03/11/2014
Thứ Hai sau Chúa Nhật
31 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm II) Pl 2, 1-4
"Anh
em hãy làm cho tôi được trọn niềm hân hoan, để anh em hưởng cùng một niềm
vui".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh
em thân mến, nếu có sự an ủi nào trong Ðức Kitô, nếu có sự khích lệ nào trong đức
mến, nếu có sự hiệp nhất nào trong Thánh Thần, nếu có lòng thương xót nào, thì
anh em hãy làm cho tôi được trọn niềm hân hoan, để anh em hưởng cùng một niềm
vui, được cùng chung một lòng mến, được đồng tâm nhất trí với nhau; chớ làm điều
gì bởi ý cạnh tranh, hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà
coi kẻ khác vượt trổi hơn mình; mỗi người đừng chỉ nghĩ đến những sự thuộc về
mình, nhưng hãy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 130, 1. 2. 3
Ðáp: Lạy Chúa, xin
giữ linh hồn con trong bình an của Chúa.
Xướng:
1) Lạy Chúa, lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng
không lo nghĩ những việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn. - Ðáp.
2)
Nhưng con lo giữ linh hồn cho thinh lặng và thanh thản. Như trẻ thơ sống trong
lòng thân mẫu, linh hồn con cũng như thế ở trong con. - Ðáp.
3)
Israel hãy cậy trông vào Chúa, tự bây giờ và cho tới muôn đời. - Ðáp.
Alleluia:
Mt 11, 29ab
Alleluia,
alleluia! - Các ngươi hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền
lành và khiêm nhượng trong lòng. - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 14, 12-14
"Ông
chớ mời các bạn hữu, nhưng hãy mời những người nghèo khó và tàn tật".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng:
"Khi ông dọn tiệc trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà
con và những người láng giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn
cho ông. Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật,
què quặt và đui mù, thì ông sẽ được phúc, bởi họ không có gì đền ơn cho ông: vì
chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Bác
Ái Vô Vị Lợi
Tâm
lý thường tình của con người vẫn là: "Có qua có lại, mới toại lòng
nhau" hoặc "Ông đưa miếng giò, bà thò chai rượu". Chúng ta kết bạn
thân thiết với ai, chúng ta cũng muốn họ có một tâm tình như thế đối với chúng
ta.
Nhưng
Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một cái nhìn khác, đó là lòng
bác ái vô vị lợi: "Khi ông đãi tiệc, thì đừng mời bạn bè, anh em, bà con,
hoặc láng giềng giầu có... Nhưng hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt,
đui mù; họ không có gì trả lễ, và như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được
trả công trong ngày các kẻ lành sống lại".
Ở
đây, Chúa Giêsu hướng lòng con người về đời sau. Ðang lúc dự tiệc cưới trên trần
gian, Ngài đã liên tưởng đến bữa tiệc sẽ được hoàn tất trong vinh quang Nước
Chúa, ở đó những người hèn kém được nâng lên và kẻ quyền thế bị hạ xuống; ở đó
những người tàn tật, đui mù thực sự là những khách được mời dự tiệc của Chúa.
Gương
bác ái vô vị lợi có thể tìm thấy trong chính đời sống của Chúa Giêsu. Ngài là
hiện thân của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu này được biểu lộ trong việc nhập
thể. Ðây là tình yêu vô biên đến gặp con người ở tầm mức nhân loại, bởi vì
khiêm nhường là một trong những bộ mặt của tình yêu. Chúa Giêsu đã xuống ngang
tầm mức những kẻ nhỏ bé, yếu đuối; Ngài không tìm địa vị cao sang nổi bật,
nhưng quan tâm đến những kẻ nghèo khó, bệnh tật, những kẻ bị xã hội ruồng bỏ.
Tình
thương của Chúa Giêsu không đòi hỏi phải có đi có lại. Ngài đi tìm kẻ nghèo khổ
để ban ơn, mà không làm cho họ mặc cảm hay nghĩ ngợi là mình chẳng có gì đền
đáp. Ngài mời gọi tất cả, nhất là những người nghèo khó, vì chỉ có họ mới dễ
dàng chấp nhận lời mời dự tiệc Thiên Chúa. Về mặt thiêng liêng, những người
nghèo là những người không khoe khoang về kiến thức, đức hạnh, hay bất cứ ưu điểm
nào của mình; họ ý thức thân phận của mình: nhận ơn huệ của Thiên Chúa mà không
có gì để dâng lại; họ chỉ biết một điều là sẵn sàng đón nhận vì ý thức rằng
Thiên Chúa là Ðấng tốt lành và đầy lòng thương xót. Và đó là điều Thiên Chúa chờ
mong nơi họ.
Lời
Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi gương sống bác ái của Chúa. Ngài đã yêu
thương chúng ta bằng một tình yêu bao la và nhưng không; do đó, chúng ta cũng
có bổn phận phải cho đi một cách rộng rãi và vô vị lợi những ân huệ mà Ngài đã
ban cho chúng ta. Ðược như thế chắc chắn chúng ta sẽ sống đẹp lòng Chúa và xứng
đáng thông dự bàn tiệc vĩnh cửu trong Nước Chúa.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 31 TN2
Bài đọc: Phil
2:1-4; Lk 14:12-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sống tinh thần bác
ái của Đức Kitô
Nhiều người trong chúng ta có khuynh hướng suy xét thật cẩn thận trước khi làm
các việc thiện nguyện trong cộng đòan hay bác ái xã hội. Họ tính tóan xem những
công việc này có đem lại những lợi ích cho cá nhân hay cộng đòan của họ; chẳng
hạn: cho đi với hy vọng sẽ nhận lại, bố thí để tìm hư danh, chỉ đi cầu nguyện
cho người chết nào mà mình hy vọng cũng sẽ được gia đình người chết đến cầu
nguyện cho khi mình chết. Các Bài đọc hôm nay đề nghị chúng ta thay đổi hòan
tòan những tính tóan ích kỷ này. Trong Bài đọc I, Thánh Phaolô liệt kê những
thái độ cần có và việc làm cần thực hiện để sống đức bác ái tuyệt hảo theo
gương Đức Kitô. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khuyên cần làm ơn cho những người
không thể trả ơn đời này; nhưng chính Chúa sẽ giúp họ trả ơn cho chúng ta đời
sau.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Duy
trì sự hiệp nhất trong tinh thần khiêm nhường.
Thánh Phaolô có lẽ đã có kinh nghiệm nhiều về sự ghen tương, bất hòa, chia rẽ
trong các cộng đòan ngài giúp để thành lập. Điều băn khoăn của ngài là làm sao
thuyết phục các tín hữu bỏ đi những tật xấu đã ăn sâu vào cuộc đời các tín hữu?
Ngài tìm ra chìa khóa duy nhất để giải quyết vấn đề là niềm tin vào Đức Kitô.
Theo cách cấu trúc câu, ngài liệt kê liên tục 4 mệnh đề “nếu;” và 4 mệnh đề hậu
quả theo sau sẽ tương xứng với 4 mệnh đề “nếu” này. Để dễ phân tích, chúng ta sẽ
gom chung chúng lại một trước khi phân tích:
(1) Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi,
thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm
nghĩ. Theo thần học về thân thể của Thánh Phaolô, mọi người đều là những
chi thể được liên kết trong cùng một thân thể của Giáo Hội, với Đức Kitô là Đầu.
Nếu chỉ có một Đầu là Đức Kitô thì chuyện có cùng một cảm nghĩ (froneo = suy
nghĩ) là điều tất yếu.
(2)
Nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, hãy có cùng một lòng mến. Bác ái Kitô
Giáo phát xuất từ Thiên Chúa lan qua Đức Kitô, và chảy xuống mọi người. Chính Đức
Kitô đã xác nhận điều này: “Như Cha đã yêu Thầy thể nào, Thầy cũng yêu anh em
như vậy. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Jn 15:9). Sau đó, Chúa đòi các môn
đệ: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Jn 15:12). Như
thế, chỉ có một lòng mến (agape) đến từ tình yêu Thiên Chúa.
(3) Nếu chúng ta được hiệp thông trong Thánh Thần, hãy có cùng một tâm hồn
(sumpsukos = liên kết trong cùng một tinh thần). Chữ Hy-Lạp dùng ở đây là danh
từ kép: “sum = cùng” và “psukos = tinh thần.” Nếu tất cả
đều nghe theo sự hướng dẫn của cùng một Thánh Thần, tập thể sẽ hòa điệu và liên
kết chặt chẽ với nhau trong cùng một tinh thần. Tinh thần đồng đội hay tinh thần
ái quốc là những ví dụ điển hình của sự liên kết tinh thần này.
(4)
Nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, hãy có cùng một ý hướng
(to en fronountes) như nhau. Động từ dùng ở đây giống như động từ trong
trường hợp (1), điểm khác biệt là ở chỗ là động từ dùng ở thời hiện tại phân từ
và dùng với tĩnh từ “en.” Có lẽ trong trường hợp (1), Thánh Phaolô muốn nhấn mạnh
tới một Đầu là Đức Kitô, và trong (4), ngài muốn nhấn mạnh tới một thân thể.
Nếu các Kitô hữu đã được tháp nhập vào trong cùng một thân thể của Đức Kitô, họ
có bổn phận xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô bằng cách: “không được làm chi vì ganh
tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình.
Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người
khác.”
2/
Phúc Âm: Làm
ơn cho những người không có gì để trả.
2.1/ Hai thái độ sống: công bằng và bác ái:
(1) Lợi nhuận của người đời: “Ăn miếng trả miếng. Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại.” Một
ví dụ thực tế Chúa đưa ra hôm nay: Khi mở tiệc đãi khách, con người thường có
khuynh hướng mời bạn bè, anh em, bà con, hoặc láng giềng giàu có, để đáp lễ hay
hy vọng sẽ nhận được gì từ họ. Cách cư xử như thế mới chỉ là công bằng mà thôi.
(2) Bác ái của người
môn đệ Chúa Kitô: “Trái
lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui
mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp
lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.”
2.2/ Tại sao phải giúp
đỡ người nghèo khổ? Vì
chúng ta cũng đã từng nhận ơn trong những lúc gian nan tuyệt vọng. Chỉ cần hồi
tưởng lại quá khứ đôi chút, chúng ta cũng nhận ra đã không biết bao lần chúng
ta đã từng nhận ơn nhưng không từ:
(1) Thiên
Chúa: Ngài
cho chúng ta có mặt trong cuộc đời, cho chúng ta hưởng tất cả những gì không do
tay chúng ta làm ra, tha thứ tội lỗi khi chúng ta xúc phạm đến Ngài, và không
ngừng gởi những người giúp đỡ tinh thần cũng như vật chất khi chúng ta cần đến…
Chúng ta đã trả ơn được gì cho Ngài?
(2) Tha nhân: Nếu không có các quốc
gia mở lòng nhân đạo nhận người vào định cư, nếu không có các Hội Từ Thiện giúp
đỡ những ngày chân ướt chân ráo đến định cư nơi đất khách quê người, làm sao
chúng ta có thể sống ổn định như ngày hôm nay? Chúng ta đã trả lại được gì cho
họ?
Vì chúng ta đã từng nhận nhưng không nên việc cho đi nhưng không là điều phải
làm để đền ơn những gì chúng ta đã lãnh nhận trong cuộc đời. Chưa chắc chúng ta
đã đền trả đủ theo đức công bằng chứ chưa nói tới chuyện bác ái!
2.3/
Làm cho anh chị em túng nghèo là làm cho chính Chúa: May mắn cho chúng
ta là những người được Chúa mặc khải trước cho biết tiêu chuẩn Chúa dùng để
phán xét trong Ngày Tận Thế: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm
như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm
cho chính Ta vậy… và mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những
người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy" (Mt
25:40, 45). Như thế, có thể nói đức bác ái là yếu tố quyết định để chúng ta vào
hưởng nhan thánh Chúa hay sa hỏa ngục.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Để có thể sống đức bác ái trọn hảo, chúng ta phải để Chúa Kitô thấm nhuần
tòan bộ con người: từ tư tưởng, suy luận, cảm nghĩ, đến hành động.
- Để có thể cho đi nhưng không, cần xét mình thường xuyên để đánh giá những gì
mình đã nhận nhưng không nơi Thiên Chúa và tha nhân.
- Để có thể giúp đỡ tất cả mọi người, phải tập nhìn thấy Chúa trong tha nhân. Đừng
bao giờ quên đây là tiêu chuẩn Thiên Chúa sẽ dùng để phán xét. Nếu đã biết trước
tiêu chuẩn mà vẫn không chịu làm theo; có sa hỏa ngục cũng là tự do lựa chọn của
con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên
OP
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Martin de
Porres
Bài đọc: Isa 58:6-11; Mt
11:25-30
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Các con bảo Thầy là
ai?
-
Có một bài hát giáo lý tôi đã từng được các trưởng TNTT dạy hát khi còn nhỏ,
bài “con kiến đen, nằm trong hòn đá đen, mặt trời tối đen, Đức Chúa Trời cũng
thấy;” nhưng lúc đó chẳng hiểu gì cả. Sau này, có người áp dụng bài hát vào cuộc
đời Thánh Martinô, tôi thấy thật đúng.
-
Cuộc đời Thánh Martinô có thể được ví như cuộc đời con kiến đen: vì ngài là người
da đen; sinh trong một gia đình hỗn hợp: cha là người Tây Ban Nha da trắng, mẹ
là người Panama da đen; tương lai cũng mờ mịt đen tối như đêm 30 tết vì cha bỏ
3 mẹ con ở lại để về nước. Sống trong một hòan cảnh hết sức đen tối như thế, thử
hỏi còn có hy vọng gì cho một cậu bé mồ côi da đen? Mặc dù tất cả đều đen ngòm
như vậy, nhưng Đức Chúa Trời vẫn thấy, và Ngài đã có một kế họach diệu kỳ cho
tôi tớ da đen của Ngài.
-
Ngài có một người mẹ biết kính sợ Thiên Chúa, Bà Anna. Mặc dù phải chịu cảnh mẹ
góa con côi, Bà không bao giờ kêu trách Chúa hay đổ tội cho hòan cảnh. Trái lại,
Bà phấn đấu làm việc để nuôi hai chị em Martinô và dạy dỗ cho con mình biết
trông cậy vào Thiên Chúa. Hơn nữa Bà còn dạy cho hai chị em biết chia sẻ những
gì mình có được với những ai nghèo khổ, mặc dù chính gia đình Bà cũng phải vật
lộn với bữa lo bữa đói. Truyện kể có một lần Bà tức giận bạt tai Martinô vì tưởng
con mình bớt tiền chợ của gia đình để tiêu riêng; nhưng sau khi tìm hiểu nguyên
do, Bà đã hối hận vì biết con dùng tiền để chia sẻ với người nghèo.
-
Khi tới tuổi trưởng thành, Martinô xin vào tu trong Dòng Đaminh như một thầy trợ
sĩ. Gương khiêm nhường và bác ái của Martinô đã thành những gương sáng cho mọi
người bàn tán. Martinô xin Bề trên cho đưa một bệnh nhân về phòng để chính mình
săn sóc, ngài nhường giường riêng của mình cho bệnh nhân, còn mình thì nằm trên
sàn. Khi Nhà Dòng lâm cảnh thiếu thốn không còn tiền sinh sống, Martinô đã vào
năn nỉ xin Bề trên cho bán mình làm nô lệ để kiếm cho Nhà Dòng một số tiền. Bề
trên đã phải rơi lệ và ôm lấy Martinô, nhưng làm sao có thể bán được người đã
thương anh em mình đến thế! Tình thương của Martinô không chỉ giới hạn vào con
người, mà còn lan tràn tới cả thú vật. Truyện kể ngài có thể nói chuyện với cả
... chuột. Số là vì Martinô nuôi ăn chúng nên chúng lan tràn khắp phòng; và hậu
quả là chúng ăn luôn cả những chiếc áo dòng của các tu sĩ. Bề trên bị than phiền
nên quyết định cho đặt bẫy và rải thuốc giết chuột. Martinô cho triệu tập gấp
rút buổi họp của đại gia đình nhà chuột. Ngài ra điều kiện nếu muốn tiếp tục để
ngài cho ăn thì tuyệt đối không được cắn áo của các tu sĩ; nếu không, đại tang
sẽ đến với đại gia đình nhà chuột. Thế là đàn chuột bảo nhau, và từ đó trở đi,
không thấy các tu sĩ than phiền về việc cắn áo của chuột nữa!
Hai
Bài đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta thêm chất liệu để suy nghĩ thêm về cuộc đời
Thánh Martinô; đồng thời rút ra những ví dụ sống cụ thể cho cuộc đời mỗi người.
Trong Bài đọc I, tiên tri Isaiah nhấn mạnh về cách thức ăn chay: không phải là
chỉ nhịn đói không ăn; nhưng còn là chia cơm sẻ bánh cho những người túng thiếu
và giúp đỡ giải thóat họ khỏi mọi xiềng xích gông cùm. Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu ngợi khen Thiên Chúa Cha, vì đã cho phép Ngài mặc khải sự khôn ngoan của
Thiên Chúa cho những người bé mọn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
1.1/
Cách ăn chay Thiên Chúa ưa thích:
(1)
Thương linh hồn 7 mối: “Cách
ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao:
mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm?” Các điều tiên tri nói ở đây đã được Gíao Hội tổ chức và cắt nghĩa rõ ràng hơn trong “Thương linh hồn 7 mối:” Lấy lời lành mà khuyên người. Mở dạy kẻ mê muội. Yên ủi kẻ âu lo. Răn bảo kẻ có tội. Tha kẻ khinh dể ta. Nhịn kẻ mất lòng ta. Cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm?” Các điều tiên tri nói ở đây đã được Gíao Hội tổ chức và cắt nghĩa rõ ràng hơn trong “Thương linh hồn 7 mối:” Lấy lời lành mà khuyên người. Mở dạy kẻ mê muội. Yên ủi kẻ âu lo. Răn bảo kẻ có tội. Tha kẻ khinh dể ta. Nhịn kẻ mất lòng ta. Cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
Thương
linh hồn 7 mối khó nhận ra và khó làm. Mọi tín hữu đều có bổn phận phải làm,
nhưng các cha và các tu sĩ là những người chuyên lo những mối linh hồn này. Khi
các ông bà giúp để đào tạo ơn gọi là đang dự phần vào việc thương các linh hồn,
vì chính Chúa đã nói: “Ai giúp các tiên tri vì danh nghĩa là tiên tri thì cũng
sẽ được phần thưởng của tiên tri” (). Các ông bà nhiều khi không có khả năng,
thời giờ, cơ hội để dạy dỗ con cháu; nhưng nếu các ông bà đóng góp để đào tạo
ơn gọi là các ông bà giúp đỡ chính con cháu mình; chuẩn bị cho chúng có được những
người hướng dẫn đàng tinh thần trong tương lai.
Đói
phần xác rất dễ nhận ra, nhưng đói khát tinh thần và tình yêu không dễ nhận ra.
Hậu quả của việc đói tinh thần khốc liệt hơn hậu quả của đói phần xác; vì nó
làm con người không biết sống ở đời này và lạc hướng đi trong tương lai. Chúa
đã từng cảnh cáo: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn, hỏi được lợi ích
gì?”
(2)
Thương xác 7 mối: “Chẳng
phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;
thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh
em cốt nhục?” Cũng thế, GH đã tổ chức và cắt nghĩa rõ ràng hơn trong “Thương
xác 7 mối:” Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Cho kẻ rách rưới ăn mặc. Viếng kẻ
bệnh cùng kẻ tù đày. Cho khách đỗ nhà. Chuộc kẻ làm tôi. Chôn xác kẻ chết. Cuộc
đời Thánh Martinô là gương sáng cho những mối này: thánh nhân đã từng cho người
nghèo ăn uống, mặc áo cho kẻ mình trần, săn sóc bệnh nhân, cho người lạ nằm
trên giường mình, tình nguyện bán mình nuôi anh em, và chôn xác kẻ chết.
1.2/
Phần thưởng cho những người biết thương xót: Theo tiên tri Isaiah, người biết
thương xót giúp đỡ kẻ cô thân cô thế, sẽ được Thiên Chúa bảo vệ, chúc lành, và
cho chung hưởng vinh quang với Ngài. Điều đặc biệt nữa là khi cầu xin, sẽ được Thiên
Chúa nhận lời: “Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương
ngươi sẽ mau lành. Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức
Chúa bao bọc phía sau ngươi. Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời,
ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: "Có Ta đây!" Nếu ngươi loại khỏi
nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng
ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả
trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ. Đức Chúa sẽ
không ngừng dẫn dắt ngươi, giữa đồng khô cỏ cháy, Người sẽ cho ngươi được no
lòng; xương cốt ngươi, Người sẽ làm cho cứng cáp. Ngươi sẽ như thửa vườn được
tưới đẫm như mạch suối không cạn nước bao giờ.”
Thánh
Martinô khi còn sống đã thi ân cho biết bao nhiêu người, khi chết rồi ngài còn
bầu cử cho bao nhiêu người, nhất là cho dân Việt Nam chúng ta. Nhiều khi tôi tự
hỏi tại sao một thánh mãi tận Nam Mỹ mà lại trở nên thật gần gũi với người Việt
Nam như vậy. Tôi nghĩ lý do có lẽ là vì ngài thương xót những người nghèo khổ:
có đau mắt thì mới biết thương người mù. Hòan cảnh đau khổ ngài phải chịu khi lớn
lên khiến ngài dễ đồng cảm với những khổ đau mà con dân Việt Nam phải chịu.
Không biết bao nhiêu người đã tuốn đến Hố Nai và Ba Chuông để xin ngài che chở
trước khi vượt biên. Bản thân cá nhân tôi cũng đã lấy ảnh ngài và dán vào những
quầy tính tiền của tiệm để xin ngài bảo các anh em của ngài đừng gây thiệt hại
phần xác cho các anh chị em và các cháu của tôi; bù lại tôi cũng nói với mọi
người trong gia đình phải năng giúp những khách hàng nghèo khổ.
2/
Phúc Âm
2.1/
Khôn ngoan của Thiên Chúa được mặc khải cho những kẻ bé mọn: Có một sự khác biệt
sâu đậm giữa khôn ngoan của Thiên Chúa và khôn ngoan của con người:
-
Khôn ngoan của con người chỉ dành cho những người học cao, hiểu rộng; những người
có cơ hội đi tới trường lớp.
-
Khôn ngoan của Thiên Chúa lại dành cho những người bé mọn và ẩn giấu khỏi người
khôn ngoan thông thái như Đức Giêsu nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con
xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những
điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều
đẹp ý Cha.”
2.2/
Chúa Giêsu là người mặc khải các khôn ngoan của Thiên Chúa: Khi nhập thể, nhiệm
vụ đầu tiên của Ngài là mặc khải các mầu nhiệm của Thiên Chúa, nhất là Mầu Nhiệm
Cứu Độ. Nếu Đức Kitô không mặc khải, không ai có thể biết những mầu nhiệm này.
Ngài nói: "Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người
Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà
người Con muốn mặc khải cho.” Thực sự, Ngài mặc khải cho tất cả, nhưng không phải
ai cũng hiểu được. Để hiểu những mầu nhiệm này, con người cần có đức tin và
lòng khiêm nhường.
2.3/
Những người nghèo khó và đau khổ là những người hiểu được khôn ngoan của Thiên
Chúa.
Chúa Giêsu kêu mời: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến
cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và
hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được
nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng."
Vì
thế, không lạ gì một người hiền hậu và khiêm nhường như Martinô đã sớm nhận ra
khôn ngoan của Thiên Chúa. Thánh Martinô quí trọng Thập Giá nên ngài sẵn sàng
chịu đau khổ để thông phần vào Cuộc Thương Khó của Đức Kitô. Thánh nhân đã nhìn
ra tình thương Thiên Chúa và nhìn thấy Thiên Chúa trong các anh chị em nghèo khổ;
vì thế, ngài sẵn sàng hy sinh tất cả để giúp đỡ họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Nếu đời cho ta trái chanh chua, hãy biến nó thành ly chanh đường. Chúng ta hãy
tập có thái độ tích cực trong cách nhìn và cư xử với đời.
-
Đừng than thân trách phận vì sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu. Chẳng có ngôi
sao nào xấu cả: Nếu biết đặt niềm tin nơi Chúa và để Ngài hướng dẫn cuộc đời,
chúng ta cũng sẽ thành thánh như Thánh Martinô.
-
Thánh Martin đã được Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan để nhận ra điều quan trọng nhất
trong cuộc đời là đức bác ái, thương xót tất cả mọi người như Chúa thương mình.
Linh mục Anthony Đinh Minh
Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM - MÙA QUANH NĂM - TUẦN 31
Lc 14,12-14
A. Hạt giống...
Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dùng việc mời
khách dự tiệc để dạy bài học phục vụ vô vị lợi :
1. “Hãy mời những người nghèo, người què, người cà
thọt và người đui” : ba hạng người sau chỉ là giải thích cho chữ “người nghèo”.
Chúa Giêsu dùng ba hạng đó để diễn tả những người nghèo nhất, vì ba hạng này bị
khinh miệt nhất và không được phép tham dự những lễ nghi trong Đền thờ (2Sm 5,8
; Lv 21,18).
2. “Họ không có gì đáp lễ” : người đời thường cư
xử với nhau theo tiêu chuẩn có qua có lại, do đó họ thường mời những kẻ mà sau
này sẽ đền ơn họ bằng cách này hay cách khác. Nhưng Chúa Giêsu khuyên hãy mời
những kẻ không có gì đáp lại và cũng không có khả năng đáp lại. Khi đó chính
Thiên Chúa sẽ thay họ mà thưởng công cho kẻ đã mời (“ông sẽ được đáp lễ : thể
thụ động, ngụ ý Thiên Chúa là kẻ chủ động).
B.... nẩy mầm.
1. Mời dự tiệc tượng trưng cho sự cho. Nhưng giá
trị của sự cho tùy vào cho ai và tại sao cho. Người đời thường chỉ cho những ai
có thể cho lại mình. Như thế động cơ của sự cho là để được cho lại (do ut das).
Cho như thế không có giá trị bao nhiêu vì thực chất là cho mình chứ không phải
cho người. Vả lại dù người ta có cho lại mình thì chỉ cho theo sự tính toán của
người ta (cũng như mình đã tính toán đối với họ), và chỉ cho những cái trong
khả năng hạn chế của loài người. Chúa Giêsu dạy môn đệ Ngài một cách cho có giá
trị cao hơn nhiều : cho những kẻ không có khả năng cho lại, và động cơ chỉ là
vì thương nên muốn chia sẻ. Đó mới là cho thực nên mới có giá trị. Vả lại
vì người nhận không có khả năng cho lại nên Thiên Chúa sẽ thay họ cho lại ta,
và cái Chúa cho thì dĩ nhiên quý hơn cái ta đã cho gấp bội.
2. Ăn chung với nhau còn biểu lộ sự thông hiệp,
liên đới. Chúa Giêsu là kẻ muốn thông hiệp liên đới với tất cả mọi người, do đó
Ngài không ngại ăn chung với một thủ lãnh biệt phái mặc dù hai bên khác quan
điểm với nhau (x. đoạn phía trước : 14,1-6). Ngài cũng không ngại ăn chung với
những người tội lỗi (x. Mt 9,10-13). Trong đoạn Tin Mừng này, người thủ lãnh
biệt phái đã khá cởi mở khi mời Chúa Giêsu đến ăn chung với mình. Chúa Giêsu
khuyến khích ông tiến thêm một bước nữa là hãy hiệp thông liên đới với những
người mà địa vị xã hội thấp kém hơn ông bằng cách mời họ cùng ăn uống với ông.
3. “Phần thưởng ai cũng muốn có. Nhưng phần
thưởng đến từ đâu và lúc nào, đấy mới là vấn đề quan trọng. Chúng ta hãy suy
tính xem phần thưởng tạm bợ trong thời gian có hơn được phần thưởng vĩnh cửu
không ? Phần thưởng của anh em có hơn được của Thiên Chúa không ? Phần Chúa,
Chúa nhắn : “Hãy tìm của Nước Trời trước” (Mt 6,33) (Trích "TMCGK ngày
trong tuần" ).
4. “ Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo
khó, tàn tật, què quặc, đui mù. Họ không có gì đáp lễ và như thế ông mới thật
có phúc“ (Lc 14, 13-14)
Có một nỗi đau quặn thắt trong tôi, khi tôi được tin một người thân sắp bị mù.
Có một tình thương len lõi trong tôi mỗi khi tôi nhìn thấy những người
nghèo khó, tàn tật. Nhưng dường như đó chỉ là cảm xúc pha lẫn thương hại. Chưa
một lần nào tôi nghĩ đến chuyện phải là một cái gì đó cho họ.
Lời Chúa hôm nay, mở ra cho tôi một tình yêu mới : “Yêu như Chúa yêu”, nghĩa là
dám dấn thân cho tình yêu và nhất là không chỉ yêu những người danh giá địa vị,
mà cả những người nghèo khó, tàn tật. Tôi nguyện đến với họ để chia sẻ với họ
những gì tôi có, cả niềm vui và hy vọng nữa.
Lạy Chúa ! Xin cho con luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi những người nghèo
khó, tàn tật, để con có thể đến với những người anh em đó dễ dàng hơn.
(Hosanna)
03/11/14 THỨ HAI TUẦN
31 TN
Th. Mác-ti-nô Po-rét, tu sĩ
Lc 14,12-14
Th. Mác-ti-nô Po-rét, tu sĩ
Lc 14,12-14
Suy niệm: Khi
mời “những người nghèo khó, tàn
tật, què quặt, đui mù” chủ
tiệc không những không được đáp lễ sau này, mà lúc này phải chấp nhận bao nhiêu
phiền phức với những thực khách “không nên mời” như thế; không chừng bữa tiệc
sẽ dở đi vì sự hiện diện của họ! Sự thường “bánh ít trao đi, bánh chì trao
lại”. Chúa Giê-su đề nghị một cách tính toán khác, hay đúng hơn, đừng tính toán
chi cả khi cho đi. Hãy ban phát theo tiếng gọi của một con tim rộng mở, nhằm
đến phúc lợi của tha nhân. Không ngại gian nan, không chờ đáp trả. Vì Thiên
Chúa giàu lòng thương xót, bao giờ Ngài cũng bù đắp lại bằng những tấm “bánh
chì” đầy đặn.
Mời Bạn: Nhiều
khi vì quá so đo tính toán, kiêu căng, vụ lợi, tôi xếp hạng rất nhiều anh em
vào hạng “nghèo khó, đui mù, què quặt” để tôi không giúp đỡ, không mời cộng
tác, không đối thọai, không giao tiếp. Cũng có thể do óc bè phái, suy nghĩ hẹp
hòi, thiếu khách quan và vô tư. Trong công tác truyền giáo rất cần có tinh thần
cởi mở, đối thoại.
Sống Lời Chúa: Tập
lắng nghe những ý kiến của những kẻ khác mình, xác tín rằng họ cũng có rất
nhiều cái để mình học hỏi, để cho lại mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, [...] xin cho con một tâm hồn đơn sơ, không biết
đến phức tạp của ích kỷ, và tìm hiến dâng mà không đòi lại. Một tâm hồn lặng
lẽ, hạnh phúc khi thấy sự quảng đại của mình không được người khác biết đến [...]”. (Cha Galot)
Đáp lễ
Phúc cho ai làm một
việc tốt mà không được ai biết đến và đáp lễ. Họ sẽ được Thiên Chúa “đáp lễ”
trong ngày phục sinh.
Suy niệm:
“Bánh ít đi, bánh quy
lại” hay “Có đi có lại mới toại lòng nhau”:
đó vẫn được coi là cách
cư xử bình thường giữa người với người.
Hơn nữa ai làm như vậy
còn được coi là người biết cách xử thế.
Trong bài Tin Mừng hôm
nay,
Đức Giêsu mời ta vượt lên
trên lối cư xử đó,
không ngừng lại ở chỗ tôi
cho anh, để rồi anh cho tôi (do ut des).
Ngài dạy cho ông chủ tiệc
biết nên mời ai và không nên mời ai.
Có bốn hạng người không
nên mời dự tiệc:
bạn bè, anh em, bà con họ
hàng, hay láng giềng giàu có.
Ngài đưa ra lý do: “Kẻo
họ mời lại ông, và ông được đáp lễ” (c.12).
Hơn nữa, Ngài còn nói đến
bốn hạng người nên mời dự tiệc:
những người nghèo khó,
tàn tật, què quặt, đui mù (c.13).
Đức Giêsu khuyên nên mời
những hạng người này,
vì họ không có khả năng
mời lại hay đáp lễ (c.14).
Như thế Đức Giêsu cho ta
tiêu chuẩn để mời khách dự tiệc.
Không mời những người
quen biết, thân thích, giàu sang,
để mời những người nghèo
hèn, những kẻ chẳng được ai mời.
Qua đề nghị khó thực hiện
này của Đức Giêsu,
Ngài đụng đến một khuynh
hướng tự nhiên mà ít người để ý.
Đó là khi làm điều tốt
cho ai
ta
cũng mong được hoàn trả cách này cách khác.
Có
khi mong được trả lại tương đương hay hậu hỹ hơn.
Có khi mong trả lại bằng
một bia đá ghi công hay một lời tri ân đơn giản.
Nói chung để làm một hành
vi hoàn toàn vô vị lợi là điều rất khó.
Chỉ ai thành thật đi vào
lòng mình mới thấy mình ít khi cho không.
Đức Giêsu muốn hạn chế
khuynh hướng này.
Ngài mời chúng ta ra khỏi
thế giới của những người quen biết,
không kết thân với những
người giàu có và thế lực,
để mong họ đem lại lợi
nhuận hay làm ô dù cho ta.
Ngài đưa ta đến với những
người nghèo và không có địa vị,
những người không có khả
năng mời lại hay đáp lễ.
Có khi những người đó
chẳng ở đâu xa.
Họ nằm ngay trong số bạn
hữu, bà con, anh em, hay hàng xóm.
Khi mời họ dự tiệc, trân
trọng họ như khách quý,
chúng ta làm sống lại
những mối tương quan tưởng như không còn.
Đức Giêsu mời ta thanh
luyện ý hướng của mình khi làm điều tốt,
trở nên siêu thoát và từ
bỏ những tìm kiếm tự nhiên quy về mình.
Bài Tin Mừng đơn sơ này
có thể tạo một bước ngoặt trong đời Kitô hữu.
Chúng ta sẽ được nếm một
mối phúc mới:
Phúc cho ai làm một việc
tốt mà không được ai biết đến và đáp lễ.
Họ sẽ được Thiên Chúa
“đáp lễ” trong ngày phục sinh (c. 14).
Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa
rất đáng mến,
xin dạy con biết sống
quảng đại,
biết phụng sự Chúa cho
xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính
toán,
biết chiến đấu không ngại
thương tích,
biết làm việc không tìm
an nghỉ,
biết hiến thân mà không
mong chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã
chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy niệm
Khi đối
nhân xử thế, người ta hay dựa vào luật công bằng: ơn đền oán trả. Người xưa
định nghĩa công bằng là “trả cho người khác những gì thuộc về họ”. Định nghĩa
này chỉ đúng với những người có của, còn những người nghèo, không có gì, thì
làm sao mà trả? Cho nên, nếu đối xử với nhau chỉ dựa trên công bằng thì chưa
đủ.
Khi người
ta nại vào công bằng, sòng phẳng để xử thế thì người ta vô tình gạt ra bên
ngoài những người “không đủ điều kiện để sống công bằng”. Họ là ai? Thưa, họ là
những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù. Đối với những người này,
Chúa Giêsu dạy phải đối xử với họ bằng tình bác ái.
“Nhưng khi ông dọn tiệc, ông
hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù, thì ông sẽ được
phúc, bởi họ không có gì đền ơn cho ông”. Những người này không có gì để đền đáp lại. Tuy
nhiên, nếu ai mời họ, nghĩa là làm ơn làm phước cho họ dù đời này không được
đền trả, thì người ấy cũng sẽ không mất phần thưởng vì chính Chúa hứa “khi
những người công chính sống lại, họ sẽ được đền ơn".
Chúa Giêsu
đã đồng hóa chính Ngài trong những kẻ khó nghèo. Một khi không thực thi bác ái
với người nghèo khó thì là không thực thi cho chính Chúa “mỗi lần các
ngươi không làm như thế cho những kẻ bé mọn thì các ngươi đã không làm cho
chính Ta” (Mt 25,45).
Lạy
Chúa, nhiều khi con nại vào luật công bằng mà bỏ quên bổn phận bác ái với những
anh chị em không đủ điều kiện sống đức công bằng hoặc hay ngoảnh mặt làm ngơ
trước cơn túng quẫn của họ. Xin Chúa ban cho con trái tim của Chúa, để yêu
thương không toan tính và sống hết tình với tha nhân. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3
THÁNG MƯỜI MỘT
Hoa
Trái Của Hiệp Nhất
Trong
lời nguyện hiến tế của Người tại bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu nói: “Con xin thánh hiến
chính mình con cho họ, để họ cũng được thánh hiến trong sự thật” (Ga 17,19). Mối
hiệp nhất được xây dựng trên sự thật, trên sự thật của Lời mạc khải, trên sự thật
của chính Lời của Cha là Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ chúng ta.
Sự
thật của Lời này được trao ban cho Giáo Hội trong Đức Kitô và qua các Tông Đồ
là những vị đã được sai đi để làm Phép Rửa và giảng dạy nhân danh Người: “Như
Cha đã sai con đến trong thế gian, con cũng sai họ đi vào thế gian” (Ga 17,18).
Sự hiệp nhất của chúng ta không chỉ nhằm cho chúng ta, nhưng đúng hơn cho toàn
thế giới, để thế giới có thể tin rằng Chúa Cha đã sai Con của Ngài để cứu độ
chúng ta (Ga 17,21.23).
Hiệp
nhất là nguồn vui và nguồn an bình của chúng ta. Đàng khác, chia rẽ và bất hòa,
nhất là thù hận, thì hoàn toàn đối nghịch lại hiệp nhất. Đó là sự dữ, và đầu mối
của chúng là chính Satan.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
03-11
Thánh
Martinô Porres, Tu sĩ
Pl
2, 1-4; Lc 14, 12-14.
LỜI
SUY NIỆM: “Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo
khó, tàn tật, què quặc, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật
có phúc.”
Thiên
Chúa luôn hướng về người nghèo, Ngài bênh vực, nâng đỡ và cứu thoát họ. (Tv
34.9 68) Chúa Giêsu được sai đến; Người cũng quan tâm đến những người
nghèo, bệnh tật, đau khổ. Giáo Hội Chúa luôn đặt mọi ưu tiên cho người nghèo.
Chính người nghèo, họ luôn đặt niềm tin và lòng trông cậy vào Ngài , và Ngài
luôn mời gọi mọi con người thiện chí cọng tác với Ngài trong việc cứu giúp người
nghèo.
Lạy
Chúa Giêsu, Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con, biết quan tâm đến
người nghèo, để mà hy sinh và thực hành đức ái với họ.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
03-11
Thánh
MARTINÔ PORRES
Tu
Sĩ (1579 - 1639)
1579
là niên biểu ghi nhớ ngày sinh ra của Martinô ở Lima, Pêru con của một người mẹ
da đen và của một người cha hiệp sĩ và 1639 là niên biểu ghi nhớ ngày qua đời của
thánh nhân. Sáu mươi năm giữa hai niên biểu này là khoảng thời gian Martinô tiến
tới miền ánh sáng, trong sự khiêm tốn và hiến mình trọn vẹn để phục vụ các bệnh
nhân.
Cuộc
tình của cha mẹ Ngài không suông sẻ lắm, vì màu da của mẹ Ngài đã đưa đến những
hất hủi không những cho bà mẹ mà còn cho cả những đứa con xấu số của bà nữa.
Nhưng hoàn cảnh đen tối ấy, Martinô lại coi như nén bạc trao tay để Ngài sinh lời,
thành bông hoa khiêm tốn tuyệt vời.
Hồi
còn là một thiếu niên, Martinô đã chứng tỏ lòng bác ái đầy khiêm tốn phục vụ của
mình. Hôm ấy khi theo chị mang thức ăn cho gia đình, Ngài nghe thấy tiếng rên rỉ
của một bà lão người da đỏ. Dừng lại Ngài kinh hãi khi thấy một người lính Tây
Ban Nha đang hành hạ lão. Đầy thương cảm, cậu thiếu niên Martinô cúi xuống lão
già người da đỏ. Nhưng ông thù ghét cự tuyệt: Thằng nô lệ... mày đen đủi. Bọn
da đen tụi mày là kẻ thù của dân da đỏ.
Nhưng
người thiếu niên da đen này đã không bỏ cậu đi. Cậu nói chuyện với lão già da đỏ
cách dịu dàng đến nỗi lão đã thú nhận là ba ngày rồi không ăn thứ gì vào bụng lại
chẳng có con cháu gì cả. Martinô đã khóc và đưa tất cả thực phẩm cả ngày đã mua
được cho lão già.
Vào
thời đó, chỉ cần học một chút nghề cạo gió, cắt lể như Martinô đã học thì đã được
coi là đủ để chữa nhiều loại bệnh, như Martinô đã săn sóc các bệnh nhân. Và các
con bệnh có thể là loài người hay loài vật, bởi vì mọi loài đau khổ đều có quyền
được người bạn da đen này khiêm tốn tận tình săn sóc. Ngài đã chữa lành một con
gà tây gẫy giò. Người ta còn nói rằng: Ngài đã làm cho nhiều con vật sống lại.
Vào
tuổi 15, Ngài nhập dòng Daminh như một thày dòng ba. Thày thích làm những việc
khiêm tốn đến độ đã được biệt danh là "thày chổi". Tại nhà dòng Đức
bà Mân Côi, Ngài vẫn tiếp tục nghề thuốc của mình với một đức ái nhẫn nại vô bờ,
như là một y tá của nhà dòng. Ngài kín múc sức mạnh trong kinh nguyện và khổ hạnh,
vừa dấu mình làm việc và lần hạt Mân côi, thức đêm để cầu nguyện rồi ngủ trên
cái cáng dùng khiêng xác chết.
Trong
dòng Ngài cũng vẫn tiếp tục lấy tình yêu để đáp lại những bất công. Một bệnh
nhân giận dữ với Martinô, nhưng Ngài đã êm ái nói với họ: - Anh giận dữ phải lẽ
lắm, nhưng cơn giận có thể gia tăng cơn bệnh của anh. Hãy dùng món ăn anh thích
này đi và tôi thoa bóp chân cho anh.
Ngài
không hề bất nhân, nhưng lại càng lo lắng săn sóc nhiều hơn cho những người tỏ
ra độc ác bất công như Ngài.
Martinô
đã từ chối không lãnh chức linh mục để có thể tiếp tục làm đày tớ mọi người. Để
thưởng lòng trong trắng, đức bác ái và sự khiêm tốn, Thiên Chúa đã ban cho Ngài
ơn chữa bệnh, nói tiên tri và làm nhiều phép lạ. Ngài qua đời trong hương thơm
thánh thiện năm 1639.
Cuộc
điều tra phong thánh cho Ngài đã sớm khởi sự từ năm 1657, nhưng mãi 200 năm
sau, năm 1837, Đức Giáo hoàng Grêgôriô XVI mới phong Ngài lên hàng chân phước
và 100 năm sau nữa, ngày 6 tháng 5 năm 1962, Đức giáo hoàng Gioan XXIII phong
Ngài lên bậc hiển thánh. Hương thơm thánh thiện của Ngài quả là không thể tan
loãng theo thời gian.
(daminhvn.net)
03
Tháng Mười Một
Con Chỉ Là Một Tên
Mọi Ðen
Hôm
nay Giáo Hội kính nhớ thánh Martinô Porres.
Nhắc
đến thánh nhân, người ta thường liên tưởng đến những ơn lạ lùng như xuất thần
ngất trí trong khi cầu nguyện, như hiện diện ở hai nơi cùng một lúc, hoặc như
có thể trò chuyện và điều khiển cả thú vật.
Vị
thánh có lòng bác ái cao độ này lại xuất thân từ một hoàn cảnh vô cùng bi đát
và đắng cay. Là con của một thiếu nữ da đen đã từng bị đem bán làm nô lệ vào một
nhà quý tộc người Tây Ban Nha, Martinô đã được vị linh mục Rửa Tội ghi trong sổ
bộ của giáo xứ là "con không cha". Quả thật, con không cha như nhà
không nóc. Martinô đa lớn lên trong cảnh thiếu vắng tình cha mãi cho đến năm 8
tuổi. Nhưng sau khi được chính thức thừa nhận không bao lâu, thì người cha lại
bỏ rơi gia đình. Một lần nữa, cậu bé Martinô lại rơi vào cảnh khốn khổ như đa số
các em bé nghèo của thành phố Lima, Pêru vào giữa thế kỷ thứ 16.
Nhưng
cảnh nghèo ấy đã không gieo vào lòng cậu bé mang hai dòng máu này chút đắng cay
nào. Trái lại, cậu tiếp nhận mọi biến cố xảy đến trong cuộc sống như một thách
đố, như một ân sủng.
Năm
12 tuổi, Martinô đã được học nghề hớt tóc và đôi chút xảo thuật của ngành giải
phẫu. Vừa hành nghề như một người thợ hớt tóc, vừa như một y tá, Martinô đã đem
hết sự hăng say và tận tụy của mình để phục vụ những người nghèo đồng cảnh ngộ.
Nhưng
nhận thấy chỉ có thể sống trọn Ðức Ái trong một tu viện, Martinô đã đến gõ cửa
một nhà dòng Ðaminh để xin được làm trợ sĩ trong nhà. Bí quyết nên thánh của
thầy Martinô là sám hối cầu nguyện và phục vụ, nhất là phục vụ trong những công
việc vô danh nhất. Lần kia, nhà dòng mang nợ đến độ không thể bảo đảm được các
nhu cầu của các tu sĩ, thầy Martinô đã đến thưa với Bề trên như sau: "Thưa
cha, con chỉ là tên mọi đen. Xin hãy bán con đi".
Sẵn
sàng hy sinh mạng sống của mình cho người khác, thầy Martinô cũng luôn nhận tất
cả phần lỗi về mình.
Ôn
lại gương hy sinh, cầu nguyện và bác ái của thánh Martinô, không những chúng ta
chỉ chạy đến xin ngài bầu cử trong những lúc gặp gian nan thử thách, nhưng quan
trọng hơn cả vẫn là lòng tin thác vào Chúa quan phòng của thánh nhân mà chúng
ta cần học hỏi, nhất là trong giai đoạn gặp khó khăn này.
Thiên
Chúa không bao giờ bỏ rơi con người. Ðó phải là niềm xác tín của chúng ta. Một
Thiên Chúa quan phòng là Ðấng có thể biến tất cả những đắng cay, buồn phiền, thất
bại, khổ đau trong cuộc sống con người thành khởi đầu của một nguồn ơn cao quí
hơn. Cũng như loài ong chỉ rút mật ngọt từ bao nhiêu vị đắng cay của cánh hoa,
cũng thế, người có niềm tin luôn có thể rút tỉa được những sức đẩy mới từ những
thất bại rủi ro trong cuộc sống. Thánh Martinô đã không hận đời đen bạc vì bị
người cha bỏ rơi, mà trái lại xem đó như một dịp may để cảm thông, để học hỏi
và để phục vụ người khác hữu hiệu hơn. "Hạt lúa rơi xuống đất có mục nát
đi mới trổ sinh được nhiều bông hạt". Ðó là định luật của cuộc sống. Thập
giá trong cuộc sống thường là khởi đầu và cơ may cho một vươn lên cao hơn.
Chúng
ta thường chạy đến khẩn cầu với thánh Martinô trong cơn hoạn nạn thử thách,
chúng ta cũng hãy noi gương ngài để phó thác cho Tình Yêu quan phòng của Chúa,
và nhất là xin Ngài cũng giúp chúng ta luôn biết lấy Tình Thương để thắng vượt
những ngược đãi của người đời, cũng luôn biết sẵn sàng phục vụ và phục vụ bằng
chính mạng sống của mình.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét