Trang

Thứ Bảy, 2 tháng 1, 2016

03-01-2016 : (phần II) CHÚA NHẬT LỄ CHÚA HIỂN LINH năm C

03/01/2016
Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh năm C.
Lễ Trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật Lễ Hiển Linh - Năm C
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA HIỂN LINH
(Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12)
ƠN CỨU ĐỘ PHỔ QUÁT
“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người
xuất hiện bên phương Đông,
nên chúng tôi đến bái lạy Người”

(Mt 2, 2)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (Is 60,1-6)
Bài đọc I hôm nay nằm trong những chương của sách ngôn sứ Isaia nói hoàn toàn về ơn cứu độ. Trong các chương 60-62 này, chúng ta không đọc thấy những lời kết tội hay đe dọa, cũng không có điều kiện cho những người đón nhận ơn cứu độ ngoài lòng muốn đón nhận ơn cứu độ. Do đó, bài đọc hôm nay là một bài ca tuyệt vời tràn ngập niềm vui, niềm hi vọng của ơn cứu độ. Nó diễn tả cảnh huy hoàng của thành Sion vào ngày Đức Chúa xuất hiện. Sion bừng sáng không phải tự nó, nhưng là nhờ ánh sáng của Đức Chúa. Các dân tộc đang sống trong bóng tối của đau khổ tội lỗi sẽ lần bước tìm về với ánh sáng của Sion, vì đó chính là ánh sáng cứu độ mà Thiên Chúa mang đến. Hình ảnh các dân tộc kéo về Giêrusalem cùng với muôn vàn thú vật và vàng bạc trầm hương diễn tả sự giàu có sung túc và hạnh phúc của thành thánh trong ngày Đức Chúa xuất hiện.
Hình ảnh ánh sáng và vinh quang thường gặp thấy trong các Thánh vịnh ca ngợi vương triều của Thiên Chúa, hát mừng ngày đăng quang của Đức Chúa. Trong Is 6,3-5 ngôn sứ Isaia cũng đã nói về vinh quang của Đức Chúa được tỏ hiện khi vương quốc của Người được thiết lập và khi vương quyền Người được loan báo ở Sion. Bài đọc hôm nay công bố sự thiết lập vương triều của Đức Chúa ở Giêrusalem qua sự xuất hiện của ánh sáng và vinh quang của Người. Và khi đó các dân sẽ tìm về theo ánh sáng của Người để được ơn cứu độ. Ánh sáng của Người chiếu soi mọi dân, soi những người đang ngồi trong bóng tối; vinh quang của Người nâng dậy những ai mệt mỏi rã rời. Mọi người đến với Người để được yêu thương che chở và cùng chia sẻ những hạnh phúc và niềm vui. Ở Giêrusalem, thành đô Sion, Thiên Chúa quy tụ và mang đến niềm vui và ơn cứu độ cho mọi người tìm đến với Người, không phân biệt màu da tiếng nói hay giai cấp địa vị. Mọi người cùng được mời gọi vui lên, bừng sáng lên cùng Sion, cùng Giêrusalem, thành đô thiên quốc trong ngày Đức Chúa xuất hiện.
2. Bài đọc II (Ep 3,2-3a.5-6)
Thánh Phaolô trong bài đọc II đã khẳng định rằng ơn cứu độ không dành riêng cho dân Do thái theo huyết thống, nhưng cả những người dân ngoại, những người không phải là Do thái, cũng được “cùng thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa”. Dân mới của Đức Chúa, dân Người quy tụ trong thành Giêrusalem thiên quốc sẽ bao gồm mọi sắc dân thuộc mọi ngôn ngữ, tất cả những ai tin vào Người. Họ không phải chỉ là những thành phần thêm vào trong dân của Thiên Chúa, nhưng chính là những người đồng thừa hưởng gia nghiệp và phúc lành mà Thiên Chúa đã hứa ban, điều mà Người đã mạc khải cho các thánh Tông đồ và ngôn sứ.
3. Bài Tin Mừng (Mt 2,1-12)
Đoạn Tin Mừng theo thánh Mátthêu chúng ta vừa nghe tường thuật lại việc các nhà chiêm tinh theo ánh sao đi tìm Hài Nhi Giêsu vừa chào đời và cuộc gặp gỡ của họ với Vua Hêrôđê và các nhà lãnh đạo Do thái. Đoạn Tin Mừng thuật lại những hình ảnh, những thái độ và những hành động trái ngược của các nhà chiêm tinh và “dân Do thái” trước sự kiện ngôi sao lạ xuất hiện báo tin sự ra đời của Đức Vua dân Do thái.
Trước hết, các nhà chiêm tinh là những học giả Đông phương, thông thạo chiêm tinh; có thể họ đã biết về trào lưu chờ đợi Đấng Mêsia nơi dân Do Thái, nên khi thấy ngôi sao lạ xuất hiện, họ đã nghĩ đến “Vua dân Do thái”, Đấng Mêsia đã đến. Truyền thống sau này đã nghĩ rằng họ là ba vị vua với ba loại lễ vật khác nhau; người ta còn gán cho các vị ấy tên Gaspar, Balthasar và Melchior. Các nhà chiêm tinh nhìn thấy ánh sao xuất hiện bên phương Đông nên đã đi tìm, nhưng vì không biết chính xác nơi Đấng Mêsia sẽ xuất hiện nên họ đã đến hỏi Vua Hêrôđê về nơi Đức Vua dân Do thái mới sinh. Được Vua Hêrôđê dặn dò họ đã tiếp tục ra đi, và ngôi sao họ nhìn thấy trước kia đã tiếp tục hướng dẫn họ đến tận nơi Hài Nhi đang ở. Nhìn thấy Hài nhi, họ đã lấy lễ vật để dâng tiến Người.
Những nhà chiêm tinh là những người dân ngoại, chỉ biết về Đấng Mêsia qua những kiến thức không chắc chắn, nhưng họ đã khao khát, mau mắn tìm kiếm Đấng Mêsia, nên đã đi tìm hiểu để có thể gặp được Người. Họ ra đi ngay trong đêm vì nao nức tìm gặp Hài nhi, vì có ánh sao chỉ đường cho họ. Gặp được Hài Nhi họ đã nhận ra đây chính là vị Cứu Thế nên đã bái lạy và dâng những lễ vật thường được dâng tiến cho một vị Vua. Những người ngoại giáo này đã tìm gặp được Đấng cứu Thế nhờ lòng chân thành yêu mến của mình.
Còn Vua Hêrôđê và các nhà lãnh đạo khác thì sao? Họ đã phản ứng hoàn toàn trái ngược với các nhà chiêm tinh. Phản ứng đầu tiên chúng ta đọc thấy chính là sự bối rối của Vua Hêrôđê, cũng như tâm trạng xôn xao của dân thành Giêrusalem. Họ không vui mừng như các nhà chiêm tinh, không ra đi tìm Hài Nhi, nhưng lại lo lắng. Vì sao? Vì sự xuất hiện của Vua dân Do thái sẽ đe dọa ngai vàng của Vua Hêrôđê, vì sự xuất hiện của vị Vua mới đòi những thay đổi nơi dân chúng. Họ cảm thấy bất an sợ hãi. Chính dân Do thái là những người đã được mạc khải, được loan báo về sự ra đời của Đấng chăn dắt Israel. Họ đã biết những lời các ngôn sứ loan báo về sự ra đời của vị Mục tử này. Họ đã có thể giải thích cho các nhà chiêm tinh và hướng dẫn các vị này đi đến Bêlem để gặp Hài Nhi, còn chính họ thì dửng dưng trước sự kiện này, hay đúng hơn họ đang có những tính toán, lo lắng cho cuộc đời của mình.
Nếu như các nhà chiêm tinh đã để cho ánh sao của Đấng Cứu Thế hướng dẫn mình, để cho những lời Thánh kinh soi sáng mình, thì ngược lại, Vua Hêrôđê cùng các thượng tế và kinh sư lại nhắm mắt, bịt tai trước các mạc khải, các sứ điệp và các lời mời gọi về tin vui cứu độ. Các nhà chiêm tinh là những đại diện của dân ngoại, đã trở thành những người đón nhận ơn cứu độ. Ngược lại, Vua Hêrôđê và các nhà lãnh đạo Do thái, những người thừa hưởng lời hứa cứu độ, lại tự đặt mình ra ngoài chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đã trở nên thù địch với ơn cứu độ.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. Các nhà chiêm tinh đã nhận được sự thúc đẩy đầu tiên khi nghiên cứu thiên văn. Đến Giêrusalem, các vị lại nhận được một thông tin chính xác hơn rút từ Kinh Thánh. Các vị đã can đảm lấy quyết định lên đường và cứ dò dẫm từng bước, và Thiên Chúa đã dẫn dắt các vị đạt tới mục tiêu bằng “ngôi sao” dẫn đường. Bởi vì các vị không kháng cự lại và không quản ngại mệt nhọc, trái lại đã chấp nhận được hướng dẫn, các vị đã vui sướng đạt tới mục tiêu. Thiên Chúa luôn đáp ứng những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, dù đôi khi người trong cuộc cảm thấy đường đi không rõ và mục tiêu mịt mù. Chúng ta có khao khát tìm kiếm Thiên Chúa như các nhà chiêm tinh không? Giữa những nghi ngại của thế giới hôm nay, giữa những trào lưu dửng dưng tôn giáo và tục hóa mọi điều thánh thiêng, chúng ta có còn kiên vững theo Chúa không?
2. Các nhà chiêm tinh không thấy vinh quang hay uy quyền của Hài Nhi Giêsu, nhưng các vị đã bái lạy mà nhìn nhận Người là Chúa tể, là Đức Vua và vị Mục Tử của Dân ngoại, vì các vị tin. Đức tin cần thiết cho từng bước đi tới chỗ nhận biết Đức Chúa. Mỗi khi chúng ta cảm thấy lạc lối trong đời sống đạo, không nhìn thấy Chúa hay cảm thấy không có Chúa trong cuộc đời mình, thử xét lại xem mình có xác tín, có đủ niềm tin để nhận ra Chúa trong những điều xem ra tầm thường hay ngay cả không thể chấp nhận được.   
3. Hình ảnh các nhà chiêm tinh đến gặp Vua Hêrôđê để được biết thêm về nơi sinh của Vua dân Do thái, Đấng Mêsia cũng nhắc chúng ta về nghĩa vụ giới thiệu về Đấng Cứu Thế cho những ai chưa nhận biết Người. Chúng ta đã chuẩn bị cho mình một sự hiểu biết cần thiết, nhất là một xác tín về Người để có thể trình bày và dẫn đưa những ai khao khát tìm về với Người chưa?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa muốn tỏ mình cho nhân loại trong Đức Giêsu Kitô để bất cứ ai tin nhận Người là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế thì được ơn cứu rỗi. Cộng đoàn chúng ta hãy thành tâm cảm tạ Chúa và tin tưởng cầu xin:
1. Chúa đã dùng ánh sao lạ dẫn đường cho các đạo sĩ phương đông đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh được đầy ơn khôn ngoan và lòng nhiệt thành, trở nên ánh sáng soi lối cho mọi người nhận biết Thiên Chúa.
2. Nhiều người trên thế giới và tại đất nước Việt Nam chưa tin nhận Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người thành tâm thiện chí được ánh sáng của Chúa soi dẫn biết tìm kiếm và tin nhận Đức Kitô là đường, là sự thật và là sự sống cho cuộc đời họ.
3. Các đạo sĩ đã sấp mình thờ lạy và dâng tiến lễ vật cho Hài Nhi Giêsu. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi kitô hữu biết thành kính tôn thờ và phụng sự Chúa qua đời sống cầu nguyện cùng các cử hành phụng vụ, đồng thời, luôn nỗ lực thực thi công bình bác ái trong đời sống.
4. Nhận ra và dõi theo ánh sáng chân lý sẽ đưa con người đến gần Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn yêu mến, năng suy niệm cùng thực hành Lời Chúa, hầu trở nên men muối cho đời và chiếu tỏa ánh sáng cho trần gian.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin nhận tâm tình cảm tạ và lời cầu nguyện của dân Chúa tha thiết kính dâng. Xin giúp chúng con trong cuộc sống hằng ngày biết nỗ lực trở nên chứng tá cho tình thương cứu độ của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

CHÚA GIÊSU
LÀ ÁNH SÁNG CỦA MUÔN DÂN

"Khi Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, có mấy đạo sĩ từ Phương đông đến bái lạy Ngài" (Mt 2,1-2)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I : "Hỡi Giêrusalem hãy tỏa sáng, các dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi."
- Đáp ca : "Lạy Chúa, các dân nước sẽ ca ngợi Ngài."
- Tin Mừng : "Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài ở phương Đông và chúng tôi đến để triều bái Ngài."
- Bài đọc II : "Nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Ngài trong Chúa Giêsu Kitô."

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Chúa Giêsu là ánh sáng. Trong dịp lễ Giáng sinh, Ngài đã chiếu sáng các nhà thờ và các gia đình tín hữu. Nhưng Ngài còn muốn là ánh sáng cho tất cả mọi người nữa.
Ngày hôm nay chúng ta mừng lễ Hiển linh, kỷ niệm việc ngày xưa Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các đạo sĩ, đại diện cho lương dân. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người ngoài Kitô giáo cũng nhận được ánh sáng Chúa ; và cho chính chúng ta ý thức bổn phận mang ánh sáng Chúa đến cho mọi người.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta có tội vì quá thờ ơ với việc mang ánh sáng Tin Mừng đến cho lương dân.
- Chúng ta có tội vì cộng đoàn xứ đạo chúng ta không nêu gương sáng trước mặt mọi người.
- Chúng ta có tội vì không quan tâm tìm ý Chúa qua những đấu chỉ hằng ngày.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I : Is 60,1-6
Mặc dù đang sống trong chốn lưu dày, ngôn sứ Isaia đã mơ tới ngày hồi hương. Khi đó Giêrusalem sẽ được tái thiết lại huy hoàng và là nơi thu hút muôn dân tuôn đến :
- Trong khi cả trái đất ngập chìm trong tăm tối thì Giêrusalem lại bừng sáng, vì có Chúa là Ánh sáng đang ngự ở đó.
- Bởi thế, muôn dân từ khắp nơi sẽ tuốn về ánh sáng của Giêrusalem.
Trên thực tế, dân do thái đã được hồi hương và Giêrusalem đã được tái thiết. Nhưng Giêrusalem đâu có được đúng như Isaia đã mơ. Giấc mơ của Isaia chỉ được thực hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu. Ngài chính là Ánh sáng đến trần gian.
2. Đáp ca : Tv 71
Tv này cầu nguyện cho một vị vua lý tưởng mà trong triều đại ngài hòa bình và công lý ngự trị, mọi người đều hạnh phúc.
Vị vua lý tưởng ấy cũng chính là Chúa Giêsu.
3. Tin Mừng : Mt 2,1-12
Các "đạo sĩ" là những nhà trí thức ở vùng Babylon phía Đông xứ Palestine. Do niềm tin có phần mê tín rằng ngôi sao lạ là điềm báo một Đấng cứu tinh đã sinh ra, họ đã đi theo ánh sao và tìm đến với Hài nhi Giêsu.
Nhưng cuộc hành trình của các vị cũng không phải là trơn tru dễ dàng vì có lúc ánh sao biến mất. Nhưng nhờ các vị kiên trì, ánh sao đã xuất hiện lại và cuối cùng các vị đã tìm đến nơi.
Như thế, qua ánh sao lạ, Chúa Hài nhi đã tỏ mình ra cho đại diện lương dân, đang khi các nhà trí thức do thái ở Giêrusalem tuy thông thạo Thánh Kinh nhưng đã không nhận ra Chúa.
4. Bài đọc II (Êp 3,2-6)
Để thấy được nét độc đáo của đoạn thư này, trước hết chúng ta hãy lưu ý đến tâm thức của người do thái : họ cho rằng dân tộc họ được Thiên Chúa đặc biệt tuyển chọn, cho nên ơn cứu độ là độc quyền của họ.
Thánh Phaolô thì không nghĩ như vậy. Trong thư viết cho dân thành Êphêxô, một "dân ngoại", ngài tiết lộ cho họ biết một "mầu nhiệm", đó là Thiên Chúa đã trao sứ mạng cho ngài đem ân sủng của Tin Mừng phân phát cho tất cả các dân. Nhờ Tin Mừng này, mọi dân tộc đều trở thành "đồng một thân thể" với nhau và với Đức Giêsu Kitô, hơn thế nữa họ trở nên "đồng thừa tự" để hưởng gia tài của Đức Giêsu Kitô và "đồng thông phần" với lời hứa cứu độ của Ngài.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Mặt trời là của ai ? Chúa của ai ?
Chúa Giêsu là Ánh Sáng, ánh sáng huy hoàng hơn cả mặt trời.
Nếu mặt trời không phải là của riêng ai, thì Chúa Giêsu cũng là của mọi người, mọi dân. Ngài mang ơn cứu độ đến cho muôn dân. "Không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá để soi cho mọi người".
Bởi thế, ngay sau khi giáng sinh, tỏ mình ra cho những kẻ chăn chiên nghèo hèn, Chúa Giêsu cũng sớm tỏ mình ra cho các đạo sĩ đại diện cho lương dân.
Vì Chúa muốn tỏ mình ra cho muôn dân, cho nên lương dân có quyền được biết Chúa, và những người đã biết Chúa có bổn phận giúp cho lương dân biết Chúa.
Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay dùng một hình ảnh vừa rất đẹp vừa rất hay để dạy chúng ta cách giúp cho người khác biết Chúa, đó là Ánh Sáng :
- Hãy đưa cao Tin Mừng như người ta nâng cao ngọn đuốc sáng để soi chiếu mọi vùng tăm tối.
- Cách sống của những người đã biết Chúa phải là một ngọn đèn sáng gương mẫu cho những người chung quanh. Chúa Giêsu nói : "Sự sáng của chúng con cũng hãy tỏa sáng trước mặt mọi người. Còn Thánh Phaolô thì nói : "Anh em hãy chiếu sáng như những tinh tú trên bầu trời".
2. Hành trình đức tin
Hành trình của các đạo sĩ là hình ảnh minh họa cho hành trình của mọi kẻ tin :
a/ Hành trình khởi đầu bằng một điều gì đó lạ lùng khiến người ta chú ý (thí dụ ánh sao lạ đối với các đạo sĩ). Điều lạ lùng này mời gọi người ta từ bỏ nếp sống đã quen để dấn thân đi tìm một cái gì đó cao hơn, xa hơn, tốt đẹp hơn.
b/ Tiếp theo là những bước thăng trầm trong cuộc hành trình : có khi con đường rất bằng phẳng êm ái, có khi lại quanh co gồ ghề, có lúc ánh sao sáng tỏ trên bầu trời, có lúc nó vụt biến mất.
c/ Nhưng miễn là người ta không nản lòng mà cứ kiên trì dấn bước thì cuối cùng người ta sẽ gặp được Chúa.
Đó là cuộc hành trình của kẻ chưa có đức tin tìm đến với Chúa, mà cũng là cuộc hành trình của kẻ đã tin rồi nhưng muốn đến với Chúa một cách gần gũi thân tình hơn.
3. Lên đường
Có những người tìm kiếm như các đạo sĩ, lên đường như Abraham. Cũng có những người ngồi một chỗ như Hêrôđê. Muốn biết ư ? Ông đã có các chuyên viên. Muốn tiêu diệt đối phương ư ? Ông có cả ngàn quân lính dưới quyền. Thiên Chúa hướng dẫn những ai muốn tìm Người cách lạ lùng. Người trốn thoát khỏi những kẻ muốn tìm bắt. Người không hung hãn chống lại những kẻ muốn huỷ diệt Người. Người tự xóa mình đi và biến mất.
Người ở đâu, Đức Giêsu ẩn dấu của thời đại ? Trong làng quê heo hút nào, trong gia đình nghèo khó nào có ánh sáng Thiên Chúa mời ta nhận ra Người ? "Ta đói các ngươi đã cho Ta ăn… Thực, Ta bảo các ngươi : mỗi lần các ngươi làm cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất là anh em Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta" (Mt 25,35-40). Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có lời kinh thánh : Ta đã không bị cám dỗ dùng lời Kinh Thánh để át giọng kẻ quấy rầy ư ? Đức Giêsu đâu để cho ta đền bù. Nếu ta muốn nắm lấy Người để được an tâm, Người sẽ thoát khỏi tầm tay ta. Nếu ta chấp nhận lên đường tìm kiếm Người, ta sẽ như các đạo sĩ, được đầy tràn niềm vui và tìm thấy Người (…) Đọc kỹ Kinh Thánh thôi chưa đủ, còn phải để Kinh Thánh gợi hứng cho đời ta, để ta đem ra thực hành, để ta đặt mình dưới sự điều khiển của Kinh Thánh. Các luật sĩ và các thầy thượng tế biết lời sấm lắm chứ. Nhưng họ chỉ biết trưng dẫn thôi… Hêrôđê thì dùng Kinh Thánh để tìm cách giết Hài nhi… Còn các đạo sĩ, bản thân chẳng biết Kinh Thánh, chỉ được Hêrôđê chỉ dẫn, đã lên đường tìm kiếm Đức Giêsu và họ đã gặp Người… (Mgr Lucien Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, Trích dịch bởi Fiches dominicales, trang 55-56).
4. Mảnh suy tư
Ánh sáng và bóng tối
Các đạo sĩ đã đi trong bóng tối nhờ tia sáng của một ánh sao dẫn đường.
Các ông đã tìm được Chúa vì không sợ bóng tối nhờ tin vào ánh sáng.
Thực ra, ta chỉ thấy được ánh sáng của ngôi sao khi trời tối
Trời càng tối thì sao càng sáng.
Tất cả chúng ta cũng là những khách lữ hành đi trong đêm tối
Nhưng chúng ta đừng sợ vì Đức Kitô là ánh sáng đã đến trần gian :
- Ánh sáng bừng lên trong đêm tối
- Ánh sáng xóa tan tăm tối
- Ánh sáng mà không sự tối tăm nào dập tắt được.
5. Chuyện minh họa
a/ Tôn giáo nào có Chúa ?
Ngày nọ, Chúa và tôi đến một hội chợ, không phải hội chợ thương mại, mà là Hội chợ Tôn giáo. Nhưng những người tham dự luôn tỏ ra hung bạo và tuyên truyền ầm ĩ.
Tại quầy hàng của người Do thái, chúng tôi nhận được những tờ quảng cáo nói rằng Chúa là Đấng thương xót và dân Do thái là dân được Ngài tuyển chọn. Ngoài những người Do thái, không ai khác được chọn như họ.
Tại quầy hàng của người Hồi giáo, chúng tôi học biết rằng Chúa đầy lòng khoan dung và Mohammed là ngôn sứ duy nhất của Ngài. Sự cứu độ đến nhờ việc nghe ngôn sứ duy nhất của Chúa.
Tại quầy hàng của người Kitô giáo, chúng tôi khám phá ra Chúa là tình yêu và không có sự cứu độ ở ngoài giáo hội. Hoặc gia nhập giáo hội hoặc phải chịu kết án đời đời.
Trên đường trở ra, tôi hỏi Chúa : "Ngài nghĩ gì về những điều nói về Chúa ?"
Chúa nói : "Ta không tổ chức Hội chợ đó. Ta thấy xấu hổ ngay cả khi đến thăm nó".
b/ Các tôn giáo
Chúa Giêsu nói rằng Ngài chưa bao giờ xem bóng đá. Vì thế, bạn tôi và tôi dẫn Ngài đi xem một trận. Đó là trận đấu gay cấn giữa những người Tin lành và những người Công giáo.
Người Công giáo ghi bàn thắng trước. Chúa Giêsu reo hò và tung mũ lên. Rồi đến người Tin lành ghi bàn thắng, Chúa Giêsu cũng reo hò và tung mũ. Điều này gây khó chịu cho anh thanh niên ngồi sau chúng tôi. Anh vỗ nhẹ lên vai Chúa Giêsu và hỏi : "Này anh bạn tốt, anh ủng hộ bên nào ?"
Lúc này Chúa Giêsu thấy hứng thú vì trận đấu, Ngài trả lời : "Tôi hả ? Ồ, Tôi không đứng về bên nào. Tôi chỉ thưởng thức trận đấu".
Anh quay sang người bạn bên cạnh, nhếch mép cười : "Hừ, kẻ vô thần".
Trên đường trở về, chúng tôi cho Chúa Giêsu biết về tình trạng các tôn giáo trên thế giới ngày nay : "Chúa ạ, thật buồn cười về những người trong các tôn giáo. Dường như họ luôn nghĩ rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại những người khác".
Chúa Giêsu đồng ý : "Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ các tôn giáo. Ta ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabát".
Một trong chúng tôi nói với vẻ lo lắng : "Ngài phải thận trọng. Ngài biết, Ngài đã một lần bị đóng đinh vì nói như thế".
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Thiên Chúa yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. Người đã dùng ngôi sao hướng dẫn muôn dân đến gặp gỡ Đấng Cứu Thế. Với tâm tình cảm tạ tri ân Thiên Chúa là Cha nhân hậu, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1- Chúa là Vua lãnh đạo muôn dân / Người đã mời gọi các hiền sĩ / là những người ngoại giáo đầu tiên đến thờ lạy Người tại Bêlem / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người trong Hội Thánh / biết tôn thờ và phụng sự Chúa hết lòng.
2- Chúa là Vua công bình chính trực / Người đến giải thoát người nghèo cô thân cô thế / chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người cùng khổ sầu đau / luôn được Chúa thương xót đỡ nâng.
3- Chúa đến làm ánh sáng chiếu soi muôn người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người đang tìm Chúa / qua những bóng mờ và hình ảnh / được ánh hào quang của Đức Kitô soi sáng và hướng dẫn / để họ thêm phấn khởi trên đường tìm chân lý.
4- Mỗi tín hữu phải là một ngôi sao dẫn đường cho người khác tìm về với Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho công đoàn giáo xứ chúng ta / biết dùng đời sống bác ái yêu thương / phục vụ khiêm tốn / mà giới thiệu Chúa cho những anh chị em chưa nhận biết Chúa.
CT : Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã sai chúng con mang sứ điệp Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Xin cho đời sống thường ngày của chúng con thể hiện một cách trung thực tình yêu bao la của Chúa đối với nhân loại. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha : Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho lương dân vì Ngài muốn quy tụ tất cả mọi người trong Nước của Ngài. Chúng ta hãy cùng với Ngài thiết tha cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến.
VII. GIẢI TÁN
Ngày xưa Chúa đã dùng ánh sao lạ dẫn đường các đạo sĩ đến với Ngài. Ngày nay Ngài muốn dùng mỗi người chúng ta như một ánh sao lạ dẫn đường cho anh em lương dân đến với Ngài. Rồi nhà thờ trở về với cuộc sống, chúng ta hãy sống như một ánh sao trước mặt mọi người. Chúc anh chị em bình an.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Hiển Linh (C)
Chúa Nhật, 3 Tháng 1, 2016
Mùa Giáng Sinh


Cuộc viếng thăm của các vị Vua từ phương Đông
Mt 2:1-12 

1.  Trong im lặng trước Thiên Chúa

Lắng nghe Lời Chúa trong cầu nguyện đòi hỏi sự chú tâm; nó đòi hỏi rằng sự lắng nghe của bạn chỉ được hướng tới Thiên Chúa mà thôi với tất cả sự sẵn sàng mà tâm hồn bạn có thể.  Phẩm chất lời cầu nguyện tùy thuộc rất nhiều vào sự chú tâm mà chúng ta dành cho nó.  Người ta nói rằng sự chú tâm là “thực chất của lời cầu nguyện”.  Nếu việc tìm kiếm Thiên Chúa của bạn thành khẩn, chân thành, trung thực, thì bạn sẽ có thể tìm thấy Thiên Chúa.  Hôm nay, trong ngày Chúa Nhật này Chúa được biểu thị như là ánh sáng cho nhân loại, chúng ta muốn cầu xin Chúa cho có được “sự say mê lắng nghe Lời Người” với những lời của Thánh Êlisabéth Ba Ngôi:  “Ôi lạy Ngôi Lời hằng hữu, Ngôi Lời của Thiên Chúa con, con ước ao được dành trọn cuộc đời con để lắng nghe Người, con muốn được hoàn toàn khuất phục để học hỏi tất cả mọi thứ từ Chúa.  Rồi sau đó, suốt mỗi đêm, mọi sự trống vắng, mọi nỗi bất lực, con luôn luôn ước ao được dồn sự tập trung vào Chúa và ở lại dưới ánh sáng tuyệt vời của Chúa”  (Ngước nhìn lên Thiên Chúa Ba Ngôi, 21 tháng 11 năm 1904).

2.  Lời Chúa được soi sáng

a)  Bối cảnh của đoạn Tin Mừng 

Nếu trong chương đầu tiên của sách Tin Mừng Mátthêu ý định của tác giả Phúc Âm là để cho thấy danh tánh của Đức Giêsu (Chúa Giêsu là ai), thì trong chương thứ hai Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu nhập thể đã được nối vào một số nơi cho thấy sự khởi đầu cuộc sống nơi trần thế của Người.
Đoạn Phúc Âm phụng vụ của Chúa Nhật tuần này là phần đầu của chương 2 trong Tin Mừng Mátthêu (2:1-29) được nối tiếp bởi ba câu chuyện khác: cuộc chạy trốn sang Ai Cập (2:13-15), việc sát hại các Thánh Anh Hài (2:16-18) và chuyến trở về từ đất Ai Cập (2:19-23).
Để hiểu rõ hơn về sứ điệp của bài Tin Mừng trong các câu 1-13, có lẽ sẽ ích lợi hơn nếu chúng ta chia đoạn Phúc Âm lễ Chúa Hiển Linh này thành hai phần dựa theo tiêu chuẩn của việc thay đổi địa điểm:  thành Giêrusalem (2:1-6) và Bêlem (2:7:12).  Cũng nên lưu ý rằng tại tâm điểm của câu chuyện Ba Vua chúng ta thấy một câu trích dẫn từ Kinh Thánh trong đó tập trung vào sự quan trọng của thành Bêlem trong thời thơ ấu của Đức Giêsu:  “Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel, dân tộc của Ta” (Mt 2:16).
Hai thành phố tạo nên bối cảnh cho chuyến viễn du của ba nhà Đạo sĩ và được kết hợp bởi hai mạch của chủ đề:  ngôi sao (các câu 2, 7, 9, 10) và việc triều bái Hài Nhi Giêsu (2:11).

b)  Phúc Âm:

Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem, thuộc xứ Giuđêa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông Phương tìm đến Giêrusalem. 2 Các ông nói:  “Vua người Do-Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu?  Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông Phương, và chúng tôi đến để triều bái Người.”  3 Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. 4 Vua đã triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ.
5 Họ tâu nhà vua rằng:  “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđêa, vì đó là lời do đấng tiên tri đã chép: 6 “Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta.”  7 Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu mấy nhà Đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. 8 Rồi vua phái họ đi Bêlem và dặn rằng:  “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho trẫm, để cả trẫm cũng đến triều bái Người.” 9 Nghe nhà vua nói, họ lên đường.  Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông Phương, lại đi trước họ, mãi cho tới khi tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. 10 Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. 11 Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Đức Maria mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống, sụp lạy Người.  Rồi, mở bảo tráp ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương, và mộc dược.  12 Và khi nhận được lời mộng báo “Đừng trở lại với Hêrôđê”, họ đã qua đường khác, trở về xứ sở mình.

3.  Giây phút thinh lặng trước Thiên Chúa

Bạn hãy đặt mình trước Thiên Chúa với lòng đơn sơ, ngập chìm trong một sự im lặng nội tâm sâu thẳm; hãy gạt sang một bên tất cả những tò mò, những suy nghĩ và trí tưởng tượng; hãy mở lòng bạn cho sự tác động Lời của Chúa.

4.  Đọc chăm chú

a)  Biểu tượng ngôi sao:

Ba vua, các Đạo sĩ từ Đông Phương, thông thạo về khoa thiên văn và tiên đoán được vận mệnh hoặc tương lai, thường xuyên được vấn kế về các thiên thể.  Bấy giờ khi họ đã đến thành Giêrusalem, họ nói rằng họ “đã nhìn thấy vì sao của Người xuất hiện”.  Chữ “xuất hiện”, từ tiếng Hy-lạp anatolê, khi không có mạo từ, có nghĩa là Đông Phương hoặc phía Đông (hướng mặt trời mọc); nhưng trong văn bản tiếng Hy-lạp có mạo từ và chữ này có nghĩa là sự xuất hiện của một vì sao thực sự và có thật.  Điều này được xác nhận bởi lời Kinh Thánh:  “Một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24:17).  Vì sao trở thành biểu tượng của một vị vua mới vừa được sinh ra và hướng dẫn họ đi đến nơi Người được hạ sinh và được tìm thấy.  Thật thú vị khi lưu ý rằng ngôi sao này không thể thấy được ở Giêrusalem nhưng lại xuất hiện lần nữa với các nhà Đạo sĩ khi các ông rời khỏi thành:  thật sự, ngôi sao là một yếu tố quan trọng hơn trong sự việc này.
Hơn hết tất cả, các vị Đạo sĩ trong cuộc hành trình dài của họ đã không đi theo ngôi sao mà đã thấy nó xuất hiện và lập tức kết nối ngôi sao này với sự giáng sinh của Đấng Mêssia.  Ngoài ra, cuộc hành trình không phải là không có phương hướng nhưng mục tiêu là thành Giêrusalem, thành phố mà tất cả mọi dân tộc hội tụ về trong cuộc hành hương như theo lời tiên tri Isaia.
Thành phố khi nghe tin này từ các Đạo sĩ đã đến để triều bái Đấng Mêssia thì xôn xao và bối rối.  Dân thành Giêrusalem dường như không mấy tha thiết và không quan tâm lắm về việc đi triều bái “vị vua người Do Thái mới sinh”.  Thực ra, Hêrôđê còn có ý định sát hại Người.
Tuy nhiên theo sách tiên tri Isaia, Chương 60:1-6, thành Giêrusalem đã được kêu gọi “Hãy đứng lên, vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi” và bây giờ trong Mt 2:2, chúng ta chứng kiến phản ứng chối từ của nhà vua và của dân thành Giêrusalem về Đấng Thiên Sai được hạ sinh tại Bêlem.  Một thái độ như vậy báo trước cho sự bắt đầu của việc thù nghịch dẫn đến việc Chúa Giêsu bị lên án tại chính Giêrusalem.  Không chịu đựng được phản ứng ngăn cản các Đạo sĩ có cơ hội tìm đến với ơn cứu chuộc ngay tại thành phố được chọn là công cụ của sự hiệp thông tất cả các dân tộc với Thiên Chúa, việc ra đời của Chúa Giêsu dời chuyển tất cả mọi việc đến Bêlem.  Thiên Chúa là Đấng hướng dẫn các sự kiện lịch sử khiến cho các vị Đạo sĩ rời thành Giêrusalem và họ lại lên đường tiếp tục cuộc hành trình và tìm thấy Đấng Thiên Sai tại Bêlem, thành phố quê hương của vua Đavít.  Trong thành này, vua Đavít đã nhận được sự tấn phong thiêng liêng: không bằng dầu nhưng bằng quyền năng Chúa Thánh Thần (Mt 1:18, 20).  Các dân tộc, bấy giờ đi lên thành phố này, được đại diện bởi các vị Đạo sĩ, đến chiêm bái Đức Êmmanuel, Đấng Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, và để có được kinh nghiệm của sự bình an và đức tin.

b)  Biểu tượng cuộc hành trình của các vị Đạo sĩ:

i)  Một cuộc hành trình vất vả với nhiều khó khăn, nhưng cuối cùng cũng đạt đến thành công

Động lực thúc đẩy cuộc hành trình của họ là sự xuất hiện của một ngôi sao, được nối kết với sự ra đời của một vị vua mới:  “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện”.  Ở đây, ngôi sao chỉ là một dấu hiệu, một chỉ dấu thông tri với các vị Đạo sĩ ý tưởng bắt đầu cuộc hành trình.  Khởi thủy, có lẽ họ đã bị thúc đẩy bởi tính tò mò, nhưng sau đó việc này đã trở thành một ước muốn tìm kiếm và khám phá. Thực sự là dấu hiệu của ngôi sao đã đánh động người ta và thúc đẩy họ đi tìm câu trả lời:  có lẽ là một niềm mong ước sâu sắc chăng?  Ai mà biết được!  Bài Tin Mừng cho thấy các vị Đạo sĩ có một câu hỏi trong lòng, và không hề ngại ngùng lặp lại nó, thậm chí nó còn làm cho họ trở thành lạc lõng: “Vua dân Do Thái ở đâu?”
Họ đặt câu hỏi đó với vua Hêrôđê và, một cách gián tiếp, với thành Giêrusalem. Câu trả lời được đưa ra bởi những người chuyên môn, các thượng tế, các kinh sư: thật là cần thiết phải đi tìm cho được vị vua mới ở Bêlem của xứ Giuđa, bởi vì đây là lời tiên tri của ngôn sứ Isaia:  “Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, trong đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh.  Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta” (Mt 2:6).  Lời tiên tri đến để giải quyết những khó khăn của các vị Đạo sĩ:  Lời của Chúa trở thành ánh sáng cho cuộc hành trình của họ.
Với sức mạnh của dữ kiện đó, được trích từ lời tiên tri của ngôn sứ Isaia, và được an ủi bởi sự tái xuất hiện của ngôi sao, các Đạo sĩ một lần nữa lại lên đường tiếp tục cuộc hành trình của họ với mục tiêu là Bêlem.  Ngôi sao dẫn họ đến dừng lại ngôi nhà nơi họ tìm thấy Chúa Giêsu. Thật là lạ vì những người sống tại Bêlem hoặc các vùng lân cận nơi Hài Nhi Giêsu được tìm thấy đã không nhìn thấy dấu hiệu ấy.  Ngoài ra, những người có kiến thức về Kinh Thánh biết tin về sự ra đời của vị vua mới của Israel, nhưng đã không buồn đi tìm Người.  Thay vào đó, câu hỏi của các Đạo Sĩ đã khơi lên trong lòng họ nỗi lo sợ và bối rối.  Một cách dứt khoát, những kẻ rất gần với sự kiện giáng sinh của Chúa Giêsu đã không nhận thức được việc gì đã xảy ra, trong khi đó những người ở rất xa sau khi đã trải qua một cuộc hành trình đầy gian nan, cuối cùng đã tìm thấy những gì họ đang tìm kiếm.  Thế nhưng, trong thực tế, chính mắt những vị Đạo sĩ đã thấy gì:  một Hài Nhi với mẹ Người trong một căn nhà nghèo hèn.  Ngôi sao đã dẫn đường cho họ, như nói ở trên, đã dẫn họ tới một hài nhi đơn sơ và nghèo hèn, Đấng mà họ nhận ra là vị vua của dân Do-thái.
Họ đã quỳ gối sụp lạy Người và dâng tiến Người những lễ vật tượng trưng:  vàng (vì Người là vua); nhũ hương (vì đằng sau bản thể con người của Hài Nhi đó, có sự hiện diện thiên tính của Thiên Chúa); mộc dược (vì Đấng từ trời đã mặc lấy xác loài người, đến để chịu chết).

ii)  Cuộc hành trình của các vị Đạo sĩ:  cuộc hành trình của đức tin:


Không có gì sai lầm khi nghĩ rằng cuộc hành trình của ba Đạo Sĩ là một cuộc hành trình đích thực của đức tin, đó là một cuộc hành trình của những người tuy không thuộc về dân riêng của Chúa, đã tìm thấy Đức Kitô.  Khi bắt đầu cuộc hành trình, luôn luôn có một dấu hiệu đòi hỏi được nhìn thấy ở đó nơi mỗi người sống và lòng quyết tâm.  Các nhà Đạo Sĩ đã tìm kiếm, đã nghiên cứu các tầng trời, trong Kinh Thánh, về Thiên Chúa, và từ nơi có dấu hiệu:  một ngôi sao.  Nhưng để bắt đầu một cuộc hành trình đức tin, nếu chỉ tìm kiếm hoặc học hỏi về các dấu hiệu của sự hiện diện của Thiên Chúa thì chưa đủ.  Một dấu hiệu có nhiệm vụ khơi lên lòng ước ao đòi hỏi một thời gian nào đó để thực hiện, một con đường của kiếm tìm, của đợi chờ.  Lời bày tỏ mà thánh Edith Stein mô tả trong cuộc hành trình đức tin của bà thật có ý nghĩa: “Thiên Chúa là chân lý.  Ai đi tìm kiếm chân lý là đi tìm kiếm Thiên Chúa, dù rằng có chủ đích hay không”.
Một niềm ước ao thực sự gợi lên một câu hỏi.  Trong khi đó, các vị Đạo sĩ đi tìm Đức Giêsu bởi vì trong lòng họ đang có những thắc mắc mạnh mẽ.  Kinh nghiệm được gặp gỡ Đức Giêsu như thế thực sự là một việc khích lệ cho công việc mục vụ:  có nhu cầu không ban đặc ân một giáo lý được tạo bởi những điều chắc chắn hoặc mối quan tâm về việc cung cấp cho các câu trả lời có sẵn, mà là khơi dậy trong con người ngày nay các câu hỏi quan trọng về những vấn đề cốt yếu của nhân loại.  Đây là những gì mà một vị Giám Mục từ miền trung nước Ý đề nghị trong một lá thư mục vụ:  “Giới thiệu Chúa Kitô và Tin Mừng trong sự nối kết với những vấn nạn căn bản về sự tồn tại của loài người (sống – chết, tội lỗi – sự dữ, công bằng – nghèo khó, hy vọng – vỡ mộng, bác ái – hận thù, sự liên hệ giữa các cá nhân trong gia đình, ngoài xã hội, các mối quan hệ quốc tế, v.v…), để tránh sự nhầm lẫn giữa các câu hỏi về nhân loại và các câu trả lời của chúng ta” (Gm. Lucio Maria Renna).
Câu trả lời, như chúng ta được giảng dạy bởi kinh nghiệm của ba vị Đạo Sĩ, được tìm thấy trong Kinh Thánh.  Và nó không phải chỉ là một câu hỏi về kiến thức trí tuệ hay hiểu biết về nội dung của Kinh Thánh, như trong trường hợp của các vị kinh sư, nhưng về đường đi đến được hướng dẫn bởi lòng mong ước, bởi thắc mắc.  Đối với ba vị Đạo Sĩ, chỉ cần sự chỉ dẫn của Thánh Kinh đã soi sáng họ hoàn thành giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình:  Bêlem.  Ngoài ra, Lời của Chúa cho phép họ thấy trong các dấu hiệu khiêm nhu của một ngôi nhà, của Hài Nhi Giêsu với Đức Maria, mẹ Người, Vua dân Do-Thái, Đấng đang được dân Israel mong đợi.
Các vị Đạo sĩ ngưỡng mộ Người và khám phá ra trong Đức Giêsu là Đấng mà họ tìm kiếm đã lâu.  Trên một khía cạnh khác, người đọc rất ngạc nhiên bởi sự chênh lệch giữa những cử chỉ và các món quà dâng tiến của các vị Đạo sĩ và thực tế khiêm tốn hiện diện trước mắt họ; nhưng mặt khác, chắc chắn rằng Hài Nhi mà ba vị Đạo sĩ triều bái chính thực là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ thế gian đang được mong chờ.  Và vì thế cuộc hành trình đã trở nên cuộc hành trình của mỗi người đọc của câu chuyện có ý nghĩa này về ba vị Đạo sĩ:  bất cứ ai đi tìm kiếm, dù cho có xa Thiên Chúa cách mấy đi nữa, vẫn có thể tìm thấy Người.  Thay vào đó, những ai cho là mình đã biết tất cả mọi sự về Thiên Chúa và tin rằng ơn cứu rỗi của họ đã được bảo đảm, thì có nguy cơ bị vong thân khi gặp gỡ Người.  Trong một chương trình giáo lý được tổ chức tại Cologne vào dịp Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới kỳ thứ 20, đức Tổng Giám Mục Bruno Forte đã phát biểu như sau:  “Ba vị Đạo sĩ đại diện cho tất cả những ai đi tìm kiếm chân lý, sẵn sàng để sống cuộc sống của họ như trong một cuộc sống lưu đày, trên đường đi đến cuộc gặp gỡ với ánh sáng đến từ trên cao”.
Ngoài ra, kinh nghiệm của ba vị Đạo Sĩ dạy cho chúng ta biết rằng trong mọi nền văn hóa, trong mỗi con người luôn có những kỳ vọng sâu xa đòi hỏi phải được đáp ứng.  Từ đây bắt đầu cho một trách nhiệm đọc những dấu hiệu của Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử loài người.

5.  Suy Gẫm

-  Sau khi đọc đoạn Tin Mừng này, tôi đã sẵn sàng để làm sống lại cuộc hành trình của ba vị Đạo Sĩ chưa?
-  Những điều khó khăn gì bạn đã gặp phải trong sự hiểu biết sâu xa về Đức Giêsu Kitô?  Làm cách nào bạn đã có thể khắc phục được chúng?
-  Trong việc đi tìm kiếm chân lý, bạn có biết cách làm thế nào để tin tưởng, để lên đường và để lắng nghe Thiên Chúa không?
-  Trong ánh sáng của Lời Chúa, bạn có thể thay đổi những gì trong đời sống của bạn? 

6.  Thánh Vịnh 72:1-11

Đây là một bài Thánh Vịnh tiến vua, được soạn ra để chào mừng ngày nhà vua đăng quang lên ngai.  Cộng đồng Kitô hữu nguyên thủy đã không có nghi ngờ trong việc được trông thấy hình ảnh Đấng Mêssia trong thân phận con người.  
Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.

Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân.
Người sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
đập tan lũ cường hào ác bá.
Nguyện chúc Người tuổi thọ sánh vầng ô,
như bóng nguyệt đến muôn đời muôn kiếp!

Mong Người xuống tựa mưa sa nội cỏ,
ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.

Dân vùng sa mạc khúm núm quy hàng,
tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, và Saba,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự.

Bài ca tụng Chúa

Chúng con chúc tụng vinh quang Đức Chúa Cha,
danh thánh Chúa uy linh cao cả;
cùng với Chúa Con và Chúa Thánh Thần
luôn mãi vinh quang đến muôn thuở muôn đời.

7.  Lời nguyện kết

Xin vâng, Amen!
Ôi lạy Chúa Cha, Chúng con nói lời đó với Chúa,
với tất cả tâm tình chúng con
hòa đồng với tâm tình của Con Cha
và của Đức Trinh Nữ Maria.
Chúng con nói với toàn thể Hội Thánh
và cho cả nhân loại.
Xin hãy ban cho chúng con, đang tập họp với nhau trong tình yêu,  
sau lời “xin vâng” trong giờ của thập giá
xin cho chúng con có thể trong cùng một tiếng nói thống nhất,
trong một ca đoàn mạnh mẽ,
trong một sự huy hoàng nói không nên lời,
hát bài ca này đến muôn đời
trên Thiên Đàng tôn nghiêm
Amen! Alleluia!
(Nt Anna Maria Canopi)



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét