17/01/2016
Chúa Nhật 2 Quanh Năm Năm C
(phần I)
Bài Ðọc I: Is
62, 1-5
"Người
chồng sẽ vui mừng vì vợ".
Trích sách Tiên
tri Isaia.
Vì Sion, tôi sẽ
không im tiếng, và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghỉ ngơi, cho đến khi Ðấng công
chính xuất hiện như ánh sáng, Ðấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời. Mọi
dân tộc sẽ thấy Người là Ðấng công chính của ngươi, và mọi đế vương sẽ thấy
vinh hiển Người. Chính Chúa sẽ đặt cho ngươi một tên mới. Ngươi sẽ là triều
thiên vinh hiển trong tay Chúa, và vương miện quyền bính trong tay Thiên Chúa
ngươi, ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không còn gọi
là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là "kẻ Ta ưa thích", và đất ngươi
sẽ được gọi là đất có dân cư, vì ngươi đẹp lòng Thiên Chúa, và đất ngươi sẽ có
dân cư.
(Như) thanh
niên sẽ ở cùng trinh nữ, con cái ngươi sẽ ở trong ngươi; (như) người chồng sẽ
vui mừng vì vợ, Thiên Chúa ngươi sẽ vui mừng vì ngươi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 95,
1-2a. 2b-3. 7-8a. 9-10ac
Ðáp: Hãy tường thuật phép lạ Chúa giữa
chư dân (c. 3).
Xướng: 1) Hãy
ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy
ca mừng Thiên chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.
2) Ngày ngày
hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân,
và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. - Ðáp.
3) Hãy kính tặng
Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với
vinh quang, hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người. - Ðáp.
4) Hãy mặc lễ
phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên nhan, hãy
công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người cai quản chư dân theo đường
đoan chính. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr
12, 4-11
"Cùng một
Thánh Thần ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định".
Trích thư thứ
nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến,
có những hồng ân khác nhau, nhưng vẫn là một Thánh Thần; có nhiều chức vụ khác
nhau, nhưng chính là một Chúa; và có những hành động khác nhau, nhưng chính là
một Thiên Chúa, Người thực hiện hết mọi cái trong mọi người. Ơn Thánh Thần ban
cho mỗi người mỗi khác, cốt để mưu cầu công ích. Người thì được Thánh Thần cho
lời khôn ngoan, kẻ khác thì được lời thông minh, theo cùng một Thánh Thần; người
khác được đức tin, trong cùng một Thánh Thần; kẻ khác nữa được ơn chữa bệnh,
trong cũng một Thánh Thần đó; có người được ơn làm phép lạ, có kẻ được ơn tiên
tri, người khác được ơn phân biệt các thần trí; có người được ơn nói nhiều thứ
tiếng; người khác được ơn giải thích các thứ tiếng. Nhưng cùng một Thánh Thần
duy nhất thực hiện tất cả những điều đó. Người ban phát ơn riêng cho mỗi người
theo như Người quy định.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 19,
38
Alleluia,
alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và
vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 2,
1-12
"Chúa
Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa".
Tin Mừng Chúa
Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có tiệc
cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ
Người cũng được mời dự tiệc cưới. Và bỗng thiếu rượu, mẹ Chúa Giêsu nói với Người:
"Họ hết rượu rồi". Chúa Giêsu nói với mẹ: "Hỡi bà, Con với bà có
can chi đâu, giờ Con chưa đến". Mẹ Người nói với những người giúp việc:
"Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo". Ở đó có sáu chum đá, dùng vào
việc thanh tẩy của người Do-thái, mỗi chum đựng được hai hoặc ba thùng nước.
Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy đổ nước đầy các chum". Họ đổ đầy tới miệng.
Và Chúa Giêsu bảo họ: "Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc!" Và họ
đã đem đi. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết tự
đâu ra, nhưng những người giúp việc đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang
mà nói: "Ai cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách ngà ngà thì mới đem rượu
xoàng hơn. Còn ông, ông lại giữ rượu ngon tới giờ này". Chúa Giêsu đã làm
phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn
đệ Người tin Người.
{Sau đó Người
xuống Capharnaum làm một với mẹ Người, anh em (Người) và môn đệ của Người,
nhưng các Ngài chỉ lưu lại ở đó ít ngày thôi.}
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ðức Giêsu Kitô Tỏ Mình Trong Tiệc Cưới Cana
Sau lễ Hiển
linh nói lên mầu nhiệm Ðức Giêsu tỏ mình cho chư dân, phụng vụ bắt đầu mùa Thường
niên. Và những Chúa nhật mở đầu trong mùa này sẽ thuật lại những công việc đầu
tiên mà Ðức Giêsu làm để xây dựng Nước Trời trong kế hoạch đã khiến Người nhập
thể giáng sinh cứu đời. Ðó là những việc đã từng được Cựu Ước loan báo và hứa hẹn.
Ðức Giêsu đã thực hiện khi Người ra đi giảng đạo, nhưng với mục đích những việc
ấy còn kéo dài ảnh hưởng cứu độ cho đến tận cùng lịch sử. Như vậy, các việc Ðức
Giêsu đã làm đang còn có liên hệ đến chúng ta; khiến chúng ta phải để tâm quan
sát và tìm hiểu. Chúng ta có thể cứ theo thứ tự thời gian: đọc lại những lời
loan báo của Cựu Ước về ý chỉ cứu độ của Chúa; rồi xem Người thực hiện thế nào
qua hành động của Ðức Giêsu nhưng nhất là cần xem những hành động này để lại ảnh
hưởng cứu độ thế nào trong cuộc đời hiện nay của chúng ta.
1. Thiên Chúa Hứa
Kết Hôn Với Dân Người
Bài sách Isaia
hôm nay là một lời tiên tri rất an ủi. Khó có thể xác định Chúa đã tuyên bố những
lời hứa này vào lúc nào. Tiên thiên, người ta có thể bảo đây là những lời an ủi
Israen khi họ đang lưu đày. Họ thấy mình đã bị bỏ rơi. Vì thực ra còn gì có thể
gọi là dân Chúa? Ðất nước bị ngoại bang xâm chiếm, Ðền thờ cũng chẳng còn; mà
các phần tử ưu tú trong dân cũng đã bị phát lưu sang tận Babylonia. Ở đây, người
ta chỉ thấy sức mạnh của đế quốc. Và tà giáo ở những nơi này thịnh đạt vô cùng.
Làm sao Israen có thể hồi sinh được? Và Chúa của Abraham, Isaac và Giacob chắc
chẳng mong gì có lại được một ngôi đền thờ sở dĩ coi được. Ngài đã bỏ Israen rồi,
vì chính họ đã chẳng chịu quay mặt về lại với Người. Lưu đày là mồ chôn mọi lời
giao ước...
Ðó là ý nghĩa của
Israen. Mọi kẻ biết họ cũng chỉ có thể nghĩ như thế thôi. Nhưng đó lại không phải
là ý nghĩ của Thiên Chúa. Người sai Isaia và các ngôn sứ đến. Họ khẳng định
tương lai sẽ không như vậy. Ở đây Isaia có vẻ như sẽ chẳng chịu ngồi yên cho đến
khi nào ánh sáng của Chúa lại tỏa trên Sion. Giêrusalem sẽ lại bừng sáng trước
sự ngưỡng mộ của chư dân. Chẳng ai sẽ còn bảo Israen là kẻ bị bỏ rơi nữa; ngược
lại rõ ràng nó sẽ trở nên người hôn thê lý tưởng của Thiên Chúa tình yêu.
Và tất cả sẽ xảy
ra như thế chỉ vì Giavê là Ðấng tín thành. Người không bỏ rơi người bạn mà Người
đã đính ước. Người lại toàn năng đến nỗi tự mình thay đổi hẳn được vận mạng của
bạn Người hiện nay. Từ thân phận như của một vùng đất tan hoang, Người sẽ biến
nó nên thiên đàng trù mật; và từ hình thức một thiếu phụ tàn tạ, Người sẽ đổi mới
thành một hiền thê khả ái. Chương trình của Người đáng tin cậy sao? Ðó là những
lời tiên tri đầy an ủi. Niềm tin này trở thành lẽ sống duy nhất của dân lưu
đày.
Chúng ta biết
các ngôn sứ đã có lý. Chúa đã đưa dân lưu lạc về. Giêrusalem được tái thiết.
Nhưng ánh sáng như vừa lóe lên ở Sion, thì bỗng dưng chân trời lại như muốn tối
sầm lại. Việc xây dựng đền thờ gặp nhiều khó khăn do đám dân đến ở Giêrusalem
trong thời gian lưu đày. Dân Chúa lại nao núng niềm tin. Có lẽ vào lúc ấy Isaia
mới tuyên bố những lời trong bài đọc hôm nay. Vị trí của những lời này trong
sách của ông khiến chúng ta phải nghĩ như vậy. Ðây là sấm ngôn trong phần III
(cũng gọi là sách III) trong tác phẩm mang tên Isaia. Xét về thời gian đó là những
lời tiên tri sau lưu đày. Nhưng xét về nội dung đó cũng là những lời có giá trị
an ủi Israen như trong phần II (hoặc sách II) của Isaia, tuyên bố trong thời
gian dân Chúa bị thử thách.
Ðàng nào thì
dân Chúa cũng đang gặp khó khăn và nặng mặc cảm bị Chúa bỏ rơi. Không như vậy
thì vì sao công việc tái thiết đền thờ lại gặp khó khăn như thế này. Tựa vào niềm
tin, Isaia can đảm nói lên lời trông cậy. Ông khuyến khích những cánh tay đang
tái thiết đền thờ đừng rã rời vì nản chí. Chúa sẽ chiếu sáng trên Sion mà! Người
sẽ đặt triều thiên trên đầu dân Người. Họ sẽ là hôn thê của Người như Hôsê cũng
đã từng loan báo. Chúng ta chưa thấy những công việc ấy hoàn toàn xảy ra sau
lưu đày. Nhưng sau này chắc chắn sẽ như vậy. Và những gì đáng xảy ra sau lưu
đày, ít nhất cũng là những dấu hiệu bảo chứng để chúng ta tin tưởng hướng về
tương lai.
Như vậy việc đặt
các lời tiên tri hôm nay vào thời gian sau lưu đày, lại càng ý nghĩa đối với
chúng ta. Chúng không cho phép chúng ta dừng lại nơi Cựu Ước, tưởng rằng lời
tiên tri đã thực hiện cho dân sau lưu đày. Không, mọi lời tiên tri chỉ thể hiện
đầy đủ trong Tân Ước, khởi sự nơi Ðức Giêsu Kitô nhưng cũng chỉ hoàn tất khi
Người vươn tới tầm vóc viên mãn, tức là lúc thế mạt. Cũng như thay vì hiểu những
lời tiên tri hôm nay như là những lời của Isaia nói với Israen, chúng ta có thể
coi đó là những lời của chính Thiên Chúa trực tiếp nói với dân Người. Họ bảo
Người bỏ rơi họ ư? Này, Người sẽ không ngồi yên cho đến khi ánh sáng lại bừng
lên trên Giêrusalem và Sion trở thành hiền thê của Người. Hiểu như vậy, bản văn
sẽ trữ tình hơn, cũng như hiểu đây là những lời tiên tri sau lưu đày sẽ trở nên
gần gũi với chúng ta hơn. Dù sao đoạn tiên tri hôm nay cũng cho chúng ta thấy
tình yêu trung kiên nồng nàn của Thiên Chúa đang nóng lòng muốn kết hôn với dân
Người. Người đã thực hiện được việc ấy chưa, hay còn trong thời gian chờ đợi?
Chúng ta hãy tìm câu trả lời trong bài Tin Mừng và bài Thánh thư.
2. Ðức Giêsu
Kitô Tỏ Mình Trong Một Cuộc Hôn Nhân
Rất tiếc, phụng
vụ đã không giữ lại những chữ đầu tiên mở đầu cho bài Tin Mừng hôm nay. Thánh
Gioan đã không viết rằng: bấy giờ có một tiệc cưới ở Cana; nhưng ghi rõ
"ngày thứ ba" có tiệc cưới ở Cana". Những chữ "ngày thứ
ba" rất có giá trị. Trong các sách Tin Mừng, những chữ ấy loan báo việc
Chúa Giêsu sống lại ngày thứ ba sau khi tử nạn... Và như vậy thánh Gioan muốn kể
câu chuyện tiệc cưới Cana trong ánh sáng và bầu khí Phục Sinh. Chúng ta phải
dùng mầu nhiệm Chúa sống lại để hiểu sự việc sắp xảy ra.
Hơn nữa theo
sách Tin Mừng của Gioan, ngày thứ ba hôm đó là ba ngày sau khi Ðức Giêsu hứa
cho Nathanaen còn được xem thấy những việc lớn lao hơn việc Người biết rõ hành
động của ông. Và tức cũng là ngày thứ năm sau khi Ðức Giêsu nhận các môn đệ đầu
tiên; và là bảy ngày sau khi Gioan giới thiệu Người với dân chúng. Như vậy tiệc
cưới Cana xảy ra vào ngày thứ tám, tức là ngày Chúa nhật của đạo mới. Gioan vốn
có óc phụng vụ, đặt câu chuyện xảy ra vào ngày Chúa nhật để hàm ý nói rằng nó
có hệ đến sinh hoạt của Hội Thánh hiện nay. Chúng ta không những phải dùng ánh
sáng phục sinh để tìm hiểu, mà cũng phải liên hệ với phụng vụ Chúa nhật, tức là
sinh hoạt của Hội Thánh hiện nay nữa. Những chữ "ngày thứ ba" mở đầu
câu chuyện tiệc cưới Cana có ý nghĩa như thế.
Cũng như rất có
ý nghĩa sự hiện diện của Ðức Maria, Mẹ Ðức Giêsu trong câu chuyện này. Người đã
có mặt ở đó trước khi Ðức Giêsu đến với các môn đệ. Như vậy mẹ con đã sống xa
nhau rồi. Ðức Giêsu đã đi vào cuộc đời công khai, xã hội. Người sống với các
môn đệ chứ không còn ở với mẹ trong gia đình.
Tuy nhiên sách
Tin Mừng Gioan sẽ lại nói đến Ðức Maria một lần nữa và chỉ một lần nữa thôi,
khi ở dưới chân thập giá. Ðầu và cuối cuộc đời cứu thế của Ðức Giêsu đều có sự
hiện diện của Mẹ Người, khiến chúng ta thấy Gioan có hàm ý rằng Ðức Maria theo
dõi tham gia mật thiết vào công cuộc cứu thế. Và chúng ta nên nhìn khuôn mặt
Người ở đây như khi Người sẽ đứng dưới chân thánh giá... Ðiều này giúp chúng ta
hiểu hơn câu chuyện tiệc cưới, đặc biệt những lời đối thoại giữa Ðức Giêsu và Mẹ
Người.
Vậy Ðức Maria
đã có mặt tại tiệc cưới khi Ðức Giêsu đến với các môn đệ. Mẹ Người ở giữa xã hội
loài người để đón tiếp ơn Chúa viếng thăm. "Họ hết rượu rồi", đó là lời
Ðức Maria nói với Con Người khi Người vừa đến. Ai xúi Ðức Maria nói như vậy?
làm sao Người biết việc đó? Hành động này nói lên sự hiểu biết thông cảm và
tình thương cứu độ của Ðức Maria. Người là Ðấng cầu bầu cho loài người khốn khổ.
Người thưa với Thiên Chúa về mọi nhu cầu của chúng ta, cả khi chúng ta không biết
việc Người làm, chúng ta có tôn kính yêu mến Người mấy cũng chưa bù được tình
thương săn sóc của Người đối với chúng ta. Một mặt Người là Ðấng cầu bầu cho
chúng ta nhưng mặt khác, Người luôn luôn quay mặt nói với chúng ta như nói với
những người giúp tiệc hôm đó "Ngài có bảo gì thì cứ làm theo". Gioan
lấy lại lời Pharaon nói với dân Ai Cập trong nạn đói khổ: "Giuse bảo gì
thì cứ làm theo" (Kn 41,55). Ðặt những lời này trên môi miệng Ðức Maria,
Gioan muốn Mẹ Maria đóng vai trò giới thiệu Chúa Cứu Thế.
Hơn nữa, dường
như Người muốn nói với tất cả những ai ở mọi thế hệ chạy đến cầu bầu Người rằng:
hãy cứ thi hành lệnh Chúa truyền dạy. Trước mặt Chúa, Người là Ðấng chuyển cầu
cho chúng ta"... Còn đối với chúng ta, Người luôn luôn nhắn nhủ hãy sống
theo ý Chúa. Hai vai trò ấy cho chúng ta thấy Ðức Maria trong mầu nhiệm Cứu Thế
và khiến chúng ta phải biết tôn sùng Người thế nào cho hợp ý Người. Ở đây,
trong tiệc cưới Cana, Người đã trình bày thân phận thiếu thốn của loài người tội
lỗi trong câu: "Họ hết rượu rồi". Ðó là dân Cựu Ước thường dùng để mô
tả thời buổi đói khổ dân Chúa, biểu lộ hoàn cảnh đáng thương đang chờ ơn Cứu độ.
Như vậy Ðức
Maria xin ơn cứu độ cho loài người. Ít ra, Ðức Giêsu hiểu như vậy và muốn nâng
lòng Mẹ Người phải hiểu như thế. Do đó Người gọi mẹ bằng từ ngữ rất thông thường
chẳng phải bất kính gì, nhưng muốn đặt mẹ vào trong kế hoạch cứu độ. Trong kế
hoạch này, tình máu mủ thế gian không ăn thua gì. Tất cả giá trị tùy thuộc ở niềm
tin.
Sau này, khi ở
trên thập giá, Ðức Giêsu cũng gọi mẹ bằng từ ngữ: "này bà", để Người
ngửng đầu lên nhận lấy trách nhiệm và vinh dự làm mẹ cả loài người.
Giờ ấy hôm nay
chưa đến, Ðức Giêsu ý thức như vậy. Nhưng nó cũng đã khởi sự từ hôm nay. Hoặc
ít ra Ðức Giêsu cũng muốn bắt đầu khi có lời thỉnh nguyện của Ðức Maria. Người
chưa biến chén rượu thành máu, vì đó là việc của "giờ" Cứu độ sẽ được
thi hành trong mầu nhiệm tử nạn phục sinh. Nhưng tiếp xúc với một nhân loại thống
khổ, như Ðức Maria vừa trình bày cho Người thấy, Ðức Giêsu đã khởi sự cứu vớt.
Người biến nước thành rượu để báo trước sẽ đến giờ biến rượu thành máu... Người
biến cả 6 chum nước lớn để tỏ ra ơn cứu độ sẽ vô cùng dồi dào phong phú.
Và sự kiện này
không thể không tạo nên một niềm hân hoan lớn. Tất cả những câu nói của người
chủ tiệc chỉ có mục đích nói lên lòng cảm mến hân hoan đó. Rượu mới mà Ðức
Giêsu mang đến vượt xa thứ rượu cũ của Cựu Ước khiến thật sự chúng ta được
chiêm ngưỡng vinh quang hiển linh của Chúa nơi Ðức Giêsu Kitô.
Hiểu bài Tin Mừng
hôm nay như vậy, chúng ta thấy rõ câu chuyện tiệc cưới Cana gắn liền với mầu
nhiệm Cứu thế và với phụng vụ Thánh Thể mà Hội Thánh cử hành mỗi ngày thứ 8, tức
là ngày Chúa nhật. Thánh Gioan cho chúng ta thấy một cuộc hội họp, hình ảnh của
xã hội loài người nói chung và cộng đồng dân Chúa nói riêng.
Ðức Maria đã ở
đó như là Người trung gian các ơn trong thái độ chuyển cầu và khuyên bảo. Cuộc
hôn nhân mà loài người đang cử hành, tức là đời sống con người ở diện hạnh phúc
nhất, đang lâm vào tình trạng nguy ngập; Ðức Kitô đến; Ðức Mẹ thỉnh cầu; loài
người làm theo ý Chúa; hôn lễ được hồi sinh; nhưng người ta sẽ không còn để ý đến
đám hôn nhân hôm ấy nữa cho bằng đang nhìn theo đám người đang đi xuống
Capharnaum: Ðó là đi với Mẹ và anh em Người, và với các môn đồ của Người. Ðó là
cộng đồng dân Chúa mới, là Hội Thánh Ðức Kitô, là hôn nhân mới và vĩnh cửu nhờ
chén rượu đã trở thành máu trong giao ước mới, mà hôm nay việc nước biến nên rượu
là bước đầu.
Như vậy, kết
thúc bài Tin Mừng, thánh Gioan mời chúng ta nhìn sang Giáo Hội. Ở đây bài Thánh
thư sẽ soi sáng thêm cho chúng ta.
3. Hội Thánh Và
Thánh Thần
Nhìn vào Ðức
Giêsu vừa làm phép lạ biến nước thành rượu giữa các tông đồ, con mắt đức tin của
Gioan đã nhận ra vinh quang của Thiên Chúa đã đến ở giữa loài người. Thiên Chúa
và dân Người đã mật thiết với nhau như thầy với trò.
Hơn nữa, bản
tính Thiên Chúa đã mặc lấy xác thể loài người khi Ngôi Lời hóa thành nhục thể.
Ðó không phải là cuộc hôn nhân giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và dân Người
sao? Lời tiên tri đã được thực hiện nơi Ðức Giêsu. Nhưng Ðức Giêsu đi giữa các
môn đệ chưa hoàn toàn là Ðức Giêsu vinh quang. Ánh sáng của Người chỉ lóe lên
chốc lát trong phép lạ nước hóa thành rượu. Ði giữa các môn đệ chưa được đầy
Thánh Thần, vinh quang của Người còn bị xác thịt che dấu.
Nay Người đã trở
về trời và sai Thánh Thần xuống, thì kìa Hội Thánh của Người đang đầy sức mạnh
của Thánh Thần. Tông đồ Phaolô nhìn thấy sự sống hiện nay của Hội Thánh là một
vườn hoa muôn sắc. Không thiếu ơn nào của Hội Thánh là một vườn hoa muôn sắc.
Không thiếu ơn nào. Khôn ngoan có; trí tri có; có những phần tử đầy lòng tin lại
có những anh em được tài chữa bệnh. Các ơn tiên tri cũng nhiều, mà các ơn biện
phân mầu nhiệm cũng lắm. Một Hội Thánh như vậy không phải là một tổ chức loài
người. Ðó không phải là xã hội sống bằng sự sống nhân loại. Nhưng rõ ràng đó là
cơ thể đầy thần khí. Thánh Thần đang làm việc trong cơ thể như đã từng làm việc
trong con người Ðức Giêsu Kitô ngày trước. Nói cách khác, xưa Thiên tính đã ở với
Ðức Giêsu thành Nadarét để cứu thế, thì bây giờ Thần khí Thiên Chúa đang ở
trong Hội Thánh để tiếp tục sứ mạng của Ðức Giêsu. Hội Thánh là thân thể nối
dài của Người. Và như vậy, cuộc hôn nhân giữa Thiên Chúa và dân Người, xưa thực
hiện nơi Ðức Giêsu, thì nay cũng đang tiếp tục trong Hội Thánh. Hội Thánh là
Israen mà Isaia đã nhìn thấy trong niềm tin vào lời hứa. Hội Thánh thực hiện mọi
lời tiên tri đã từng là lẽ sống cho tiền nhân. Và sở dĩ như vậy là nhờ Ðức
Giêsu Cứu Thế, đã biến đổi rượu thành máu trong cuộc khổ nạn của Người, hoàn tất
phép lạ hóa nước thành rượu trong tiệc cưới ở Cana. Chủ đám ngày xưa đã thốt ra
những lời ngưỡng mộ kinh ngạc khi được nếm chút rượu mới, thì chúng ta phải hân
hoan cảm tạ biết bao khi chạm vào chén máu của Ðức Kitô trong thánh lễ này.
Phải, chính
trong Hội Thánh và nơi Thánh Thể mà chúng ta thấy kết tinh kế hoạch cứu độ của
Thiên Chúa. Ở đây rõ ràng có tiệc cưới Chiên Con. Rượu sẽ hóa thành máu và máu
sẽ ban Thánh Thần cho những ai lãnh nhận để một thần khí Thiên Chúa sinh hoạt
nơi mọi phần tử trong Hội Thánh. Tham dự thánh lễ này, vì thế, chúng ta phải kết
hiệp với thánh linh; và rồi phải sống như mình chỉ là một chi thể trong một
thân thể. Phải đem khả năng thi hành nhiệm vụ riêng để phục vụ đoàn thể. Lúc ấy
Hội Thánh mới tỏ ra thực là một cơ thể, cơ thể có Thần Khí, làm chứng Thiên
Chúa đang kết hiệp với dân Người, thể hiện mọi lời tiên tri về hôn nhân như
chúng ta đã nghe đọc trong thánh lễ hôm nay.
(Trích dẫn từ
tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố
Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 2 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: Isa 62:1-5; I Cor 12:4-11; Jn 2:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành hiệp nhất trong những khác
biệt của nhau.
Thiên Chúa tạo
dựng mỗi người, ban ân sủng, và trao sứ vụ khác nhau. Ngài muốn mỗi người chu
toàn sứ vụ của mình theo như những gì được ban cho, để xây dựng gia đình, xã hội,
và Nhiệm Thể của Đức Kitô. Nhưng rất nhiều người không hiểu sự quan phòng của
Thiên Chúa, họ lấy mình làm tiêu chuẩn để nhận xét, phê bình và đòi hỏi tha
nhân phải giống họ. Hậu quả là họ phải gánh là bất đồng ý kiến, chia rẽ, và hận
thù.
Các Bài Đọc hôm
nay mời gọi con người hãy nhận ra sự khác biệt trong mỗi cá nhân, về quà tặng
cũng như sứ vụ; để tôn trọng tha nhân và cùng nhau xây dựng Nước Chúa. Trong
Bài Đọc I, vì không biết vâng lời Thiên Chúa và tôn trọng tha nhân, Jerusalem
được ví như một người vợ bị chồng là Thiên Chúa bỏ rơi và con cái bị lưu đày cực
khổ các nơi; nhưng tiên-tri Isaiah nhìn thấy trước ngày Thiên Chúa sẽ đoái
thương nhìn đến và nối lại tình xưa nghĩa cũ với Jerusalem, vì Ngài là Thiên
Chúa trung thành yêu thương. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô nêu bật một chìa
khóa quan trọng để gìn giữ sự hiệp nhất và hạnh phúc trong gia đình cũng như cộng
đoàn, là phải nhận ra những gì có chung và những gì khác biệt, để tôn trọng những
khác biệt của nhau và cùng nhau xây dựng lợi ích chung. Mô hình lý tưởng là sự
hiệp nhất giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Mẹ Maria nhận ra ngay sự khó
khăn của đôi tân hôn trong ngày trọng đại nhất của cuộc đời họ. Mẹ biết chỉ một
người duy nhất có thể cứu vãn tình thế là Chúa Giêsu; nhưng Mẹ chỉ biết cầu cứu
Chúa và nhắn nhủ các người giúp việc: "Hễ người bảo gì, cứ làm như vậy."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng
bàn tay Đức Chúa.
1.1/ Jerusalem
hoang phế sẽ được Thiên Chúa đoái thương nhìn tới: Jerusalem được tiên tri Isaiah nhân cách
hóa như một người vợ để chỉ nhà Israel. Jerusalem bị Thiên Chúa bỏ rơi, vì đã bất
trung với Thiên Chúa và bất công với tha nhân. Hậu quả là quân thù đã tiêu hủy
bình địa Jerusalem và đem tất cả dân chúng đi lưu đày. Tuy nhiên, tình yêu và sự
trung thành của Thiên Chúa là lý do Jerusalem được phục hồi. Thiên Chúa không
đành lòng khi thấy Jerusalem điêu tàn hoang phế; nhưng Ngài phải sửa phạt để
Jerusalem nhận ra những khuyết điểm của mình mà ăn năn xám hối và quay về với
tình yêu đích thực. Nếu không sửa phạt, Jerusalem sẽ chết trong tội của mình và
xa lìa Thiên Chúa. Trong trình thuật hôm nay, tiên-tri Isaiah được Thiên Chúa
cho nhìn thấy trước ngày Jerusalem được phục hồi qua lời tuyên sấm: "Tới
ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông, ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn
đuốc. Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương
sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng. Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới,
chính là tên miệng Đức Chúa đặt cho. Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng
bàn tay Đức Chúa, sẽ là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở
tay."
1.2/ Hạnh phúc có
được khi Jerusalem biết sống mối liên hệ với Thiên Chúa: Vì bất trung và không giữ các mệnh lệnh
của Thiên Chúa mà Jerusalem bị mang tiếng là "Đồ bị ruồng bỏ!" Xứ sở
bị mang tiếng là "Phận bạc duyên đơn." Nhưng một khi quay trở về với
Thiên Chúa, Ngài sẽ yêu thương và chăm sóc Jerusalem như một người vợ yêu dấu.
Lúc đó, Jerusalem sẽ được chồng là Thiên Chúa gọi: "Ái khanh lòng Ta hỡi!"
Xứ sở sẽ được nổi danh là "Duyên thắm chỉ hồng." Jerusalem sẽ được Đức
Chúa đem lòng sủng ái, Chúa sẽ lập hôn ước cùng xứ sở ngươi và Đấng tác tạo
ngươi sẽ cưới ngươi về. Khi biết sống mối liên hệ của người vợ trung thành,
Jerusalem sẽ trở thành niềm vui và niềm hãnh diện của Thiên Chúa.
2/ Bài đọc II: Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có
một Thần Khí.
Đây là một tư
tưởng quan trọng trong nền thần học về thân thể của Phaolô, và là chìa khóa hiệu
nghiệm để xây dựng hiệp nhất, bình an, và hạnh phúc. Thánh Phaolô khuyên con
người nhận ra hai đặc điểm quan trọng:
2.1/ Những gì mọi
người cùng có chung: Để có
thể sống chung và cùng nhau làm việc, con người phải nhận ra những gì mọi người
có chung. Ngài liệt kê ra những điểm có chung quan trọng:
(1) Một Thánh
Thần: Đấng ban những đặc sủng khác nhau cho mỗi người để xây dựng lợi ích chung
và Nhiệm Thể của Đức Kitô.
(2) Một Chúa
Kitô: Đấng hy sinh chịu chết cho mọi người được tha tội và mang lại ơn cứu độ
cho mọi người. Tất cả chúng ta là chi thể của một Nhiệm Thể của Đức Kitô.
(3) Một Thiên
Chúa: Đấng dựng nên và quan phòng mọi sự trong mọi người. Mỗi ngôi vị của Ba
Ngôi Thiên Chúa tuy thi hành một sứ vụ khác nhau; nhưng cả ba cùng chung một mục
đích là mưu cầu lợi ích cho con người.
(4) Chỗ khác,
thánh Phaolô còn liệt kê thêm các tín hữu chỉ có một Phép Rửa, một niềm tin vào
Ba Ngôi Thiên Chúa, và được tiền định để hướng về cùng một đích điểm.
2.2/ Những gì mọi
người khác nhau: Bên cạnh
những gì con người có chung, họ còn có rất nhiều khác biệt:
(1) Mỗi người
được ban các đặc sủng khác nhau: "Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn
ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày.
Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất
ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người
thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được
ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ.''
''Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho
mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người."
(2) Đặc sủng
khác nhau dẫn tới những ơn gọi khác nhau: giáo sư để giảng dạy, cha xứ để chăm
sóc phần linh hồn cho dân, giáo dân để cung cấp nhân lực và giúp đỡ cho xã hội
và Giáo Hội, bác sĩ để chữa lành ... Mỗi người một công việc khác nhau, không
có ơn gọi này quan trọng hơn ơn gọi khác; nhưng tất cả đều góp phần trong việc
xây dựng lợi ích chung.
(3) Mỗi người
được tạo thành cách khác nhau: phái tính; tính khí; cơ thể ...
(4) Ngoài ra, mỗi
người còn sống trong môi trường và những nền văn hóa khác nhau; được nuôi dưỡng,
dạy dỗ, và trưởng thành trong những gia đình khác nhau.
Chúng ta không
thể nào tìm được hai cá nhân giống nhau về mọi phương diện; vì thế, chúng ta đừng
bao giờ bắt tha nhân phải suy nghĩ và hành xử giống mình về mọi phương diện.
3/ Phúc Âm: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm
theo."
Trình thuật hôm
nay bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng của Chúa Giêsu và là phép lạ đầu tiên
trong Tin Mừng theo thánh Gioan. Đây là phép lạ quan trọng, vì nó khơi mào kỷ
nguyên của Đấng Thiên Sai. Chúa Giêsu tỏ uy quyền và sự quan tâm của Ngài cho Đức
Mẹ, cho các môn đệ, và cho dân chúng để họ tin vào Ngài. Có ba phản ứng khác
nhau trong trình thuật hôm nay.
3.1/ Phản ứng rất
tinh tế của Đức Mẹ: Mẹ
Maria, tuy là khách dự tiệc; nhưng Mẹ không giống như đa số khách dự tiệc đến để
ăn. Mẹ là người đầu tiên nhận ra hoàn cảnh khó khăn của đôi tân hôn. Mẹ hiểu biến
cố hết rượu trong ngày cưới sẽ ảnh hưởng đến hạnh phúc của đôi tân hôn, nên Mẹ
đến cầu cứu với Chúa Giêsu cho đôi trẻ, và nói với con mình: "Họ hết rượu
rồi." Sự kiện Mẹ chọn đến thưa chuyện với Chúa Giêsu chứng minh hai điều:
(1) Niềm tin của
Mẹ vào uy quyền của Chúa Giêsu: Mẹ biết Chúa Giêsu là người duy nhất có thể cứu
vãn tình thế cho đôi trẻ.
(2) Mẹ không
truyền lệnh; nhưng cầu cứu để Chúa Giêsu tự do đáp trả.
Sau đó, Mẹ ra
ngoài bếp và nhắn nhủ những người giúp việc một điều quan trọng: "Người bảo
gì, các anh cứ việc làm theo."
3.2/ Phản ứng của
Chúa Giêsu: Khi nghe lời Mẹ
cầu cứu, Đức Giêsu trả lời: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ
của tôi chưa đến." Giờ của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan là giờ mà Ngài
được vinh quang khi bị treo trên Thập Giá. Toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu trên
dương thế đều hướng về giờ này.
Thoạt nghe câu
trả lời của Chúa Giêsu, nhiều người có thể cho là Ngài bất hiếu; nhưng họ cần
phải suy xét thêm: Trong cuộc đời, mỗi người có một sứ vụ Thiên Chúa trao để
chu toàn và có một thời gian cố định để chu toàn sứ vụ đó. Chúng ta đừng bao giờ
bắt người khác phải thi hành sứ vụ đó theo yêu cầu và thời gian của chúng ta.
Đây là chìa khóa để giữ bình an, hiệp nhất và hạnh phúc của gia đình.
Lời nhận xét của
người quản tiệc là một ví dụ khác cho việc đừng bắt người khác phải luôn theo
truyền thống, vì mỗi người một hoàn cảnh khác nhau. Ông trách tân lang:
"Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu
xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ."
3.3/ Phản ứng của
những người giúp việc: Trình
thuật kể: "Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục
người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước."
- Đức Giêsu bảo
các người giúp việc: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi!" Đây không phải
một lệnh truyền dễ thi hành vì phải ra đi kín một lượng nước lớn trong ngày lễ
cưới; nhưng họ đã vâng theo lệnh truyền của Chúa và đổ đầy tới miệng.
- Rồi Người nói
với họ: "Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc." Lại một lệnh
truyền không dễ làm vì đòi hỏi một niềm tin; nhưng họ vâng lời và đem cho ông
quản tiệc.
- Kết quả: Khi
người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết rượu từ đâu ra,
chỉ có gia nhân đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang lại và hỏi: Tại sao
giữ rượu ngon đến giờ này?
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải
tránh thái độ tự tôn cho mình có thể làm mọi việc mà không cần sự giúp đỡ của
tha nhân.
- Chúng ta phải
tôn trọng sự khác biệt của người khác. Đừng bao giờ bắt họ phải giống mình
trong cách nhận xét, trình bày, và giải quyết các vấn đề.
- Điều chúng ta
có thể làm là trình bày sự thật và mời gọi con người đáp trả; nhưng phải để cho
tha nhân suy nghĩ và tự do đáp trả theo hoàn cảnh và thời gian của họ.
- Chúng ta đừng
vội kết tội và đoạn tuyệt với tha nhân vì họ đã không nhận ra sự thật và làm
theo ý muốn của mình.
Linh mục
Anthony Đinh Minh Tiên, OP
17/01/16 CHÚA NHẬT TUẦN
2 TN – C
Ga 2,1-11
Ga 2,1-11
Suy niệm: Thấy
đôi tân hôn trong tiệc cưới bỗng hết rượu, Mẹ Ma-ri-a nhập cuộc: “Người bảo gì, các anh cứ làm
theo.” Mẹ vững tin vào Chúa Giê-su, nhờ đó mà dấu lạ đầu tiên được
thực hiện, dẫn đôi tân hôn và các môn đệ đến với Đấng là nguồn mạch đức tin.
Sau đó, Mẹ xóa mình đi, biết rằng mình chỉ giữ vai trò chuyển cầu. Mẹ không
hoạt động song song với Chúa
Giê-su, Mẹ chỉ hoạt động cho Chúa. Chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất là
Đức Ki-tô. Nhưng Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa cách bảo đảm nhất (Per Mariam ad Jesum).
Lòng tôn kính Mẹ, vì thế, phải dan đưa ta đến với Chúa Ki-tô. Thánh Grignon de
Montfort lưu ý rằng ta không tận hiến cho Đức Mẹ, mà tận hiến cho Chúa Giê-su
qua Đức Mẹ và nhờ Đức Mẹ.
Mời Bạn: Suy
xét lại lòng sùng kính Đức Mẹ và các thánh của ta, phải chăng ta coi các ngài
như là Thiên Chúa, khi dừng lại ở một lòng mộ mến quá nặng cảm tính, ủy mị đến
độ tôn thờ, mà quên rằng các ngài là những phản ánh Thiên Chúa toàn chân,
thiện, mỹ.
Sống Lời Chúa: “Các tín hữu hãy nhớ rằng lòng
tôn sùng chân chính không hệ tại tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại
một sự dễ tin, phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn
chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng
ta lấy tình con thảo yêu mến Mẹ chúng ta và noi gương các nhân đức của Mẹ” (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, số 67).
Cầu nguyện: Lạy Mẹ, xin dẫn con đến với Chúa bằng một lòng tin-cậy-mến vững
vàng, nồng ấm như Mẹ. Amen.
HỌ
HẾT RƯỢU RỒI
Cần biết bao sự hiện diện của Chúa và Mẹ trong mỗi gia đình,
giữa lúc khó khăn bối rối. “Người bảo gì, các con hãy làm”: Ðó vẫn là lời Mẹ nhắn
nhủ chúng ta hôm nay.
Suy niệm:
Ðức Giêsu, Mẹ Ngài và các môn đệ
cùng có mặt trong một đám cưới ở làng quê Cana.
Ðám cưới là một cuộc vui kéo dài cả tuần.
Tiếc thay, tiệc nửa chừng thì hết rượu.
Ðức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên trong Tin Mừng Gioan.
Ngài đã biến nước thành rượu.
Ngài trả lại bầu khí vui tươi cho đám cưới.
Tin Mừng Gioan hay kể lại những dấu lạ có ý nghĩa.
Những dấu lạ vén mở con người Ðức Giêsu.
Làm bánh hóa nhiều cho thấy Ðức Giêsu là Bánh thật.
Chữa người mù bẩm sinh cho thấy Ðức Giêsu là Ánh Sáng.
Hoàn sinh Ladarô cho thấy Ðức Giêsu là sự Sống Lại.
Dấu lạ ở tiệc cưới Cana cũng cho ta biết Ngài.
Thứ nước dùng cho nghi thức tẩy uế của Do Thái giáo,
Ðức Giêsu biến nó thành rượu ngon,
một lượng rượu khổng lồ vượt quá mức đòi hỏi.
Ngài biến nước của Cựu Ước thành rượu của Tân Ước.
Như thế Ngài đã mở ra một thời đại mới
thời đại thiên sai, chan chứa niềm vui cứu độ.
Ðức Giêsu cho thấy mình chính là Ðấng Mêsia.
Ngài đến để thiết lập một trật tự mới
dồi dào và phong phú, như rượu vừa nhiều vừa ngon.
Cựu Ước không làm con người mãn nguyện.
Con người vẫn khát khao và tìm kiếm hạnh phúc.
Nhưng hạnh phúc vẫn là cái gì bèo bọt, mong manh.
Ðức Giêsu đã dự tiệc cưới ở Cana.
Ngài muốn dự mọi bữa tiệc liên hoan của con người.
Ngài muốn chia sẻ và bảo vệ niềm vui bé nhỏ nơi họ.
Ðừng để Ðức Giêsu đứng ngoài hạnh phúc của bạn.
Ðừng coi Ngài là người ganh ghét với niềm vui bạn có.
Nếu bạn nghe lời Ngài, đổ nước đầy các chum rỗng,
bạn sẽ gặp được hạnh phúc vững bền.
Dấu lạ Cana chủ yếu cho ta thấy Ðức Giêsu là ai,
nhưng Ðức Maria cũng có một vai trò đáng kể.
Mẹ hiện diện trong tiệc cưới như thân mẫu Ðức Giêsu.
Mẹ thấy rõ sự lúng túng lo âu của chàng rể.
“Họ hết rượu rồi”: Mẹ chỉ nói với Con như vậy.
Câu nói của Mẹ ẩn chứa một lời nài xin kín đáo.
Mẹ mong Con làm một điều gì đó mà Mẹ không rõ.
“Người bảo gì, các anh hãy làm.”
Quả thật Ðức Giêsu có bảo và các gia nhân có làm,
nhờ đó dấu lạ Cana được thực hiện.
Qua sự đóng góp của Mẹ trong dấu lạ mở màn này,
đức tin của các môn đệ được củng cố và lớn lên.
Hôm nay Mẹ vẫn nói nhỏ với Chúa: Họ hết rượu rồi!
Niềm vui chợt tắt, tình yêu nhạt phai, gia đình tan
vỡ...
Cần biết bao sự hiện diện của Chúa và Mẹ
trong mỗi gia đình, giữa lúc khó khăn bối rối.
“Người bảo gì, các con hãy làm”:
Ðó vẫn là lời Mẹ nhắn nhủ chúng ta hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ
đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Ðức Giêsu.
Mẹ
đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ
tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ
đi thăm Ðức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và
cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ
lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm
thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Ðức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Ðường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
17 THÁNG
GIÊNG
Xây Dựng Một
Bầu Khí Sống Hoạt Yêu Thương
Nhiều khía cạnh
khác của đời sống gia đình cũng cần được quan tâm. Chẳng hạn, chúng ta không được
phép quên quyền lợi của phụ nữ, trẻ em và người già lão. Và cũng có những quyền
lợi của gia đình xét như một toàn thể – tôi đã đề cập đến những quyền này trong
Tông Huấn Familiaris consortio. Tòa Thánh đã đúc kết những quyền này trong bản
“Hiến Chương Quyền Của Gia Đình”.
Tất cả các quyền
ấy đều rất quan trọng; nhưng ở đây tôi muốân đề cập một cách đặc biệt đến quyền
được giáo dục của con cái. Trách nhiệm giáo dục con cái mình là một trách nhiệm
rất quan trọng của cha mẹ – qua đó họ giúp con cái mình đạt đến mức trưởng
thành đầy đủ trong tất cả các giá trị căn bản nhất của đời sống. Công Đồng
Vatican II nêu rõ: “Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót thì
khó lòng bổ khuyết được. Thực vậy, chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một
bầu khí thấm nhuần tình yêu cũng như lòng thành kính đối với Thiên Chúa và tha
nhân, để giúp cho việc giáo dục toàn diện con cái trong đời sống cá nhân và xã
hội trở nên dễ dàng. Do đó, gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức tính xã
hội cần thiết cho mọi đoàn thể.” (GD 3).
- suy tư 366
ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công
Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR
HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 17/01
Chúa Nhật II
Thường Niên
Is 62, 1-5;
1Cr 12, 4-11; Ga 2, 1-11.
Lời Suy
Niệm: Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào
chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và
đem cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông.
Tại tiệc cưới
Cana, Phép lạ Nước hóa thành Rượu ngon, là do bởi Lời Chúa và sự Vâng Phục của
con người; với sự cầu bàu của Đức Mẹ Maria với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi”.
Cùng sự hướng dẫn của Đức Mẹ: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” Đời sống
của mỗi người tín hữu muốn được sống hạnh phúc, cần phải mở rộng lòng mình đón
nhận Chúa vào trong tâm hồn của mình, trước mỗi khó khăn, bất trắc và thử
thách, cần phải chạy đến với Đức Mẹ, bởi Đức Mẹ vừa là Mẹ của chúng ta, vừa là
Đấng trung gian và hằng quan tâm đến con cái của mình.
Lạy Chúa Giêsu.
Xin Chúa ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn biết chạy đến với
Đức Mẹ, Nhờ Mẹ, chúng con biết vâng nghe Lời Chúa và thực hành Lời Chúa dạy, để
chúng con có niềm vui trong cuộc sống.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 17-01:
Thánh ANTÔN
Viện Phụ (Thế
kỷ IV)
Thánh Antôn
chào đời năm 250 tại Corma, gần Hieraclens, miền thượng Ai cập. Cha mẹ Ngài nổi
danh giàu có lẫn đạo đức, đã lo lắng dạy dỗ Ngài sống đạo ngay từ nhỏ.
Khi được 18 tuổi
thì cha mẹ Ngài qua đời. Sáu tháng sau ngày mất cha mất mẹ, tại một giáo đường,
thánh nhân đã nghe đọc lời sách thánh: "Nếu con muốn nên trọn lành, hãy về
bán hết của cải và đem phân phát cho kẻ nghèo khó rồi theo Ta" (Mt 19,21).
Tưởng như Thiên Chúa nói riêng với mình đã về bán hết của cải và đem phân phát
cho người nghèo khó.
Sau khi lo lắng
gửi gấm em gái của mình cho một nữ tu viện, Ngài lui vào sa mạc để làm việc và
cầu nguyện, Ngài theo đuổi một cuộc sống rất khắc khổ, chỉ ăn bánh với muối và
uống nước ngày một lần sau khi mặt trời lặn. Để giữ được sự cô tịch trọn vẹn,
Ngài còn ẩn thân vào một ngôi mộ bỏ trống. Thỉnh thoảng một người bạn mang bánh
đến cho Ngài bánh đến cho Ngài nhưng ma quỉ đã tìm cách quấy phá để trục Ngài
ra khỏi "căn phòng" và cuộc sống khắc khổ, chúng thường hay la hét và
hiện hình kỳ quái. Phản ứng lại, thánh nhân thường cầu nguyện nhiều hơn và tăng
gấp những việc hãm mình. Giận dữ vì các mưu mô bị thất bại, ma quỉ còn công
khai hành hạ Ngài nữa.
Một ngày kia
người bạn mang bánh đến, bỗng thấy thánh nhân nửa sống nửa chết, mình đầy thương
tích. Nhưng khi vừa bừng tỉnh, thánh nhân liền chỗi dậy và la lớn: - Tôi còn sẵn
sàng chiến đấu. Lạy Chúa, không, không gì có thể tách lìa con khỏi lòng yêu mến
Chúa được.
Giữa những đau
đớn vì các cuộc tấn công của ma quỉ, Ngài khinh bỉ trả lời: - Ồn ào vô ích. Dấu
thánh giá và lòng tin tưởng vào Chúa là những thành trì kiên cố.
Thánh nhân luôn
tin tưởng nơi Chúa. Ngày kia, được an ủi trong tâm hồn và cảm thấy là ma quỉ đã
lùi bước, Ngài cầu nguyện: - Oi, lạy Chúa, Chúa ở đâu ? Sao Chúa không ở đây
lau sạch nước mắt và thoa dịu những dày vò của con ?
Tiếng Chúa trả
lờ i: - Cha ở gần con, cha giúp con chiến đấu. Bởi vì con đã chống trả lại ma
quỉ, cha sẽ bảo vệ quãng đời còn lại của con. Cha sẽ làm cho tên con rạng rỡ
trên trời.
Tràn đầy nghị lực,
thánh nhân chỗi dậy tạ ơn Chúa. Muốn xa mọi người hơn nữa, Ngài vượt sông Nil đến
trú ngụ trong một pháo đài hoang phế đầy những rắn rết. Nhưng sự thánh thiện của
Ngài như một sức nam châm, vẫn thu hút nhiều người đến xin làm môn đệ. Thế là một
phong trào ẩn tu nổi lên mạnh mẽ. Sa mạc mọc lên những mái tranh, từ đó không
ngừng vang lên những lời kinh ca khen Chúa. Thánh nhân trở nên vị thủ lãnh của
nếp sống ẩn tu.
Dầu vậy, thánh
An tôn đã hai lần từ giã sa mạc. Vào năm 311 khi có cuộc bách hại của Alaximiô,
Ngài nói: - Nào ta cùng đi chiến đấu với anh em ta.
Ngài lên đường
đi Alexandria. Người ta thấy thánh nhân khích lệ các tù nhân nơi các trại giam,
theo họ tới trước quan tòa và khuyên nhủ họ can đảm chết vì đạo, Ngài còn xuống
hầm trú để an ủi các linh mục. Ngài thoát chết là một điều lạ lùng.
Cuộc bách hại
chấm đứt được một năm, thánh nhân lại tìm về sa mạc. Số các môn sinh ngày càng
tăng thêm đông. Sợ bị cám dỗ thành kiêu căng, và thấy gương các thánh tử đạo,
thánh Antôn khao khát sống khắc khổ để đền tội. Ngài tiến sâu hơn nữa vào sa mạc.
Sau ba ngày đi theo đoàn người buôn bán, Ngài dừng lại gần biển Đỏ, dưới chân
núi Kolzim và dựng một căn lều vừa đủ để nằm để ở. Dân Bê-đu-anh (Bédouins) cho
Ngài bánh ăn. Về sau các môn sinh tìm tới và mang cho Ngài một cái xuổng với một
ít hạt giống, đây là nguồn gốc của tu viện thánh Antôn hay là Deir-el-Arat, một
tu viện theo nghi lễ Cốp (Copte) ngày nay vẫn còn.
Lần thứ hai,
thánh nhân trở lại Alexandria theo lời mời của đức giám mục Athanasiô, để chống
lại lạc giáo. Dân chúng cả thành chen lấn nhau đi đón Ngài. Các lương dân cũng
bảo nhau: - Chúng ta đi gặp người của Thiên Chúa.
Nhiều người cảm
động vì những bài diễn thuyết và những phép lạ Ngài làm, đã xin lãnh bí tích rửa
tội, người ta tưởng sẽ gặp một lão già tám mươi hoang dại, nhưng đã ngạc nhiên
khi thấy Ngài rất lịch thiệp, xử dụng ngôn ngữ văn hóa và diễn tả tư tưởng rất
uyên thâm. Các triết gia ngoại giáo ngạc nhiên hỏi Ngài:
- Ngài làm gì
được trong sa mạc không có sách vở chi hết ? Thánh nhân trả lời:
- Thiên nhiên đối
với tôi là một cuốn sách mở rộng.
Và người ta ngỡ
ngàng về những điều thánh nhân đã khám phá được trong cuốn sách vĩ đại này của
Đấng Tạo hóa.
Điều đáng kể dường
như không phải những nhiệm nhặt Ngài theo đuổi, mà là tâm hồn trong trắng Ngài
kết hiệp mật thiết với Chúa, Ngài nói: - Hư danh là kẻ thù nguy hiểm nhứt của
chúng ta.
Danh tiếng của
thánh Antôn lan rộng đến nỗi vua Constantinô và con cái ông đã viết thư tham khảo
ý kiến Ngài, Môn sinh của Ngài hãnh diện lắm. Nhưng Ngài bảo họ:
- Đừng ngạc
nhiên lắm khi thấy nhà vua là một con người viết thư cho một con người. Đáng ngạc
nhiên là chính Thiên Chúa đã muốn viết luật cho loài người, và đã nói với chúng
ta qua đức Giêsu Kitô .
Và trả lời cho
lớp người vương giả ấy, Ngài dùng những lời cao thượng để khuyên họ biết khinh
chê danh vọng mà nhớ tới cuộc chung thẩm.
Khi Ngài đã quá
90 tuổi, Thiên Chúa qua một thị kiến đưa ngài đến thăm thánh Phaolô ẩn tu trong
sa mạc. Ngài còn được cho biết là sẽ sống tới tuổi 105.
Biết sắp tới giờ
từ giã trần gian, Ngài đi thăm anh em Ngài lần chót. Ngài nói với họ về sự chết
với niềm vui của người hồi hương. Họ đã khóc ròng, nhưng Ngài khuyên nhủ họ: -
Hãy sống như phải chết mỗi ngày. Hãy cố gắng noi gương các thánh.
Thánh nhân trở
lại núi với hai môn sinh. Trong căn phòng nghèo nàn của mình, Ngài đã phó linh
hồn trong tay Chúa lúc 105 tuổi. Chúng ta biết được ân sủng giai thoại quý báu
của đời thánh An tôn là nhờ thánh Athanasiô kể lại.
(daminhvn.net)
17 Tháng
Giêng
Cứ Ðể Yên Như Thế
Trong một
tác phẩm có tựa đề "Quyển Phúc Aâm thứ 5", một tác giả người Italia
là ông Mario Pomilio có tưởng tượng ra một mẩu chuyện như sau: Sau thời kỳ bách
hại tại Roma, các tín hữu bắt đầu xây cất nhà thờ. Ðâu đâu người ta cũng thấy mọc
lên nhà thờ. Tên của Ðức Mẹ và các Thánh được đặt cho các nhà thờ. Nhưng người
ta vẫn chưa thấy có nhà thờ nào mang tên của Ngôi Lời. Thấy thế thánh Gioan mới
đến báo cáo với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu bèn ra lệnh cho thánh Phêrô khởi công
xây cất một nhà thờ dâng kính cho Ngôi Lời.
Con người đã
có một thời được mệnh danh là người xây dựng vĩ đại của Giáo Hội mới đi rảo khắp
nơi để thu tập vật tư. Thánh Mathêô đã cung cấp đá. Thánh Marcô mang vôi đến.
Thánh Luca tặng những cây trụ lớn. Còn Thánh Gioan thì cúng đá cẩm thạch để làm
bàn thờ và vàng để làm nhà tạm..
Với tất cả
những vật liệu cần thiết, Thánh Phêrô hớn hở bắt tay vào việc xây cất. Nhưng thời
gian trôi qua, công sức đã tiêu hao quá nhiều mà người thợ xây Phêrô mới chỉ
hoàn tất được việc đặt nền móng cho ngôi nhà thờ. Thấm mệt, vị thủ lãnh các
tông đồ mới cầu xin Chúa: "Lạy Chúa, xin ban thêm cho con đủ sức để hoàn
thành ngôi Nhà Thờ".
Chúa Giêsu mới
trả lời: "Cứ để yên như thế. Ngươi hãy nhớ rằng cứ mỗi người đi ngang qua
công trình này đều có thể mang đến một viên gạch, một ít vôi để xây tường và thế
hệ này qua thế hệ khác, những cột trụ Ðền Thờ sẽ được dựng lên".
Có hai sự kiện
xem ra tương phản nhau: tại Tây Phương, nhiều nhà thờ bị đóng cửa hoặc đem ra
bán đấu giá, vì giáo dân không đủ cấp số hoặc không còn người lui tới nhà thờ.
Trong khi đó thì tại Việt Nam, nhu cầu sửa chữa hoặc xây nhà thờ mới mỗi ngày một
gia tăng.
Có thể có hai
quan niệm sống đạo đằng sau hai sự kiện ấy. Nhiều người Tây Phương cho rằng sống
đạo là sống Công Bình và Bác Aùi, chứ không nhất thiết phải đến nhà thờ. Trong
khi đó thì có người lại trách cứ rằng nhiều người Việt Nam chỉ giữ đạo hình thức,
họ thích biểu dương tôn giáo, họ thích rước sách, họ đọc kinh làu làu, họ siêng
năng đến nhà thờ, nhưng họ xem thường những đòi hỏi của Công Bình và Bác Aùi.
Kỳ thực, giữ đạo
trong nhà thờ mà không sống đạo bên ngoài nhà thờ là một thiếu sót, nếu không
muốn nói là một thái độ giả hình mà Chúa Giêsu đã lên án gắt gao. Nhưng sống
Công Bình và Bác Aùi mà không múc lấy sức sống từ việc gặp gỡ Chúa nơi nhà thờ
cũng là một thiếu sót. Người Kitô đích thực múc lấy sức sống từ Ðức Kitô và diễn
đạt sức sống ấy qua cuộc sống thường ngày. Có nhà thờ để cầu nguyện nhưng cũng
có chợ đời để gặp gỡ Chúa. Người Kitô hướng về Trời cao, nhưng vẫn còn bám lấy
cõi Ðất. Người Kitô đến nhà thờ, mà để quay trở lại cuộc sống. Và cuộc sống
cũng sẽ trở nên cằn cỗi, nếu nó không được nuôi dưỡng bằng lương thực Thần
Linh.
"Hãy trở
nên những viên đá sống động". Ðó là ơn gọi của người Kitô chúng ta. Hãy trở
thành những viên đá sống động không chỉ để xây dựng ngôi nhà thờ bằng gỗ đá,
nhưng là để xây ngôi Ðền Thờ của cuộc sống. Cuộc sống có trở thành Ðền Thờ để gặp
gỡ Chúa qua những gặp gỡ với tha nhân, qua những xây dựng Hòa Bình và yêu
Thương, thì Ðền Thờ gỗ đá mới sống động.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét