25/09/2015
Thứ Sáu sau Chúa Nhật
25 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm I) Kg 2, 1b-10
"Còn
một ít lâu nữa, Ta sẽ làm cho đền thờ này đầy vinh quang".
Trích
sách Tiên tri Khác-gai.
Năm
thứ hai triều đại vua Ðariô, đến ngày hai mươi mốt tháng bảy, có lời Chúa dùng tiên
tri Khác-gai mà phán rằng: "Ngươi hãy nói với Giorôbabel, con trai tướng
lãnh Giuđa, là Saluthiel, nói với Giosua, con trai thượng tế Giosêđec, và với
những kẻ sống sót lại trong dân rằng: "Ai trong các ngươi là kẻ sống sót lại
đã nhìn thấy vinh quang thuở xưa của đền thờ này: và giờ đây các ngươi xem thấy
nó thế nào? Chớ thì nó chẳng là không trước mắt các ngươi sao? Và Chúa lại
phán: Hỡi Giorôbabel, giờ đây hãy can đảm. Hỡi Giosua, con trai thượng tế
Giosêđêc, hãy can đảm; và toàn dân trên lãnh thổ, hãy can đảm, đây Chúa các đạo
binh phán: Các ngươi hãy khởi công, vì Ta ở cùng các ngươi, Chúa các đạo binh
phán như vậy. Có lời Ta đã giao ước với các ngươi, khi các ngươi ra khỏi đất
Ai-cập, là thần linh Ta sẽ ở giữa các ngươi, nên các ngươi đừng sợ".
Vì
Chúa các đạo binh phán như thế này: "Còn ít lâu nữa, Ta sẽ khiến trời đất,
biển khơi và đất cạn chuyển động. Ta cũng sẽ khiến mọi dân tộc chuyển động; và
Ðấng mọi dân tộc trông đợi sẽ đến: Ta sẽ làm cho đền thờ đầy vinh quang, Chúa
các đạo binh phán như vậy. Vàng bạc đều là của Ta, Chúa các đạo binh phán như vậy.
Vinh quang đền thờ sau hết này sẽ cao trọng hơn vinh quang đền thờ trước, Chúa
các đạo binh phán như vậy: trong nơi này, Ta sẽ ban hoà bình, Chúa các đạo binh
phán như vậy".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 42, 1. 2. 3. 4
Ðáp: Hãy cậy trông
Ðức Chúa Trời, vì con còn ca tụng Chúa, Ðấng cứu thể diện và là Thiên Chúa của
con (c. 5bc).
Xướng:
1) Xin Chúa minh xét cho con, ôi Thiên Chúa, xin bênh vực quyền lợi con đối nghịch
với dân vô đạo, xin cứu con khỏi tay người độc ác, điêu gian! - Ðáp.
2)
Vì lạy Chúa, Chúa là sức mạnh con, cớ chi Chúa bỏ con? Cớ chi con phải sống ngậm
ngùi vì bị quân thù áp bức? - Ðáp.
3)
Xin chiếu giãi quang minh và chân thật của Chúa, để những điều đó hướng dẫn
con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. - Ðáp.
4)
Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ
mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Thiên Chúa, Thiên Chúa của
con. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 94, 8ab
Alleluia,
alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. -
Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 9, 18-22
"Thầy
là Ðấng Kitô của Thiên Chúa. Con Người phải chịu nhiều đau khổ".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Việc
xảy ra là khi Chúa Giêsu cầu nguyện riêng một nơi, và có các môn đệ ở với Người,
thì Người hỏi các ông rằng: "Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?" Các
ông thưa rằng: "Người thì bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ khác lại cho là Êlia,
còn người khác thì cho là một trong các tiên tri thời xưa, đã sống lại".
Người lại hỏi các ông rằng: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?"
Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa". Và Người
ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai mà rằng: "Con Người phải chịu
nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết,
nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Thầy
Là Ðức Kitô
Trong
số các trò chơi để trắc nghiệm mức hiểu biết của các em, có trò chơi đưa hình một
danh nhân cho các em xem, sau đó yêu cầu các em nói thật vắn tắt và chính xác về
nhân vật ấy. Em nào trả lời đúng sẽ được thưởng. Chúa Giêsu đã có lần áp dụng
phương thức này với các môn đệ, chỉ khác ở chỗ nhân vật được đưa ra không ai xa
lạ hơn là chính Ngài. Ðã có những câu trả lời được đưa ra, nhưng chỉ có câu trả
lời của Phêrô là đúng, như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay.
Chúa
Giêsu vốn là một vấn đề khó hiểu đối với nhiều người. Những giả thuyết về Ngài
đều từ từ bị chứng minh là sai. Có người bảo Ngài là Gioan Tẩy giả, nhưng trong
cách sống và giáo lý của Ngài, có nhiều điểm khác với Gioan Tẩy giả; có kẻ bảo
Ngài là Êlia hay một ngôn sứ nào đó, nhưng ở đây cũng vậy, giáo lý và thái độ của
Chúa Giêsu có nhiều điểm vượt quá và cắt đứt với giáo lý và thái độ của bất cứ
ngôn sứ nào trong Cựu Ước. Dù đồng hóa Chúa Giêsu với Gioan Tẩy giả, với Êlia
hay với một ngôn sứ nào đó, tất cả đều giống nhau ở chỗ chưa có câu trả lời nào
nhận ra Chúa Giêsu là nhân vật chính, còn các vị kia chỉ là người loan báo và
chuẩn bị.
Chúa
Giêsu đã bị dư luận quần chúng coi là một trong các vị tiền hô cuối cùng, cho đến
khi Phêrô đưa ra câu trả lời chính xác: "Thầy là Ðức Kitô Con Thiên
Chúa". Phêrô đã nhìn thấy nơi Chúa Giêsu chính nhân vật mà muôn dân mong đợi.
Ngài là Ðức Kitô, có nghĩa là Ðấng hội tụ mọi hy vọng và chờ mong của con người,
là Ðấng quyết định vận mệnh của dân tộc và cá nhân, là Ðấng nắm giữ và đưa lịch
sử đến hồi kết thúc. Ðức Kitô có đủ mọi tư cách đó, bởi vì Ngài là Ðấng được
Thiên Chúa sai đến, Ngài là Con Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu linh cảm thấy
lời tuyên xưng của Phêrô có thể bị giải thích sai lạc, nếu được tung ra cho mọi
người biết; chính vì thế chẳng những Ngài cấm ngặt các ông không được nói điều ấy
với ai, mà kể từ đó Ngài còn đích thân nói rõ về tư cách Kitô của Ngài.
Xin
Chúa cho chúng ta biết lặp đi lặp lại mỗi ngày lời tuyên xưng của thánh Phêrô:
"Thầy là Ðức Kitô Con Thiên Chúa" để chúng ta vững bước trên con đường
theo Chúa và làm chứng cho Chúa.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 25 TN1
Bài đọc: Hag 2:1-9; Lk 9:18-22
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Xây dựng kết quả
lâu dài hơn là những chấp vá tạm thời.
Khi
phải đương đầu với những thách đố của cuộc sống, nhiều người thích những giải
quyết dễ dãi, nhanh chóng, và tạm thời; nhưng những giải quyết như thế không
đem lại cho con người những kết quả tốt đẹp và lâu bền. Rốt cuộc, họ lại phải bắt
đầu lại từ đầu. Ví dụ, việc học sinh ngữ: thay vì phải bắt đầu với việc học văn
phạm và nhớ từ ngữ, nhiều người lại bắt đầu ngay với việc nhớ các câu thông dụng.
Vì thế, khi phải nói những "câu có sẵn," họ trả lời được; nhưng khi
phải làm câu mới, họ không biết phải xếp đặt làm sao! Để đạt được kết quả lâu bền,
con người cần tìm ra căn nguyên thật sự của vấn đề, và kiên nhẫn tìm cách thức
thích hợp để giải quyết, cho dù phải tốn nhiều thời gian và phải chấp nhận gian
khổ.
Các
Bài Đọc hôm nay đưa ra hai ví dụ để giúp con người biết giải quyết tận gốc vấn
đề. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Haggai khuyên tất cả những người có trách nhiệm
và dân chúng chú trọng đặc biệt đến việc xây dựng Đền Thờ, hơn là cố gắng ổn định
đời sống; vì Đền Thờ là nơi Thiên Chúa ở với con người để dạy dỗ và ban ơn. Việc
xây dựng Đền Thờ sau Thời Lưu Đày chắc chắn sẽ gặp khó khăn, nhưng họ phải cố gắng
khắc phục hoàn cảnh, vì Đền Thờ sẽ mang lại nhiều lợi ích đến cho con cái
Israel. Trong Phúc Âm, sau khi Phêrô tuyên xưng căn tính của Chúa Giêsu, Ngài
báo trước Cuộc Thương Khó lần thứ nhất để các tông-đồ chuẩn bị đương đầu với
đau khổ khi nó xảy đến; đồng thời, Ngài cũng báo trước Ngài sẽ sống lại vinh
quang sau ba ngày trong huyệt mộ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Diễn từ thứ hai của tiên-tri Haggai
1.1/
Tiên-tri Haggai đốc thúc dân xây cất Đền Thờ Thiên Chúa.
(1)
Lý do Đền Thờ bị phá hủy: Đền Thờ Jerusalem do vua Solomon xây dựng bị phá hủy
là vì con cái Israel đã bỏ Thiên Chúa để chạy theo các thần ngoại và đối xử bất
công với đồng loại của mình. Sau hơn 50 năm lưu đày, giờ đây họ được hồi hương
trở về để tái thiết xứ sở. Phản ứng đầu tiên của dân chúng là chỉ biết nghĩ đến
cá nhân và gia đình của họ; để tìm cách ổn định đời sống cách nhanh chóng hết sức
có thể. Tiên-tri Haggai không suy nghĩ như dân chúng. Ông biết căn nguyên của vấn
đề là phải sống đúng mối liên hệ với Thiên Chúa và với tha nhân. Việc xây dựng
Đền Thờ cần thiết để qui tụ và dạy dỗ dân chúng; nếu không, họ sẽ mạnh ai nấy sống,
và việc phải lưu đày lần nữa chắc chắn sẽ xảy ra.
(2)
Phải biết nhìn lại quá khứ và suy xét: Tiên-tri Haggai mời gọi dân chúng nhìn lại
Đền Thờ quá khứ: "Ai trong các ngươi trong số người còn sót lại đã từng được
chứng kiến cảnh rực rỡ vinh quang của Đền Thờ ban sơ? Và bây giờ các ngươi thấy
Đền Thờ như thế nào? Trước mắt các ngươi, nó chẳng còn là gì nữa đó sao?"
Dĩ nhiên, Haggai không chỉ giới hạn việc xây dựng Đền Thờ bên ngoài; nhưng còn
chú trọng đến việc xây dựng đền thờ trong tâm hồn, là biết sống đúng mối liên hệ
với Thiên Chúa, và với anh chị em đồng loại.
1.2/
Vinh quang có được sau này là hậu quả của cố gắng khắc phục khó khăn bây giờ.
(1)
Phải can đảm khắc phục hoàn cảnh khó khăn: Con cái Israel phải đương đầu với rất
nhiều khó khăn khi hồi hương: công ăn, việc làm, nhà ở, chính quyền địa phương,
kẻ thù chung quanh... Haggai biết tất cả những điều đó; nhưng ông nhìn thấy những
lợi ích của Đền Thờ: sự hiện diện của Thiên Chúa, lòng đạo đức của dân chúng,
và sự an toàn quốc gia. Vì thế, ông khuyên tất cả phải khắc phục khó khăn, để dốc
toàn lực vào việc xây dựng Đền Thờ trước hết, các sự khác không quan trọng bằng
Đền Thờ, và Thiên Chúa sẽ chúc lành cho họ sau. Ông nói: "Vậy bây giờ, hỡi
Zerubbabel, hãy mạnh bạo lên! Này thượng tế Joshua, con ông Jehozadak, mạnh bạo
lên nào! Toàn dân trong xứ hãy mạnh bạo lên! Sấm ngôn của Đức Chúa. Hãy bắt tay
vào việc, vì chính Ta ở với các ngươi. Sấm ngôn của Đức Chúa các đạo
binh."
(2)
Vinh quang sẽ xảy đến trong tương lai: "Quả thật, Đức Chúa các đạo binh
phán thế này: Chỉ còn một thời gian ngắn nữa thôi, Ta sẽ làm rung chuyển trời đất,
biển khơi và đất liền. Ta sẽ làm cho tất cả các dân tộc phải chấn động và các
kho tàng của các dân tộc sẽ đổ về, rồi Ta sẽ làm cho Đền Thờ này rực rỡ vinh
quang. Đức Chúa các đạo binh phán. Bạc là của Ta, vàng là của Ta."
Lời
sấm này không chú trọng đến của cải vật chất cho bằng tài sản tinh thần. Hai điều
quan trọng và có liên quan Haggai muốn chú trọng ở đây là (1) Đấng Thiên Sai sẽ
đến; và (2) Niềm tin vào Thiên Chúa của các dân tộc trên địa cầu. Niềm tin vào
Thiên Chúa không chỉ còn giới hạn trong vòng con cái Israel; nhưng sẽ được mở rộng
đến tất cả các quốc gia trên địa cầu, và Đền Thờ Jerusalem sẽ là trung tâm cho
các dân tộc hướng về (Isaiah).
2/
Phúc Âm:
Con Người phải chịu đau khổ nhiều... và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy.
2.1/
Cần nhận ra căn tính của Đấng Thiên Sai: Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ
cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: "Dân chúng nói Thầy là
ai?"
(1)
Dân chúng không nhận ra căn tính của Chúa Giêsu: Có người cho Chúa Giêsu là
-
Gioan Tẩy Giả, như tiểu vương Herode: vì Chúa dám nói thật và thẳng tay sửa
sai.
-
Có kẻ khác bảo là ông Elijah: vì lời Chúa có uy lực và Ngài làm nhiều phép lạ.
-
Kẻ khác nữa lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại.
(2)
Ông Phêrô tuyên xưng căn tính của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu đặt câu hỏi cho các
môn đệ: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô thưa: "Thầy
là Đấng Kitô của Thiên Chúa."
Mối
liên hệ giữa con người với Thiên Chúa, hay mối liên hệ giữa người môn đệ với Đức
Kitô là một mối liên hệ cá nhân. Người khác có thể nói cho chúng ta biết về
Thiên Chúa. Họ có thể chỉ đường và tạo cơ hội cho chúng ta đến gặp gỡ Thiên
Chúa; nhưng để sống mối liên hệ với Ngài, chúng ta cần bỏ thời gian để học hỏi,
cầu nguyện, và sống mối liên hệ với Ngài.
2.2/
Cần nhận ra con đường cứu độ của Đấng Thiên Sai: Truyền thống Do-thái đang mong
một Đấng Thiên Sai sẽ dùng uy quyền và sức mạnh để dẹp tan quân thù, lên ngôi
cai trị, và phục hồi danh dự và uy quyền cho con cái Israel. Điều này không phải
là ý muốn của Thiên Chúa. Ngài muốn Đấng Thiên Sai phải chấp nhận gian khổ và
cái chết để cứu chuộc con người khỏi tội, và cho con người được sống muôn đời.
(1)
Con người sẽ phải chịu đau khổ và bị giết chết: Chúa Giêsu báo trước Cuộc
Thương Khó lần thứ nhất: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục,
thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy."
(2)
Con Người sẽ sống lại hiển vinh ngày thứ ba: Đau khổ của Chúa Giêsu chỉ tạm thời;
nhưng Ngài sẽ phục sinh vinh hiển vào ngày thứ ba.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta cần đương đầu với sự thật của mọi vấn đề, với căn nguyên của chiến
tranh và đau khổ; trước khi có thể giải quyết vấn đề, và xây dựng một cuộc đời
tốt đẹp hơn.
-
Để đạt được thắng lợi vinh quang, chúng ta cần có can đảm để chấp nhận đau khổ
tạm thời. Nếu không chấp nhận đau khổ, làm sao có vinh quang?
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
25/09/15 THỨ SÁU TUẦN 25 TN
Lc 9,18-22
“ANH EM BẢO THẦY LÀ AI?”
Đức Giê-su hỏi các môn đệ rằng: “Dân chúng nói
Thầy là ai ?”…. Người lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”… (Lc 9,18.20)
Suy niệm: Trải qua
các thời đại cho đến ngày hôm nay, lời giảng dạy và hành động và cả chính con
người của Chúa Giê-su đã khiến cho người ta không ngừng thắc mắc: Ngài là ai?
Chúa Giê-su không cần các môn đệ nói mới biết ý kiến của người đương thời về
Ngài. Điều cần thiết hơn cả là Ngài muốn các môn đệ nói lên chính họ nhìn nhận
Ngài là ai. Ngài không muốn các môn đệ nhìn Ngài như người ta nghĩ, người ta
tưởng về Ngài, mà trái lại Ngài muốn họ có một hiểu biết đúng Ngài là ai: “là
Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” và nhất là muốn họ có thái độ dấn
thân quả quyết, dứt khoát để đi theo làm môn đệ của Ngài.
Mời
Bạn tự vấn
nhận thức và thái độ của mình đối với Đức Ki-tô: “Giờ này, đối với tôi,
Đức Ki-tô là ai rồi?... Ngài còn là Ngài hay thôi?” Tôi đã thực sự
biết Ngài và sống thiết nghĩa với Ngài như với Đấng là Thiên Chúa và là Chủ đời
tôi? Hay tôi vẫn nhìn Ngài theo cảm nhận chủ quan, theo dư luận, quan điểm của
thế gian?
Sống
Lời Chúa: Mỗi khi đọc Lời Chúa và lãnh nhận Thánh Thể, bạn
dành thời gian tâm sự thân tình với Chúa Ki-tô để bạn thực sự được gặp gỡ Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa
Giê-su, không ai có thể làm thay con, nhưng con phải tự mình khám phá khuôn mặt
Chúa trong suốt cuộc đời con. Xin ban cho con đôi mắt trong sáng để nhận ra
Chúa mọi nơi mọi lúc; và đôi tai mở rộng để lắng nghe tiếng Chúa gọi mời. Xin
giúp con sống điều Chúa dạy, để người khác cũng nhận ra khuôn mặt đáng yêu của
Chúa nơi chính cuộc đời con.
Anh em bảo Thầy là ai?
Trả lời câu hỏi của Thầy Giêsu không hẳn đã là điều
quan trọng. Điều quan trọng là sống câu trả lời của mình. Đời tôi là một chuỗi
những câu trả lời cho câu hỏi đó.
Suy niệm:
Trong
Tin Mừng Luca, Đức Giêsu đã đi cầu nguyện một mình,
trước
khi đặt những câu hỏi quan trọng cho các môn đệ.
“Dân
chúng nói Thầy là ai ?” (c. 18).
Ngài
muốn biết dư luận nghĩ gì về mình.
Nói
chung họ nghĩ Ngài là một ngôn sứ đầy quyền năng (x. Lc 24, 19).
Điều
đó đúng nhưng không đủ.
Đức
Giêsu mong nghe ý kiến của những người đã ở gần Ngài hơn.
“Còn
anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (c. 20).
Phêrô
đại diện anh em trả lời: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.”
Câu
trả lời này đúng hơn và đủ hơn,
nhưng
cũng dễ gây hiểu lầm và chưa đến lúc cần công bố.
Chính
vì thế Đức Giêsu đã cấm các môn đệ không được tiết lộ (c. 21).
Phêrô
đã trả lời đúng, vì Thầy Giêsu quả là Đấng Kitô
hay
còn gọi là Đấng Mêsia mà dân Do Thái mong đợi từ bao đời.
Nhưng
Phêrô có thể hiểu sai khuôn mặt của Đấng Mêsia đó.
Mêsia
Giêsu không phải là người sẽ giải phóng Ítraen khỏi ách Rôma,
cũng
không phải là người muốn nắm quyền lực trần thế.
Nhưng
Ngài sẽ phải chịu khổ hình và bị giết chết bởi giới lãnh đạo (c. 22).
Mêsia
Giêsu mang khuôn mặt đau khổ của Người Tôi Trung.
Phêrô
đã đi theo Mêsia nào?
Nếu
ông biết số phận bi đát đang chờ đợi Thầy của ông,
ông
có còn muốn theo Ngài nữa không?
“Còn
con, con bảo Thầy là ai?”
Đức
Giêsu cũng hỏi từng người chúng ta như vậy, nhiều lần trong đời.
Tôi
phải trả lời, vì tôi không nên đi theo Đấng mà tôi không biết là ai.
Tôi
nghe câu hỏi trên ở mọi chặng đường của cuộc sống,
và
có thể đưa ra những câu trả lời khác nhau, dựa trên kinh nghiệm,
bởi
lẽ Đức Giêsu là một Mầu nhiệm không ngừng mở ra cho tôi.
Qua
từng biến cố trong đời, tôi lại khám phá ra những nét mới nơi Ngài.
Ngài
vẫn là một, nhưng mang nhiều dáng dấp khác nhau khi đến với tôi,
để
đáp lại những khát vọng sâu thẳm nơi trái tim.
Nhưng
trả lời câu hỏi của Thầy Giêsu không hẳn đã là điều quan trọng.
Điều
quan trọng là sống câu trả lời của mình.
Đời
tôi là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi đó.
Nếu
tôi coi Ngài là Thầy, xin được ngồi nghe và để Thầy uốn nắn.
Nếu
tôi coi Ngài như Bạn, xin được dành giờ để tâm sự, sẻ chia.
Nếu
tôi tin Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người,
xin
được cúi đầu thờ lạy trước tình yêu khiêm hạ.
Nếu
tôi gọi Ngài là Chúa, xin được hiến trọn đời mình
để
cùng Ngài phục vụ cho kế hoạch cứu độ của Cha.
Nếu
tôi gọi Ngài là Đấng Giải Phóng, xin Ngài cho tôi được tự do,
và
cho tôi được cộng tác với Ngài giúp thế gian ra khỏi vòng nô lệ.
Cuối
cùng, nếu tôi biết rõ Ngài yêu tôi cách độc nhất,
xin
để cho đời mình đáp lại tình yêu.
Cầu nguyện:
Xin hãy dẫn dắt con
đi
từ cõi chết đến sự sống,
từ
lầm lạc đến chân lý.
Xin hãy dẫn dắt con
đi
từ thất vọng đến hy vọng,
từ
sợ hãi đến tín thác.
Xin hãy dẫn dắt con
đi
từ ghen ghét đến yêu thương,
từ
chiến tranh đến hòa bình.
Xin hãy đổ đầy bình an
trong
trái tim chúng con,
trong
thế giới chúng con,
trong
vũ trụ chúng con.
(Mẹ
Têrêxa Calcutta)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
25
THÁNG CHÍN
Tiếng
Gọi Làm Môn Đệ Chúa
Chúng
ta đã tìm hiểu những chân lý mà Giáo Hội tuyên xưng và rao giảng. Những chân lý
này thiết lập nên nền tảng của Giao Ước Mới với Thiên Chúa trong Đức Giêsu
Kitô.
Chúng
ta đã nắm hiểu mục đích của việc giáo dục Kitô giáo. Ngay từ những năm đầu đời
của chúng ta tại gia đình và giáo xứ, chúng ta đã nghe lời mời gọi trở thành
môn đệ Đức Giêsu Kitô. Đây là mục tiêu của lời cầu nguyện chúng ta. Lời cầu
nguyện của chúng ta cùng với gia đình và cộng đoàn xứ đạo của mình đã đưa chúng
ta đến gần hơn bao giờ hết mầu nhiệm về sự hiện diện của Đức Kitô.
Đó
là mục tiêu của việc giáo dục Kitô giáo. Nhờ Phép Rửa, chúng ta trở thành con
cái của Thiên Chúa. Giờ đây chúng ta lại trở nên những môn đệ của Đức Giêsu
Kitô.
Các
con, và cả Cha nữa, chúng ta phải cảm tạ Thiên Chúa về cha mẹ và về các cha xứ
của chúng ta. Chúng ta phải cảm tạ Thiên Chúa về tất cả những ai đã giúp chúng
ta nhận hiểu chân lý được Thiên Chúa mạc khải qua Đức Giêsu Kitô và được Hội
Thánh truyền giảng.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY
25-9
Kg
1, 15b-2,9; Lc 9, 18-22.
LỜI
SUY NIỆM: Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở
đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: “Dân chúng nói Thầy là ai?”
Sau
khi Nhóm Mười Hai được sai đi rao giảng về Nước Thiên Chúa và chữa lành mọi bệnh
tật cho dân chúng trở về. Chúa Giêsu hỏi các ông có nghe dân chúng nói về Người
như thế nào không. Các ông đã thành thật nói lên những dư luận của dân nói về
Người: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ bảo là ông Êlia, kẻ khác
lại bảo là một ngôn sứ thời xưa sống lại”. Như thế là tất cả chưa ai nhận ra
Người là Đấng Thiên Sai, Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa. Nên Người đã hỏi các
ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Trước sự im lặng của các ông, chỉ môt
mình Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”, Và Người đã an tâm để
loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người.
Lạy
Chúa Giêsu. Nhờ có Hội Thánh Chúa; nhờ những Tông Đồ nối tiếp nhau loan báo Tin
Mừng và những chứng nhân Tử vì Đạo, chúng con tin nhận Chúa là Thiên Chúa của
chúng con. Chúa là Đấng cứu độ chúng con. Xin cho mọi thành viên trong gia đình
chúng con luôn sống đức tin, để được cứu rỗi.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
NGÀY
25-09 THÁNH GIUSE CALASANZ - LINH MỤC (1557 - 1648)
Thánh
Giuse Calasanz sinh năm 1557 tại Peralta de la Sal miền Aragonia. Cha mẹ Ngài
là những một giàu có trong miền, nhưng đã dày công dạy cho con biết yêu Chúa
thiết tha, ham thích cầu nguyện và gớm ghét tội lỗi. Chính Giuse ngay từ niên
thiếu đã tỏ dấu có lòng bác ác đặc biệt với trẻ nhỏ và ưu tư giáo dục chúng.
Ngài thường tụ họp các bạn trẻ lại để dạy cho chúng biết các mầu nhiệm đức tin
và biết cách cầu nguyện.
Lớn
lên, Giuse được gởi học văn phạm và các môn cổ điển tại Estadilla. 15 tuổi Ngài
đã hoàn tất chương trình trung học. Cha mẹ Ngài đặt rất nhiều hy vọng vào tương
lai của con. Giuse lại mong chờ một sứ mệnh cao cả hơn. Ngài xin theo học một
chương trình sống rất nghiêm khắc để đề phòng những dục vọng bất chính. Ngài
còn nhiệt thành dạy giáo lý cho người dốt nát, thăm viếng giúp đỡ các bệnh nhân
và những người nghèo khổ. Dầu vậy Ngài đã thành công mỹ mãn và được phép cha
cho ở lại để học dân luật và giáo luật.
Ngày
11 tháng 4 năm 1575, Ngài chịu phép cắt tóc gia nhập hàng giáp sĩ.
Sau
khi đậu tiến sĩ giáo luật và dân luật, Giuse tiếp tục học thần học tại Valence.
Nơi hoa lệ này, quỉ đã ra sức tấn công đức trinh khiết của Giuse. Nhưng quyết
hiến thân cho Chúa, Giuse đã chiến thắng vẻ vang. Từ đó Ngài bỏ Valence để tiếp
tục theo học tại Alcada.
Tuy
nhiên một hung tin làm xáo trộn cuộc đời Ngài. Người anh của Giuse, một sĩ quan
trong quân đội từ trần mà chưa có con nối dõi tông đường. Giuse trở về quê nhà
vâng lời cha mẹ nhưng vẫn nuôi ước vọng làm linh mục. Ngài ra sức cầu nguyện và
được nhậm lời. Ngài bị lâm trọng bệnh và các y sĩ đều bó tay. Người cha của
Giuse hứa sẽ cho Ngài làm linh mục nếu được chữa lành. Giuse đã lành bệnh.
Ngày
17 tháng 12 năm 1583, Giuse được thụ phong linh mục. Từ đó cha Giuse lao mình
vào công việc chấn hưng đạo đức. Ngài đã thành công đến nỗi 35 tuổi đã được đặt
làm bề trên địa phận Urgel. Dầu vậy, Ngài cảm thấy sức thúc đẩy đến Roma. Ngài
lên đường và suốt năm năm. Ngài đã sống tại giáo đô như là một khách hành hương
khiêm tốn. Trong thời gian này, thánh nhân đã thấy tận mắt sự khốn cùng và những
tật xấu của đám dân nghèo. Ngài xác tín rằng tình trạng này gây nên bởi sự thiếu
hiểu biết về đạo.
Hiện
đang sở hữu tài sản lớn lao do người cha từ trần để lại, Ngài liền thiết lập những
trường miễn phí cho dân nghèo. Nhiều người đến cộng tác với Ngài, phần lớn là
các giáo sĩ. Dần dần họ họp thành một dòng giáo sĩ triều được đặt dưới sự bảo
trợ của Mẹ Thiên Chúa. Năm 1622 cha Giuse đã đặt làm bề trên tiên khởi. Các trường
dưới sự hướng dẫn của Ngài ngày càng thêm nhiều, công cuộc của Ngài lan rộng
sang Đức, Bohemia và Ba Lan.
Về
già, cha Giuse trở thành nạn nhân của một âm mưu nhằm truất phế Ngài xuống. Mầm
mống chia rẽ vì ghen tỵ mọc lên trong dòng, khiến Đức Innocentê X hạ dòng xuống
thành hội đạo đức mà thôi. Cha Giuse vẫn vui vẻ chấp nhận. Tuy nhiên Chúa lại
thưởng công cho Ngài và nhiều phép lạ, nhất là được thấy Đức Mẹ ẵm Chúa Giêsu đến
xem các học trò của Ngài lần hạt và ban phép lành cho họ. Ngài còn được ơn nói
tiên tri, cho biết 10 năm sau dòng sẽ phục hồi và bành trướng mạnh mẽ.
Ngày
25 tháng năm 1648, thánh Giuse từ trần vì một cơn sốt, thọ 92 tuổi, năm 1767
Ngài được tuyên thánh. Năm 1948 Ngài được đặt làm vị tông đồ việc giáo dục và
làm đấng bảo trợ các trường công giáo.
(daminhvn.net)
25
Tháng Chín
"Con Người Bất
Hạnh Nhất Trần Gian"
Cuộc
đời của nhạc sĩ Beethoven, ngay cả khi đạt đến đỉnh cao của danh vọng, cũng
không phải là một cuộc đời hạnh phúc. Tất cả những người viết tiểu sử của nhạc
sĩ đều ghi nhận rằng ông đã qua một thời tuổi thơ khốn khổ. Cha ông đã xem kỳ
tài âm nhạc của ông như một cơ hội để làm tiền. Thần đồng âm nhạc đã phải ngồi
vào đàn Piano từ sáng tới chiều, đến độ ông đâm chán cả âm nhạc. Chỉ có mẹ ông
mới là nguồn an ủi duy nhất của ông trong lúc tuổi thơ, nhưng bà đã mất năm ông
mới 17 tuổi.
Năm
28 tuổi, Beethoven bắt đầu bị điếc. Ông cảm thấy thất vọng hoàn toàn. Và tai họa
đã tiếp diễn cho đến cuối đời ông.
Tuy
nhiên, con người "bất hạnh nhất trần gian ấy" như ông thường nói về
mình đã sáng tác những dòng nhạc bất hủ nhất ở cuối thế kỷ thứ 18 và đầu thế kỷ
thứ 19.
Kho
tàng ẩn dấu trong ta chỉ có thể được khám phá và đem ra thi thố với thế giới nếu
ta biết chiến đấu. Ðiều đó đòi hỏi những năm tháng dài, tuy nhiên, trở ngại cuối
cùng mà ta có thể vượt qua sẽ làm ló rạng kho tàng ẩn dấu trong ta. Thánh
Basiliô đã nói: vĩ nhân không phải là người chỉ đọ sức với những điều cả thể,
nhưng chính là biết làm cho những việc tầm thường trở thành cao cả bằng chính sức
mạnh của mình.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét