03/01/2016
Chúa Nhật Lễ
Chúa Hiển Linh năm C.
Lễ Trọng. Lễ HỌ.
Cầu cho giáo dân.
(phần I)
Bài Ðọc I: Is 60, 1-6
"Vinh quang Chúa xuất hiện trên ngươi".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Hãy
đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh
quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi.
Kìa
tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi
Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ
lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.
Hãy
ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp,
đang tìm đến với ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con
gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông.
Bấy
giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng
lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư
dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc
đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng
và nhũ hương, và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 71, 2. 7-8. 10-11a. 12-13
Ðáp: Lạy Chúa, mọi dân
tộc trên địa cầu đều thờ lạy Chúa (x. c. 11b).
Xướng:
1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công
chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người
nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.
2)
Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến
khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển
kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. - Ðáp.
3)
Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất
hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và
cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ. - Ðáp.
4)
Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời.
Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người.
- Ðáp.
Bài Ðọc II: Ep 3, 2-3a. 5-6
"Bây giờ được tỏ ra rằng các dân ngoại được đồng thừa tự lời
hứa".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh
em thân mến, (chắc) anh em đã nghe biết rằng: Thiên Chúa đã ban cho tôi việc
phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu
hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay
đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh
Thần. Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể
và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô.
Ðó
là lời Chúa.
Alleluia: Mt 2, 2
Alleluia,
alleluia! - Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng
tôi đã đến để triều bái Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 2, 1-12
"Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo
sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới
sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông
phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối
rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại
giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ
tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri
đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết
trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người
đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta".
Bấy
giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ
ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh
hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho
Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường.
Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và
đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi
tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống
sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ
hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã
qua đường khác trở về xứ sở mình.
Ðó
là lời Chúa.
Suy Niệm: Hạnh Phúc Của Dân Chúa
Câu
chuyện các nhà đạo sĩ đi thờ lạy Chúa vừa hay vừa dễ hiểu; nhưng không phải vì
vậy mà hôm nay Lễ Ba Vua, cho dù chúng ta muốn đồng hóa các đạo sĩ với ba vua.
Phúc Âm không nói rõ con số người đi thờ lạy Chúa và nhất là những người ấy
không nhất thiết phải là vua. Có lẽ họ là những nhà chiêm tinh. Nhưng vì bài
Tin Mừng kể họ dâng 3 thứ lễ vật, nên người ta đã muốn có mỗi người mang một thứ
(?). Và khung cảnh câu chuyện một phần đã xảy ra trong đền vua, nên dân chúng dễ
coi họ là vua. Hơn nữa Thánh vịnh 72 nói đến các vua Tarsis, Ảrập và Saba đến
dâng lễ cho Chúa, lại thêm một cớ cho người ta khẳng định các người đến thờ lạy
Chúa trong câu chuyện hôm nay là các vua.
Dù
sao, nếu hiểu lễ hôm nay là lễ kính nhớ câu truyện các vua đi thờ lạy Chúa, thì
không đúng tí nào. Ngay từ đầu, Phụng vụ đã gọi tên ngày lễ hôm nay là Hiển
Linh, tức là Chúa vinh hiển hiện ra, tỏ mình cho chúng ta, mà việc soi sáng cho
lương dân đến thờ lạy chỉ là một diện, mặc dầu là diện quan trọng hơn cả. Như vậy
Chúa đã hiển linh khi giáng sinh, để cho người ta thấy Người nơi máng cỏ; Người
đã hiển linh cho các mục đồng và Người cũng đã hiển linh trong ngày chịu cắt bì
và nhận Tên là Yêsu. Nhưng hôm nay Phụng vụ nhấn mạnh đến việc Người tỏ mình ra
cho lương dân. Mà vì Giáo hội gồm hầu hết các dân tộc trước kia là lương dân,
nên Giáo hội mừng lễ này thật lớn, vì thấy Chúa thương yêu mình quá đỗi.
A.
Hạnh Phúc Của Dân Chúa
Hai
bài đọc Kinh Thánh đầu tiên nói lên hạnh phúc của Dân Chúa. Isaia say sưa nhìn
ngắm vinh quang của Yêrusalem. Ðang khi các dân tộc chìm đắm trong u tối, một
mình Yêrusalem nổi lên rực sáng. Không phải tự sức mình nhưng đó là ánh sáng của
Chúa chiếu soi, vinh quang của Người tỏa xuống. Các dân tộc liền châu về
Yêrusalem: nào thuyền bè từ đại dương, nào lạc đà từ sa mạc, chở muôn dân đến
thờ lạy Chúa.
Isaia
có bao giờ nhìn thấy một cảnh tượng tưng bừng như thế không? Lịch sử Israel được
mấy lúc như thời Salomon, là vua mà bà Saba nghe tiếng đã tìm tới? Chắc chắn
Isaia đã tiên báo về thời cứu thế. Những lời tiên tri của ông sẽ chỉ thực hiện
hoàn toàn khi, như lời Chúa nói: người phương Ðông phương Tây sẽ tuôn vào Nhà
Chúa, trong khi con cái trong nhà sẽ bị đuổi ra ngoài. Chỉ trong ngày Chúa
quang lâm mới thực hiện hoàn toàn những lời tiên tri trên.
Nhưng
hiện nay đã khởi sự thực hiện rồi! Ngôi sao đã đứng lại trên nhà Hài Nhi ở;
Yêrusalem bừng sáng chính là con người Ðức Kitô mà các đạo sĩ đến thờ lạy; và
việc muôn dân ngày nay gia nhập Giáo hội để thờ lạy Chúa làm chứng Hội Thánh là
Yêrusalem mới; mỗi giáo đoàn, mỗi nhà thờ, mỗi người tín hữu - đền thờ của Chúa
- là một Yêrusalem được rực sáng nhờ mang trong mình sự thánh thiện của Chúa.
Ðó là ân sủng đã được ban phát cho ta, như lời thư Phaolô nói; và là mạc khải đặc
biệt của Tân Ước.
Như
vậy, khi nói đến hạnh phúc của Dân Chúa, phải nghĩ đến vinh dự của người dân
tín hữu của hết thảy chúng ta, để mỗi người cảm mến hồng ân của Chúa đã đoái
thương chọn mình làm nơi cho Người hiển linh. Từ ngày chịu phép Rửa tội, mọi
tín hữu đã được trao cây nến cháy để trở thành ánh sáng của Chúa giữa thế gian,
để nên Yêrusalem rực sáng trước mắt tiên tri Isaia. Hôm nay chúng ta hãy nhận
ra vinh quang của mình, tức vinh quang của Chúa sáng trên ta, để chúng ta sáng
lên trước mắt mọi người.
Nhưng
đặc biệt chúng ta phải nghĩ đến Hội Thánh, đến các giáo hội và giáo đoàn. Chúng
ta phải cầu xin, phải xây dựng để mọi cộng đoàn Kitô giáo làm tròn sứ mệnh của
mình; trở nên các Yêrusalem rực sáng cho mọi người mang lễ vật đến thờ lạy
Chúa, kết hợp mọi dân vào gia nghiệp Lời Hứa. Và cho được như vậy, cho được có
những Giáo hội bừng sáng, phải có những đạo sĩ đi thờ lạy, phải có chúng ta nối
tiếp truyền thống các đạo sĩ. Và vì thế phải suy nghĩ câu truyện Tin Mừng hôm
nay.
B.
Các Ðạo Sĩ Ði Thờ Lạy Chúa
Các
bài tường thuật trong Phúc Âm thường vắn tắt, không thỏa mãn mọi thắc mắc vụn vặt
của ta. Các đạo sĩ kia từ bên Ðông tới nhưng thuộc nước nào? Hêrôđê đã cặn kẽ hỏi
họ về thời gian ngôi sao đã hiện ra khi nào, nhưng thánh Matthêô không ghi lại
câu trả lời. Và nhất là làm sao họ đã nhận ra ngôi sao lạ đó, biết ngay là dấu
chỉ một vua Dothái mới sinh ra, và vì sao lại phải thờ lạy vua đó? Thánh
Matthêô dường như không để ý đến những chi tiết chúng ta vừa nêu lên. Ngài chỉ
khẳng định một điều: các đạo sĩ tin chắc chắn Hài Nhi mới sinh là Vua và là
Chúa, tức là Chúa Cứu thế mà muôn dân trông đợi. Thế nên họ đã mang theo vàng,
nhũ hương và mộc dược làm lễ vật. Ðó là những sản phẩm quý giá của miền Ảrập,
dùng trong đền vua. Mà ở phương Ðông, vua cũng là chúa nên đền vua sơn son thiếp
vàng thường phảng phất mùi hương. Và mộc dược được dùng trong việc ướp hoặc liệm
xác các hoàng đế.
Các
đạo sĩ tin như vậy chỉ vì một ánh sao, đang khi các tư tế và luật sĩ Dothái có
sách Thánh và thuộc Thánh Kinh lại không nhận ra Chúa vừa giáng sinh. Ðó là điều
thánh Matthêô muốn nhấn mạnh trong bài trường thuật này, với một cảm tình chua
chát trong lòng. Ngài như muốn phác họa trước câu truyện tử nạn của Chúa ở đây.
Hêrôđê đóng vai chính quyền sẽ ra lệnh giết Chúa, nhưng chính hàng tư tế và luật
sĩ sẽ cung cấp cho ông tài liệu để thi hành tội ác kia. Trong khi đó, lương dân
được Ơn Chúa soi sáng, đã nhận biết Chúa và thờ lạy Người. Các đạo sĩ ở đây
tiêu biểu cho họ. Các ông diễn tả khuôn mặt đức tin của những người được Chúa
kêu gọi và soi sáng. Thấy ánh sao, các ông đã bỏ hết mọi suy nghĩ cũ kỹ, từ giã
mọi sự để lên đường hân hoan và đơn thật đến nỗi dường như không đoán biết ý đồ
đen tối của Hêrôđê, cũng như không ngần ngại sấp mình thờ lạy một Hài Nhi mà bề
ngoài xem ra chẳng có gì khác thường.
Chúng
ta có thể bắt chước niềm tin như vậy không?
C.
Nếp Sống Ðức Tin
Không
những chúng ta có thể mà còn phải bắt chước niềm tin của các đạo sĩ, vì mục
tiêu của ngày lễ hôm nay là vậy. Chúng ta chỉ cần từ bỏ thái độ của hàng tư tế
và luật sĩ Dothái là có thể theo chân các đạo sĩ. Thật ra, nếu không cẩn thận,
chúng ta luôn sống như các tư tế và luật sĩ Dothái. Như họ, chúng ta có Thánh
Kinh ở trong tay; chúng ta thuộc giáo lý của Chúa nữa; ai hỏi chúng ta tư tưởng
đạo đức nào, chúng ta có thể trả lời ngay. Nhưng chúng ta chẳng bao giờ thực
hành, chẳng muốn sống theo lời Chúa dạy bảo. Chúng ta chỉ muốn quên các đòi hỏi
của Tin Mừng để sống theo bản năng, dục vọng; cố gắng hưởng đời theo các phương
tiện ích kỷ. Chúng ta mất rồi lòng nhiệt thành của hồi được Chúa soi sáng, như
khi rước lễ lần đầu, chịu phép Thêm sức, hoặc Hôn phối, tĩnh tâm và được những
ơn đặc biệt. Những hồi ấy, chúng ta đã quên mình, chỉ nhiệt thành mến Chúa và
muốn cứu giúp các linh hồn, dấn thân xây dựng Giáo hội và xã hội theo công bình
bác ái. Thái độ nhiệt thành của những người mới theo đạo nhắc lại cho ta nhớ
tâm tình và nếp sống của mình trong những hồi sốt sắng kia. Và chắc chắn chúng
ta phải công nhận con người chúng ta lúc đó thật rực sáng, khác nào Yêrusalem
được bừng sáng dưới vinh quang của Chúa.
Xã
hội mới đang thúc giục ta từ bỏ con người và nếp sống cũ kỹ. Giáo hội Việt Nam
đang muốn vươn lên trong giai đoạn mới. Phụng vụ Thánh Thể luôn luôn đưa chúng
ta vào mầu nhiệm Phục sinh, tức là sống lại, sống mới. Mỗi Thánh lễ là một cuộc
hiển linh của Chúa. Ở đây, hương nến đang mời chúng ta đến thờ lạy Chúa. Phụng
vụ của chúng ta sẽ chân thật, khi bắt chước các đạo sĩ, hôm nay chúng ta ra về
"bằng con đường khác", tức là vào đời với thái độ mới, nhiệt thành
xóa bỏ cái cũ, xây dựng cái mới để như lời thư Êphêsô: mọi dân, mọi người đồng
thừa kế, đồng tham dự, đồng chia sẻ Lời Hứa của Thiên Chúa nhờ Tin Mừng cứu độ
của Ðức Yêsu Kitô.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật Lễ Hiển Linh, Năm ABC
Bài đọc: Isa 60:1-6; Eph 3:2-3, 5-6; Mt 2:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Kitô là ánh sáng cho muôn dân.
Đứng
trước cùng một biến cố xảy ra, con người có những phản ứng khác nhau, tùy thuộc
vào sự cần thiết và hy vọng của con người: có người dửng dưng, có người đàn áp,
và có người nhiệt thành đón nhận. Biến Cố Nhập Thể của Đức Kitô cũng thế, dù được
báo trước và dặn phải chuẩn bị sẵn sàng, nhiều người Do-Thái vẫn không chuẩn bị
để đón nhận Chúa Cứu Thế; nhưng các Mục-đồng và Ba Nhà Đạo Sĩ từ phương xa nhiệt
thành đi tìm và họ đã tìm thấy Đấng Cứu Thế.
Các
Bài Đọc hôm nay tập trung vào Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I,
Tiên-tri Isaiah cho thấy trước Ngày Thiên Chúa sẽ ban Ơn Cứu Độ của Ngài như
vinh quang cho Jerusalem và như ánh sáng cho muôn dân. Trong Bài Đọc II, Thánh
Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu của ngài về Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa.
Theo Mầu Nhiệm này, Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái như Dân Riêng để chuẩn bị cho Đấng
Cứu Thế ra đời; nhưng khi Ngài đến, Ngài sẽ ban Ơn Cứu Độ cho tất cả mọi người
qua niềm tin của họ vào Đức Kitô. Trong Phúc-Âm, Thánh Matthew tường thuật 3 phản
ứng chính của con người khi phải đối diện với Tin Mừng của Đấng Cứu Thế: thờ ơ
lạnh nhạt, lập kế tiêu diệt, và nhiệt thành đi tìm.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúa Kitô là vinh quang của Israel và là ánh
sáng cho muôn dân.
1.1/ Sự sáng của Thiên Chúa đã chiếu tỏa trên Jerusalem: “Đứng lên, bừng sáng lên!
Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả
trên ngươi.”
Chương
60 của Sách Tiên Tri Isaiah được viết sau thời gian Lưu Đày Babylon; lúc đó
Jerusalem còn là một thành trì hoang phế bởi chiến tranh. Vì thế, đọan văn này
không có ý nói về Thành Jerusalem cách thể lý, nhưng nói về một Jerusalem tinh
thần, tượng trưng cho dân tộc Israel. Người làm cho Jerusalem được đứng dạy, được
bừng sáng, là Thiên Chúa; chứ không phải dân tộc Israel. Ánh sáng và vinh quang
của Đức Chúa đây chính là Ơn Cứu Độ, mà Ngài đã hứa ban cho Jerusalem qua các
Tiên-tri. Ơn Cứu Độ nói tới ở đây không chỉ là việc giải thóat và cho dân
Israel được trở về Jerusalem từ chốn Lưu Đày Babylon; nhưng còn bao gồm cả việc
gỉai phóng Israel khỏi nô lệ của tội lỗi qua Đấng Thiên Sai.
Tác
giả nêu bật sự tương phản giữa ánh sáng của Jerusalem và bóng tối của chư dân
qua câu: “Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên
ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.”
Trước khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, người Do-Thái quan niệm: chỉ có họ mới là Dân
Riêng của Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng Ơn Cứu Độ; còn tất cả các dân tộc
khác (Dân Ngọai) là những người ngồi trong bóng tối tăm sự chết, và không được
hưởng Ơn Cứu Độ. Bóng tối và mây mù tác giả muốn nói tới ở đây là việc không biết
Thiên Chúa, không biết Ơn Cứu Độ, và không sống theo đường lối của Thiên Chúa.
1.2/ Chư dân từ khắp nơi sẽ tuôn đến Jerusalem: Nhưng một khi Đấng Cứu
Thế tới, mọi sự đều đổi khác: Ơn Cứu Độ không còn giới hạn trong dân tộc
Israel, nhưng mở rộng tới mọi dân tộc (còn được gọi chung là Dân Ngọai), như viễn
tượng mà Tiên-tri Isaiah đã nhìn thấy hôm nay: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng
của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến
bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con
trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.” Như đã nói ở
trên, ánh sáng của Jerusalem chính là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Ánh sáng này
soi tỏa cho các dân tộc trên địa cầu, và mọi người sẽ tuôn đến Jerusalem tinh
thần để được hưởng Ơn Cứu Độ này. Tiên-tri Isaiah liệt kê các thành phần tiến đến
Jerusalem bao gồm: (1) Các vua chúa của các quốc gia; và (2) các con trai và
các con gái. Các người con này không có liên hệ với Jerusalem bằng máu mủ,
nhưng bằng niềm tin vào Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
Khi
những điều này xảy ra, Jerusalem sẽ tràn đầy niềm vui như Tiên-tri loan báo:
“Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì
nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với
ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Median và Ephah: tất cả những người
từ Sheba kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền
lời ca tụng Đức Chúa.” Trong thế giới thời đó, giàu sang được đo lường bằng những
đòan vật, và lạc đà được coi là thú vật có giá trị nhất trong việc di chuyển đồ
đạc qua sa mạc cho các quốc gia vùng Trung Đông. Theo Sáng Thế Ký 25:4, Ephah
là con trai của Midian, và là cháu của Jokshan, cha của Sheba. Sheba ngày nay
là Nước Yemen. Vàng và nhũ hương là 2 món hàng đắt nhất thời bấy giờ. Điều này
chúng ta sẽ đề cập tới trong Phúc Âm, khi Ba Vua dâng những quà này cho Chúa
Hài Đồng.
2/ Bài đọc II: Các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với
người Do-Thái.
2.1/ Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa qua Đức Kitô: “Hẳn anh em đã được nghe
biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh
em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày
vắn tắt trên đây.” Thánh Phaolô viết Thư này cho các tín hữu Philiphê, khi ngài
đang bị cầm tù tại Rome. Ngài nhắc lại cho họ biết về “kế họach ân sủng” mà
Thiên Chúa đã ủy thác cho ngài. Kế họach này bao gồm hai việc: biến cố trở lại
trên đường Damascus và sứ vụ rao truyền Tin Mừng cho Dân Ngọai được ủy thác cho
ngài. Giữa 2 biến cố này là khỏang thời gian Thánh Phaolô đi vào tĩnh tâm trong
sa mạc Arabia, để được Thiên Chúa mặc khải về mầu nhiệm Đức Kitô cho thánh
nhân. Sở dĩ có sự kiện này là vì Thánh Phaolô đã không được giao tiếp với Đức
Kitô như các Tông-đồ khác khi Chúa Giêsu còn sống trên dương gian.
2.2/ Dân Ngọai cũng được thừa hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa: “Mầu nhiệm này, Thiên
Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người
đã dùng Thánh Thần mà mặc khải cho các thánh Tông-đồ và Tiên-tri của Người. Mầu
nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các Dân Ngoại được cùng thừa
kế gia nghiệp với người Do-Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều
Thiên Chúa hứa.” Qua những hàng vắn tắt này, Thánh Phaolô tường thuật cho chúng
ta biết 2 giai đọan chính của Mầu Nhiệm Cứu Độ: (1) Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái
là Dân Riêng của Thiên Chúa để được huấn luyện và chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến;
và (2) Khi Đấng Cứu Thế đến, Ơn Cứu Độ được lan rộng tới mọi người qua việc rao
truyền Tin Mừng và niềm tin của mọi người vào Đức Kitô. Qua việc tuyên xưng đức
tin và chịu Phép Rửa, tất cả cùng được tháp nhập vào thân thể của Đức Kitô.
3/ Phúc Âm: Con người phản ứng trước ánh sáng của Thiên Chúa.
3.1/ Con người buộc phải có thái độ trước Tin Mừng về Đức Kitô: Thiên Chúa có thể dùng
ngôi sao dẫn đường cho Ba Nhà Đạo Sĩ một mạch tới Bethlehem, mà không cần phải
đi qua Jerusalem; nhưng để cho mọi người cư ngụ tại Jerusalem có cơ hội đồng đều
để lắng nghe Tin Mừng, Ngài làm mất dấu ngôi sao để Ba Nhà Đạo Sĩ phải vào
Jerusalem để loan tin. Thánh Matthew tường thuật: “Khi Đức Giêsu ra đời tại
Bethlehem, miền Judah, thời vua Herode trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương
Đông đến Jerusalem, và hỏi: "Đức Vua dân Do-Thái mới sinh, hiện ở đâu?
Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến
bái lạy Người." Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem
cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các Thượng-tế và Kinh-sư trong dân
lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Tại
Bethlehem, miền Judah, vì trong sách Tiên-tri, có chép rằng: "Phần ngươi,
hỡi Bethlehem, miền đất Judah, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Judah, vì
ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời."
3.2/ Ba phản ứng của con người trước ánh sáng: Đứng trước Tin Mừng được
loan báo bởi Ba Nhà Đạo Sĩ, chúng ta tổng hợp được 3 thái độ chính của con người:
(1)
Thái độ thờ ơ của Dân Thành Jerusalem cách chung và của các Thượng-tế và các
Kinh-sư nói riêng: Thánh Matthew ám chỉ Dân Thành biết biến cố Chúa Cứu Thế ra
đời trong câu: “Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn
xao.” Họ xôn xao để tìm ra nơi chốn sinh ra của Đấng Cứu Thế, rồi âm thầm lên
giường đắp chăn ngủ tiếp! Họ có thể sợ vì trời tối, đường xa, và lạnh lẽo;
nhưng đơn giản là vì họ đã có mọi thứ và không cần tới Đấng Cứu Thế. Các Thượng-tế
và các Kinh-sư mang tội nặng hơn, vì họ là những người thông hiểu Kinh-Thánh và
sự cần thiết của việc Đấng Cứu Thế đến; nhưng họ dùng Kinh-Thánh để tìm ra và
chỉ đường cho người khác đến gặp Ngài; phần họ, gấp sách lại và từ chối không
lên đường đi tìm Ngài.
(2)
Thái độ muốn tiêu diệt ánh sáng của Vua Herode: Bấy giờ Vua Herode bí mật vời các
nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái
các vị ấy đi Bethlehem và dặn rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về
Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người."
Đã không tiếp nhận ánh sáng, Vua Herode còn toan tính tiêu diệt ánh sáng. Trong
cuộc đời, chúng ta cũng gặp nhiều thái độ như Vua Herode. Họ muốn tiêu diệt ánh
sáng vì sợ ánh sáng sẽ phơi bày những ích kỷ, toan tính, và những xấu xa trong
tâm hồn của họ.
(3)
Thái độ nhiệt thành đi tìm ánh sáng của Ba Nhà Đạo Sĩ: Trớ trêu thay cho dân tộc
Do-Thái, họ trông chờ từng ngày từng giờ và chuẩn bị cho việc đón Đấng Cứu Thế
ra đời; nhưng khi Người xuất hiện, lại chỉ có Ba Nhà Đạo Sĩ là những người Dân
Ngọai, từ phương trời xa xôi đi tìm Người theo dấu một vì sao. Họ không sợ đường
xa, trời tối, nguy hiểm, gió lạnh mùa Đông, và nhất là theo dấu một vì sao mong
manh. Họ không nản lòng khi mất dấu ngôi sao, họ vào Thành Jerusalem với hy vọng
sẽ tìm được Ngài trong lịch sử. Và khi được hướng dẫn của Kinh Thánh (Micah
5:1), họ lại tiếp tục lên đường. Họ mừng vui khi thấy ngôi sao tái xuất hiện,
và họ đã thấy Hài Nhi. Mở túi hành trang ra, họ dâng 3 lễ vật quí giá nhất cho
Hài Nhi: vàng chỉ sự thần phục Hài Nhi là Vua; nhũ hương chỉ sự thần phục Hài
Nhi là Chúa; mộc dược tiên báo trước Cuộc Thương Khó và cái chết của Hài Nhi.
Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Herode nữa, nên đã đi lối khác
mà về xứ mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Thiên Chúa đã tỏ tình thương qua việc ban Người Con Một của Ngài cho chúng ta,
phản ứng của chúng ta làm sao khi lãnh nhận Tin Mừng này?
-
Chúng ta có hăng hái nhiệt thành lên đường đi tìm Ngài, hay ngại ngùng phải rời
bỏ ốc đảo bình an của chúng ta vì sợ nguy hiểm, tốn thời gian, và lười biếng?
-
Rất nhiều lần chúng ta đã quay lưng lại với sự thật và ánh sáng, không phải vì
chúng ta không biết đó là sự thật hay ánh sáng; nhưng chúng ta sợ: nếu chấp nhận
sự thật, chúng ta phải sống điều sự thật đòi hỏi; nếu phải đến gần ánh sáng,
chúng ta phải bỏ những tội lỗi mà chúng ta đã quá quen thuộc!
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
Chia sẻ
Đoạn Tin Mừng Lc 2,6b-20
vẽ lên ba bức tranh chính: (1) Đức Ma-ri-a hạ sinh Đức Giê-su ở Bê-lem. (2)
Chuyện những người chăn chiên được báo tin và tìm đến gặp Hài Nhi. (3) Lời ca
ngợi Thiên Chúa của các sứ thần.
Xin chia sẻ câu chuyện về
những người chăn chiên trong bức tranh thứ hai, liên quan đến các động từ
“nghe”, “thấy”, “nói” và “tôn vinh Thiên Chúa”. Có thể hành trình của những người
chăn chiên cũng là hành trình trở thành môn đệ Đức Giê-su qua mọi thời đại.
Bức tranh về nhân vật những
người chăn chiên thật sinh động. Sứ điệp mà sứ thần dành cho những người chăn
chiên là audio-visuel, nghĩa là vừa nghe bằng tai vừa thấy bằng mắt.
Trước hết những người
chăn chiên thấy sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả, khiến
họ kinh khiếp hãi hùng (2,9). Kế đến là họ nghe lời sứ thần với hai ý. Một là
báo tin vui: Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít. Thứ đến
là dấu chỉ để nhận ra Hài Nhi: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm
trong máng cỏ” (2,12). Như thế, lời loan báo của sứ thần không phải chỉ để nghe
cho biết, nhưng là một sứ điệp có khả năng biến “sợ hãi” thành “niềm vui”, có
khả năng biến “lời nói” thành “hành động”: đứng dậy và lên đường.
Đáp trả lời mời gọi, những
người chăn chiên bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra,
như Chúa đã tỏ cho ta biết” (2,15). Họ đã “gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với
Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (2,16) như lời sứ thần loan báo. Nhờ kiểm chứng
“lời đã nghe” bằng “mắt” đã thấy”, những người chăn chiên xác tín sự kiện đã xảy
ra, từ đó trình thuật chuyển sang đề tài đối thoại với ba khía cạnh:
1) Đối thoại với người
khác. Những người chăn chiên đã kể lại những điều họ đã nghe sứ thần Chúa nói với
mình về Hài Nhi.
2) Đối thoại với chính
mình qua hình ảnh Đức Ma-ri-a hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại
trong lòng. Tự đối thoại với chính mình bằng cách sống với biến cố, tự đặt câu
hỏi và tìm câu trả lời để hiểu ý nghĩa của biến cố.
3) Đối thoại với Thiên
Chúa bằng cách “tôn vinh và ca tụng” (2,20) như những người chăn chiên đã làm.
Câu kết cho thấy điểm nhấn
của câu chuyện: “Các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên
Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ”
(2,20). Nhắc lại những gì đã thấy và lời loan báo để kết câu chuyện, làm lộ ra
ý nghĩa trình thuật nhắm tới:
Thấy vinh quang Chúa,
nghe tin vui và dấu chỉ của sứ thần, vội vã lên đường; khi đã gặp thì kể cho mọi
người biết và rồi lại ra đi tôn vinh Thiên Chúa.
Đó là hành trình của người
tin, hành trình trở thành môn đệ Đức Giê-su. Nghe, biết, đón nhận, tin vào Người
để rồi ra đi chia sẻ cho người khác và không ngừng ca tụng tình thương của
Thiên Chúa dành cho loài người.
Người chăn chiên là hạng
người thấp nhất trong xã hội, nhưng họ lại là người được loan báo tin vui trước
hết. Không những Thiên Chúa không loại trừ một ai mà Người còn dành ưu ái cho hạng
người thấp nhất trong xã hội. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ thất vọng về chính
mình hay nghĩ là Chúa bỏ rơi mình. Thực ra, chỉ có con người bỏ rơi Thiên Chúa
chứ Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người.
Đoạn Tin Mừng Lc 2,6b-20
gợi lại hành trình trở thành người môn đệ và hành trình sứ vụ của chúng ta. Xin
cho chúng ta biết cách nhìn để thấy những gì đã và đang xảy ra trong lịch sử;
biết cách lắng nghe Lời mặc khải để đón nhận tin vui trọng đại cho loài người,
để từ đó xác tín và lên đường, hân hoan loan báo tin vui và cất lời ca tụng
Thiên Chúa như những người chăn chiên đã làm. Để được như thế, ước gì chúng ta
luôn suy đi nghĩ lại trong lòng giáo huấn của Đức Giê-su trong suốt hành trình
làm người, như Mẹ đã làm./.
Giu-se
Lê Minh Thông, O.P.
03/01/16 CHÚA NHẬT LỄ
CHÚA HIỂN LINH – C
Mt 2,1-12
Mt 2,1-12
Suy niệm: Lễ
Chúa Hiển Linh nhắc nhớ rằng: Chúa vẫn luôn hiện diện với con người và Ngài vẫn
tỏ mình ra qua mọi dấu chỉ, mọi biến cố. Nhưng vấn đề là con người có nhạy bén
để nhận ra Ngài không? Bạo vương Hê-rô-đê cũng muốn tìm Chúa, nhưng không phải
để tôn thờ mà tìm để giết Chúa, vì ông sợ mất ngai vàng. Còn ba nhà đạo sĩ thì
bắt đầu từ việc nghiên cứu các vì sao, họ đã dấn thân vào một cuộc hành trình
đầy gian lao, nguy hiểm để tìm cho được Vua Vũ Trụ. Họ đã gặp được Ngài nơi Hài
Nhi Giê-su bé nhỏ, nghèo hèn! Và họ “sấp mình thờ lạy,” dâng kính những lễ vật để tỏ lòng thần phục vị
Vua Vũ Trụ mà họ vừa được triều bái. Cũng một việc “tìm Chúa”, nhưng mục đích
lại rất khác nhau! Vì đi tìm Chúa khác với tìm mình.
Mời Bạn kiểm điểm: Lâu
nay tôi đang trên đường tìm Chúa hay tìm mình? Tìm Chúa để tôn thờ Ngài? Hay
tôi tìm chỉ để xin Ngài ban cho tôi một điều gì đó? Hoặc có khi tôi làm công
việc của Ngài, nhưng để cho danh tôi được nổi? Hoặc tôi chỉ tìm Ngài khi “thuận
buồm xuôi gió,” còn khi gặp khó khăn, tôi dễ dàng bỏ Ngài? Các nhà đạo sĩ hôm
nay nhắc nhở chúng ta thanh tẩy mọi ước muốn ích kỷ vụ lợi để dấn thân tìm Chúa
mọi giây phút trong cuộc sống.
Sống Lời Chúa: Xét
mình: - Trên đường tìm Chúa, gặp khó khăn, tôi sẽ phản ứng ra sao? - Đâu
là trường hợp tìm Chúa một cách trá hình?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết tìm kiếm Ngài là lẽ sống của con, để
con luôn trung thành dù gặp gian khổ, vì biết rằng Chúa vẫn ở bên con.
NGÔI SAO DẪN ĐƯỜNG
Hãy để Chúa làm lung lay ngai vàng của bạn, đưa bạn
vào sự bấp bênh, mong manh, để rồi cuối cùng bạn gặp được sự vững vàng trong
Chúa.
Suy niệm:
Ðoạn Tin Mừng trên nói về
các nhà chiêm tinh dân ngoại
theo ánh sao mà tìm đến bái
yết Hài Nhi
Một loạt câu hỏi thường được
đặt ra hôm nay.
Làm sao một ngôi sao có thể
dẫn đường cho họ đi?
Nếu đó là một ngôi sao sáng
lạ lùng
thì tại sao thành Giêrusalem
lại không nhận biết?
Bởi đâu ngôi sao lại không
đi thẳng tới Bêlem?
Có tin được chuyện ngôi sao
ngừng lại trước cửa nhà không?
Các câu hỏi trên đều xoay
quanh ngôi sao lạ.
Một ngôi sao như thế có thật
không
hay đây chỉ là một truyền
thuyết?
Thánh Mátthêu đã viết đoạn
Tin Mừng này
theo một thể văn đặc biệt
của người Do Thái.
Chúng ta không nên hiểu mọi
chi tiết theo nghĩa đen.
Ðiều quan trọng không phải
là có một ngôi sao lạ,
một ngôi sao thông minh biết
dẫn lối chỉ đường.
Ðiều quan trọng là điều
Mátthêu muốn nói với ta:
Ðức Giêsu không phải chỉ là
Mêsia cho dân Do Thái,
Ngài còn là Ðấng Cứu Ðộ cho
cả nhân loại.
Các nhà chiêm tinh là dân
ngoại.
Họ đại diện cho mọi dân tộc,
cho chính chúng ta.
Họ khao khát tìm ơn cứu độ.
Qua những dấu chỉ kỳ diệu
hay đơn sơ trong vũ trụ,
họ nghe thấy lời mời gọi lên
đường.
Chấp nhận lên đường là chấp
nhận bỏ lại tất cả
và bước đi trong đêm tối.
Các nhà chiêm tinh không dựa
vào điều gì khác
ngoài ánh sao khi tỏ khi mờ.
Cần có đức tin cứng cáp
mới dám dựa vào một dấu chỉ
mong manh như thế.
Cũng cần có đức tin mạnh mẽ
mới dám tin rằng vị vua mới
sinh
đang khiêm tốn sống trong
một ngôi nhà ở Bêlem,
chứ không uy nghi ngự giữa
hoàng cung lộng lẫy.
Cần có một đức tin khiêm tốn
biết chừng nào
mới có thái độ sấp mình bái
lạy trước Hài Nhi,
và tiến dâng lễ vật quý giá.
Thiên Chúa vẫn không ngừng
lôi kéo cả nhân loại
đến với Con Một của Ngài là
Ðức Giêsu Kitô.
Ngài vẫn không ngừng cho
những ánh sao dẫn đường.
Không phải là ánh sao trên
trời cao,
mà là ánh sáng Ngài gieo vào
lòng người.
Mỗi người chúng ta phải
trung thành với ánh sáng đó,
và bước vào cuộc hành trình
đức tin đầy mạo hiểm,
như các nhà chiêm tinh ngày
xưa.
Ðôi khi chúng ta có nét
giống Hêrôđê,
sợ hãi bối rối trước sự xuất
hiện của Ðấng Cứu Ðộ.
Hãy để Chúa làm lung lay
ngai vàng của bạn,
đưa bạn vào sự bấp bênh,
mong manh,
để rồi cuối cùng bạn gặp
được sự vững vàng trong Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu
tạ ơn Chúa đã cho chúng con
ánh sáng mặt trời, mặt
trăng,
và ánh sáng từ những nguồn
năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa
vì Chúa đã gọi chúng con là
ánh sáng.
Đó là vinh dự
và cũng là một trách nhiệm
nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối
của hận thù và bất công,
của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên trong
lòng chúng con,
và biết vâng theo những soi
sáng của Chúa
qua từng phút giây của cuộc
sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và
bóng tối
vẫn còn tiếp diễn
trên thế giới và trong lòng
chúng con.
Ước gì chúng con
đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối,
nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa,
để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
03 Tháng Giêng
Bí Quyết Hạnh Phúc
Trong một chương trình truyền hình Mỹ, người ta phỏng vấn một cụ
già, tuổi hạc rất cao. Người ta đặt câu hỏi như sau: "Thưa cụ, chắc cụ có
một bí quyết đặc biệt để được hạnh phúc?"
Cụ già trả lời một cách đơn sơ như sau: "Không, tôi chẳng
có bí quyết nào gọi là đặc biệt cả. Trái lại, nó rất đơn giản như chiếc mũi
trên mặt ông vậy!". Cụ già giải thích như sau: "Mỗi buổi sáng mai,
lúc thức dậy, tôi có hai điều chọn lựa, một là sống hạnh phúc, hai là sống bất
hạnh. O�ng nghĩ xem, tôi sẽ chọn điều nào? Dĩ nhiên tôi phải chọn được hạnh
phúc".
Câu trả lời trên đây của cụ già thật đơn giản. Abraham Lincol đã
nói như sau: "Con người sở dĩ có được hạnh phúc, sung sướng hay không cũng
tại lòng tưởng nghĩ như vậy". Bạn có thể hạnh phúc, nếu bạn muốn như thế.
Ðó là điều dễ thực hiện nhất trên đời. Bạn hãy chọn lựa sự bất hạnh. Ði đến đâu
bạn cũng than thân trách phận, chắc chắn bạn sẽ được như ý. Nhưng nếu lúc nào bạn
cũng tự nhủ rằng: "Mọi việc đều tốt đẹp, đời vẫn đẹp và đáng sống. Tôi chọn
sống hạnh phúc", thì chắc chắn bạn sẽ được điều bạn muốn.
Trẻ con rành về nghệ thuật sống hạnh phúc hơn người lớn. Trẻ em
mang vào giấc ngủ của mình vô số những mộng mơ và chúng cũng thức giấc với vô số
những mộng ước, trong đó cơ bản nhất vẫn là được vui chơi.
Người lớn mà có được một tinh thần như trẻ thơ lúc tráng niên và
vào tuổi già, thì quả là một thiên tài, vì họ nắm được niềm hạnh phúc thật
trong tâm hồn mà Chúa đã dành để cho tuổi thanh xuân. Chúa Giêsu quả là tế nhị
khi Ngài nói với chúng ta rằng cần phải có tinh thần trẻ thơ thì mới vào được
Nước Trời. Nước Trời là gì nếu không phải là được sống hoan lạc trong tình yêu
thương của Chúa?
Lẽ Sống
SỐNG LỜI CHÚA
MỖI NGÀY NĂM LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Chúa Nhật, 3 tháng 1 – Chúa Hiển Linh
I-sai-a 60,1-6 · Thánh Vịnh
71,1-2.7-8.10-13 · Ê-phê-sô 3,2-3a.5-6
Mát-thêu 2,1-12
Chọn Giêsu
Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người . . . nên
chúng tôi đến bái lạy Người.
Mát-thêu
2,2
Vua Hêrôđê đã
phản ứng một cách dữ dội trước tin một vị vua mới giáng sinh. Tin đó đã làm ông
“hết sức hoảng hốt” và ông đã cho người giết hại các trẻ đầu lòng ở Bêlem, nhằm
bảo vệ ngôi báu của mình. Còn ba vị đạo sĩ, các mục đồng và các thiên thần thì
lại hết sức hân hoan trước tin vui đó.
Suốt quãng đời
mình, Chúa Giêsu là một gương mặt của những sự đối kháng. Có những người theo
Người, những người khác tìm cách hãm hại Người; nhiều người sẵn sàng chết vì
Người, còn những kẻ khác tìm cách giết hại Người.
Đây là sự lựa
chọn sống còn của mỗi người chúng ta. Nếu chọn sự sống và điều thiện, điều đó
có nghĩa là chúng ta chọn chính Chúa Giêsu. Và ngược lại, nếu chúng ta chọn sự
chết và điều ác, điều đó có nghĩa là chúng ta đang quay lưng lại với Chúa. Hôm
nay chúng ta được mời gọi nhìn lại cuộc sống của chính mình. Chúng ta chọn Chúa
Giêsu và đứng về phía Người hay chúng ta chọn là những Hêrôđê, lo sợ Chúa đến lấy
đi mất những thú vui trong đời mình?
Stephen
J. Rossetti
HỌC HỎI
NĂM THÁNH
Hỏi 57 : Chúng
ta được mời gọi làm gì trong Năm Thánh này?
Đáp 57 : Một mặt chúng ta được mời gọi nhìn ra những khốn cùng của thế
giới, lắng nghe tiếng kêu cứu của những người cùng khổ, quan tâm và chăm sóc
cho những người bị bỏ rơi với tình bằng hữu; mặt khác chúng ta được mời gọi phá
đổ những rào cản được dựng lên do sự thờ ơ lãnh đạm, giả hình và ích kỷ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết hân hoan khi Chúa đến.
Xin hãy phá tan những nỗi sợ hãi đang chia cắt chúng ta. Xin cho con hết lòng hết
dạ theo Chúa mỗi ngày trong cuộc sống.
Quyết tâm : Ghi
nhớ và trung thành sống cam kết của Bí tích Rửa Tội.
(nguồn trích Sống Lời Chúa số 1 – Mùa Vọng và Giáng Sinh của
Tgp. Sài Gòn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét