24/01/2016
Chúa Nhật 3 Quanh Năm Năm C
(phần
II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật III Mùa Thường Niên - Năm C
CHÚA NHẬT III MÙA THƯỜNG NIÊN
NĂM C
Nkm 8,2-4a.5-6.8-10
1Cr 12,12-30
Lc 1,1-4; 4,14-21
1Cr 12,12-30
Lc 1,1-4; 4,14-21
CHỦ ĐỀ: CÔNG BỐ LỜI CHÚA
“Hôm nay
đã ứng nghiệm
lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”
(Lc 4,21)
___________
lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”
(Lc 4,21)
___________
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1: Nkm
8,2-4a.5-6.8-10
Bài
đọc 1 cho chúng ta hay từ người đọc cho đến người nghe, tất cả đều say mê Lời
Chúa: ông Ezra đọc sách Luật từ sáng sớm tới trưa, còn toàn dân chăm chú lắng nghe
nội dung Lời Chúa. Quả là một hình ảnh cảm động, vì đã từ lâu rồi, kể từ thời
đi lưu đày bên Babylon, toàn thể dân Israel mới có dịp tụ họp lại để nghe Luật
Chúa, để được nghe giải thích Luật Chúa cách tường tận.
Dịp
này, toàn dân tỏ lòng tôn kính Thiên Chúa cách công khai. Khi ông Ezra mở sách
Luật thì toàn dân đứng dậy… họ đồng thanh thưa “Amen, Amen”… họ sấp mặt sát đất
mà thờ lạy Đức Chúa. Các vị lãnh đạo dân cũng thực hiện tốt vai trò mà Chúa
trao cho họ: ông Ezra và các thầy Lêvi đọc và giải thích sách Luật cho dân. Hôm
đó là ngày đáng vui mừng cho toàn dân, những giọt nước mắt được thay bằng nét
rạng rỡ trên khuôn mặt. Toàn dân được truyền tổ chức tiệc mừng hoan hỉ; ai nấy
học biết cách chia sẻ niềm vui cho những ai bất hạnh hơn mình; người có của ăn
không quên những người thiếu thốn.
2. Bài đọc 2: 1Cr
12,12-30
Trong
bài đọc 2, thánh Phaolô dùng hình ảnh “thân thể” để nói về tình hiệp nhất của
các Kitô hữu. Chúa Kitô là Đầu, còn các tín hữu tạo nên Nhiệm Thể của Chúa
Kitô, tức là Hội Thánh của Người. Qua bí tích Rửa Tội, các Kitô hữu trở nên chi
thể của Nhiệm Thể này.
Được
chịu Phép Rửa trong cùng một Thần Khí, nên chúng ta, tuy khác nhau về nguồn gốc
xuất thân, địa vị xã hội, văn hóa và dân tộc tính, nhưng cùng tạo nên một Nhiệm
Thể của Đức Kitô. Trong Nhiệm Thể này, mỗi chi thể đóng các vai trò và chức
năng cụ thể, như người thì làm tông đồ, kẻ khác làm ngôn sứ, thày dạy, người
khác nữa lại được ơn làm phép lạ, được đặc sủng chữa bệnh, được ơn nói các thứ
tiếng khác nhau, v.v.; những chức năng và vai trò này, tuy khác nhau, nhưng đều
nhằm mục đích xây dựng một Nhiệm Thể duy nhất.
Như
trong một thân thể, chi thể này luôn liên kết với các chi thể kia, thì trong
Nhiệm Thể của Đức Kitô cũng vậy, mỗi người chúng ta đều cần đến các anh chị em
khác. Chúng ta không thể sống biệt lập, không thể sống cô lập, đứng trên hay
đứng ngoài Giáo Hội, nhưng gắn kết với nhau trong tình hiệp nhất yêu thương.
Bởi thế, điều thánh Phaolô ao ước là các tín hữu hãy trân trọng và quý mến
nhau, hãy nâng đỡ nhau, hãy làm cho nhau thêm phong phú, hãy biết cậy dựa vào
nhau và phục vụ lẫn nhau, để Nhiệm Thể của Chúa Kitô là Giáo Hội ngày càng tiến
triển, trở nên dấu chỉ yêu thương và hiệp nhất cho thế giới chúng ta đang sống.
3. Bài Tin Mừng: Lc
1,1-4; 4,14-21
Đoạn
trích Tin Mừng Luca cho chúng ta hay: Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai của
Người tại Galilê. Galilê là khởi điểm và sẽ trở thành trung tâm sứ vụ công khai
của Người. Tại đây, Người bắt đầu sứ mạng bằng quyền năng của Chúa Thánh Thần,
tức là bằng quyền năng của Đấng đã thực hiện hóa mầu nhiệm Nhập Thể nơi cung
lòng Đức Trinh Nữ Maria; bằng quyền năng của Đấng đã ngự xuống trên Chúa Giêsu
dưới hình dạng chim bồ câu trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa; bằng quyền
năng của Đấng đã dẫn đưa Người vào sa mạc để cầu nguyện, để chịu cám dỗ 40
ngày, để chiến thắng tên cám dỗ, khiến hắn phải bỏ đi để chờ dịp khác.
Tại
Galilê, Người giảng dạy cho dân chúng trong các hội đường, nghĩa là ở những nơi
linh thiêng mà người Do-thái tụ họp lại, nhất là vào những ngày Sabbath, để cầu
nguyện, để nghe Lời Chúa và để được những người am hiểu Lời Chúa giảng giải cho
họ. Chúa Giêsu thường chọn những nơi linh thiêng này làm nơi Người công bố sứ
điệp yêu thương của Thiên Chúa. Những ai thành tâm lắng nghe lời giảng dạy của
Người đều cảm nghiệm sự khác biệt thấy rõ giữa Người với các kinh sư khác.
Người ta ngỡ ngàng trước giáo huấn của Chúa Giêsu. Người nghe sửng sốt trước
những lời hay ý đẹp từ miệng Người thốt ra. Người ta ca ngợi Người là một người
giảng thuyết tuyệt vời; họ cũng không quên tôn vinh Thiên Chúa vì đã ban cho
Người khả năng nói được những điều tốt đẹp như thế, rồi lại làm được những điều
lạ thường nữa.
Với
cc16-21, thánh Luca dẫn chúng ta vào quang cảnh của một lần hội ngộ như vậy
giữa Chúa Giêsu và dân Do-thái. Lần này câu chuyện diễn ra tại Nazareth, vốn là
nơi Người đã sinh trưởng, đúng hơn là nơi Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thai
trong lòng Đức Trinh Nữ Maria; nơi Người đã được dưỡng dục sau khi thánh gia
thất từ Ai-cập trở về; nơi Người đã học nghề mộc; nơi người đã quen biết nhiều
người trong suốt thời gian sống ẩn dật.
Chúa
Giêsu vào hội đường như thói quen tốt đẹp đã thành hình nơi Người theo dòng
thời gian và tiếp tục được thực hiện khi Người thi hành sứ vụ công khai. Tại
hội đường này, trước mặt mọi người, sau khi nhận lời mời của vị trưởng hội
đường, Chúa Giêsu đã đọc sách ngôn sứ Isaiah. Đọc xong, Người cho dân chúng
biết đoạn sách thánh được ứng nghiệm nơi Người.
Quả vậy, Thần Khí Đức Chúa đã ngự xuống trên Chúa Giêsu, xét như
là Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể, ngay từ trong biến cố Truyền Tin, và nhất là
trong biến cố Người chịu phép rửa. Bảy ơn Chúa Thánh Thần đã được trao ban cho
Người một cách sung mãn: ơn khôn ngoan, ơn thông minh, ơn biết lo liệu, ơn can
đảm, ơn hiểu biết, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Thiên Chúa (x. Is 11,1-2; GLTHCG số 1831). Bảy hồng ân này thấm nhập
trọn vẹn và phát huy sức tác động mạnh mẽ nhất nơi Chúa Giêsu, là Đấng được
Chúa Cha xức dầu tấn phong Người là Đấng Cứu Độ, để Người có thể thi hành sứ
mạng Chúa Cha trao phó một cách hoàn hảo nhất và hiệu quả nhất.
Khi thi hành sứ vụ công khai của mình, Chúa Giêsu, Đấng được
Thiên Chúa xức dầu tấn phong, để thành Vua muôn vua, để thành vị Thượng Tế vượt
trên tất cả các vị thượng tế, để trở thành vị Ngôn Sứ trổi vượt trên các vị
ngôn sứ, chính Người sẽ chọn các người nghèo làm đối tượng ưu tiên lãnh nhận
Tin Mừng Cứu Độ của Người. Tất cả những ai có “tâm hồn nghèo khó” đều có thể
nghiệm được niềm vui lời Người loan báo: “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì
Nước Trời là của họ”. Những ai đang bị giam cầm bởi tội lỗi và những thói đam
mê xấu, đang chịu tổn thương do tội lỗi và sự dữ gây ra, nếu biết ăn năn, sẽ
tìm được con đường giải thoát nơi Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng xót thương. Nơi
Chúa Giêsu, người bị tổn thương do tội sẽ tìm được nguồn an ủi, vì Người nói: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc,
người đau yếu mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi
người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,32).
Trong khi thi hành sứ vụ công khai của mình, Chúa Giêsu không
chỉ đem lại ánh sáng cho một số người bị mù lòa; quan trọng hơn, Người còn “mở
mắt” bao người đang ngồi trong bóng tối sự chết, để họ được thấy ánh sáng tình
thương của Thiên Chúa. Người mở lòng mở trí cho những ai đang thao thức hiểu
biết thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời mình, xóa đi bao bóng đen mê muội trong
tâm hồn họ. Người loan báo một năm hồng ân của Thiên Chúa cho mọi người. Đó là
một năm thánh đích thực, khi mọi tâm hồn được giải thoát khỏi ách thống trị của
sự dữ, của tội, để được giao hòa cùng Thiên Chúa, khi họ biết mở lòng ra đón
nhận sứ điệp cứu độ của Người, vì “hễ
ai kính sợ Thiên Chúa, và ăn ở ngay lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng
đều được Người [Thiên Chúa] tiếp nhận” (Cv 11,35).
II. CÂU HỎI PHẢN TỈNH
1/ Trong
bài đọc 1, Dân Chúa tỏ ra thao thức và sốt sắng lắng nghe Lời Chúa, còn
tôi, tôi thấy mình, gia đình của mình, cộng đoàn, giáo xứ của mình có thái độ
nào đối với Lời Chúa? Làm thế nào để Lời Chúa có thể được đọc lên, được lắng
nghe, được giải thích một cách dễ hiểu cho con người hôm nay?
2/ Trong
bài đọc 2, thánh Phaolô ví chúng ta như các chi thể tạo nên Nhiệm Thể của
Chúa Kitô, qua hình ảnh này, tôi thấy mình, gia đình của mình, cộng đoàn của
mình, xứ đạo của mình, đã sống được tinh thần hiệp nhất yêu thương chưa? Có
những điều gì cần phải được chỉnh sửa? Có những điểm nào cần được thăng tiến?
3/ Trong
bài Tin Mừng, Chúa Giêsu chứng thực những lời của ngôn sứ Isaiah đã ứng
nghiệm nơi Người. Trong các điểm ứng nghiệm đó, tôi thấy điểm nào có ý nghĩa
nhất đối với tôi, đối với gia đình tôi, đối với cộng đoàn hay giáo xứ tôi đang
sống? Tại sao vậy?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Qua Ðức
Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cha đã yêu thương giải thoát con người khỏi những khốn
khổ xác hồn và khai mở mùa hồng ân cứu độ cho trần gian. Chúng ta cùng vui mừng
cảm tạ Thiên Chúa và dâng lời cầu nguyện.
1. “Chúa
đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho
mọi thành phần Hội Thánh luôn ý thức sứ mạng truyền giáo, và nỗ lực thực thi sứ
mạng ấy mọi nơi, mọi lúc theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
2. “Lời
Chúa là thần khí và là sự sống.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho
những người chưa nhận biết Chúa ở khắp nơi trên thế giới, biết mở lòng lắng
nghe, suy gẫm và thực hành Lời Chúa, để họ cũng được nhận lãnh dồi dào hồng ân
cứu độ.
3. “Trong
một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thânthể.” Xin cho tất cả những người là
môn đệ Chúa Kitô trong cùng một đức tin và một phép rửa, luôn thông cảm và hiệp
thông với nhau, hầu làm nên một đoàn chiên duy nhất.
4. “Hôm
nay đã ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh quí vị vừa nghe.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho
mọi người trong cộng đoàn chúng ta, luôn yêu thương hiệp nhất và tích cực dấn
thân cho công cuộc loan báo Tin Mừng cứu độ giữa thế giới hôm nay.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha rất nhân
từ, xin thương nhận những ước nguyện chân thành của chúng con. Xin ban Thánh
Thần tình yêu liên kết chúng con nên một, để chúng con biết tích cực cộng tác
xây dựng Giáo hội và loan báo Tin mừng cứu độ của Chúa cho mọi người. Chúng con
cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
SCĐ CHÚA NHỰT III TN. C
Chủ đề :
Tin Mừng được loan báo
cho người nghèo
"Thánh
Thần Chúa ngự trên tôi. Ngài sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo"
(Lc 4,18)
Sợi
chỉ đỏ :
Bài đọc
I kể chuyện tư tế Ét-ra đọc sách Luật cho dân do thái vừa từ chốn lưu đày trở về.
Sau khi đọc xong, Ét-ra an ủi họ "Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức
Chúa là thành trì bảo vệ anh em".
Bài
Tin Mừng kể chuyện Chúa Giêsu đến hội đường Nadarét, đọc đoạn sách Isaia
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người
nghèo". Đọc xong Ngài tuyên bố : "Hôm nay ứng nghiệm lời Thánh
Kinh quý vị vừa nghe".
I.
Dẫn vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Chúa
Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài với lời tuyên bố "Thánh Thần Chúa ngự trên
tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho những người nghèo". Chúng ta đều là
những người nghèo : kẻ thì nghèo vật chất, người thì nghèo tinh thần. Như
vậy Tin Mừng của Chúa được loan báo cho chính chúng ta. Chúng ta hãy mở rộng
lòng mình ra đón nhận Tin Mừng của Chúa.
II.
Gợi ý sám hối
-
Chúng con thường khư khư bám lấy ý riêng, không mở lòng ra đón nhận ơn soi sáng
của Chúa Thánh Thần.
-
Chúa Giêsu đã mang Tin Mừng đến cho chúng con, nhưng chúng con không nhiệt tình
đón nhận.
- Do
cuộc sống ích kỷ và khô cằn, chúng con không làm cho Tin Mừng của Chúa trở nên
hấp dẫn đối với những người chưa biết Chúa.
III.
Lời Chúa
1.
Bài đọc I (Nkm 8,1-10)
Dân
do thái vừa từ chốn lưu đày trở về. Tư tế Ét-ra tập họp mọi người tại quảng trường
và đọc Sách Luật cho họ nghe. Có lẽ đây chính là bộ Ngũ Thư mà Ét-ra đã sưu tập
lại từ những nguồn tài liệu rải rác có sẵn trước đó (các nguồn tài liệu J, E,
D, P), vì thế mà thời gian đọc kéo dài rất lâu, từ sáng tới trưa.
Khi
nghe đọc, toàn dân đều khóc. Có lẽ một phần do cảm động vì thấy được tình
thương của Thiên Chúa đối với họ qua dòng lịch sử ; phần khác là do hối tiếc
bởi họ đã không đáp ứng tốt với tình thương Thiên Chúa.
Ét-ra
an ủi dân : "Anh em đừng sầu thương khóc lóc, đừng buồn bã, vì niềm
vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em".
2.
Đáp ca (Tv 18)
Nối
tiếp ý tưởng của bài đọc I, Tv 18 ca tụng Luật Chúa : "Luật pháp Chúa
quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn"
3.
Tin Mừng (Lc 1,1-4 và 4,14-21)
Sau một
thời gian hoạt động, Chúa Giêsu trở về rao giảng tại chính quê hương mình là
Nadarét miền Galilê. Tại đây, trong một bối cảnh trang nghiêm và chính thức
(ngày Sabbat, trong hội đường), Chúa Giêsu công bố chương trình hoạt động của
Ngài : Với tư cách là Messia vừa được tấn phong, Ngài được sai đi loan Tin
Mừng cho những người nghèo hèn, khốn khổ. Như thế là Ngài thực hiện điều mà
Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời ngôn sứ Isaia.
4.
Bài đọc II (1 Cr 12,12-30) (Chủ đề phụ)
Tiếp
tục huấn đức cho tín hữu giáo đoàn Côrintô đang chia rẻ nhau, Thánh Phaolô dùng
hình ảnh nhiệm thể Đức Kitô.
-
Giáo Hội là một thân thể mầu nhiệm, trong đó Chúa Giêsu là đầu và các tín hữu
là chi thể.
- Các
chi thể tuy khác nhau, nhưng mỗi chi thể có chức năng riêng của mình.
- Do
đó các chi thể phải bổ túc cho nhau, đoàn kết với nhau, và nhất là luôn kết hợp
với đầu.
IV.
Gợi ý giảng
*
1. Có phải là Tin Mừng không ?
Quyển
sách ghi lại cuộc đời và giáo huấn của Chúa Giêsu ngày xưa được gọi là "Ê
Vang", trước đây không lâu lắm được gọi là Phúc Âm, còn ngày nay thì thường
được gọi là Tin Mừng.
Xét
theo thần học Thánh Kinh thì hai chữ "Tin Mừng" là đúng nghĩa nhất.
Nhưng nếu xét về ảnh hưởng của nó trên cuộc sống thì sao ?
Trên
thực tế, có nhiều người không thích đọc Tin Mừng. Nhiều người ngán không muốn
nghe Tin Mừng. Tại sao ? Vì họ thấy trong đó toàn là những bổn phận và những
đòi buộc. Không nghe, không biết thì không phải làm theo.
Sở dĩ
có cảm giác ngán và sợ như thế là vì người ta chỉ mới thấy được những chi tiết
phụ, chứ chưa hiểu thấu tới cốt lõi.
Cốt
lõi là một lời loan báo rất phấn khởi : Xin hãy nghe đây. Thiên Chúa rất
yêu thương loài người nên đã sai Con của Ngài đến dạy cho loài người con đường
hạnh phúc. Biết được con đường dẫn tới hạnh phúc chẳng phải là một Tin Mừng
sao ?
Dĩ
nhiên những lời Chúa Giêsu dạy là những điều ta phải làm theo, mà làm theo thì
phải cố gắng, phải cực khổ, phải hy sinh v.v. Nhưng làm theo như vậy thì sẽ được
hạnh phúc.
Một
bà kia rất thường đọc Sách Tin Mừng và đọc rất sốt sắng. Khi được hỏi tại sao
thì bà dùng một thí dụ để giải thích : Hôm qua tôi nhận được một bức thư của một
người tôi rất quý mến. Tôi đã đọc rất chăm chú và đọc đi đọc lại tới năm lần.
Không phải vì tôi không hiểu lời lẽ trong thư vốn đã quá rõ, nhưng vì tôi biết
đó là những lời của một người rất thương tôi và tôi cũng rất thương người đó.
Chúng
ta đừng coi những lời trong sách Tin Mừng là những đòi hỏi của một người xa lạ
đâu đâu. Hãy xem đó là những lời khuyên dạy chí tình của Đấng đã không quản ngại
từ trời xuống thế, chịu cực chịu khổ đến gần chúng ta và chịu chết vì chúng ta.
Ngài đã làm tất cả chỉ vì thương chúng ta và Ngài không muốn gì khác hơn là muốn
cho chúng ta được hạnh phúc.
*
2. Tin Mừng cho người nghèo
Không
phải Chúa Giêsu được sai đi để loan Tin Mừng cho tất cả mọi người sao ? Vậy
tại sao Ngài lại nói "Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng
cho người nghèo" ?
Chúng
ta hãy phân tích kỹ toàn văn đoạn sách Isaia mà Chúa Giêsu đã áp dụng cho sứ mạng
của Ngài :
Sau
khi công bố "Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng
cho người nghèo",Chúa Giêsu đã đưa thêm một số thí dụ để giải thích thế
nào là loan báo Tin Mừng cho người nghèo :
-
Công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha
-
Cho người mù biết họ được sáng mắt
-
Trả tự do cho người bị áp bức
-
Công bố một năm hồng ân của Chúa
Như vậy,
"người nghèo" là những kẻ đang ở trong tình cảnh khổ sở, thiếu thốn
như bị giam cầm, bị mù, bị áp bức… và đang mong thoát khỏi cảnh ấy. Đối với những
người như thế, lời công bố của Chúa Giêsu mới thực sự là Tin Mừng. Còn những ai
không khổ sở thiếu thốn thì lời Chúa Giêsu như nói với ai đó chứ chẳng liên can
gì tới họ, cho nên chẳng phải là Tin Mừng gì cả. Bởi vậy Chúa Giêsu cũng chẳng
cần loan báo cho họ.
Nhưng
xét cho cùng, ai mà không khổ sở thiếu thốn ? Ai mà không "bị giam cầm"
trong một thứ tù ngục nào đó ? Ai mà không "mù" một cách nào
đó ? Ai mà không "bị áp bức" bởi một thế lực gian tà nào
đó ?
Thành
thử Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng cho tất cả mọi người. Tuy nhiên Tin Mừng
ấy chỉ có hiệu quả đối với những ai ý thức mình là người nghèo.
*
3. "Chúa đã sai tôi đi…"
Qua
bài Tin Mừng này, Thánh Luca trình bày Chúa Giêsu như một kẻ được Thiên Chúa xức
dầu Thánh Thần và sai đi.
Bất cứ
ai khi được sai đi làm một nhiệm vụ thì sẽ cố gắng để làm cho thật tốt :
- Khi
còn nhỏ, chúng ta thường được cha mẹ sai đi tới những nhà hàng xóm để mượn một
món đồ, hay để biếu xén vài món quà. Bình thường thì ta nói năng hồ đồ, cộc lốc.
Nhưng khi được sai đi làm những nhiệm vụ đó, chúng ta lựa lời nói, lựa cung
cách xử sự, có khi suốt doc đường cứ lẩm nhẩm những câu lễ phép mà cha mẹ đã dạy
để chút nữa nói năng cho đàng hoàng.
- Thỉnh
thoảng Cha sở sai một người giáo dân trong họ đi đến một gia đình nguội lạnh rối
rắm để làm việc tông đồ. Người tông đồ ấy đến gia đình bê trễ nọ phải biết cách
tỏ ra lịch thiệp, giúp đỡ, phải dám nói về đạo, và đồng thời cũng phải tỏ ra
mình có đôi chút đạo đức để khỏi bị người bê trễ kia hạch sách "Ông cũng
bê bối như ai thôi đừng khuyên tôi".
Dĩ
nhiên khi đóng vai trò một kẻ được sai đi làm tông đồ thì người ta phải cố gắng
tỏ ra mình là người tốt, trong khi thực tế thì đời sống của họ chưa chắc là tốt
được như thế. Điều đó xem ra là một sự giả hình, vì cái mình tỏ ra bên ngoài
không đúng với cái đời sống thực sự của mình. Tuy nhiên có lẽ không nên nặng lời
dùng chữ "giả hình" trong trường hợp này. Bởi vì người tông đồ ấy có
tỏ ta như vậy cũng chỉ vì muốn cho sứ mạng tông đồ của mình được hoàn thành tốt
đẹp thôi. Và hơn nữa, nhờ cố gắng tỏ ra tốt hơn như thế trước mắt người khác mà
dần dà chính đời sống của người tông đồ thực sự trở thành tốt hơn thật.
Tất cả
chúng ta đều là những kẻ được Chúa sai đi. Mỗi người chúng ta đều được Chúa sai
đi. Ngày trước, Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đi, rồi đến phiên Chúa Giêsu lại
sai chúng ta đi. Chúa Giêsu đã phán "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai
chúng con ra đi". Bởi vậy lời Thánh kinh mà Chúa Giêsu đã áp dụng cho bản
thân Người " Chúa đã sai tôi đi", cũng phải được chính chúng ta áp dụng
cho chúng ta "Chúa cũng sai tôi đi".
Sai
đi để làm gì ? Thưa sai đi để làm tông đồ cho Chúa. Mỗi người Kitô hữu là
một tông đồ. Công đồng Vaticanô 2 còn nói mạnh hơn : "Làm Tông đồ là
bản tính của người Kitô hữu". Nói khác đi, nếu không làm tông đồ thì không
còn phải là Kitô hữu nữa.
Nhưng
sai đi làm tông đồ với ai ? Bài Tin Mừng hôm nay kể rõ những hạng người mà
Chúa sai ta đến với họ :
a/
Trước tiên là những người nghèo : Số người này thật là nhiều, hàng ngày ta
gặp thiếu gì người như vậy. Thế nhưng, khi ta gặp một người nghèo tôi có cư xử
lễ độ với họ không hay là khinh bỉ họ ? Ta có tìm cách giúp đỡ họ, hay nếu
không có khả năng giúp đỡ thì ta có vận động người khác giúp đỡ không ?
hay ta tìm cách tránh xa họ, đuổi khéo họ để mình khỏi bị quấy rầy ? Ta có
cố gắng an ủi họ để họ đừng vì cảnh nghèo mà phải xa đạo, xa Chúa không ?
Trước những câu hỏi đó, nếu ta chỉ biết trả lời "không" thì sứ mạng
tông đồ của ta như một kẻ được Chúa sai đi đã bị thất bại.
b/
Chúa còn sai ta đi tới những người đau khổ. Những người này cũng không thiếu
trong khu xóm của ta, có khi ở cạnh nhà ta nữa. Nhưng phải chăng mặc dù Chúa đã
sai ta đi, ta vẫn cứ ở nhà chưa đến thăm viếng họ ? Và khi đến với họ, ta
có đem lại cho họ được thêm một chút bình an, một chút tin tưởng nào
không ? Chúng ta đừng quên câu Tin Mừng hôm nay "Chúa đã sai tôi đi
rao giảng Tin mừng, nghĩa là phải làm cho người ta được thật sự vui mừng, tin
tưởng, hy vọng.
c/
Chúa còn sai ta đi đến với những người tội lỗi. Những người này cũng không thiếu
trong họ đạo. Nhưng có lẽ đối với họ, chúng ta lại cũng quên lời Chúa
"Chúa đã sai tôi đi đến với họ". Vì quên mà thường chúng ta cứ lảng
tránh họ, cứ kết án họ. Chúng ta không thực hiện Lời Chúa dạy ta đến với họ để
an ủi họ, khích lệ và dẫn họ trở về tình thương của Thiên Chúa.
d/ Cuối
cùng trong xã hội ngày nay, Chúa còn sai ta đi đến với những kẻ không tin. Những
người này cũng có mặt rất nhiều : trong sở làm của ta, ngoài đường phố
chung với ta, trong buổi họp với chúng ta. Đừng quên Chúa sai ta đi tới họ để
cũng rao giảng Tin mừng cho họ. Nếu ta ngại, hay thấy bất tiện không dám nói thẳng
với họ về Chúa về đạo thì ít ra đời sống của chúng ta, cách làm việc của chúng
ta, lương tâm của chúng ta có thể thay cho lời nói của chúng ta không ?
Ngôn
sứ Isaia đã hát lên rằng "Đẹp thay bước chân của những kẻ được sai đi rao
giảng Tin mừng". Những kẻ được sai đi rao giảng Tin mừng ấy là chính chúng
ta, mỗi người hết thảy trong chúng ta. Xưa nay có lẽ chúng ta quên điều đó.
Nhưng hôm nay Lời Chúa nhắc chúng ta nhớ lại. vậy dưới sự hướng dẫn và ban ơn của
Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy mạnh dạn bước đi. Đi đến với những người nghèo
khó, những người đau khổ, những kẻ tội lỗi và những kẻ không tin. Đến với họ để
rao giảng Tin mừng cho họ bằng cách này hay cách khác tùy hoàn cảnh. Và hãy an ủi
mình rằng những bước chân được sai đi như vậy thật là đẹp !
4.
"Ngày của Chúa"
Ngày
một vị Thủ Tướng nhậm chức, ông đọc một bài diễn văn để công bố cho dân biết
chương trình hoạt động của ông trong nhiệm kỳ. Khởi đầu sứ vụ của mình, Chúa
Giêsu cũng làm như vậy. Tại hội đường Nadarét, Chúa Giêsu đã dùng một đoạn
trích từ sách ngôn sứ Isaia để phác họa sứ mạng của Ngài. Chúa Giêsu loan báo rằng
cái "Ngày của Chúa" mà dân chúng bấy lâu nay hằng mong đợi thì nay đã
đến. Đó là một ngày hồng ân cho mọi người, cách riêng là những người nghèo.
Mẫu
chuyện sau đây có thể giúp chúng ta hiểu lời công bố ấy của Chúa Giêsu tuyệt diệu
đến chừng nào.
Ngày
xưa có một ông điền chủ có đất đai rất nhiều. Ông cho các tá điền mướn đất làm
ăn. Một thời gian sau, các tá điền lâm cảnh túng thiếu nợ nần. Họ rất lo lắng
vì không đóng tô đúng hạn cho chủ được. Dù họ biết ông chủ rất tốt bụng không đến
nỗi làm khó dễ họ, nhưng họ vẫn áy náy không biết chủ sẽ hoãn nợ cho họ bao
lâu.
Thế rồi
một hôm viên quản lý đi đến từng nhà các tá điền. Ông này hỏi mỗi người thiếu nợ
bao nhiêu, trong nhà có bao nhiêu người, hằng ngày ăn uống thế nào, gia đình có
ai già yếu bệnh tật gì không v.v. Cách chung nhà ai cũng túng thiếu và đang gặp
rất nhiều khó khăn.
Một
ít ngày sau, các tá điền được mời đến gặp chủ. Ai nấy đều hồi hộp, tin chắc là
ông chủ sẽ lấy lại đất, bởi họ không còn khả năng đóng tô nữa. Khi mọi người đã
đủ mặt, viên quản lý bước ra, bắt đầu nói : "Ông chủ biết là các người
ai cũng rất nghèo nên không còn khả năng đóng tô nữa. Vì thế ông bảo tôi báo
cho các người hay". Nói tới đây viên quản lý bỗng ngừng lại. Con tim của
các tá điền cũng như ngừng đập. Viên quản lý nói tiếp : "Tôi có một
Tin Mừng muốn loan báo cho các người". Mọi người xôn xao : "Tin
Mừng ư ! Tin Mừng gì vậy ?" Lúc đó viên quản lý hô lớn :
"Ông chủ tha hết nợ cho các người. Từ nay các người cứ an tâm làm ăn nuôi
sống gia đình".
Thế
là mọi người reo hò sung sướng. Họ ôm nhau nhảy múa hát ca. Sau đó ai nấy trở về
nhà mình. Sau bao năm trời, hôm nay họ mới chợt nhận thấy ánh nắng mặt trời rất
là tươi đẹp, tiếng chim hót trên cành rất líu lo, hoa cỏ hai bên đường và trên
khắp cánh đồng vô cùng rực rỡ.
Lời
loan báo của Chúa Giêsu tại hội đường Nadarét cũng là một Tin Mừng như thế.
Chúa Giêsu là viên quản lý của Thiên Chúa. Ngài được sai đến để báo tin Thiên
Chúa đã xóa nợ cho loài người.
Những
người pharisêu nghĩ rằng "Ngày của Chúa" là một ngày phán xét. Còn
Chúa Giêsu thì loan báo "Ngày của Chúa" là người xóa nợ, ngày hồng
ân.
"Ngày
của Chúa" không phải là một ngày nhất định ghi trong lịch, mà là mọi ngày.
Thực vậy, ngày nào cũng là "Ngày của Chúa" hết. Tin Mừng về
"Ngày của Chúa" là : ơn giải thoát chúng ta không tùy thuộc vào
công nghiệp của chúng ta, mà hoàn toàn do lòng tốt của Thiên Chúa. Điều duy nhất
chúng ta phải làm là mở rộng cửa lòng cho Chúa Giêsu ngự vào mang ơn đến cho
chúng ta. (FM)
5.
Quyển sách
Sau nửa
thế kỷ bị lưu đày bên Babylon, dân do thái được hồi hương. Tư tế Ét-ra tập họp
họ lại để tái hiến dâng họ cho Thiên Chúa. Ét-ra bắt đầu bằng việc đọc cho họ
nghe sách luật của Môsê. Từ đó trở đi, đời sống và tín ngưỡng của dân do thái gắn
chặt với quyển Sách Luật ấy. Có thể nói, đó là một dân "sống với
sách".
Kitô
hữu chúng ta cũng là những người "sống với sách". Chỉ khác một điều
là quyển sách chúng ta sống với là quyển Tin Mừng.
Có một
chuyện kể về một dân kia chưa từng nghe nói tới quyển Tin Mừng. Một hôm có một
người lạ đến báo cho họ rằng "Tôi đến đây mang cho các người một tin mừng".
Rủi thay người ấy mang bệnh và chết trước khi nói rõ cho họ biết tin mừng ấy là
gì. Họ mới lục lúi của người ấy và gặp một quyển sách có tựa đề là "Tin Mừng
của Chúa Giêsu Kitô". Họ đoán rằng đó chính là cái tin mừng mà người kia
muốn báo cho họ biết. Thế là họ bắt đầu đọc quyển sách ấy. Sách viết về một
nhân vật giàu lòng nhân ái, làm nhiều việc lạ lùng để giúp cho những người khốn
khổ và dạy nhiều điều rất cao thượng.
Đọc
xong quyển sách, một người trong họ nói : "Tiếc thay người mang quyển
sách này đã chết. Chắc là một môn đệ của ông Kitô ấy". Một người
nói : "Nhưng chắc là ở nơi ông ấy sống cũng có nhiều một đệ khác của
ông Kitô". Một người khác nữa góp ý : "Chúng ta thử gởi người đến
đấy xem các môn đệ ông Kitô sống những lời ngài dạy thế nào". Mọi người
tán thành.
Họ cử
Francis đi. Đây là một chàng trai rất chín chắn. Chàng đã tìm đến nơi, tiếp xúc
với rất nhiều người, sau đó trở về. Khi chàng vừa về tới nơi thì những người đồng
hương của chàng đặt những câu hỏi tới tấp :
-
"Những tín đồ của quyển sách ấy có thương yêu nhau không ?"
-
"Họ có hòa thuận với nhau không ?"
-
"Họ có đơn sơ không ?"
- Họ
có hạnh phúc không ?"
Tất cả
các câu hỏi đều có thể tóm trong một câu duy nhất này : "Những môn đệ
của ông Kitô ấy có sống theo quyển sách của Ông ta không ?".
Và
sau đây là báo cáo của Francis :
Trên
căn bản, tôi đã gặp được 5 hạng môn đệ của ông Kitô ấy :
- Hạng
thứ nhất chỉ mang danh Kitô thôi. Dù họ có rửa tội nhưng họ chẳng sống theo một
lời dạy nào của Ngài cả.
- Hạng
thứ hai là những người làm môn đệ Đức Kitô theo thói quen. Mặc dù người ta thấy
họ giữ những điều Đức Kitô dạy, nhưng những điều đó chẳng ảnh hưởng gì đến cách
sống của họ cả. Tôi đã quan sát cách sống của họ một thời gian lâu và thấy ra rằng
thực ra họ sống theo những nguyên tắc không liên can gì tới lời dạy của Đức
Kitô, một số còn ngược lại nữa.
- Hạng
thứ ba gồm một số người rõ ràng là sùng mộ đức tin Kitô. Họ cố sức làm những việc
tốt, nhưng xem ra họ thiếu sức sống, họ không thực sự có được những đức tính của
Thầy họ.
- Hạng
thứ tư có thể được gọi là những Kitô hữu thực hành. Dường như họ đã nắm được trọng
tâm của Tin Mừng. Họ biết quan tâm đến người khác và không xấu hổ vì người khác
biết họ là Kitô hữu. Ở một vài nơi tôi thấy họ bị bách hại. Ở một vài nơi khác
tôi thấy họ phải gặp tình cảnh có lẽ còn tồi tệ hơn nữa, đó là bị đồng bào của
chính họ đối xử lạnh nhạt.
- Hạng
thứ năm không nhiều. Đó là những người mà tôi không ngại gọi là những Kitô hữu
chính danh. Họ sống Tin Mừng cách sâu sắc. Khi gặp họ, tôi tưởng là gặp chính Đức
Kitô.
Câu
chuyện kết thúc ở đó, nên không biết dân chúng xứ đó có đón nhận Tin Mừng hay
không.
Ngày
nay rao giảng Tin Mừng cho thế giới là nhiệm vụ của chúng ta. Đó là một đặc ân
to lớn nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề. Tuy nhiên, cũng như Đức Kitô,
chúng ta được Chúa Thánh Thần giúp đỡ. Cách tốt nhất để rao giảng Tin Mừng là sống
tốt đời Kitô hữu. Quyển sách duy nhất mà nhiều người chưa bao giờ đọc để hiểu
Tin Mừng, đó chính là quyển sách của đời sống chúng ta. (FM)
6.
Xóa nợ cho nhau
Trước
lúc lìa đời, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có giao cho con cháu một cái ống tre
sơn son thếp vàng gắn bít hai đầu và dặn đến đúng năm tháng ấy, ngày giờ ấy, phải
để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh tổng đốc Hải Dương, trao cái ống này cho
quan thì sẽ cứu vãn được tình thế gia đình nhưng tuyệt đối không được ai mở ra
xem, trừ quan tổng đốc.
Cái ống
tre ấy truyền đến người cháu bảy đời của Trạng, mới rước lên dinh quan tổng đốc,
đúng vào ngày giờ đã ghi trong gia phả. Khi quan mở ống thấy một cuộn giấy, ông
rút ra xem thấy có hai câu chữ nho :
Ngã cứu
nhi thượng lương chi ách
Nhĩ cứu
ngã thất thế chi bần !
Nghĩa
là :
Ta cứu
ngươi khỏi xà nhà đổ,
Ngươi
cứu cháu bảy đời của ta còn nghèo.
Đang
lúc bận việc, quan tổng đốc thấy hai câu nói xấc xược ấy, ông liền nổi giận. Sẵn
cầm chiếc quạt trên tay, ông đứng phắt dậy, chạy lại định đánh người cháu bảy đời
của Trạng. Nhưng vừa bước khỏi sập, chiếc xà nhà ngay trên đỉnh đầu đổ xuống
đánh rầm một cái. Phúc bảy mươi đời, ông mới vừa bước ra, nên không sao cả.
Quan
tổng đốc lúc đó mới giật mình hiểu rõ Trạng đã cứu mình khỏi cái chết bất đắc kỳ
tử. Quan ân cần xin lỗi người cháu ông, mời về tư thất đãi cơm rượu rồi cho một
số tiền khá lớn, để cứu giúp cho gia đình cháu của Trạng đang lâm hoàn cảnh cực
kỳ túng thiếu.
*
Nói đến
các bậc tiên tri ở nước ta, trước hết phải kể đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Sinh thời ông đã nổi tiếng về các giai thoại tiên tri, đến nỗi các sĩ tử
nô nức xin theo học và thiên hạ đua nhau tìm đến hỏi về những việc tương lai.
Tuy
nhiên, các lời sấm của ông được ứng nghiệm là do trí thông minh của ông đã mách
bảo. Còn hôm nay, nơi Chúa Giêsu đã ứng nghiệm sấm ngôn của Isaia do Thánh Thần
linh ứng. Chính Chúa Giêsu cũng là một tiên tri được đầy tràn Thánh Thần. Một
tiên tri cao cả mang ơn gọi và sứ mạng cứu độ.
Khi
chịu phép rửa, Người đã nhận lãnh Thánh Thần như một việc xức dầu.
Người
được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo hèn, những kẻ nghèo tiền, nghèo bạn,
nghèo văn hoá.
Người
được sai đến với những kẻ bị giam cầm trong lao tù, trong ích kỷ, trong tham
lam.
Người
cho kẻ mù được sáng mắt, kẻ u mê thoát vòng tối tăm.
Người
trả tự do cho người bị áp bức, phá xiềng xích cho những tội nhân.
Người
khai mở một Năm Toàn Xá, Năm Thánh, Năm Hồng Ân cứu độ.
Chúng
ta cũng đã được xức dầu để trở thành tiên tri, đi loan báo Tin Mứng cứu độ.
Nếu
Thánh Thần đã chi phối toàn bộ ngôn từ, hành vi của Chúa Giêsu, chúng ta cũng
hãy ngoan nguỳ để Thánh Thần hướng dẫn tất cả lời nói, việc làm của mình.
Nếu sấm
ngôn của Isaia đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu ; ước gì Lời Chúa cũng được ứng
nghiệm trong cuộc đời chúng ta, bằng sự cộng tác tích cực của bản thân mỗi người.
Con
người ngày nay khắc khoải trong lo âu sầu muộn, người tín hữu Kitô phải là chứng
nhân của niềm vui.
Con
người ngày nay ngụp lặn trong bóng tối của lầm lạc, người tín hữu Kitô phải chiếu
toả ánh sáng của đức tin.
Con
người ngày nay bị kìm toả trong vòng nô lệ của tiền bạc, danh vọng ; ngườt
tín hữu Kitô phải loan báo sự tự do của con cái Chúa.
Nếu
những người đã chịu phép Rửa trong Thánh Thần, mà còn làm ngơ trước những con
người nghèo hèn, áp bức kẻ cô thân cô thế, bịt mắt những anh em dốt nát, và
giam hãm tha nhân trong ngục tù dưới nhiều hình thức ; thì quả thật, Lời
Chúa chẳng bao giờ được ứng nghiệm trong cuộc đời họ.
*
Lạy
Chúa, xin cho chúng con cũng biết xoá nợ cho nhau, không chỉ xoá nợ tiền bạc mà
còn xoá đi những bất bình, nghi kỵ thành kiến, hiểu lầm nhau..., để mọi người
chung quanh chúng con được nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn, vui tươi hơn.
Xin
cho chúng con luôn là những sứ giả đi loan báo và chứng tá cho tình yêu cứu độ
của Chúa. Amen. (TP)
7.
Giáo Hội là nhiệm thể Đức Kitô
Ngày
nay trong y khoa có quá nhiều chuyên khoa khiến cho cơ thể như bị tách rời
thành nhiều phần. Một số bác sĩ chuyên về tim, một số khác chuyên về não, một số
khác chuyên về mắt, một số khác chuyên về tai, vân vân. Chuyên môn là tốt nhưng
cũng có mặt trái của nó. Các bác sĩ ấy có thể hiểu biết rất ít về con người mà
họ đang điều trị về mắt, hay tim, hay chân tay…
Cơ thể
con người là một toàn thể thống nhất mặc dù nó gồm bởi nhiều bộ phận. Những bộ
phận này rất khác nhau và có những chức năng khác nhau. Chắc hẳn là một số bộ
phận quan trọng hơn những bộ phận kia. Tuy nhiên chúng đều cần cho cơ thể và đều
cần cho nhau.
Giáo
Hội cũng thế. Chúng ta tuy nhiều nhưng tạo thành một thân thể duy nhất trong Đức
Kitô (Bài đọc II). Bởi Phép Rửa, chúng ta đã trở thành chi thể của thân thể Đức
Kitô, tức là Giáo Hội. Có lẽ có "người" nào đó muốn sống một mình,
không lệ thuộc cộng đoàn. Nhưng không thể nào có "người kitô hữu" đơn
độc được. Kitô hữu nào tự ý cắt mình rời khỏi cộng đoàn thì làm cho cộng đoàn bị
đau như một cơ thể bị cắt lìa một chi thể.
Cộng
đoàn đòi hỏi chúng ta. Vì lý do đó nên nhiều người bị cám dỗ sống một mình, tìm
ơn cứu độ một mình không cần đến người khác. Nhưng không thể như thế được.
Chúng ta cần nhau, cũng như các chi thể cần nhau vậy. Và Giáo Hội cần tất cả
chúng ta. Chúng ta cần ý thức tùy thuộc nhau và tùy thuộc Đức Kitô. Chúng ta vẫn
liên đới với nhau dù khi chúng ta chỉ muốn nghĩ đến bản thân mình.
Sự
tùy thuộc vào cộng đoàn có nhiều lợi ích rõ ràng. Hãy lấy cây sậy làm thí dụ. Nếu
chỉ có một mình thì nó rất yếu và dễ gãy đổ. Nhưng nhiều cây bó chung lại với
nhau thì không thể nào bẻ gãy được. Đối với con người cũng thế. Sức mạnh là do
hợp quần. Người ta sẽ can đảm hơn khi quen biết nhau, khuyến khích nhau và sát
cánh cùng nhau chiến đấu. Nhiều công trình to lớn đã được thực hiện nhờ người
ta biết làm việc chung với nhau.
Tinh
thần cộng đoàn được chính Chúa Giêsu nhấn mạnh khi Ngài kể dụ ngôn cây nho và
cành nho : "Thầy là cây nho, chúng con là cành". Một hình ảnh thật
đơn sơ nhưng cũng thật sâu sắc về sự hợp nhất và tùy thuộc lẫn nhau.
Rõ
ràng là các cành nho cần đến cây nho. Nhưng cây nho cũng cần đến cành nho vậy,
bởi vì chính cành nho sinh trái. Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn có giữa Ngài và
các môn đệ của Ngài. Ngài là cây nho, chúng ta là cành nho. Hay nói như Thánh
Phaolô : "Chúa Giêsu là đầu của thân thể, chúng ta là chi thể của
thân thể ấy". Nếu không ý thức về sự tùy thuộc lẫn nhau, chăm sóc cho nhau
và chịu trách nhiệm về nhau thì ta không còn là Kitô hữu nữa.
Hoa
trái mà Chúa Giêsu mong muốn nơi chúng ta trước hết chính là sự hiệp nhất giữa
chúng ta với nhau. Dấu chỉ cho mọi người biết chúng ta thuộc về Ngài là chúng
ta yêu thương nhau và chăm sóc nhau. (FM)
V.
Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế :
Anh chị em thân mến, Chúa là núi đá cho ta trú ẩn, là thành trì bảo vệ ta. Với
lòng tin tưởng Chúa là Đấng phù trợ, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
1.
Thần Khí Chúa sai tôi đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn / Chúng ta hiệp
lời cầu xin cho các vị mục tử / hết lòng yêu thương và tận tình giúp đỡ những
ai khó nghèo.
2.
Thần Khí Chúa sai tôi đi băng bó những tấm lòng tan nát / Chúng ta hiệp lời
cầu xin cho có nhiều Kitô hữu / dám xả thân phục vụ những ai đang gặp đau
khổ trong cuộc sống thường ngày.
3.
Ngày nay / nghèo đói và bệnh tật / dốt nát và bất công / vẫn còn
ngự trị ở khắp mọi nơi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu /
biết chân thành cộng tác với hết thảy mọi người để xóa đói giảm nghèo /
tiêu diệt dốt nát / giảm thiếu bất công / và khống chế bệnh tật /
để ai nấy đều được sống trong hạnh phúc và an bình.
4.
Hằng ngày / có biết bao lời nói độc ác / thiếu bác ái / góp phần
giết chết / hoặc làm sứt mẻ tình thân hữu giữa con người với nhau /
Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng
ta / biết luôn dùng lời nói và việc làm để kiến tạo hòa bình / xây dựng
tình thương và xóa bỏ hận thù.
Chủ tế :
Lạy Chúa, khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, chúng con trở nên anh em một nhà và
có cùng một Cha chung trên trời. Xin Chúa cho chúng con luôn sống hiệp nhất và
yêu thương nhau. Chúng con cầu xin
VI.
Trong Thánh Lễ
- Trước
kinh Lạy Cha : Tất cả chúng ta đều được Rửa tội trong cùng một Chúa Thánh
Thần. Giờ đây chúng ta hãy kết hợp với Thánh Thần mà dâng lên Chúa Cha lời kinh
nguyện mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta.
VII.
Giải tán
Chúa
Giêsu đã được đầy tràn Thánh Thần và được sai đi loan Tin Mừng cho những người
nghèo khó. Anh chị em cũng đã đón nhận tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần và Chúa cũng
sai anh em đi. Vậy anh chị em hãy hăng hái ra đi loan báo Tin Mừng của Chúa cho
mọi người anh chị em gặp gỡ
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật III Thường Niên (C)
Chúa Nhật, 24 Tháng 1,
2016
Chúa Giêsu trình bày
chương trình sứ vụ của mình
Tại cộng đoàn Nagiarét
Lc 1:1-4; 4:14-21
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa là Thiên Chúa
Toàn Năng ngự trên cao,
Chúa đã biến đời sống
mỏng manh của chúng con thành đá tảng đền thờ Chúa ngự.
Xin hãy hướng dẫn tâm
trí chúng con biết đập vỡ những phiến đá trong sa mạc,
để cho nước có thể
chảy ra hầu làm dịu cơn khát của chúng con.
Nguyện xin cho sự
nghèo nàn về cảm xúc của chúng con che phủ chúng con như tấm áo choàng trong
bóng tối của đêm đen.
Và xin Chúa hãy mở
lòng trí chúng con để chúng con có thể nghe được tiếng vang vọng của sự im lặng
cho đến lúc bình minh,
Xin hãy ấp ủ chúng con
trong ánh sáng của buổi rạng đông,
Xin hãy mang đến cho
chúng con,
Với than hồng từ lửa
của những người chăn chiên của Đấng Tuyệt Đối
Là những người canh
thức cho chúng con được gần với Thầy Chí Thánh, hương vị của kỷ niệm thánh.
2. Bài Đọc
a) Tin
Mừng:
1 Vì có nhiều người khởi công chép lại những biến
cố đã xảy ra giữa chúng ta, 2 theo như các kẻ từ đầu đã
chứng kiến và phục vụ lời Chúa, đã truyền lại cho chúng ta, 3 phần
tôi, thưa ngài Thêophilê, sau khi tìm hỏi cẩn thận mọi sự từ đầu, tôi quyết
định viết cho ngài bài tường thuật sau đây, 4 để ngài hiểu
chân lý các giáo huấn ngài đã lãnh nhận.
14 Bấy giờ Chúa Giêsu trở
về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả
miền chung quanh. 15 Người giảng dạy trong các hội đường
và được mọi người ca tụng.
16 Người đến Nagiarét,
nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày nghỉ lễ, Người vào
hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. 17 Người ta trao
cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: 18"Thánh
Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng
cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải
thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ
bị áp bức, 19 công bố năm hồng ân và ngày khen
thưởng". 20 Người gấp sách lại, trao cho thừa tác
viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. 21 Người
bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi
vừa nghe".
b) Lời chú
giải:
Một lời giới thiệu tóm
tắt ngắn gọn trình bày hoạt động của Chúa Giêsu, thân thế của Người, và khung
cảnh của bài Tin Mừng (Lc 4:14-21) xảy ra trong hội đường ở Nagiarét vào một
ngày Thứ Bảy. Việc Chúa Giêsu trở lại nơi mà danh tiếng của Người đã
lan rộng khắp nơi trong vùng Galilêa và Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn các bước
đi của Người, có một lý do đặc biệt. Nói một cách chính xác, Luca cố
gắng đưa ra lời diễn giải cứu độ cho các sự kiện bằng cách làm sáng tỏ các khía
cạnh nổi bật. Sự kiện Chúa Giêsu giảng dạy trong hội đường biểu thị
nguồn gốc người Do Thái của Chúa và lòng mong muốn dự phần vào việc phụng tự để
nhấn mạnh vai trò quan trọng của lề luật mà Thiên Chúa đã giao phó cho dân của
Người và để hiến thân mình như lời ứng nghiệm và niềm hy vọng của dân Israel.
Đối với câu hỏi ngụ ý
trong câu chuyện: Chúa Giêsu có phải là một ngôn sứ
không? Câu trả lời trở nên rõ ràng hơn dựa theo các tiêu chuẩn nhận
định được dân Do Thái sử dụng để xác định xem một người có phải là ngôn sứ được
sai đến bởi Đấng Gia-Vê hay không: lời giảng dạy của người ấy có phù
hợp với giáo lý của lề luật Môisen không, công việc của người ấy có tương ứng
với các điều răn của Thiên Chúa không, lời tiên tri của người ấy có liên quan
đến sự thật sắp xảy ra trong tương lai không. Tại Nagiarét, Đức
Giêsu tự nhận mình là một ngôn sứ – thực ra, Người so sánh mình với các ngôn sứ
Êlia và Êlisa – dù rằng Người không tự nhận mình như thế để cho phù hợp với tập
quán hầu tránh được bất kỳ nỗ lực tự xưng của mình.
c) Giây
phút thinh lặng cầu nguyện:
Hãy để cho Lời Chúa
vang vọng ở trong lòng chúng ta.
3. Suy Gẫm
a) Một vài
câu hỏi gợi ý:
- Nghiên
cứu cách chính xác trong mọi hoàn cảnh: chúng ta có luôn vội vã
trong ngày không? Chúng ta có thực sự muốn truy cứu một cách chính
xác việc gì đã xảy ra cho chúng ta không?
- Người sai
tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó: Tôi có luôn nghĩ
đến người nghèo khó như những người khác trong khi tôi thuộc về những người
giàu có và hiểu biết, và do đó tôi không cần đến bất cứ ai không?
- Hôm
nay lời Kinh Thánh này đã được ứng nghiệm: lời Kinh Thánh nào mà
chúng ta biết rõ đến nỗi như công nhận nó là hóa thân trong thời đại chúng
ta?
b) Chìa khóa dẫn đến bài Tin
Mừng:
Cảnh huống lịch sử
Đoạn văn về hội đường tại Nagiarét là
một phần góc cạnh được thiết kế để sau này sẽ hình thành chìa khóa của bài đọc
về những gì xảy ra tiếp theo trong sách Phúc Âm của
Luca. Việc đối chiếu lời ngôn sứ
Isaia là việc căn bản bởi vì trong đó được mặc khải sự liên tục lịch sử nhân
loại của Thiên Chúa. Cử chỉ của Chúa Giêsu, được đặt song song: “Người
đã đứng dậy và mở sách ra” (câu 17), “Người gấp sách lại và
ngồi xuống” (câu 20), cho thấy câu chuyện về một nhân vật phụng vụ
theo lệ thường nhưng lại mới mẻ.
Sự mới mẻ xảy ra trong bài giảng nói về
món quà tặng báo trước. Ngày nay, một từ ngữ quan trọng trong
Tin Mừng Luca, thể hiện việc ứng nghiệm trong mục đích của Chúa
Kitô. Những phản ứng tức khắc đối với chữ ngày nay là
sự ngạc nhiên và không tin tưởng, là kỳ diệu và tai tiếng thậm chí việc chối bỏ
đã được tìm thấy trong câu hỏi theo sau lời công bố của Chúa Giêsu, một câu hỏi
lơ lửng mà không có câu trả lời: “Ông này không phải là con ông
Giuse đó sao?” (câu 22). Sự tương phản với Lời Chúa được
công bố về một người được trao ban bởi thần khí Chúa, được thánh hiến bởi việc
xức dầu, được sai đi vào một sứ vụ đặc biệt mang tính cách thiên
sai: để đem tin mừng, để tha thứ, để công bố… tạo ra một cuộc xung
đột về căn tính.
Cảnh huống văn học
Đoạn văn này không có những điểm tương
đồng chính xác trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm. Chuyến viếng thăm
của Đức Giêsu tại làng Nagiarét trong Tin Mừng Mátthêu 13:53-58 và trong Máccô
6:1-6a giới hạn trong câu hỏi liên quan đến nguồn gốc của Chúa Giêsu và sự từ
chối của Người. Không có một lời mô tả nào về nghi thức trong hội
đường, cũng không có một ghi chép nào về những lời được công bố bởi Đức Giêsu
và về sự giải thích việc hôm nay ứng nghiệm Lời Chúa. Sự phù hợp duy
nhất, ngoài sự đa dạng của bối cảnh, là việc từ chối Đức Giêsu bởi dân làng
Nagiarét.
Qua bài giảng của Chúa Giêsu tại
Nagiarét, Luca muốn giới thiệu và làm sáng tỏ toàn bộ mầu nhiệm công khai của
Chúa Giêsu. Sách tiên tri Isaia các câu 61:1-2 chứa một tổng hợp về
các chủ đề lớn mô tả đặc điểm Tin Mừng của Luca và những việc thân quý nhất đối
với ông: Chúa Thánh Thần, việc xức dầu Đấng Thiên Sai, sự giải thoát
cánh chung, niềm vui thiên sai, sự can thiệp của Thiên Chúa để giúp đỡ người
nghèo khó và kẻ bị áp bức, việc công bố năm hồng ân. Chương trình
được mở đầu trong sách Tin Mừng của Máccô với lời công bố: “Thời
kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và
tin vào Tin Mừng” (Mc 1:14-15) và sách Tin Mừng Mátthêu trong bài
giảng trên núi (Mt 5:1-48), xuất hiện trong sách Tin Mừng của
Luca tại trung tâm thờ phượng của người Do Thái: việc được ứng
nghiệm không phải là thời gian mà là lời Kinh Thánh. Độc giả được
mời gọi để nhìn thấy việc cần thiết phải “cùng đi” với Chúa Kitô và bắt chước
Người trên con đường tuân theo ý muốn của Chúa Cha. Thành
Giêrusalem, chỗ kết thúc của một cuộc hành trình dài (Lc 9:51-18:14) đã
đưa Chúa Giêsu đến thời điểm quyết định cuộc đời của Người, cùng là điểm
cuối cùng của sứ vụ nơi trần gian của Người (Lc 24) và bắt đầu đời sống của
Giáo Hội sơ sinh (Cv 1-2).
Thể loại văn học
Trong đoạn văn này, chúng ta có thể thấy
một chút thống nhất về văn học. Sự can thiệp biên soạn của Luca bắt
đầu từ những dữ kiện truyền thống, theo sau mục đích riêng của
nó. Sự thiết kế nhất thể của cả hai phần cho thấy sự phân định nội
tại rõ ràng và đối ngoại chính xác. Đối với Luca, hai lĩnh vực của
vấn đề thì không thể tách rời: Đức Giêsu là ai? Và Việc
làm của Người nhắm vào ai? Mối tương quan giữa lời nói và hành
động thì rất mật thiết, hành động mạnh mẽ của việc công bố xảy ra trong đời
sống. Đoạn văn này muốn giới thiệu mầu nhiệm công khai của Chúa
Giêsu, hầu như giúp cho Người có thể hành động trong sự hạn chế vì Người thuộc
về dân Do Thái. Thần Khí Chúa được ban dồi dào trên Đức
Giêsu: lúc Người được sinh ra (1:36); lúc Người chịu phép rửa
(3:22), trong lúc bị cám dỗ (4:1), vào lúc bắt đầu sứ vụ của Người (4:14), là
Thần Khí được nói đến trong sách tiên tri Isaia (câu 18) là Đấng làm cho hoạt
động của Thiên Chúa nên rõ ràng. Một hoạt động không có những giới
hạn chủng tộc và không tìm kiếm danh vọng, mà thiên về những ai cần đến ơn
cứu độ: người nghèo khó, những kẻ bị giam cầm, kẻ mù lòa, người bị
áp bức, và để bắt đầu thời gian ân sủng của Thiên Chúa. Vị ngôn sứ
được sai đến bởi Thiên Chúa thì được miễn trừ khỏi tất cả mọi giới hạn và cớ
ràng buộc. Chúng ta vượt qua từ một việc phụng tự trong hội đường
không có khả năng đón nhận Lời Chúa xưa được ứng nghiệm trong ngày hôm nay, đến
một sự phụng vụ dọc theo những con đường của thế giới. Chúa Giêsu ra
đi, Người đi theo con đường của mình mà từ Giêrusalem sẽ đưa Người đến tận cùng
trái đất thông qua những kẻ theo Người.
Phân tích chi tiết về văn bản
Một phân tích tỉ mỉ về những câu trong
đoạn Tin Mừng này sẽ tiết lộ những đặc thù quan trọng, mà trong khuôn khổ lịch
sử, cung cấp cảnh tượng trong hội đường một sự tổng hợp Tin Mừng về nội dung và
các sự kiện.
Câu 16: Dường như
hội đường là nơi mà Chúa Giêsu thường xuyên lui tới. Chính nơi này
từ thời niên thiếu, Người đã được nghe Lời Chúa và đã hiểu nó theo truyền thống
sinh sống của người dân. Thật là ý nghĩa Chúa Giêsu tìm đến các
trung tâm phụng vụ. Những người Do Thái trưởng thành có thể đọc được
chữ, thông thường các nhà lãnh đạo của hội đường được ủy thác nhiệm vụ này, là
những người thông thạo về Kinh Thánh. Sự kiện mà Chúa Giêsu đứng lên
đọc cho thấy rằng Người làm thế theo lệ thường cũng như Người có thói quen đến
tham dự ở hội đường. Những chữ: “theo thói quen của Người” làm
tăng thêm sự hữu hiệu cho câu gần như là người đọc và nói không phải là bất cứ
một ai khác, mà là một người thuộc dòng dõi Israel thông thạo về việc đọc và
giải thích kinh Ngũ Thư và các sáchTiên Tri. Lúc
ấy đức tin Kitô hữu được khai sinh từ những người đại diện trung thành của con
cái Israel, những người mà thời gian chờ đợi của họ đã đến lúc ứng
nghiệm. Tất cả các nhân vật chính trong Tin Mừng Luca là những người
dân Israel thật sự: ông Giacaria, bà Isave và ông Gioan Tiền Hô, Đức
Maria, thánh Giuse và Chúa Giêsu, các tông đồ và sau đó Công Vụ Tông Đồ,
Phaolô. Đây là “một thói quen” mang theo nó một cái
gì đó mới mẻ. Hội đường là nơi từ đó sự công bố bắt đầu và lan tỏa
đến các thành phố miền Giuđa và Galilêa, và toàn cõi Israel thậm chí đến tận
cùng bờ cõi trái đất.
Các câu 17-19: Chúa Giêsu
mở sách gặp ngay đoạn trong sách tiên tri Isaia 61:1-2 mà có lẽ đề cập đến việc
thánh hiến một tiên tri (xem 1V 19:16). Luca bỏ qua lời trích dẫn
đoạn kết răn đe từ sách Isaia bởi vì nó không dính líu đến mục đích của mình:
ông nhấn mạnh rằng giáo huấn của Đức Giêsu có nguồn cội từ Kinh Thánh (17-19;
25-27) và làm cho nó hiện diện trong chính Con Người của Chúa. Những
lời của ngôn sứ Isaia trên môi miệng Người đạt được đầy đủ ý nghĩa của chúng và
tóm tắt sứ vụ của Người (xem 4:1), tràn đầy Chúa Thánh Thần, được xức dầu bởi
Thiên Chúa, được sai đến để công bố Tin Mừng cho người nghèo khó, đem lại sự
giải thoát cho kẻ bị giam cầm và người bị áp bức, cho người mù được thấy và rao
giảng thời gian ân sủng của Thiên Chúa.
Câu 20: Lời mô tả
chi tiết các cử chỉ báo hiệu cho những gì sẽ đến. Chúa Giêsu nói
chuyện trong khi đang ngồi, vị thế điển hình của người giảng
dạy. Ánh mắt của dân chúng hướng về Người chuẩn bị cho chúng ta tầm
quan trọng về những điều Người sắp nói. Bài giảng của Người ngắn gọn
nhưng gây lo âu. Những cử động cho thấy các đặc tính của Luca từ
đoạn Tin Mừng này. Chúa Giêsu đến, Người bước vào, Chúa đứng dậy,
Người ngồi xuống, Người băng qua giữa họ, Người đi khỏi. Dân chúng
Nagiarét cũng đứng dậy nhưng mà để lôi Người ra khỏi hội đường. Sự
tương phản rõ ràng. Chúa Giêsu đứng dậy để đọc sách, người ta đứng
dậy để đuổi Người đi. Sự chờ đợi được mô tả trong câu
này: “Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người” thoái
hóa thành sự từ chối. Vấn đề không ở lời rao giảng, đã rất nổi tiếng
và là nguồn gốc của sự hy vọng cho những người dân Israel mộ đạo, mà là người
công bố nó và làm cho nó trở nên của riêng mình.
Câu 21: Chúa Giêsu
không đưa ra bất kỳ một ý kiến nào về lời của ngôn sứ Isaia, mà Người làm cho
chúng trở thành thực tại. Lời của Người là một sự kiện từ ngữ –phán
ra (rhêma) – (Cv 10:37), một lời mà bây giờ là sự cứu rỗi. Lời
tiên tri trở nên sống động và đang diễn ra. Lời giải thích của Chúa
Giêsu vượt hẳn mọi sự mong đợi. Trong Lời Chúa, hôm nay là
thì hiện tại, ngày hôm nay là đặc trưng của Thánh Sử và đó
là ngày hôm nay của ơn cứu độ, ngày hôm nay của
việc ứng nghiệm đến từ sự lắng nghe (xem Rm 10:17). Điều cần thiết
đối với Luca là sự lắng nghe. Việc thực hiện những lời cam kết từ
ngàn xưa được lặp đi lặp lại trong toàn bộ các tác phẩm của Luca (Lc 9:51; Cv
2:1; 19:21) là dành cho những người lắng nghe: kẻ cùng khốn (anawim),
người nghèo khó, kẻ bị áp bức, những người được Đấng Gia-Vê thương mến (Is
11:4; 29:19) và bây giờ những người được Chúa Giêsu yêu thương (Mt
11:28).
c) Suy
niệm:
Lời chú giải Thánh Kinh của Chúa Giêsu
về sách Tiên Tri Isaia chương 61 là một ví dụ của việc hiện thực hóa cho thấy
sự hiện diện của Đấng Thiên Sai và sự trông cậy vào các đoạn Kinh Thánh để làm
sáng tỏ tình trạng hiện tại. Đức Kitô là Đấng thẩm quyền sáng tạo
đòi hỏi người ta phải thích ứng đời sống của họ với sứ điệp, chấp nhận Đấng
Được Xức Dầu của Thiên Chúa và từ bỏ giả định hạ thấp Người xuống ngang hàng
với họ. Quan điểm thực tiễn này là chìa khóa cho việc hiện thực hóa
trong mọi thời đại: ơn cứu độ của ngày hôm nay vang
vọng đến bất cứ nơi nào có lời rao giảng, cùng là sự chào đón và dấn thân.
Trong hội đường ở Nagiarét, chúng ta
thấy các câu trả lời căn bản của loài người, những kẻ sống trong kỳ vọng gặp gỡ
với ơn cứu rỗi. Chúa Giêsu được sai đến bởi Thiên Chúa và được duy
trì bởi Chúa Thánh Thần. Việc xức dầu nói rằng Người là Đấng Cứu
Thế. Trong Người, lời Kinh Thánh được ứng nghiệm. Người
là Thiên Chúa của ngày hôm nay, Đấng làm ứng nghiệm lịch sử trong quá khứ, bây
giờ đến sự viên mãn trong Đức Giêsu và sẽ trở thành ngày hôm nay hằng ngày cho
tương lai đó là thời kỳ của Giáo Hội, nó cũng gửi đi như Lời báo trước của
Chúa, được duy trì bởi Chúa Thánh Thần. Sứ điệp chính được tìm thấy
trong đoạn văn này của Luca là lời Kinh Thánh. Kinh Thánh chứa đựng
toàn bộ sự bí ẩn của Thiên Chúa, Đấng hằng sống đời đời và trở thành người như
chúng ta.
4. Cầu Nguyện
Thánh Vịnh 2:6-9
"Chính Ta đã đặt vị quân vương Ta tuyển chọn,
lên trị vì Si-on, núi thánh của Ta."
lên trị vì Si-on, núi thánh của Ta."
Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của CHÚA,
Người phán bảo tôi rằng: "Con là con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra con.
Người phán bảo tôi rằng: "Con là con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra con.
Con cứ xin, rồi Cha ban tặng
muôn dân nước làm sản nghiệp riêng,
toàn cõi đất làm phần lãnh địa.
muôn dân nước làm sản nghiệp riêng,
toàn cõi đất làm phần lãnh địa.
Con sẽ dùng trượng sắt đập chúng tan tành,
nghiền nát chúng như đồ sành đồ gốm."
nghiền nát chúng như đồ sành đồ gốm."
5. Chiêm Niệm
Hôm
nay: đây là chữ quan trọng trong đời sống hằng ngày của
con. Trong ngày hôm nay lời Kinh Thánh được ứng
nghiệm. Trong ngày hôm nay Đức Kitô đi vào trong hội đường của sự
nhận thức của con để công bố Tin Mừng cho sự nghèo nàn của ý nghĩ con, cho
những cảm giác của con là những kẻ bị giam cầm bởi lòng ham muốn được xây dựng
trên những hoang tàn của những ngày đen tối trải dài từ giờ này sang giờ kia,
cho tầm mắt của con đã bị che khuất bởi tất cả những sự thiển cận của
con. Năm của ân sủng, của hoán cải, của phúc lành. Lạy
Chúa, nguyện xin cho ngày hôm nay của con là của Chúa để không một lời nào của
Chúa phải trở thành vô ích trong đời sống của con, mà để cho Lời của Chúa có
thể được ứng nghiệm như hạt thóc trong luống cày băng giá của quá khứ, có thể
nảy chồi đâm lộc vào lúc những dấu hiệu đầu tiên của mùa xuân xuất
hiện.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét