12/07/2015
Chúa Nhật 15 Quanh
Năm Năm B
(phần
I)
Bài
Ðọc I: Am 7, 12-15
"Hãy
đi nói tiên tri cho dân Ta".
Trích
sách Tiên tri Amos.
Trong
những ngày ấy, Amasia (vị tư tế ở Bêthel) nói cùng Amos rằng: "Hỡi tiên
tri, người hãy trốn sang đất Giuđa, sinh sống và nói tiên tri ở đó. Chớ tiếp tục
nói tiên tri ở Bêthel, vì đó là thánh điện của vua và là đền thờ của vương quốc".
Amos trả lời cùng Amasia rằng: "Tôi không phải là tiên tri, cũng không phải
là con của tiên tri, nhưng là đứa chăn bò (và chuyên) đi hái trái sung. Khi tôi
đang đi theo đàn chiên, thì Chúa dẫn tôi đi và nói cùng tôi rằng: "Ngươi
hãy đi nói tiên tri cho dân Israel của Ta".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 84, 9ab -10. 11-12. 13-14
Ðáp: Lạy Chúa, xin
tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con (c. 8).
Xướng:
1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ
phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa,
để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi. - Ðáp.
2)
Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau
âu yếm. Tự mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống.
- Ðáp.
3)
Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông
trái, đức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước
của Người. - Ðáp.
Bài
Ðọc II: Ep 1, 3-10 {hoặc 3-14}
"Ngài
đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Chúc
tụng Thiên Chúa là Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Ðấng đã chúc lành cho
chúng ta bằng mọi phúc lành thiêng liêng trên trời, trong Ðức Kitô. Như Ngài đã
chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta được nên
thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Ngài trong tình yêu thương.
Chiếu
theo thánh ý Ngài, Ngài đã tiền định cho ta được phúc làm con nhờ Ðức Giêsu
Kitô, để chúng ta ca tụng vinh quang ân sủng của Ngài mà Ngài đã ban cho chúng
ta được ơn cứu chuộc nhờ máu Người, được ơn tha tội theo sự phong phú của ân sủng
Ngài. Ân sủng này, Ngài đã đổ tràn đầy trên chúng ta với tất cả sự khôn ngoan
thượng trí, khiến chúng ta được biết mầu nhiệm ý định của Ngài, theo ý Ngài đã
định về Người, để kiện toàn trong thời gian viên mãn, là thâu hồi vạn vật trên
trời dưới đất trong Ðức Kitô.
{Cũng trong Người mà
chúng tôi được kêu gọi làm thừa tự, được tiền định theo ý định của Ngài là Ðấng
tác thành mọi sự theo thánh ý Ngài, để chúng tôi trở thành lời ca vinh quang của
Ngài, chúng tôi là những kẻ trông cậy vào Ðức Kitô. Trong Người, cả anh em nữa,
sau khi anh em đã nghe lời chân thật là Tin Mừng cứu rỗi anh em, anh em đã tin
và được ghi dấu Thánh Thần, như đã hứa. Người là bảo chứng phần gia nghiệp của
chúng ta, để chúng ta được ơn cứu chuộc, và được ca ngợi vinh quang Ngài.}
Ðó
là lời Chúa.
Alleluia:
Ga 1, 14 và 12b
Alleluia,
alleluia! - Ngôi Lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người,
thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mc 6, 7-13
"Người
bắt đầu sai các ông đi".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi
ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các
ông có quyền trên các thần ô uế. Và Người truyền các ông đi đường, đừng mang
gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng
chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: "Ðến đâu, các con vào nhà
nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe
lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ".
Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành
nhiều bệnh nhân.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Ðược Sai Ði Truyền Giáo
Những
bài Kinh Thánh vừa nghe đọc cho phép chúng ta gọi Chúa Nhật hôm nay là ơn gọi.
Chúng ta được nghe nói về ơn gọi của Amos, ơn gọi của các tông đồ, ơn gọi của hết
thảy Kitô hữu. Chúng ta đừng tưởng chỉ có bài thư Phaolô nói về ơn gọi Kitô hữu
mới trực tiếp liên hệ đến chúng ta. Hai bài Kinh Thánh kia, dễ hiểu hơn, cũng
muốn giáo huấn chúng ta trong các sứ mạng tiên tri, vương đế và tư tế của dân
Chúa. Chúng ta hãy lần lượt soi gương những người đã thi hành các sứ mạng này.
1.
Amos Trung Thành Với Sứ Mạng Tiên Tri
Ðể
hiểu bài sách tiên tri Amos trên đây, chúng ta cần nhớ: thời ấy có một cuộc
phân tranh ở trong dân Chúa. Mười chi họ phía Bắc làm thành nước Israel; hai
chi họ phía Nam thành nước Yuđa. Yêrusalem trở thành thủ phủ miền Nam; đang khi
Samaria dần dần trở nên thủ phủ miền Bắc. Ðể dân chúng của mình không đi lại lễ
bái nơi Ðền thờ Chúa ở Yêrusalem nữa, các vua Israel lập ra nơi thờ cúng ở
Bethel. Hàng tư tế ở đó được chiếu cố đặc biệt để lễ nghi trở nên huy hoàng và
sầm uất hầu lấn át và làm quên sinh hoạt tôn giáo ở Yêrusalem. Ðó là một thứ
chính trị nhằm đào sâu và củng cố việc chia cắt đất đai và đời sống của một dân
đã được Chúa chọn để chuẩn bị công việc tái lập sự hiệp thông mà tội lỗi đã phá
vỡ. Thiên Chúa không làm ngơ trước những mưu đồ như vậy.
Người
chọn Amos, một người ở gần Bêlem để đưa lên làm tiên tri ở phía Bắc. Ông trở
thành vị tiên tri văn sĩ đầu tiên; tức là trước ông chưa có tiên tri nào để lại
bút tích. Không phải chính ông đã viết nên tất cả cuốn sách hiện thời mang tên
ông. Ðúng ra nó là tác phẩm của môn đệ ông. Nhưng nó làm vọng lại lời giảng của
ông nhiều khi rất trực tiếp. Người ta xếp ông đứng đầu số các tiên tri nhỏ
không ngoài mục đích muốn nói rằng tác phẩm mang bút danh Amos đứng đầu các
sách tiên tri có nội dung ngắn sánh với các sách Tiên tri lớn là Isaia,
Yêrêmia, Ezekiel và Ðaniel.
Nguyên
sự hiện diện của Amos ở Israel đã là một vấn nạn lương tâm cho những người có
óc chia rẽ trục lợi. Nó nói lên chủ trương đoàn kết và hiệp nhất của giao ước cứu
độ. Hơn thế nữa, sứ điệp của Amos lại công kích các bất công xã hội, lên án các
lễ nghi tôn giáo lấy hào nhoáng che giấu tâm tư tội lỗi. Hàng tư tế và nhà cầm
quyền hợp lực với nhau để tống cổ Amos về nguyên quán. Ðoạn sách Phụng vụ đọc
cho chúng ta nghe hôm nay thuật lại cuộc đấu khẩu giữa tư tế Amacya và nhà tiên
tri. Nhân danh hàng đạo đức ở Bêthel và cậy vào quyền lực của nhà vua, Amacya
đuổi Amos trở về Yuđa. Ông tỏ ra chẳng hiểu tí gì về sứ mạng tiên tri. Ông coi
Amos như là một thầy bói hay một tiên tri làm nghề nói mò để kiếm tiền. Ông cấm
Amos không được tuyên sấm ở Bêthel nữa vì sứ điệp của ông không hợp với chính trị
của nhà vua. Nhưng Amos không chịu. Ông cãi lại. Ông nói rằng ông không phải là
người làm nghề tiên tri. Trước kia ông chẳng bao giờ nghĩ đến việc tuyên sấm.
Ông chăn chiên và trồng sung lấy trái cho chiên ăn. Nhưng một ngày kia, Thiên
Chúa đã gọi ông và truyền cho ông phải đi tuyên sấm... Ông yêu nhà Israel lắm
chứ, nhưng Chúa lại bảo phải cảnh cáo cho nó biết nó sẽ rơi vào tay quân thù và
con cái nó sẽ bị đem đi đày. Sứ điệp ấy là của Chúa. Ông vâng theo và sẽ vâng
theo mãi mãi.
Chúng
ta không cần hỏi thêm về kết cục của câu truyện. Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta
ý thức về sứ mạng tiên tri. Kẻ Người chọn không có khả năng tự nhiên. Chính Người
trao Lời của Người cho kẻ ấy. Nhà tiên tri đến nói thay cho Người; và như vậy
chỉ là phát ngôn viên của Người. Sứ điệp tiên tri có mục đích đưa người ta trở
về giao ước, nối lại sự hiệp thông mà tội lỗi đã phá hủy khi dựng nên những
tham vọng bất chính. Lời nói đạo đức ấy không vừa tai nhiều người. Bị xua đuổi,
bắt giữ, giết chết là số phận của hầu hết các tiên tri chân chính; đang khi những
kẻ tuyên sấm chiều theo sở thích của người đời lại thường được bảo hộ. Nhưng
như lời Phaolô nói sau này: tiên tri của Chúa có thể bị cầm giữ nhưng Lời Chúa
chẳng bao giờ xích lại. Môn đồ của Amos đã ghi lại lời sấm của ông. Sứ điệp này
được loan qua các thời đại và ảnh hưởng của nhà tiên tri luôn mạnh mẽ.
Nếu
chúng ta có một niềm tin như vậy đối với sứ mạng tiên tri nơi ơn gọi Kitô hữu!
Chúng ta sẽ thấy phải học hỏi và biết rõ sứ điệp Tin Mừng Cứu độ của Chúa hơn nữa.
Và chúng ta phải loan truyền bằng đời sống, lời nói những gì chúng ta đã nghe
biết về hạnh phúc con người. Chỉ có một điều đáng sợ là chính tiếng nói ích kỷ
của các dục vọng ở nơi chúng ta sẽ làm tắt Lời Chúa ghi trong tâm hồn, hay sẽ
làm cho Lời ấy trở nên vô hiệu và có thể đáng cười vì nếp sống không đi đôi với
lời tuyên sấm của chúng ta. Muốn tập trở thành những tiên tri đích thực của
Chúa, chúng ta hãy để mình được chính Người sai đi như các tông đồ trong bài
Tin Mừng hôm nay.
2.
Các Tông Ðồ Ðược Sai Ði Truyền Giáo
Thánh
Marcô cho chúng ta thấy Ðức Yêsu gọi 12 tông đồ lại. Người sai họ đi từng đôi một,
sau khi ban cho họ được quyền trên các uế thần. Chúng ta có thể coi đây là quyền
vương đế mà ơn gọi Kitô hữu nào cũng có. Và chúng ta thấy rõ ràng các tông đồ
đã thi hành quyền ấy khi các ông trừ quỷ và chữa bệnh. Vì có quyền cai trị nào
thế lực hơn khả năng xua đuổi được tà thần và chữa lành được các vết thương do
tội lỗi gây ra? Nói cách khác, sứ mạng vương đế mà chúng ta thường nghe nói đã
được ban cho các Kitô hữu trong bí tích Rửa tội, không phải là hình thức thống
trị nào kiểu trần gian, nhưng là khả năng tiêu diệt được quyền lực tối tăm của
ma quỷ hằng lôi cuốn và cầm giữ người ta trong vòng nô lệ tội lỗi. Người Kitô hữu
kết hợp với Ðức Kitô trong mầu nhiệm tử nạn phục sinh được tham dự vào sức mạnh
chiến thắng của Người. Họ có thể tựa vào ơn Người để sống tự do như con cái
Thiên Chúa, giống như Adong trước khi sa ngã "linh ư vạn vật".
Ngày
nay để thi hành sứ mạng vương đế ấy, Ðức Yêsu bảo các tông đồ phải có hành
trang nhẹ. Họ không được đem gì đi đàng; không bánh, không bị, không tiền. Ðược
cầm gậy, được mang hai áo. Ðến đâu, họ cứ vào nhà ai tiếp rước họ và ở đấy cho
đến lúc ra đi. Chỗ nào không đón tiếp thì họ hãy đi khỏi nơi ấy, rũ bụi chân để
làm chứng trước mặt chúng.
Thật
ra, thánh Marcô đã muốn thích nghi lệnh của Chúa vào thời đại của Người... Người
nói rằng các tông đồ được cầm gậy, mang dép, đang khi theo thánh Matthêu và
Luca, không được làm như vậy. Dù sao tính cách từ bỏ và khó nghèo tuyệt đối vẫn
được tôn trọng. Cho cầm gậy và mang dép chỉ để nói lên tính cách lên đường của
ơn gọi tông đồ.
Ơn
gọi này như đã nói nhằm kéo người ta ra khỏi quyền lực của Satan và tội lỗi để
cho phép họ được chia sẻ sứ mạng vương đế của Ðức Kitô khi Người chiến thắng tội
lỗi và tử thần. Mầu nhiệm đưa Người lên vinh quang làm "Chúa" là việc
tử nạn phục sinh mà Người đã thi hành trong tinh thần khó nghèo và từ bỏ tuyệt
đối. Chính vì thế mà Người đã chỉ thị cho các tông đồ khi đi mở rộng Nước Chúa
phải tỏ ra khó khăn và từ bỏ, để sức mạnh của Thiên Chúa phát huy và viên thành
trong sự yếu đuối và sự hư vô của con người.
Như
vậy sứ mạng vương đế của người Kitô hữu thật là độc đáo. Nó không phải là thống
trị đối với người khác hay cai trị đối với tạo vật, nhưng là tự chủ chiến thắng
dục vọng để vươn lên tới đời sống tự do của con cái Thiên Chúa. Bấy giờ tất cả
tạo vật cũng sẽ hân hoan như được đưa ra khỏi cơn đau sinh nở theo lời thánh
Phaolô đã nói. Và từ khắp nơi một bài ca tán tụng sẽ được dâng lên Thiên Chúa
khiến sứ mạng tư tế của người Kitô hữu cũng được hoàn thành. Về sứ mạng này,
chúng ta hãy nghe Lời Chúa trong bài thư hôm nay.
3.
Phụng Vụ Tạ Ơn
Ít
khi chúng ta gặp một đoạn văn như đoạn thư Êphêsô này. Thánh Tông đồ như hát một
hơi dài. Người để lòng mình thốt ra những tâm tình tạ ơn dào dạt. Phụng vụ
Dothái giáo đã có nhiều bản văn như vậy. Ở đây tác giả dùng lại mọi chủ đề quen
thuộc: tạ ơn Chúa đã tuyển chọn (4-5), đã cứu chuộc (6-7), đã tập hợp lại
(8-10), đã ban những gì đã hứa (11-12) và nhất là đã đổ ơn Thánh Thần xuống
(13-14). Cái mới nằm ở những câu nói về Ðức Yêsu Kitô và Ðấng Thiên Chúa đã tuyển
chọn để ban tất cả những ơn lành trên đây cho chúng ta, khiến mỗi khi nhắc đến
chúng ta phải không ngớt lời tạ ơn.
Với
bản kinh này, thánh Phaolô cho chúng ta thấy một kiểu mẫu để thi hành sứ mạng
tư tế của ơn gọi Kitô hữu. Nói đến tư tế, người ta nghĩ đến con người dâng lễ.
Và cụ thể hơn, người ta hình dung con người dâng lễ vật. Hơn nữa lễ vật cụ thể
là các tế vật như ở Yêrusalem thời Cựu Ước. Nhưng đó là những quan niệm chưa được
thanh lọc. Ðức Kitô đã đến khai mạc một phụng vụ tinh tuyền. Người đến tìm những
con người tôn thờ trong chân lý và tinh thần. Lễ dâng của Hội Thánh là thánh lễ
tạ ơn, trong đó nhắc nhở và tung hô mọi kỳ công mà Thiên Chúa đã làm trong lịch
sử. Ðặc biệt thánh lễ tái hiện mầu nhiệm Ðức Kitô để đem tất cả tạo vật được cứu
chuộc vào sự sống mới. Người tín hữu dâng lễ thấy tình thương Thiên Chúa mở rộng,
đón nhận mọi người con lạc bước trở về. Những người này không những được tha thứ
mà còn được trở nên giàu có nhờ ơn đa diện của Thánh Thần, để từ lòng họ không
bao giờ ngớt lời cảm mến và đôi tay họ sẽ đem về bao lễ dâng trên bàn thờ là
các việc lành phúc đức họ sẽ làm nhờ ơn Thánh Thể bồi dưỡng. Ngay cả các đau
thương ở đời cũng sẽ được họ dâng lên bởi vì thánh lễ đạo mới tập trung vào mầu
nhiệm thập giá của Ðức Kitô.
Như
vậy sứ mạng tư tế của người tín hữu không bao giờ hết. Họ dâng lễ cho mình và
cho mọi tạo vật. Họ đem tất cả vào nơi cơ thể của Ðức Kitô để ca tụng tình yêu
của Thiên Chúa đang thi hành kế hoạch cứu độ tình thương đối với mọi loài. Họ
chỉ làm được như vậy khi đã được giải thoát khỏi vây hãm của tội lỗi và
Satan... Sứ mạng tư tế phải tựa vào sứ mạng vương đế như điều kiện. Và chính sứ
mạng này lại phải nhờ sứ mạng tiên tri mà hiểu biết kế hoạch cứu độ của Thiên
Chúa để tham dự vào.
Chính
trong thánh lễ này chúng ta cũng thi hành cả ba sứ mạng đó. Lời Chúa nói với
chúng ta không những để biến chúng ta nên các tiên tri của Người trong thế giới
ngày nay; nhưng cũng kêu gọi chúng ta từ bỏ những gì còn liên quan đến tội lỗi
để trở thành con cái tự do của Thiên Chúa mà đồng trị với Ðức Kitô. Nhận biết
cương vị của mình như vậy, chúng ta sẽ hiệp dâng thánh lễ với Người để thi hành
sứ mạng tư tế... Và tất cả chỉ là khởi sự vì thánh lễ ban sự sống mới của mầu
nhiệm Ðức Kitô tử nạn phục sinh, không phải để chấm dứt nơi bàn thờ nhưng để
làm sinh động tất cả cuộc sống con người và giúp họ thi hành sứ mạng tiên tri,
vương đế và tư tế ở mọi nơi và trong mọi ngày.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ
Nhật 15 Thường Niên,
Năm B
Bài
đọc:
Amo 7:12-15; Eph 1:2-14; Mk 6:7-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ơn gọi của con người
qua Đức Kitô.
Con người thiển cận thường cho tất cả những gì mình có được là do sức cố gắng
và tài năng của mình; nhưng nếu họ chịu suy nghĩ và có cái nhìn bao quát hơn, họ
sẽ nhận ra tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa. Khi con người nhìn ra điều đó,
con người sẽ biết ơn Thiên Chúa, và sẽ cố gắng làm mọi cách để rao truyền tình
yêu của Thiên Chúa, để mọi người đều tin Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay giúp con người nhận ra tất cả những gì họ sở hữu đều là hồng
ân của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, khi bị Amaziah ngăn cản và không cho nói
tiên tri tại vương quốc Israel, Amos đã thẳng thắn trả lời: Ông không lựa chọn
để trở thành ngôn sứ; nhưng Thiên Chúa đã chọn và sai ông đi để nói những gì
Ngài muốn nói. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Ephesô nêu lên tất cả những hồng
ân mà Thiên Chúa đã ban cho con người qua Đức Giêsu Kitô. Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu lựa chọn Nhóm Mười Hai để huấn luyện, ban quyền, và sai các ông đi để rao
giảng Tin Mừng và chữa lành mọi vết thương hồn xác.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Thiên Chúa chọn lựa ông Amos và sai đi tuyên sấm.
1.1/
Phản ứng của Amaziah: Tiên-tri
Amos sinh ở Tekoa, một làng thuộc vương quốc Judah ở miền Nam; nhưng Thiên Chúa
lại sai ông đi thi hành sứ vụ tiên tri tại vương quốc Israel, miền Bắc. Ông sống
trong một giai đoạn rất khó khăn của lịch sử Israel (721 BC), vì dân chúng quay
lưng lại với Thiên Chúa, để chạy theo các thần ngoại bang; thêm vào đó, các vua
quan toa rập nhau để ức hiếp dân nghèo, và tiếng kêu cứu của họ đã vang lên tới
Thiên Chúa. Amos không sợ bất cứ một thế lực nào của vua quan, ông can đảm tố
cáo những điều họ đã xúc phạm tới Ngài, và tuyên sấm mất nước và lưu đày sẽ xảy
ra nếu họ không biết ăn năn trở lại. Đó là lý do tại sao Amaziah khinh thường
và xua đuổi ông Amos trong trình thuật hôm nay: "Này thầy ngôn sứ ơi, mau
chạy về đất Judah, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! Nhưng ở Bethel này, đừng
có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của
vương triều."
1.2/
Phản ứng của Amos: Ông
Amos trả lời ông Amaziah: "Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là
người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây
sung. Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã
truyền cho tôi: "Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta."" Hai điều
nổi bật Amos muốn đề cập tới ở đây:
(1) Ông được Thiên Chúa bắt đi khi ông đang làm việc, chứ chính ông không tình
nguyện để đi tuyên sấm.
(2) Ông không lợi dụng danh nghĩa ngôn sứ để kiếm lợi nhuận vật chất như
Amaziah buộc tội, vì ông đang có việc làm để sinh sống.
2/
Bài đọc II:
Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ.
2.1/
Nhận ra hồng ân của Thiên Chúa: Trong phần đầu của trình thuật hôm nay, thánh Phaolô
muốn các tín hữu Ephesô nhận ra tất cả những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho họ
qua Đức Kitô: "Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ
trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình
thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho
ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân
sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu." Đây là một đoạn văn chứa
nhiều tư tưởng mặc khải, chúng ta cần suy tư từng chi tiết để hiểu những gì
Thiên Chúa đã làm cho con người:
(1) Cho chúng ta có mặt trong cuộc đời: "Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta
trước cả khi tạo thành vũ trụ." Thánh Gioan nói rõ hơn: "Tất cả đều
nhờ Người mà được tạo thành; không có Người, chẳng có chi được tạo thành"
(Jn 1:3).
(2) Cho chúng ta biết Đức Kitô: Thiên Chúa quan phòng cho con người được gặp gỡ
Đức Kitô, cách trực tiếp khi Ngài xuống trần hay cách thiêng liêng qua việc rao
giảng Tin Mừng; không những thế, Ngài còn gởi Thánh Thần vào tâm hồn con người
để soi sáng cho con người hiểu những gì Đức Kitô nói và thúc đẩy con người tin
vào Đức Kitô. Thánh Phaolô xác quyết: "Không ai có thể tin Đức Kitô nếu
không do Thánh Thần của Thiên Chúa tác động" (I Cor 12:3).
(3) Cho chúng ta trở thành nghĩa tử nhờ niềm tin vào Đức Kitô: "Còn những
ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên
con Thiên Chúa" (Jn 1:12).
(4) Cho chúng ta nhận ra hồng ân và ngợi khen Thiên Chúa: "Để ta hằng ngợi
khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu."
(5) Cho chúng ta trở nên tinh tuyền thánh thiện: Với sự rửa sạch của Đức Kitô
và sự thánh hóa của Chúa Thánh Thần, con người có thể trở nên tinh tuyền thánh
thiện, xứng đáng là những nghĩa tử của Thiên Chúa, những môn đệ giống như Đức
Kitô.
(6) Cho chúng ta sạch khỏi mọi tội lỗi: "Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử
đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất
phong phú của Người."
(7) Cho chúng ta thấu hiểu sự khôn ngoan của Thiên Chúa: "Ân sủng này,
Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu." Nếu
con người chịu học hỏi Kinh Thánh, họ sẽ không thiếu bất kỳ sự khôn ngoan nào cần
thiết cho cuộc đời.
(8) Cho chúng ta thấu hiểu Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức
Kitô: "Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch
yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi
viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức
Kitô."
Hiểu như thế, tất cả những gì chúng ta có được, đều là hồng ân của Thiên Chúa.
Chúng ta không được kiêu hãnh coi những điều tốt lành chúng ta đang sở hữu là của
mình, nhưng phải biết sấp mình xuống và cám ơn tình yêu bao la Thiên Chúa đã
dành cho chúng ta.
2.2/
Ơn gọi làm ngôn sứ để rao giảng Tin Mừng: Sau khi đã nhận ra tình yêu Thiên Chúa, con người có
bổn phận loan truyền tình yêu này cho mọi người. Phaolô không những ý thức được
ơn gọi rao giảng Tin Mừng mà Đức Kitô đã trao cho ông, nhưng còn là của mọi tín
hữu.
(1) Của Phaolô: "Cũng trong Đức Kitô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự
theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp
riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng
vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người." Khi Phaolô đã thấu hiểu
những điều Thiên Chúa đã làm cho ông qua Đức Kitô, ông dùng cả cuộc đời để ngợi
khen Thiên Chúa. Ngay cả việc sai Phaolô đi để rao giảng Tin Mừng cũng bắt nguồn
từ Đức Kitô. Ngài sai ông đi để rao giảng Tin Mừng, làm cho mọi người hiểu biết
và tin vào Đức Kitô để nhận được những hông ân Thiên Chúa ban qua Đức Kitô.
(2) Của mọi tín hữu: "Trong Đức Kitô, cả anh em nữa anh em đã được nghe lời
chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Kitô, một khi đã tin, anh em
được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần
gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để
ngợi khen vinh quang Thiên Chúa." Các tín hữu sau khi đã chịu Phép Rửa
cũng có bổn phận phải ra đi rao giảng Tin Mừng, làm cho mọi người nhận biết và
tin vào Đức Kitô.
3/
Phúc Âm: Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai
người một.
3.1/
Chúa Giêsu sai các Tông-đồ đi rao giảng Tin Mừng: "Người gọi
Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông
quyền trừ quỷ. Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ
cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi
dép, nhưng không được mặc hai áo." Hai tư tưởng nổi bật trong đoạn văn
này:
(1) Chúa Giêsu gọi, dạy dỗ, ban quyền, và sai các tông-đồ đi rao giảng Tin Mừng,
chứ các ông không tình nguyện theo Ngài trước. Khi các môn đệ rao giảng, các
ông rao giảng Tin Mừng các ông đã nghe được nơi Đức Kitô, chứ không phải những
gì của các ông. Sức mạnh chữa lành và sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa, chứ
không phải đến từ các ông.
(2) Rao giảng Tin Mừng là bổn phận chính yếu các môn đệ phải thi hành, chứ
không phải là bất kỳ bổn phận nào khác. Để chu toàn bổn phận này, Chúa Giêsu biết
người môn đệ phải sống một cuộc đời đơn giản: càng ít lệ thuộc vào vật chất bao
nhiêu càng tốt; vì Ngài biết khi người môn đệ bắt đầu lệ thuộc quá nhiều vào vật
chất, người môn đệ sẽ xao lãng bổn phận rao giảng Tin Mừng
3.2/
Ơn gọi rao giảng Tin Mừng: Hai điều quan trọng các môn đệ cần biết khi rao giảng:
(1) Khán giả có thể tiếp nhận hay từ chối các sứ giả loan báo Tin Mừng: Chúa
Giêsu báo trước cho các môn đệ chuẩn bị điều này, khi Người dặn các ông:
"Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra
đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó,
hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ."
Con người được Thiên Chúa ban cho có tự do để nhận ra và tin vào sự thật, Ngài
không ép buộc con người phải tin những gì họ không muốn. Các môn đệ cũng thế, họ
không thể ép buộc khán giả tin những gì họ không muốn tin. Điều các môn đệ có
thể làm được là trình bày sự thật và những lợi ích do việc sống theo sự thật
mang lại, với hy vọng con người sẽ nhận ra và tin theo. Nếu họ từ chối không chấp
nhận sự thật, các môn đệ cũng đừng buồn, vì có nhiều lý do khiến con người từ
chối chấp nhận sự thật, như đã từng xảy ra với khán giả của Chúa Giêsu.
(2) Mục tiêu của việc rao giảng là "kêu gọi người ta ăn năn sám hối."
Khi người môn đệ rao giảng Tin Mừng, người môn đệ phải giúp khán giả nhận ra
tình yêu Thiên Chúa và những lầm lỗi của họ đã quay lưng lại với tình yêu này,
để họ ăn năn trở lại với tình thương Thiên Chúa; chứ không phải là lúc giải
trí, làm cho con người thư giãn sau những giờ phút làm ăn mệt nhọc, cũng không
phải là lúc để người môn đệ quảng cáo sự khôn ngoan hiểu rộng của mình.
Các quyền trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm, và chữa họ khỏi bệnh
là từ Đức Kitô ban cho các môn đệ để khán giả tin vào những lời các ông rao giảng.
Hiểu như thế, các việc này chỉ là phương tiện; chứ không bao giờ có thể thay thế
việc rao giảng Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tất cả những gì chúng ta đang có được là do bởi tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta
đừng bao giờ kiêu hãnh để khinh thường người khác; nhưng phải biết cảm tạ Thiên
Chúa, sống cuộc đời tốt lành thánh thiện, và biết loan truyền Tin Mừng đến mọi
người.
- Rao giảng Tin Mừng là bổn phận quan trọng hàng đầu Đức Kitô trao cho chúng ta
là những môn đệ của Ngài. Khi rao giảng Tin Mừng chúng ta loan báo những gì
Ngài dạy dỗ chúng ta, và làm sao để muôn dân tin yêu Ngài.
Lm. Anthony ĐINH
MINH TIÊN, OP.
12/07/15 CHÚA NHẬT TUẦN 15 TN – B
Mc 6,7-13
Mc 6,7-13
Suy niệm: Khi
sai các môn đệ lên đường vào sứ vụ, Đức Giê-su “chỉ thị các ông không được mang
gì đi đường, chỉ trừ cây gậy, không được mang lương thực, bao bị tiền giắt
lưng; được di dép, nhưng không được mặc hai áo”
(Mc 6, 8-9). Thế nhưng có một “hành trang” họ không thể thiếu, đó là một người
bạn đường: Ngài sai các ông đi từng hai người một.
Chúa Giê-su đặt các nhu cầu vật chất xuống hàng thứ yếu, và đưa sự hiện diện
của một người bạn đồng hành trên đường truyền giáo lên hàng ưu tiên. Ngài không
muốn họ đi một mình, mạnh ai nấy làm. Không! Ngài muốn các môn đệ của Ngài cộng
tác với nhau trong việc truyền giáo, cùng đồng hành, cùng sống bên nhau, chia
sẻ bàn bạc để nhận ra được điều Chúa muốn, nâng đỡ nhau về tinh thần, vật chất,
cùng nhau đương đầu với những rủi ro, những thất bại, những bất trắc. Các tông
đồ ngay từ đầu đã làm theo mệnh lệnh này của Chúa: các ông cùng đi với nhau
trong các chuyến đi truyền giáo.
Mời Bạn: Loan
báo Tin Mừng là sứ mệnh chung của toàn thể Hội thánh mà mỗi tín hữu phải dấn
thân với người khác và nhờ người khác. Phải loại trừ chủ trương tạo “thành tích cá nhân”
hay chuyên quyền độc đoán, thay vào đó là đối thoại, biết lắng nghe và mở rộng
vòng tay để có thêm nhiều người cùng tham gia vào sứ mệnh của Hội thánh.
Sống Lời Chúa: Khi
làm việc chung, bạn tập bàn hỏi, lắng nghe ý kiến anh em của các đoàn thể khác
trong giáo xứ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin gửi những người bạn đồng hành tâm phúc đến
các nhà truyền giáo đang gặp thử thách khó khăn, để các ngài đứng vững trước
mọi thử thách của đời truyền giáo.
NGÀI
GỌI VÀ SAI ÐI
Người tông đồ cần can đảm nói điều phải nói. Không làm nhẹ đi
những đòi buộc của Tin Mừng, không bóp méo Tin Mừng để tìm thành công cá nhân,
cũng không mỵ dân để vuốt ve dư luận.
Suy niệm:
Ðức Giêsu là người làm nên
Nhóm Mười Hai.
Sau một thời gian ở với Ngài
(x. Mc 3,14),
họ đã được Ngài sai đi rao
giảng.
Người được sai đi
phải là người có đời sống
gần gũi thiết thân với Chúa.
Ðức Giêsu sai họ lên đường.
Ngài trao cho các ông những
quyền năng Ngài có:
quyền rao giảng, quyền chữa
bệnh, quyền trừ quỷ.
Ðó là hành trang lên đường
của các ông.
Mọi hành trang khác chỉ là
phụ thuộc:
một chiếc áo đang mặc,
một cây gậy và đôi dép khi
đi đường.
Ðức Giêsu cấm các ông không
được mang theo
lương thực, bao bị, tiền
bạc...
Không lương thực đi đường
nên có thể bị đói.
Không bao bị nên không thể
để dành.
Không tiền bạc nên không thể
mua sắm.
Ngài muốn các ông hoàn toàn
nương tựa
vào lòng tốt của Thiên Chúa
và của con người.
Ra đi mà không có một chút
bảo đảm.
Các môn đệ đã đi từ nơi nọ
đến nơi kia,
lê gót qua các làng mạc và
thành phố.
Họ không đóng đô ở một nơi,
dù gặp thành công,
vì họ nhớ lời của Thầy:
“Chúng ta hãy đi nơi khác,
đến các làng xã chung quanh,
để Thầy còn rao giảng ở đó
nữa” (x. Mc 1,38)
Tính cơ động là đặc tính thiết
yếu của người tông đồ.
Sẵn sàng đến và cũng sẵn
sàng đi.
Các môn đệ loan báo về Nước
Thiên Chúa đang đến.
Ðó là một tin vui, nhưng đòi
con người hoán cải.
Hoán cải là điều chẳng ai
ưa.
Người tông đồ cần can đảm
nói điều phải nói.
Không làm nhẹ đi những đòi
buộc của Tin Mừng,
không bóp méo Tin Mừng để
tìm thành công cá nhân,
cũng không mỵ dân để vuốt ve
dư luận.
Người tông đồ phải chấp nhận
được tiếp đón
một cách nồng hậu hay lạnh
nhạt.
Họ chỉ là những người phục
vụ cho Tin Mừng.
Chúng ta cần cảm nghiệm niềm
vui của các môn đệ.
Những người đánh cá nay trở
thành nhà rao giảng.
Những người ít học, bình
dân, nay trừ quỷ và chữa bệnh.
Họ đem đến cho con người
niềm vui,
sự giải phóng toàn vẹn cả
hồn lẫn xác.
Hôm nay Ðức Giêsu vẫn sai ta
đến trong thế giới.
Ði từng hai người hay từng
nhóm để nâng đỡ nhau.
Chúng ta có thể mang theo
nhiều đồ trang bị hơn xưa,
nhưng không vì thế mà bỏ rơi
cậy dựa vào Chúa.
Thế giới hôm nay vẫn có
nhiều bệnh tật:
bệnh tuyệt vọng chán chường,
bệnh hoài nghi khép kín...
Ước gì chúng ta chữa lành
những nỗi đau hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả
năng bản thân
hay vào những phương tiện
trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm
đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm
được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về
một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ,
bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể
xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá
nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm
lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
Tháng 7
12
THÁNG BẢY
Không
Có Gì Giấu Ẩn Đối Với Thiên Chúa
Vâng,
con người là triều thiên của thế giới tạo vật hữu hình! Điều này mở ra cho
chúng ta một nhận thức hoàn toàn mới về mầu nhiệm quan phòng thần linh. Công Đồng
Vatican I đã nhấn mạnh đến giáo huấn đức tin này khi xác quyết rằng trong ánh
nhìn khôn ngoan và thượng trí của Thiên Chúa, tất cả đều phơi bày trần trụi – kể
cả những hành vi tự do của các tạo vật có lý trí, tức những hành vi đến từ một
sự chọn lựa có ý thức và một sự quyết định tự do.
Sự
quan phòng của Thiên Chúa – một cách đầy ân cần và yêu thương – đưa dẫn con người
tiến về mục tiêu của mình, đồng thời vẫn tôn trọng sự tự do của con người. Đó
chính là quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa Quan Phòng.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
CHÚA
NHẬT XV THƯỜNG NIÊN;
Am
7, 12-15; Ep 1, 3-14; Mc 6, 7-13.
LỜI
SUY NIỆM: “Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai
đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. Người chỉ thị cho
các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy, không được mang lương thực,
bao bị, tiền đồng để giắt lưng.” (Mc 6, 7-8)
Ngày hôm nay Chúa Giêsu cũng đang sai chúng ta ra đi, đến những nơi mà Chúa
đang muốn chúng ta phải đến trước dọn đường cho Ngài sẽ đến. Chúa muốn người
tông đồ khi dấn thân: sống phải hết sức đơn giản, hoàn toàn tin vào sự sắp đặt
của Ngài, chứ đừng quá lo lắng, về cơ sở vật chất, phải ăn gì, cư trú ở đâu và
sống ra sao? Trong thực tế các nhà truyền giáo Phương Tây trước đây, cũng như
các linh mục và tu sĩ của chúng ta đang ở những vùng sâu vùng xa đã cảm nghiệm
được điều này là tất cả đã được Chúa tiên liệu và sắp đặt để cho chúng ta sống
và hoạt động tốt.
Mạnh
Phương
12
Tháng Bảy
Những Niềm Vui Nhỏ
Biết
tận hưởng những niềm vui nhỏ trong cuộc sống: đó là một trong những bí quyết của
hạnh phúc.
Người
Nhật Bản thường kể câu chuyện như sau: Một người đàn ông nọ đi qua một cánh đồng,
thình lình bị cọp đuổi... Anh ta chạy bán sống bán chết mà vẫn không tìm ra chỗ
dung thân. Anh chạy mãi để rồi cuối cùng thấy mình đứng bên bờ vực thẳm. Phía
sau lưng, con cọp vẫn không buông tha. Không còn biết làm gì nữa, người đàn ông
phải lấy sức để đu lên một cành cây bắc qua vực thẳm. Nhìn xuống dưới thung
lũng, anh ta lại thấy một con cọp khác cũng đang nằm chờ chực. Người đàn ông
đáng thương chỉ còn niềm hy vọng duy nhất: đó là nằm chờ đợi cho đến khi hai
thú vật mệt mỏi bỏ đi... Chờ đợi trong lo sợ vẫn là cực hình lớn lao nhất đối với
con người.
Giữa
lúc anh ta đang phải chiến đấu với sợ hãi và mệt mỏi, thì tình cờ bỗng có hai
con chuột bỗng từ đâu xuất hiện trên chính cành cây anh đang đu vào. Hai con vật
bắt đầu gặm nhấm lớp vỏ xung quanh cành cây. Bình thường, chuột là một trong những
loài thú mà anh gớm ghiếc nhất vì sự dơ bẩn của nó. Tiếng kêu của nó cũng là một
âm thanh làm cho lỗ tai anh khó chịu. Thế nhưng, trong cơn sợ hãi tột cùng này,
người đàn ông bỗng nhìn thấy hai con chuột thật đáng yêu. Những hàm răng mũm
mĩm của chúng trông dễ thương làm sao! Tiếng kêu của hai con vật cũng trở thành
một âm thanh êm dịu hơn tiếng gầm thét của hai con cọp.
Giữa
lúc anh đang theo dõi từng động tác của hai con chuột, thì một con chim bỗng từ
đâu bay lại, thả rớt trên cành cây một trái dâu rừng. Anh đưa tay nhặt lấy trái
dâu và thưởng thức hương vị ngọt ngào của trái rừng bỗng nên thơ đáng yêu lạ
lùng.
Thiên
Chúa tạo dựng con người để được sống hạnh phúc và hạnh phúc ngay từ trên cõi đời
này. Do đó, hạnh phúc không chỉ đến trong cuộc sống mai hậu, hạnh phúc không hẳn
nằm ở ngoài tầm tay với con người. Kitô giáo không chỉ hướng chúng ta đến hạnh
phúc đời sau, nhưng còn mời gọi chúng ta hưởng niềm hạnh phúc ấy trong cõi đời
này.
Mang
lấy thân phận con người, nhập cuộc vào trần gian này, Chúa Giêsu như mang hạnh
phúc Thiên Ðàng đến với con người. Ngài mời gọi chúng ta hưởng niềm hạnh phúc ấy,
Ngài nói với chúng ta rằng cuộc sống trần gian này là một cuộc đời đáng sống.
Chấp nhận cuộc sống, chấp nhận chính bản thân, chấp nhận ngay cả những nghịch cảnh
trong cuộc sống: đó chính là bí quyết của hạnh phúc trên đời này.
Bí
quyết của hạnh phúc cũng chính là biết đón nhận những niềm vui nhỏ trong cuộc sống
mỗi ngày. Có những ngày tù đày, chúng ta mới thấy được giá trị của hai chữ tự
do. Có sống xa gia đình, chúng ta mới nhung nhớ những ngày sống bên những người
thân. Có những lúc nằm quằn quại trên giường bệnh, chúng ta mới thấy được giá
trị của sức khỏe... Cuộc sống của chúng ta tràn ngập những niềm vui nhỏ mà chỉ
khi nào mất đi, chúng ta mới cảm thấy luyến tiếc.
"Hãy
quẳng gánh lo đi và vui sống": đó là lời kêu gọi Chúa Giêsu không ngừng nhắn
gửi cho chúng ta khi Ngài mời gọi chúng ta chiêm ngắm hoa huệ ngoài đồng và
chim chóc trên rừng... Hãy quẳng gánh lo đi và vui sống có nghĩa là đón nhận từng
phút giây trong cuộc sống với cảm mến và hân hoan. Hãy quẳng gánh lo đi và vui
sống cũng có nghĩa là biết nhìn thấy xuyên qua những mất mát, thua thiệt, và
ngay cả tội lỗi, bàn tay quan phòng nâng đỡ của Chúa... Chúa Giêsu không bao giờ
loan báo cái chết một cách riêng rẽ, Ngài luôn gắn liền nó với sự Phục Sinh.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét