa Giêsu yêu cầu các môn đệ:  hãy nhớ rằng “Như Cha đã yêu mến Thầy… như Thầy cũng yêu mến các con” không còn ở mức độ của một ví dụ, mà là ở mức độ của nguồn gốc sinh ra.  Tình yêu của Chúa Cha là nguồn gốc của tình yêu được biểu lộ bởi Chúa Con, và tình yêu của Chúa Con là nguồn gốc của tình yêu mà các môn đệ sẽ ban phát cho thế gian.
Như thế kiến thức và sự thực hành được nối kết chặt chẽ trong “tinh thần Tin Mừng”, như Tin Mừng của Gioan đã được gọi bởi các Giáo Phụ của Giáo Hội.  Khi đức tin xác thực thì nó sẽ không tha thứ cho một cuộc sống phân đôi.        
Trong đoạn Tin Mừng này, các môn đệ xuất hiện như một đối tượng của sự chữa trị tận tình của Thầy mình.  Người sẽ không quên họ, ngay cả trong lúc việc xử án sắp xảy ra, khi Người cầu nguyện với Chúa Cha cho họ và “cho những ai thông qua việc giảng dạy của họ mà tin vào con” (Ga 17:20).  Vào cuối bài giảng, việc đón nhận và cam kết của các ông là niềm vui của họ, cũng là niềm vui của Thầy các ông.  Người đã chọn các ông bằng cách xử dụng các tiêu chuẩn mà chỉ có Thiên Chúa biết, một chọn lựa gợi nhớ lại sự chọn lựa dân tộc Israel, quốc gia nhỏ nhất trong tất cả các quốc gia.  Chính Đức Giêsu là Người đã hình thành, giảng dạy và tăng sức cho các ông.  Tất cả điều này mang một ý nghĩa mới và mạnh mẽ hơn dưới ánh sáng của lễ Phục Sinh và Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.  Nó giống như một nghịch lý, và đây là những gì họ được gọi là:  kiên định, ở lại và vẫn chưa đi.  Kiên định và năng động mà cội nguồn là mầu nhiệm Thiên Chúa, nhờ đó mà Ngôi Lời ở cùng với Chúa Cha và vẫn dựng lều của Người ở giữa chúng ta (xem Ga 1:2,14).
Được hình thành trong sự kiên định và sẽ mang lại hoa trái lâu dài, điều này xác định nhiệm vụ của các môn đệ sau Lễ Vượt Qua của Chúa, nhưng trong đoạn Tin Mừng của chúng ta tất cả những điều này được nối kết với lời mời gọi cầu xin Chúa Cha cậy vì danh Chúa Giêsu.  Sau đó, từ Chúa Cha, trong Chúa Kitô và với sức mạnh của Đấng An Ủi sẽ đến với ân sủng tình yêu, và trong yêu thương, để làm chứng.                                  

5.  Cầu Nguyện

Có một số điểm trong đoạn Tin Mừng này có thể giúp chúng ta đổi mới phong cách của lời cầu nguyện:
- Một lời cầu nguyện đó là “Thiên Chúa Ba Ngôi” thực sự, không chỉ về mặt lý thuyết hoặc trong cách diễn đạt của nó, mà còn là một năng động vốn có của chính lời cầu nguyện.
- Sự cần thiết cho lời cầu nguyện và đời sống phải là một.  Cầu nguyện là tấm gương, sự biểu lộ và đo lường của đời sống đức tin chúng ta.
- Niềm vui phải đi kèm với thái độ cầu nguyện của chúng ta.
- Ghi nhận tất cả đều là con người (nhận thức về mối quan hệ, tình yêu của cầu nguyện, kinh nghiệm của niềm vui, tri thức của sự hiệp nhất với Thiên Chúa) và nhận biết rằng tất cả đều là ân sủng.

Thánh Vịnh 119:129-136

Thánh ý Chúa kỳ diệu lắm thay,
nên hồn con tuân giữ.
Giải thích lời Ngài là đem lại ánh sáng
cho kẻ đơn sơ thông hiểu am tường.
Con há miệng và con hớp lấy,
vì khát khao mệnh lệnh của Ngài.
Xin đoái nhìn con và động lòng trắc ẩn,
như đã quyết định cho người mến Thánh Danh.
Theo lời hứa của Ngài, xin cho con vững bước,
chớ để sự gian tà chế ngự được con;
cứu con khỏi ác nhân hà hiếp,
con sẽ tuân theo huấn lệnh của Ngài.
Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Chúa,
thánh chỉ Ngài, xin dạy bề tôi.
Mắt này suối lệ tuôn rơi,
bởi chưng luật Chúa người đời chẳng tuân.
       
6.  Chiêm Niệm                                       
Lời của Chúa kêu gọi chúng ta xác nhận trong tâm hồn và trong hành động chúng ta sự mới mẻ của việc được làm môn đệ Con Thiên Chúa.  Bốn khía cạnh:  mối quan hệ với Thiên Chúa, bài đọc thực tiễn, sự cam kết và quan tâm đến đời sống của Giáo Hội như những hạt giống của sự chiêm niệm, thái độ và những chọn lựa.
Mối quan hệ với Thiên Chúa:  phát triển trong nhận thức của trong mối quan hệ với Thiên Chúa Ba Ngôi; chúng ta được nghĩ đến, được mong muốn, ban tặng, được rỗi giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần; biểu thị hành động của chúng ta trong sự đáp trả lại tình yêu của Thiên Chúa là Đấng kêu gọi chúng ta trước.
Bài đọc thực tiễn:  nhận biết phản ứng cá nhân với người ta và với các tổ chức, chẳng hạn như việc tầm thường hóa khái niệm “tình yêu” trong một giải thích vật chất cũng như thoát ly tinh thần.  Mặt khác, nhận thức về sự mong đợi của mối quan hệ tự nguyện và được giải thoát như những kinh nghiệm của ân sủng đích thực thường không được công nhận.
Sự cam kết với thực tế:  hiến tặng đời sống của một người (trong mọi hình thức) như là một biểu hiện cụ thể và cảm kích của tình yêu; sự quan trọng của kinh nghiệm thông tri mới của sự khôn ngoan theo sau hoa trái của việc làm chứng nhân cho Tin Mừng trong thế gian mà Thiên Chúa muốn cứu rỗi.
Đời sống của Giáo Hội như là đời sống của mối quan hệ trong mối quan hệ: Giáo Hội không chỉ là hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi, nhưng là “bên trong” Thiên Chúa Ba Ngôi; lấy lại cảm giác của sự tự do và niềm vui trong cộng đoàn các tín hữu.

7.  Lời Nguyện Kết

Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con cảm tạ Chúa về sự chăm sóc yêu thương mà Chúa đã dạy và vẫn dạy cho các môn đệ Chúa.  Chúng con ca ngợi Chúa, Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết, bởi vì Chúa đã đánh cược tất cả những gì thuộc về Chúa, thậm chí cả mối quan hệ đời đời với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần.   Chúa đã biểu hiện mối quan hệ này với chúng con là những kẻ có thể không hiểu được điều ấy, xem thường hay là quên lãng nó.  Chúa đã nói về điều ấy cho chúng con hầu chúng con có thể hiểu được một tình yêu đã ban cho chúng con sự sống tuyệt vời như thế nào.  Lạy Chúa, xin cho chúng con có thể được ở lại trong Chúa như những nhành nho vẫn còn kết hiệp với cây nho đã nuôi dưỡng chúng và để chúng mang lại hoa trái.  Xin Chúa hãy đoái nhìn ánh mắt đức tin và hy vọng của Chúa trên chúng con hầu để chúng con có thể học hỏi để đi từ những lời và ước vọng đến các hành động cụ thể trong việc noi gương Chúa, Đấng đã yêu thương chúng con đến cùng khi Chúa đã trao ban mạng sống mình cho chúng con để chúng con có thể có cuộc sống trong Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị với Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét