15/10/2016
Thứ Bảy
tuần XXVIII thường niên
Thánh Têrêxa Giêsu, trinh nữ, tiến sĩ Hội
Thánh.
Lễ nhớ.
*
Chào đời năm 1515 tại Avila, Tây Ban Nha, Têrêxa là một nhà cải tổ dòng Cát
Minh, một con người vừa chiêm niệm vừa hoạt động. Là người chiêm
niệm, chị đã ghi lại kinh nghiệm thần bí của mình trong “chuyến đi lên Thiên
Chúa”. Các tập sách của chị đã khiến chị thành bậc thầy về đường thiêng liêng.
Là người sáng lập, chị đã rảo khắp nước Tây Ban Nha để thiết lập các đan
viện.
Tâm hồn chị được
thống nhất nhờ nỗi khao khát được sống “một mình với Đấng Độc Nhất”. Chị qua
đời ở Avila năm 1582.
Bài Ðọc
I: (Năm II) Ep 1, 15-23
"Thiên
Chúa tôn Ðức Kitô làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh
em thân mến, khi nghe biết lòng tin của anh em đối với Chúa Giêsu, và lòng mến
của anh em đối với hết thảy các thánh, tôi không ngừng tạ ơn Chúa cho anh em,
khi nhớ đến anh em trong kinh nguyện. Xin Thiên Chúa của Ðức Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, để
nhận biết Người. Xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế
nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh
quang nơi các thánh, và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với
chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo hành động của sức mạnh quyền năng Người,
công việc mà Chúa đã thực hiện trong Ðức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết
sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các
lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được
xưng hô cả đời này lẫn đời sau.
Chúa
khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là
thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Ðấng chu toàn mọi sự trong mọi người.
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 8, 2-3a. 4-5. 6-7
Ðáp: Chúa đã đặt Con Chúa cai trị các
công trình tay Chúa tác thành (c. 7).
Xướng:
1) Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ lùng thay danh Chúa khắp nơi hoàn cầu! Chúa
đã nâng cao oai nghiêm Ngài trên cõi trời xanh. Từ miệng thiếu nhi và trẻ con
đang bú sữa. - Ðáp.
2)
Khi con ngắm cõi trời, công cuộc tay Chúa tạo ra, vầng trăng và muôn tinh tú mà
Chúa gầy dựng, thì nhân loại là chi mà Chúa nhớ tới? Con người là chi mà Chúa để
ý chăm nom? - Ðáp.
3)
Chúa dựng nên con người kém thiên thần một chút, Chúa trang sức con người bằng
danh dự với vinh quang; Chúa ban cho quyền hành trên công cuộc tay Ngài sáng tạo.
Chúa đặt muôn vật dưới chân con người. - Ðáp.
Alleluia:
Gc 1, 18
Alleluia,
alleluia! - Do ý định của Thiên Chúa, Người đã sinh chúng ta bằng lời sự thật,
để chúng ta nên như của đầu mùa các tạo vật. - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 12, 8-12
"Trong
giờ ấy, Thánh Thần sẽ dạy các con phải nói thế nào".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hễ ai xưng nhận Thầy trước mặt người
đời, thì Con Người cũng sẽ xưng nhận nó trước mặt các thiên thần của Thiên
Chúa; nhưng ai chối bỏ Thầy trước mặt người đời, thì sẽ bị chối bỏ trước mặt
thiên thần của Thiên Chúa. Và hễ kẻ nào nói phạm đến Con Người, thì nó sẽ được
tha. Nhưng kẻ nào nói phạm thượng đến Thánh Thần, thì sẽ không được tha.
"Khi
người ta điệu các con vào các hội đường, đến trước mặt vua quan và chính quyền,
các con chớ lo lắng phải thưa làm sao, hay phải nói thế nào, vì trong giờ ấy,
Thánh Thần sẽ dạy các con phải nói thế nào".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm:
Tội Phạm Ðến Chúa Thánh Thần
Ông
Charles Darwin, khi về già đã tâm sự: lúc còn trẻ, ông cũng rất yêu thích thi
ca và âm nhạc, thế nhưng, công việc nghiên cứu đã chiếm hết thời giờ của ông.
Dành trọn cuộc đời cho sinh vật học, cho nên ông đã mất dần khả năng thưởng thức
thi ca và âm nhạc, đến nỗi về sau, thi ca đối với ông chỉ còn là những lời vô bổ
và âm nhạc chỉ là những tiếng động ồn ào mà thôi. Cuộc đời ông đã thiếu hẳn vẻ
tươi mát và trẻ trung. Thế nên, nếu được sống lại tuổi trẻ lần nữa, ông sẽ dành
thời giờ tìm đến thi ca và âm nhạc, để khỏi mất đi khả năng thưởng thức chúng,
một khả năng gíup cho cuộc đời thêm hương vị.
Lời
tâm sự của Charles Darwin giúp chúng ta hiểu thêm phần nào về tội phạm đến Chúa
Thánh Thần được Chúa Giêsu nói đến trong Tin Mừng hôm nay.
Chúa
Thánh Thần là Thần Chân Lý. Một trong những công việc của Ngài là mạc khải về
chân lý, giúp con người hiểu biết chân lý mà hướng lòng họ đi tìm sự thật. Bởi
thế, sau khi Chúa Giêsu về trời, thì Thánh Thần đến trên các Tông đồ để dạy dỗ
và hướng dẫn các ông. Nhờ Thánh Thần, các ông đã hiểu rõ những lời nói và việc
làm của Chúa Giêsu; và cũng nhờ Thánh Thần, các ông đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng
như lời căn dặn của Chúa Giêsu trước khi Ngài về trời.
Công
cuộc rao giảng Tin Mừng không phải luôn luôn dễ dàng và gặt hái thành công, như
lần 3,000 người trở lại liền sau bài giảng của thánh Phêrô vào dịp lễ Ngũ Tuần;
nhưng các ông đã gặp biết bao chống đối và bách hại. Dù gặp gian nan thử thách
như thế, các ông vẫn hiên ngang rao giảng, vì đó là lời mời gọi của Chúa Giêsu,
và hơn nữa, một điều kiện: "Ai tuyên xưng Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con
Người cũng sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên
Chúa". Vả lại, các ông không phải đơn độc trong gian nan, thử thách, vì có
Thánh Thần luôn hiện diện với các ông. Thánh Thần sẽ dạy cho các ông phải nói
gì khi bị điệu đến trước nhà cầm quyền, vì Danh Chúa Giêsu. Một sự hiện diện gần
gũi và cần thiết như vậy của Thánh Thần, khiến cho tội phạm đến Thánh Thần trở
thành tội không được tha. Không được tha, không phải vì Thánh Thần là một Thiên
Chúa nghiêm khắc trừng phạt; Chúa Thánh Thần vẫn mãi mãi là một Thiên Chúa
khoan dung, từ bi, nhân hậu, là Ðấng Bầu Chữa, an ủi, vỗ về các tâm hồn. Không
được tha không phải vì Chúa Thánh Thần không muốn tha, nhưng là vì thái độ của
con người.
Nếu
trong con người của Darwin có những sở thích về thi ca, âm nhạc, nhưng vì không
chịu tiếp xúc với các môn ấy khiến ông mất dần khả năng thưởng thức thi ca, âm
nhạc, để rồi chúng trở thành vô bổ đối với ông. Cũng thế, trong mỗi người chúng
ta đều có những khát vọng về chân lý, nhưng chính thái độ bịt tai nhắm mắt trước
sự thật đã khiến con người mất dần khả năng cảm nhận sự thật để rồi đối với họ
sự thật chẳng còn giá trị gì. Chúa Thánh Thần là Chân Lý, nhưng nếu đứng trước
Ngài, con người vẫn giữ thái độ cố chấp, thì dù Ngài là Ðấng giúp con người hiểu
biết và đi tìm chân lý, Ngài cũng đành bó tay. Không tìm đến với nguồn chân lý,
làm sao con người có thể nhận được ơn tha thứ?
Xin
Chúa cho chúng ta có một tâm hồn yêu mến và nhạy cảm trước sự thật. Xin cho
chúng ta biết can đảm vượt qua những trói buộc của đam mê, ích kỷ, tội lỗi, để
tìm đến với sự thật, vì chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 28 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: Eph 1:15-23; Lk 12:8-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống
các tín hữu
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Vai trò của Chúa
Thánh Thần
1.1/
Trong đời sống của các tín hữu:
Thánh Thần giúp các tín hữu nhận biết Đức Kitô và những lời giảng dạy của Ngài:
Đọan
văn chúng ta tìm hiểu hôm nay rất khó dịch từ nguyên bản Hy-lạp vì: (1) các tư
tưởng nối tiếp nhau, (2) lẫn lộn của chủ từ (Chúa Cha, Chúa Con, hay Chúa Thánh
Thần), và (3) việc xử dụng rất nhiều của sở hữu. Vì thế, để hiểu đúng ý tác giả,
chúng ta cần chú ý tới cách cấu trúc câu, túc từ trực tiếp, danh từ sở hữu, và
túc từ gián tiếp; một đôi khi chúng ta phải hy sinh cách dịp văn chương để bảo
đảm sự diễn tả chính xác của tác giả.
Sau
khi tạ ơn Thiên Chúa cho các tín hữu của ngài, Thánh Phaolô cầu xin Thiên Chúa
của Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Người Cha vinh hiển, ban cho các tín hữu 2 điều:
(1)
Ban Thánh Thần của khôn ngoan và của mặc khải để các tín hữu nhận biết Người (Đức
Kitô). Theo nguyên bản Hy-Lạp: i[na o` qeo.j tou/ kuri,ou h`mw/n VIhsou/
Cristou/( o` path.r th/j do,xhj( dw,h| u`mi/n pneu/ma sofi,aj kai.
avpokalu,yewj evn evpignw,sei auvtou/. Nhiều người sẽ tranh luận ở đây nên dịch
“pneu/ma” là thần trí hay là Thánh Thần. Thiết tưởng không quan trọng lắm, vì sứ
vụ của Chúa Thánh Thần là tiếp tục sứ vụ của Đức Kitô, Ngài soi sáng cho các
tín hữu để họ hiểu những lời giảng dạy và mặc khải của Đức Kitô. Một khi hiểu
biết những lời này, họ cũng sẽ hiểu biết và yêu mến Chúa Kitô hơn.
(2)
Soi lòng mở trí các tín hữu để nhận thức 3 điều quan trọng:
- đâu
là niềm hy vọng của ơn gọi mà Người dắt anh em tới: Niềm hy vọng
quí giá nhất trong đọan văn hôm qua là được trở nên “nghĩa tử của Thiên Chúa.”
- đâu
là sự phong phú của vinh quang của gia nghiệp Ngài giữa dân
thánh: Một khi đã trở nên con là được thừa hưởng gia nghiệp của cha: các ân sủng
và cuộc sống đời đời.
- đâu
là sự lớn lao vô cùng của quyền lực của Ngài giữa
chúng ta là những người tin, dựa theo hiệu quả của sức mạnh của quyền năng
Ngài, mà Người đã biểu dương nơi Đức Ki-tô, khi làm cho Đức Ki-tô trỗi dậy từ
cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời: Quyền lực lớn lao nhất của Thiên
Chúa là cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết. Qua biến cố này, tử thần bị tiêu diệt,
tội lỗi con người được tha thứ, con người có thể được hưởng nhan thánh Chúa.
Để
các tín hữu nhận ra những điều này, lại một lần nữa họ phải nhờ Chúa Thánh Thần
soi lòng mở trí. Dĩ nhiên, quyền ban là quyền của Chúa Cha, nhưng người thi
hành nhiệm vụ là Chúa Thánh Thần. Con người không thể hiểu nổi những lời giảng
dạy và mặc khải của Đức Kitô nếu Chúa Cha không ban Thánh Thần và nếu Thánh Thần
không soi lòng mở trí.
1.2/
Tương quan giữa Đức Kitô và Hội Thánh: Chiến thắng của Chúa Giêsu đã bảo đảm cho con người tất cả các đặc
quyền; nhưng để các đặc quyền này được lan rộng tới mọi người, Chúa Kitô cần sự
cộng tác của Hội Thánh. Thư Êphêsô có những lời dạy đặc biệt về Hội Thánh.
Trong hai câu cuối cùng hôm nay, Thánh Phaolô cho chúng ta thấy vai trò của
Giáo Hội trong Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới
chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể
Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn.”
Những
tư tưởng này cũng được nói tới chi tiết hơn trong Thư Côrintô I: Chúa Kitô là Đầu,
Thân Thể là Hội Thánh, mọi người là những chi thể của Thân Thể Đức Kitô. Hội
Thánh làm cho Kế Họach Cứu Độ được lan rộng tới mọi người bằng việc tiếp tục
rao giảng và cộng tác với Chúa Thánh Thần để làm cho mọi người nhận thức được 3
điều quan trọng nêu trên, để mọi người tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô và xứng
đáng lãnh nhận ơn Cứu Độ.
2/
Phúc Âm: Vai trò của Chúa
Thánh Thần trong đời sống chứng nhân
2.1/ Cuộc
sống của con người ở đời này là để làm chứng nhân cho Thiên Chúa: Cũng giống như những suy luận trên, mục
đích của Hội Thánh và của mỗi tín hữu là làm chứng nhân cho Thiên Chúa bằng lời
rao giảng và các việc làm. Chúa Giêsu tuyên bố hậu quả của những người chu tòan
hay không chu tòan sứ vụ làm chứng nhân: “Thầy nói cho anh em biết: phàm ai
tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người
ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ,
thì sẽ bị chối trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa.”
2.2/ Tội
phạm đến Thánh Thần là tội nào? Đối với người Do-Thái và ngay cả đối với chúng ta, sứ vụ của
Chúa Thánh Thần là làm cho con người nhận thức được Sự Thật. Tội phạm đến Chúa
Thánh Thần là tội từ chối không nghe và theo sự hướng dẫn của Ngài. Trong Tin Mừng
của Matthêu và Marcô, cả hai Thánh Ký đều đề cập đến tội phạm đến Chúa Thánh Thần
khi người Do-Thái bảo Chúa Giêsu: “Ông ấy nhờ quyền lực của tướng quỉ mà trừ quỉ”
(Mt 12:31-32, Mk 3:28-29).
Tại
sao không được tha? Khi con người đã mất sự nhạy cảm về sự thật đến nỗi cho điều
thật là sai và cho điều sai là điều thật, hay như một số người Do-Thái, cho
Chúa Giêsu là ma quỉ, làm sao họ có thể tin vào Đức Kitô để được hưởng ơn Cứu Độ.
Tương tự, một khi con người đã mất hết ý thức về tội lỗi: chẳng còn cho cái gì
là tội nữa, thì họ đâu cần để được tha thứ! Vì thế, khi con người từ chối không
nghe sự hướng dẫn của Thánh Thần để nhận ra sự thật, con người sẽ không có hy vọng
để lãnh nhận ơn Cứu Độ.
2.3/ Vai
trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống chứng nhân: Chúa Giêsu nói rõ cho các môn đệ về vai
trò của Chúa Thánh Thần: "Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước
mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào
chữa làm sao, hoặc phải nói gì, vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh
em biết những điều phải nói." Thánh Thần được gọi là Trạng Sư trong Tin Mừng
Gioan, và nhiệm vụ của Trạng Sư là nói thay cho người bị cáo. Chính sự khôn
ngoan và sức mạnh của Thánh Thần đã làm cho những con người yếu đuối và chất
phác trở nên những vị tử đạo anh hùng, và lưu truyền cho hậu thế những lời khôn
ngoan, bất khuất, và kiên cường.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Sứ
vụ quan trọng của Chúa Thánh Thần trong Kế Họach Cứu Độ là làm cho con người thấu
hiểu những lời giảng dạy và mặc khải của Đức Kitô. Vì thế, chúng ta cần cầu xin
với Ngài mỗi khi nghe Lời Chúa để Ngài soi lòng mở trí cho chúng ta.
-
Chúng ta cần lắng nghe sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để luôn biết tìm hiểu
và nhạy cảm với sự thật. Một khi đã khinh thường và mất đi nhạy cảm với sự thật,
con người không còn hy vọng được cứu rỗi.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
15/10/16 THỨ BẢY TUẦN
28 TN
Th. Tê-rê-sa Giê-su, trinh nữ, tiến sĩ HT
Lc 12,8-12
Th. Tê-rê-sa Giê-su, trinh nữ, tiến sĩ HT
Lc 12,8-12
Suy niệm: Mới đây, chỉ mới đây thôi, người ta mới nhận
ra rằng văn hoá cũng là một lãnh vực làm ăn có lời mà có khi lời rất “đậm”.
Bằng chứng là tại nước ta các điểm kinh doanh về văn hoá (nhà sách, mạng xã
hội…) vẫn đua nhau mọc lên. Quả thật, không ai chối cãi sức mạnh của văn hoá
qua các phương tiện truyền thông như sách vở, báo chí, phim ảnh, truyền hình,
truyền thanh, internet, v.v... một sức mạnh xây dựng cũng nhiều mà huỷ diệt
cũng khủng khiếp. Hơn lúc nào hết, sứ mạng tuyên xưng danh Chúa “trước mặt
thiên hạ” phải được đẩy mạnh bằng các phương tiện truyền thông hiện đại. Lời
Chúa nghe được “trong phòng kín” có thể được chuyển ngay thành “lời rao giảng
trên mái nhà” mà ở mọi xó xỉnh trên thế giới đều có thể tiếp cận, truy cập được.
Mời Bạn: Người
Ki-tô hữu tuyên xưng niềm tin bằng chính cuộc sống của mình, điều đó đúng!
Nhưng bạn đừng quên rằng nếu bạn không “nói” gì và không dùng những phương tiện
truyền thông hiện đại để “nói” lên lời tuyên xưng của bạn, thì bạn đang bỏ lỡ
một cơ hội bằng vàng để loan báo Tin Mừng. Tệ hại hơn, bạn đang bỏ ngỏ cửa nhà
bạn để những ảnh hưởng xấu ùa vào tác hại trên chính người thân của bạn.
Chia sẻ: Bạn
có sáng kiến nào để phổ biến cho nhau cách nhanh nhất và hiệu quả nhất những
chứng từ loan báo Tin Mừng không?
Sống Lời Chúa: Gọi
điện thoại, gửi email, lên facebook,… để chia sẻ cho một người bạn một chứng từ
sống đức tin mà bạn nhận được.
Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy Cha.
Đừng lo
Xin cho chúng ta nhận được sự nâng đỡ của Thánh
Thần để làm chứng cho Giêsu giữa lòng thế giới. Và xin cho ta chấp nhận cái giá
phải trả cho một tình yêu tín trung.
Suy niệm:
Người ta thường nói giữ
đạo tại tâm.
Đức Giêsu hôm nay đòi ta
phải tuyên xưng Ngài trước mặt người đời,
nghĩa là tuyên xưng một
cách công khai, không giấu diếm.
Các thánh tử đạo Việt Nam
ngày xưa đã có kinh nghiệm đó.
Chỉ cần bước qua thập giá
là coi như chối bỏ niềm tin vào Đức Giêsu.
Không bước qua thập giá
là cử chỉ tuyên xưng đức tin rõ ràng nhất.
Một đoàn người đông đúc
đã sẵn lòng chịu muôn vàn khổ hình,
nhưng quyết không bước
qua thập giá.
Phêrô đã có kinh nghiệm
về sự công khai chối bỏ Thầy (Lc 22, 57).
Ông bảo mình không biết
Thầy, không phải là người đã ở với Thầy,
đã theo Thầy như một môn
đệ và như một người bạn.
Đơn giản là ông sợ bị
liên lụy, sợ chịu chung số phận của Thầy.
Xưa nay chẳng ai tuyên
xưng Đức Giêsu mà không phải trả giá.
Tuyên xưng bằng cách
không bước qua thập giá như hồi xưa,
hay tuyên xưng bằng cách
bước qua những mời mọc thời nay,
Coi nhẹ những gì thế gian
mê đắm và ưa chuộng,
Như khoái lạc, địa vị,
quyền lực, giàu sang.
Phêrô đã bất ngờ và dễ
dàng sa ngã.
Nhưng Đức Giêsu đã cầu
xin để ông được đứng lên (Lc 22, 32).
Sau này, Phêrô sẽ có kinh
nghiệm khác về việc công khai tuyên xưng.
Đó là lúc ông và Gioan bị
đem ra trước Hội Đồng Do Thái (Cv 4, 8)
Sau khi đã chữa một người
bất toại ở cửa Đền thờ.
Phêrô được đầy tràn Thánh
Thần, đã mạnh dạn làm chứng về Đức Kitô.
Hội Đồng kinh ngạc trước
sự bạo dạn của ông,
vì biết ông là người ít
học, quê mùa (Cv 4, 13).
Bạo dạn là nét của cộng
đoàn sơ khai, khi đứng trước đe dọa (Cv 4, 29).
“Chớ lo lắng phải biện hộ
làm sao hay phải nói gì,
vì Thánh Thần sẽ dạy các
ông ngay giờ đó về điều phải nói” (cc. 11-12).
Không sợ và không lo,
đó là thái độ của người
Kitô hữu trưởng thành trước nghịch cảnh.
Đừng phạm thượng đến
Thánh Thần, vì sẽ không được tha (c. 10).
Xúc phạm đến Thánh Thần
là cứ ngoan cố,
khăng khăng chống lại tác
động của Ngài trong đời ta.
Những mời gọi của Thánh
Thần bị bóp chết ngay từ đầu.
Một người dứt khoát từ
chối Thánh Thần là từ chối chính Thiên Chúa.
Người ấy không có sự mở
ra sẵn sàng để đón nhận.
Người ấy không được tha
thứ, đơn giản vì không muốn nhận ơn ấy.
Xin cho chúng ta nhận
được sự nâng đỡ của Thánh Thần
để làm chứng cho Giêsu
giữa lòng thế giới.
Và xin cho ta chấp nhận
cái giá phải trả cho một tình yêu tín trung.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau
lẫn lộn.
Có khi vàng chỉ là lớp mạ
bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối,
và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian
một linh hồn, một sức
sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến rũ bởi bao
thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu
của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa
lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm
thấy niềm vui
của người được diễm phúc
nên giống Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
15
THÁNG MƯỜI
Tình
Yêu Chúa Kitô Thúc Bách Các Nhà Thừa Sai Bác Ái
Sứ mệnh
cứu thế của Đức Giêsu Na-da-rét đã được triển khai ở Ấn Độ, đặc biệt ở
Calcutta, bằng một cách thế hết sức hùng hồn, thể hiện một lời chứng đích thực
về Thiên Chúa. Đó là một lời chứng làm cho cả thế giới phải thán phục, một chứng
tá làm rung động lương tâm nhân loại. Tôi đang muốn nói đến cuộc sống và hoạt động
của một người phụ nữ: dù bà không sinh ra ở Ấn Độ, mọi người vẫn gọi bà là Mẹ
Têrêsa Calcutta.
Cách
đây ít năm, người phụ nữ này đã được tình yêu Chúa Kitô thúc bách để phục vụ
Ngài nơi những người khốn khổ và bất hạnh nhất. Mẹ đã bỏ công việc dạy học để
thành lập Hội Dòng Thừa Sai Bác Aùi. Qua những công việc phục vụ đầy ấn tượng
cho những người nghèo khổ nhất, Mẹ Tê-rê-sa thi hành một cách cụ thể sứ vụ cứu
thế của Chúa Giêsu: “mang niềm vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18). Mẹ đã trao
cho thế giới một bài học đầy khích lệ về lòng trắc ẩn và tình yêu chân thành đối
với những ai cần được giúp đỡ. Tấm gương của mẹ đã biểu lộ sức mạnh cứu độ. Tấm
gương ấy đang thôi thúc nhiều người nam cũng như nữ thể hiện những chứng tá phục
vụ rất anh hùng. Quả thật, tấm gương của Mẹ Tê-rê-sa vẫn còn tiếp tục động viên
họ kiên trì phục vụ không mệt mỏi.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
15 -10
Thánh
Têrêxa Giêsu, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh
Ep
1,15-23; Lc 12,8-12.
Lời
suy niệm “Thầy nói cho anh em biết: phàm ai tuyên bố
nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước
mặt các thiên thần của Thiên Chúa. Còn ai chối bỏ Thầy trước mặt thiên hạ, thì
sẽ bị chối trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa.”
Chúa
Giêsu đang đòi hỏi ở nơi mỗi một người tín hữu sự trung tín đối với Người, khi
đứng trước mọi mọi cám dỗ của mọi sự thử thách, của cải vật chất, uy quyền, tư
lợi và mạng sống. Phần thưởng của lòng trung tín là ở Thiên Đàng; Chính nơi đây
Ngài sẽ công khai công bố trước các thiên thần của Thiên Chúa: “Đây chính là
người thuộc về Ta”
Lạy
Chúa Giêsu. Xin Chúa luôn ban ơn cho chúng con, để chúng con biết khôn ngoan và
trung tín với Chúa cho đến trọn đời để ngày sau chúng con được vui hưởng Thiên
Đàng với Chúa cùng các thiên thần và các thánh.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
15-10
Thánh
TÊRÊXA AVILA
Đồng
Trinh, Tiến Sĩ Hội Thánh (1515 - 1585)
Sinh
ngày 28 tháng 3 năm 1515, Têrêxa là một trong 12 người con của ông Anphong
Cpêda, lớn lên tại Avila, vương quốc Castille, miền đất của mộng mơ và của các
thánh ". Ngài ham thích đọc các sách dạy sống khổ hạnh và suy gẫm cuộc đời
các thánh. Với lòng nhiệt thành, Ngài ngây ngất vì hạnh phúc vĩnh cửu ân thưởng
cho những đau khổ của các thánh, cũng như kính sợ những khốn khổ của hoả ngục tồn
tại mãi mãi. Ngài đã nói trong run sợ: - Ai có thể chịu nổi cái ý nghĩ như vậy
được ?
Mong
mỏi được tử đạo, một ngày kia, Ngài lén dẫn cậu em Rodrigue đi về miền dân dữ tợn
đang hành hạ các Kitô hữu này. Nhưng mới đi được nửa dặm đường thì ông cậu bắt
được và dẫn đưa về nhà. Không tử đạo được, các em sẽ trở thành những nhà ẩn tu.
Các em làm những cái hầm và cầu nguyện lâu giờ tại đó. Nhưng rồi một ngày kia,
những bức tường nhỏ bằng đá bị sập. Các em nhỏ thánh thiện này thường nhịn ăn để
làm việc bác ái.
Năm
13 tuổi, tức năm 1528, Têrêxa mất mẹ, Ngài khấn nài Mẹ Maria là Mẹ. Chuỗi Mân
Côi trở thành vịệc sùng kính đặc biệt của Ngài.
Têrêxa
có một bản chất ngay thẳng, nhiệt hành và tha thiết mến Chúa. Khoảng 15 tuổi,
Ngài lén đọc các truyện kiếm hiệp làm cho Ngài ra mơ mộng, lúc này, Ngài muốn mặc
đẹp, xức dầu thơm, lo trang sức và thích được ve vãn. Chị em cho Ngài xinh đẹp.
Một cô em họ ngây ngất không muốn rời xa Ngài. Họ nói truyện phiếm với nhau
hàng giờ. Têrêxa nói: - Tôi được cứu thoát, chính là vì kính sợ Chúa, điều mà
tôi không bao giờ bỏ mất, và vì sợ mất danh dự.
Ngài
còn nói: - Tôi đã rất ghê tởm những điều bất lương.
Dầu vậy
cha Ngài cũng lo âu và quyết định gởi Ngài học nội trú ở nơi các nữ tu dòng
thánh Augustinô. Têrêxa không thích thú gì, nhất là đã không hề muốn rằng sau
này mình sẽ là nữ tu. Nhưng Ngài phải vâng lời. Và Ngài sắp tìm lại được lòng đạo
đức nhiệt thành của tuổi thơ khi sống gần các bậc thầy này. Hơn khi nào, Ngài
khao khát những của cải đời đời. Nhưng đời sống khắc khổ trong tu viện làm Ngài
run sợ.
Têrêxa
ngã bệnh. Ngài trở về nhà cha và nghe ông cậu nhắc lại rằng mọi sự đời này chỉ
là phù vân và sẽ qua mau như chớp. Sau cùng Ngài hiểu rằng: ơn gọi của mình là
sống đời tu sĩ. Nhưng những chống đối dữ dội nổi lên trong lòng. Hơn nữa, Ngài
phải coi thường những chối từ của cha Ngài. Năm 1536, Ngài vào dòng kín Camelô,
sau khi phải chịu đựng cuộc chiến đấu kinh khủng với chính mình: để giã từ nhà
cha, Ngài khổ sở đến dộ xương cốt như rã rời và tan nát con tim. Nhưng rồi Ngài
đã mạnh mẽ thắng vượt mọi cám dỗ đau khổ.
Têrêxa
đã trải qua 27 năm tại tu viện Nhập Thể, là nơi luật lệ được châm chước cho
phép giải trí và tiếp khách, Ngài còn phải qua một bước dài trước khi dấn mình
vào con đường cực nhọc để xây dựng và cải sửa các dòng tu. Trước hết, sức khỏe
của Ngài xem ra không chịu đựng nổi. Bệnh tật, Ngài trở về nhà, các bác sĩ
tuyên bố là bất trị, Ngài tín thác vào thánh Giuse và khỏi bệnh sau một cơn ngất
trí. Trở lại tu viện, Ngài được chị em yêu mến.
Cách
nói chuyện hấp dẫn của Ngài lôi kéo nhiều cuộc viếng thăm. Ngài kể lại:
- Một đàng Chúa gọi tôi, đang khác thì thế gian lôi kéo. Cuộc chiến nội tâm xâu xé tôi.
- Một đàng Chúa gọi tôi, đang khác thì thế gian lôi kéo. Cuộc chiến nội tâm xâu xé tôi.
Ngày
kia trong một câu chuyện trần tục, Ngài đã được thị kiến thấy Chúa Giêsu đầy
thương tích. Têrêxa thấy đau lòng, nhưng Ngài còn phải chiến đấu nhiều để đạt tới
chỗ chỉ yêu các tạo vật trong Chúa và vì Chúa. Trong nhiều năm, Ngài đã trải
qua sự khô khan, qua cơn sợ hãi hỏa ngục. Trong vòng 20 năm Ngài đã không tìn
ra cha giải tội hiểu được Ngài và muốn bàn về việc thị kiến. Thánh Phanxicô
Borgia đã trấn an Ngài.
Sau
cùng, các cha giải tội buộc Ngài ghi lại điều đã xảy ra trong tâm hồn. Và thánh
nữ, một con người ít học, đã viết nên được những tác phẩm có giá trị, đến nỗi
Ngài đã đáng được danh hiệu là Tiến Sĩ Hội Thánh.
Nếu
trước hết, sự sợ hãi các khổ cực đời đời đã dẫn Têrêxa vào đường hẹp đưa tới chỗ
cứu rỗi thì bây giờ tình yêu Chúa xâm chiếm Ngài như cơn hỏa hào. Các cuộc xuất
thần tăng thêm. Ba Ngôi, Đức Trinh nữ, các thiên thần và các thánh hiện ra với
Ngài. Ngài được nâng lên khỏi mặt đất và ở nguyên như vậy khi cầu nguyện. Vào
tuổi 43, thánh nữ thường thấy Đấng cứu thế và nghe Người nói: - Cha không muốn
con nói truyện với loài người, nhưng với các thiên thần.
Một
thiên thần dùng giáo đâm thủng tim Ngài và Chúa Giêsu gọi Ngài là hiền thê. Cho
tới cuối đời, Ngài đã hiệp nhất với đấng cứu chuộc bị đóng đinh và đã ước được
chịu khổ vì Người đến nỗi người ta thường nghe Ngài kêu lên: - Lạy Chúa, hoặc
là chết, hoặc là đau khổ.
Ngài
tự ràng buộc bởi lời khân anh hùng này, là luôn làm điều thiện hảo hơn, nhưng lại
chẳng tỏ ra nhiệm nhặt chút nào, trái lại còn nhanh nhẹn vui tươi duyên dáng tới
độ gõ sênh mua vui cho các nữ tu dòng kín Camêlô. Vị nữ tu chiêm niệm này còn tỏ
lộ một sự hiểu biết tích cực, một tinh thần thực tiễn sẽ đưa Ngài tới cuộc cải
đổi dòng Camelô.
ịnh mệnh
đặc biệt sắp đưa Ngài qua mọi chặng đường để thiết lập các tu viện. Trước hết
năm 1562, khép mình ở Avila nhưng một nhà mang danh thánh Giuse, là nơi các nữ
tu sống trong thinh lặng, nghèo khó, cầu nguyện, chay tịnh, đi chân không trong
mọi mùa, Têrêxa ra khỏi nơi này và không ngừng thiết lập, tổ chức những tu viện
mới. Hầu như luôn luôn bệnh hoạn, Ngài theo đuổi những cuộc hành trình mệt lả
trước sự nóng nung, làm mồi cho các côn trùng tấn công hay những đêm lạnh lẽo
mùa đông đã giữ Ngài lại trong những đoạn đường không tên không có nơi trú ẩn.
Những cuộc bắt bớ tấn công Ngài. Ngài viết cho một ân nhân: - Cho tiền bạc chẳng
là gì, nhưng khi chúng tôi như đến lúc bị ném đá, thì công việc lại trôi chảy.
Và
khi mẹ đã vượt thắng mọi ngăn trở và thiết lập các tu viện mới, cơn đau đớn nhức
nhối lại đợi chờ Ngài vì phải giã từ con cái yêu dấu để ra đi xây dựng tu viện ở
nơi khác. Đây là: - Nỗi thống khổ đớn đau nhất. Tim tôi tan nát đau khổ nghĩ rằng:
sẽ không còn gặp lại họ nữa.
Thánh
Gioan thánh giá trợ lực, Ngài trải rộng việc canh tân tới các cha dòng Carmes
mà Ngài muốn tái lập sự nghiêm ngặt ban đầu, điều gây nên cho Ngài nhiều xôn
xao và dường như làm cho Ngài bị cầm tù. Nhà vua và đức giáo hoàng bảo vệ Ngài.
Ngài đã thiết lập hơn 30 tu viện. Hoạt động chưa từng nghe thấy của Ngài, những
việc thiết lập, những cuộc du hành, những khó khăn vô số... đã không ngăn cản
Ngài vui hưởng sự hiện diện của Chúa, kiên trì cầu nguyện, và thường xuất thần,
Ngài nói: - Tôi không hiểu tại sao người ta bảo tôi là nhà sáng lập, chính Chúa
sáng lập chứ không phải tôi.
Người
ta còn nói lại những phép lạ của Ngài, như tăng thêm đống bột để nuôi cả cộng
đoàn. Khi đi qua đồng quê, nhiều gia đình lũ lượt xin Ngài ban phép lành.
Giữa
các hoạt động lạ lùng, Têrêxa vẫn viết về đời mình mà Ngài gọi là sách các kỳ
công của Chúa, và "Lâu Đài Nội Tâm" là nơi tâm hồn Ngài, từng phòng một
vươn tới uy linh Chúa. Với sự linh hoạt, Ngài biết dùng vài lời tóm gọn tất cả
sự thánh thiện:
- Phải
can đảm để trở thành phụ nữ của vua trên trời.
- Đừng
lo suy nghĩ nhiều, nhưng là yêu nhiều.
- Ta
nhân đức hơn khi liên kết với nhân đức của Chúa, hơn là dính chặt với phận bụi
đất của ta.
- Nỗ
lực của ta là bắt chước con tằm, xây tổ của ta bằng cách tẩy trừ ích kỷ và thực
hiện những việc xám hối cầu nguyện, hy sinh, vâng lời. Thiên Chúa sẽ biến ta
thành bướm trắng khi Ngài muốn.
-
Quan trọng là biết yêu mến và kính sợ, hai nhân đức vĩ đại.
- Khi
bị đau khổ bên ngoài cần chăm lo làm việc bác ái và biết hy vọng vào lòng
thương xót của Chúa.
Ngài
có chút hài hước trong sự thánh thiện, như lời hóm hỉnh được biết đến nhiều,
khi Ngài bị thương ở chân: - Lạy Chúa, sau bao nhiêu phiền muộn lại đến chuyện
đó nữa, Cha đối xử với bạn hữu của cha như thế đó…. Vâng lạy Chúa của con,
không lạ gì mà Chúa ít bạn.
Lòng
Ngài rảo khắp thế giới: - Những người An độ nghèo khổ này làm tôi đổ bao nhiêu
là nước mắt.
Têrêxa
qua đời tại miền quê ở Albe de Tormès ngày 04 tháng 10 năm 1583. Chính tình yêu
quá mức hơn là con bệnh đã đưa tới cái chết của Ngài. Khi đưa Thánh thể vào
phòng, Ngài đã ngăn cho Ngài khỏi tung ra khỏi giường. Ngài đã la to: "Lạy
Chúa, đến lúc chúng ta gặp nhau rồi". Và đời đời, Têrêxa đã hiệp nhất với
tình yêu.
Ngài
được tuyên thánh năm 1628 và ngày 27 tháng 9 năm 1970, Đức giáo hoàng Phaolô VI
đã đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh .
(daminhvn.net)
15
Tháng Mười
Người Ðàn Bà "Rất Ðàn Bà"
Hôm
nay là ngày kính nhớ thánh nữ Têrêxa Avila.
Vị
nữ tiến sĩ hội thánh này đã sống trong một giai đoạn có nhiều xáo trộn nhất đối
với Giáo Hội. Thánh nữ chào đời khi cuộc cải cách của người Tin Lành bắt đầu và
qua đời khi Công Ðông Trento vừa chấm dứt. Ngài đã được Thiên Chúa ban cho Giáo
Hội như một đóa hoa đẹp đẽ nhất giữa những gái góc đang ụp phủ trên Giáo Hội.
Nhưng Têrêxa Avila cũng chỉ là một người đàn bà giống như rất nhiều người đàn
bà khác. Ðẹp, có nhiều năng khiếu, đảm đang, đa tình... Têrêxa lại là một người
đàn bà "rất đàn bà". Thế nhưng nơi người đàn bà này, người ta thấy có
nhiều tương phản: thông minh nhưng lại thực tế; biết nhiều nhưng không xa vời với
kinh nghiệm sống; thần bí nhưng lại đầy nghị lực để trở thành một nhà cải cách.
Têrêxa
là một người đàn bà hoàn toàn sống cho Chúa, nghĩa là một người đàn bà cầu nguyện,
kỷ luật và biết cảm thông. Trái tim của Têrêxa hoàn toàn thuộc về Chúa. Ðã
thách thức tất cả mọi chống đối của người cha để gia nhập dòng kín, Têrêxa cũng
tiếp tục đương đầu với không biết bao nhiêu chống đối khác khi muốn cải tổ dòng
kín. Người đàn bà yếu đuối này chỉ còn một nơi nương tựa duy nhất: đó là Thiên
Chúa.
Là
một người sống cho Chúa hoàn toàn, Têrêxa cũng hoàn toàn sống cho người khác.
Canh tân cuộc sống của mình, Têrêxa cũng không ngừng đi khắp đó đây để giúp người
khác canh tân cuộc sống.
Suốt
cuộc đời trải qua trong gian lao và thử thách, về cuối đời, Thánh nữ đã thốt
lên: "Ôi lạy Chúa, tất cả những ai làm việc cho Chúa đều được đpá trả bằng
gian lao, khốn khó. Nhưng cao quý thay phần thưởng dành cho những ai yêu mến
Chúa, nếu họ hiểu được giá trị của nó".
Hiện
nay, người ta nói đến rất nhiều thứ giải phóng, trong đó có giải phóng người phụ
nữ.
Có lẽ
tất cả những ai đang tranh đấu cho nữ quyền nên nhìn vào mẫu gương của thánh nữ
Têrêxa Avila. Một người đàn bà đã có thể thực hiện được nhiều việc vĩ đại,
nhưng bản chất đàn bà vẫn không hề thay đổi trong con người ấy. Phải chăng người
đàn bà có thể đóng trọn vai trò của họ trong Giáo Hội và trong xã hội khi họ biết
trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa đã trao ban qua nữ tính của họ!
Người
nữ có phúc nhất trong những người nữ, người nữ cũng đã sống trọn vẹn ơn gọi làm
người: đó là Ðức Maria. Bí quyết để người nữ ấy thể hiện trọn vẹn ơn gọi làm
người nữ và làm người của mình chính là hai tiếng "Xin vâng". Thiên
Chúa đã tạo dựng con người và đã quy định cho con người một định mệnh: định mệnh
đó chính là sống cho Chúa. Ðức Maria, thánh nữ Têrêxa và bao nhiêu vị thánh nam
nữ khác, đã thực hiện được định mệnh đó qua một cuộc sống hoàn toàn vâng phục ý
Chúa. Chỉ có một sự bình đẳng duy nhất: đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên
Chúa. Ðức Maria đã minh chứng được sự bình đẳng đó qua sự cộng tác của Mẹ vào
công cuộc cứu rỗi của Ðức Kitô.
Trước
mặt Chúa, mỗi người chúng ta đều có một chỗ đứng. Không có chỗ đứng nào cao trọng
hơn chỗ đứng khác. Hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc ở sự đáp trả của chúng ta đối
với tiếng gọi của Chúa.
(Lẽ
Sống)








Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét