20/01/2017
Thứ Sáu tuần 2 thường niên
BÀI ÐỌC I: Dt 8, 6-13
"Người là trung gian của một
giao ước tốt hơn".
Bài trích thư gửi
tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, hiện
giờ vị Thượng tế của chúng ta đã lãnh một chức vụ cao trọng hơn, bởi vì Người
là Ðấng trung gian của một giao ước tốt hơn, mà giao ước ấy được thiết lập trên
những lời hứa rất tốt lành. Vì nếu giao ước thứ nhất không khuyết điểm, thì thật
sự không cần phải có giao ước thứ hai nữa. Vì Chúa khiển trách họ rằng:
"Này đến ngày Ta thực hiện một giao ước mới cho nhà Israel và cho nhà
Giuđa. Không phải như giao ước Ta ký kết với cha ông chúng trong ngày Ta cầm
tay chúng dẫn ra khỏi đất Ai-cập. Bởi chúng không trung thành với giao ước Ta,
nên Ta đã bỏ chúng. Vì chưng, giao ước Ta sẽ ký kết với nhà Israel sau những
ngày ấy, Ta sẽ đặt các lề luật của Ta trong trí chúng, và khắc nó vào lòng
chúng. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân Ta. Không còn ai phải
dạy bạn hữu mình, hay mỗi người không còn phải bảo anh em mình rằng: "Hãy
nhìn biết Chúa", vì mọi người, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta; bởi
Ta dung thứ các điều gian ác của chúng, và không còn nhớ đến tội lỗi của chúng
nữa". Người tuyên bố giao ước mới, thì Người làm cho giao ước thứ nhất ra
cũ đi. Nhưng điều gì đã cũ đã già, thì gần tiêu mất đi. Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 84, 8 và 10.
11-12. 13-14.
Ðáp: Lòng nhân hậu
và trung thành gặp gỡ nhau (c. 11a).
1) Lạy Chúa, xin cho
chúng con nhìn thấy tình thương của Chúa, và ban cho chúng con được ơn Ngài cứu
độ. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa
ngự trị trong đất nước chúng con.
2) Lòng nhân hậu và
trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất,
đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống.
3) Vâng, Chúa sẽ ban
cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh
sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người.
ALLELUIA: Ga 10, 27
All. All. - Chúa
phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo
Ta". - All.
PHÚC ÂM: Mc 3, 13-19
"Người gọi những kẻ Người
muốn gọi để họ ở cùng Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên
núi và gọi những kẻ Người muốn gọi, và họ đến cùng Người. Người chọn mười hai vị
để theo Người, và sai các ông đi giảng và ban cho các ông quyền trừ quỷ. Mười
hai vị ấy là: Simon mà Người đặt tên là Phêrô, Giacôbê con ông Giêbêđê, và
Gioan là em Giacôbê, (cả hai được Người đặt tên là Boanerges, nghĩa là con của
sấm sét), rồi đến Anrê, Philipphê, Bartôlômêô, Matthêu, Tôma, Giacôbê con ông
Alphê, Tađêô, Simon nhiệt tâm, và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người. Ðó là lời
Chúa.
SUY NIỆM : Giáo Hội là một Mầu Nhiệm
Nếu thời Cựu Ước đã có
những tiên tri cung đình, chuyên phụ họa cho vua chúa, thay vì nói lời của
Chúa; thì ngày nay cũng không thiếu những tiên tri như thế: thay vì nói Lời
Chúa, lên tiếng tố cáo bất công, người ta lại chỉ làm tiên tri để công kích và
chỉ trích Giáo Hội của mình. Dù sao, đây cũng là dịp để các Kitô hữu suy nghĩ
và đào sâu về bản chất của Giáo Hội.
Ðiều cơ bản nhất mà
chúng ta cần phải tuyên xưng trước tiên khi nói về Giáo Hội, đó là Giáo Hội là
một mầu nhiệm, do đó chúng ta không thể so sánh hay xếp Giáo Hội vào bất cứ một
tổ chức trần thế nào. Giáo Hội không là một thể chế quân chủ chuyên chế hay
quân chủ lập hiến. Giáo Hội cũng không hề là một chế độ tập quyền hay Bô lão trị;
Giáo Hội lại càng không phải là một chế độ dân chủ. Giáo Hội thiết yếu là một mầu
nhiệm, do đó mà không có một tên gọi nào diễn tả và múc cạn mầu nhiệm ấy. Giáo
Hội được gọi là Hiền thê của Chúa Kitô, Giáo Hội được gọi là thân thể mầu nhiệm
của Chúa Kitô, Giáo Hội được gọi là Dân Chúa; mỗi kiểu nói này bày tỏ một khía
cạnh, nhưng không thể nào nói hết về Giáo Hội.
Tin Mừng hôm nay như
muốn đưa chúng ta vào trong bản chất mầu nhiệm ấy của Giáo Hội. Chúa Giêsu thiết
lập nhóm Mười Hai để các ông ở với Ngài và được Ngài sai đi rao giảng. Ngài
trao ban cho các ông quyền năng mà chính Ngài đã từng sử dụng: chỉ có các Tông
Ðồ mới có quyền trừ quỷ, mới có quyền cử hành các Bí Tích, và chỉ những ai được
các ông trao quyền cho mới được cử hành các Bí Tích. Chúa Giêsu trao phó cho
các Tông Ðồ kho tàng mạc khải, chỉ có các ông mới có khả năng và có quyền giải
thích kho tàng ấy và giảng dạy đúng ý muốn của Chúa. Trong Nhóm Mười Hai, Chúa
Giêsu đặt Phêrô làm thủ lãnh để cai trị và trở thành mối giây hữu hình trong
Giáo Hội, Ngài hứa ở với Giáo Hội mỗi ngày cho đến tận thế: như Ngài đã ở với
các Tông Ðồ ngay từ buổi đầu, thì hơn 2,000 năm qua, Ngài vẫn tiếp tục ở với và
trong Giáo Hội.
Giáo Hội chính là thân
thể Chúa Kitô. Thuộc về Giáo Hội chính là chấp nhận lời rao giảng của Chúa
Giêsu được ủy thác cho các Tông đồ và những người mà các ông cắt đặt để thay thế
và tiếp tục sứ mệnh của mình. Thuộc về Giáo Hội một cách cụ thể, là đón nhận và
sống giáo huấn của chính các Tông đồ được ủy thác cho Giáo Hội và những người kế
vị các ông. Giáo Hội không phải là một thể chế dân chủ, nhưng Giáo Hội chưa hề
cưỡng bách ai phải gia nhập Giáo Hội; nhưng nếu đã thuộc về Giáo Hội thì không
thể không chấp nhận quyền bính của Giáo Hội. Dù vậy, ngay cả khi một Kitô hữu
không chấp nhận quyền giáo huấn của Giáo Hội, thì Giáo Hội cũng không phải dùng
đến võ lực hoặc nhà tù để đe dọa và trừng phạt.
Hằng năm, Giáo Hội
dành một tuần lễ để cầu cho sự hiệp nhất của các Kitô hữu, một tuần lễ để đi
sâu vào mầu nhiệm của Giáo Hội, một tuần lễ để hoán cải. Chúng ta hãy cầu xin bằng
chính lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: "Xin cho chúng nên một như Cha ở
trong Con và như Con ở trong Cha, ngõ hầu thế gian tin rằng Cha đã sai
Con".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 2 TN, Năm lẻ
Bài đọc: Heb
8:6-13; Mk 3:13-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu là
trung gian của giao ước mới hòan hảo hơn.
Các Bài Đọc hôm nay
xoay quanh sự quan trọng của những gì Chúa Giêsu làm. Trong Bài Đọc I, tác giả
Thư Do-Thái so sánh hai giao ước cũ và mới mà Thiên Chúa thiết lập với dân. Vì
giao ước cũ bất tòan nên mới có giao ước mới. Giao ước mới hòan hảo hơn giao ước
cũ vì đặt căn bản trên những lời hứa tốt đẹp hơn của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu thiết lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với Ngài và được huấn luyện,
trước khi Ngài sai các ông đi rao giảng Tin Mừng và tiếp tục sứ vụ của Ngài
trên trần gian.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúa Giêsu là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn.
1.1/ Quan niệm về giao ước: Thông thường, giao ước là một hợp đồng giữa hai bên, đồng
ý thỏa thuận về một số những điều mà hai bên đồng ý giữ. Nếu một bên không chịu
giữ hợp đồng, giao ước ấy sẽ trở nên vô hiệu. Từ ngữ Hy-Lạp thường dùng để chỉ
giao ước là suntheke. Điều đáng chú ý trong đọan văn này, tác giả
không dùng suntheke, mà dùng diatheke; từ ngữ này được
dùng để chỉ một lời hứa mà một người ở cấp bậc cao hơn hứa với một người dưới
mình. Trong giao ước của Thiên Chúa với con người, Thiên Chúa là nguồn gốc và
là nguyên nhân của những lời hứa.
1.2/ Giao ước cũ và mới:
(1) Giao ước cũ: là
giao ước Thiên Chúa thiết lập với Israel qua trung gian của Moses trên Núi
Sinai. Theo giao ước này, Thiên Chúa hứa sẽ thương yêu và săn sóc Israel nếu họ
tuân giữ cẩn thận các giới răn của Ngài (Deut 4:23).
(2) Giao ước mới:
- Đặc điểm: hòan hảo
hơn giao ước cũ. Tác giả dẫn chứng lời đã được tiên báo bởi Tiên-tri Jeremiah
31:31-34: “Quả thật, Thiên Chúa khiển trách Dân rằng: Đức Chúa phán: Này sắp đến
những ngày Ta hoàn thành một Giao Ước Mới với nhà Israel và nhà Judah. Giao ước
đó sẽ không như giao ước Ta đã thiết lập với cha ông của chúng, trong ngày Ta cầm
tay dẫn chúng ra khỏi Ai-cập. Bởi vì chúng đã không trung thành với giao ước của
Ta, nên Ta cũng đã bỏ mặc chúng, Đức Chúa phán.” Tác giả dùng tĩnh từ kainos để
chỉ mới cả về thời gian lẫn phẩm giá: “Nhưng hiện nay, Đức Giêsu được một tác vụ
cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn; giao ước
này căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn.”
- Lý do hiện hữu: là
vì sự bất tòan của giao ước cũ. “Thật vậy, giả như giao ước thứ nhất đã hoàn hảo
rồi, thì chẳng cần phải tìm giao ước thứ hai để thay thế.” Tác giả lý luận:
“Khi Thiên Chúa nói đến Giao Ước Mới, Người làm cho giao ước thứ nhất hoá ra
giao ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi thời, thì sắp tan biến đi.”
- Sự khác biệt nền tảng
giữa 2 giao ước: Thập Giới của giao ước cũ được khắc ghi trong 2 bia đá; trong
khi Lề Luật của giao ước mới sẽ được Thiên Chúa: “ghi vào lòng trí chúng, sẽ khắc
vào tâm khảm chúng lề luật của Ta; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ
là Dân của Ta.”
Con người giữ Lề Luật
không chỉ vì bắt buộc, nhưng vì yêu thương Đấng dạy dỗ mình.
- Mọi người đều biết
Thiên Chúa: không còn chỉ giới hạn trong vòng dân Do Thái mà thôi. “Không ai
còn phải dạy đồng bào mình, không ai còn phải dạy anh em mình rằng: "Hãy học
cho biết Đức Chúa", vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết
Ta.”
- Hòan tòan tha thứ mọi
tội lỗi cho dân: “Ta sẽ dung thứ những điều gian ác chúng làm, sẽ không còn nhớ
đến lỗi lầm của chúng nữa.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu thành lập Nhóm Mười Hai.
1.1/ Sứ vụ của Nhóm Mười
Hai: “Rồi Người lên núi và gọi đến với Người
những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các
ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ.” Tại
sao phải lập Nhóm Mười Hai?
(1) Để tiếp tục thi
hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Chúa Giêsu biết rõ những gì sẽ xảy đến cho Ngài
trong tương lai, vì thế Ngài cần những người tiếp tục công việc của Ngài. Người
lãnh đạo giỏi là người biết nhìn đến tương lai, và biết huấn luyện những người
có khả năng để thay thế mình sau này; vì nếu không huấn luyện người để thay thế,
tất cả những cố gắng của mình, cho dù hay đến đâu chăng nữa, cũng sẽ rơi vào
quên lãng.
(2) Để Tin Mừng đựơc
loan báo sâu rộng và nhiều người được chữa lành hơn: Phương tiện truyền thông
duy nhất thời đó là loan báo bằng miệng, và phương tiện di chuyển thịnh hành nhất
là đi bộ. Chúa Giêsu băn khoăn làm sao để Tin Mừng có thể đạt tới mọi người, và
không còn cách nào hiệu quả hơn là mời gọi nhiều người cộng tác để huấn luyện,
và rồi sai họ đi thi hành sứ vụ. Đó là lý do tại sao Ngài không chỉ huấn luyện một,
mà 12 Tông-đồ; bên cạnh đó, Ngài còn huấn luyện rất nhiều các môn đệ đi theo
Ngài. Điều này dạy chúng ta, để Tin Mừng có thể lan tràn đến mọi người, chúng
ta cần sự cố gắng và cộng tác của rất nhiều người, chứ không giới hạn trong một
thiểu số có tài năng hay kiến thức mà thôi.
(3) Chúa Giêsu gọi các
ông để ở với Ngài: Cách huấn luyện hiệu quả nhất của người thời xưa là cho ở với
Thầy; mục đích không những là để cho các trò học tất cả những gì nơi Thầy: sự
khôn ngoan cũng như cách cư xử, nhưng còn là cơ hội cho Thầy quan sát các trò của
mình và sửa sai những tính xấu cho họ.
1.2/ Thành phần của Nhóm
Mười Hai: “Người lập Nhóm Mười Hai và đặt
tên cho ông Simon là Phêrô, rồi có ông Giacôbê con ông Zebedee, và ông Gioan em
ông Giacôbê - Người đặt tên cho hai ông là Boarneghese, nghĩa là con của thiên
lôi - rồi đến các ông Anrê, Philípphê, Barthôlômêô, Mátthêu, Tôma, Giacôbê con
ông Anphê, Tađêô, Simon thuộc nhóm Quá Khích, và Giuđa Iscariot là chính kẻ nộp
Người.” Nhìn qua danh sách của 12 Tông-đồ, một người có những nhận xét như sau:
(1) Không có ai nổi bật:
về danh giá, quyền thế, cũng như về kiến thức. Ngược lại, đa số là những ngư phủ
thất học tầm thường. Các ông có thành công và trung thành với sứ vụ hay không
là do cách Chúa Giêsu huấn luyện.
(2) Là những con người
yếu đuối, tội lỗi: Matthew là người thu thuế, và được xem là tội lỗi thường
xuyên và công khai. Judah Iscarioth là người sẽ nộp Chúa. Hai con ông Zebedee,
Gioan và Giacôbê, là người nhắm địa vị “ngồi bên tả và bên hữu” Chúa Giêsu
trong vương quốc của Ngài. Phêrô chối Chúa 3 lần, và hầu hết các Tông-đồ đều bỏ
Chúa trong Cuộc Thương Khó của Ngài. Điều này cho chúng ta thấy việc huấn luyện
con người không dễ.
(3) Tính khí rất khác
nhau: Simon, người thuộc Nhóm Quá Khích, có khuynh hướng bảo vệ quốc gia
Do-Thái, rất ghét những người cấu kết với ngọai bang để bóc lột dân như
Matthew, người thu thuế. Thế mà Chúa Giêsu chọn hai ông để sống chung với nhau,
dẹp bỏ sự khác biệt, và cùng chung lo một sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Phêrô rất
nhanh nhẩu đến nỗi làm mà không chịu suy nghĩ, để ở với Gioan, người luôn thâm
trầm và cẩn thận suy nghĩ trước khi làm. Nói tóm, sự huấn luyện của Chúa Giêsu
và cuộc sống chung đã làm các ông phải dẹp bỏ những khác biệt cá nhân để cùng
hy sinh cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Chúng ta hãy tin tưởng
hòan tòan nơi Chúa Giêsu, vì Ngài là trung gian của một giao ước hòan hảo.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
20/01/17
THỨ SÁU TUẦN 3 TN
Th. Pha-bi-a-nô, giáo
hoàng, tử đạo Mc 3,13-19
Ở VỚI CHÚA ĐỂ ĐƯỢC SAI
ĐI
Rồi Chúa Giê-su lên núi và gọi đến với
Người những kẻ Người muốn. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và
để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ. (Mc 3,13-14)
Suy niệm: Có những người không
đi theo Chúa Giê-su như các môn đệ
nhưng vẫn có thể nhân danh Ngài mà trừ quỷ (x. Lc 9,49). Khả năng trừ quỷ không
phải là “độc quyền” của các môn đệ và vì thế cũng không phải là “dấu vết riêng”
để xác định căn tính của người môn đệ Đức Ki-tô. Nhân dịp chọn gọi và thiết lập
Nhóm Mười Hai, Chúa cho chúng ta biết tiêu chuẩn xác định căn tính người môn đệ
là: (1) được Chúa gọi đến; (2) đến để ở với Ngài; (3) ở với Ngài để được sai
đi. Để làm môn đệ của Chúa Giê-su thì phải “ở với Ngài” cách trọn vẹn từ
khi “được kêu gọi” đến lúc “được sai đi”. Nếu không có
mối quan hệ thân thiết với Chúa Giê-su thì chưa phải là người môn
đệ đích thực của Ngài.
Mời Bạn: Người
ta có thể làm điều tốt – cứu trợ nạn nhân bão lụt chẳng hạn – dưới nhiều động
cơ và danh nghĩa khác nhau. Việc dấn thân phục vụ của bạn sẽ thiếu “chất ki-tô”
nếu bạn chưa “ở với Chúa”. Bạn được kêu làm môn đệ Đức Ki-tô, bạn chỉ là tông
đồ thực thụ khi bạn trở thành thân thiết hơn với Ngài trước khi đem Ngài đến
với người khác qua cuộc sống dấn thân phục vụ.
Sống Lời Chúa: Đầu
mỗi ngày, bạn dành ít phút hồi tâm nhớ Chúa và cầu nguyện với Ngài, để nhờ đó
mọi việc bạn sắp làm trong ngày sẽ được biến thành một việc tông đồ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con cảm tạ
Chúa đã kêu gọi con làm môn đệ Chúa, để con tận hiến cho Chúa ngay ở giữa thế
gian này. Xin Chúa ban ơn trợ giúp để con luôn ở với Chúa bằng đời sống cầu
nguyện không ngừng.
Đến với Người, ở với Người (20.01.2017-
Thứ Sáu Tuần 2 Thường niên)
Suy niệm:
Thông thường ở xã hội Do Thái, người môn đệ đi tầm sư học đạo.
Còn Thầy Giêsu lại đi “gọi” học trò.
Thầy muốn lập một nhóm học trò ruột, hết sức gần gũi với mình.
Những người Thầy muốn, Thầy đã gọi họ lại.
Và họ đã đáp lời mà đến với vị Thầy đang ở trên núi.
Như thế sáng kiến thì bắt nguồn từ Thầy,
còn đáp lại là điều con người cần thực hiện.
Còn Thầy Giêsu lại đi “gọi” học trò.
Thầy muốn lập một nhóm học trò ruột, hết sức gần gũi với mình.
Những người Thầy muốn, Thầy đã gọi họ lại.
Và họ đã đáp lời mà đến với vị Thầy đang ở trên núi.
Như thế sáng kiến thì bắt nguồn từ Thầy,
còn đáp lại là điều con người cần thực hiện.
Thầy Giêsu muốn lập một nhóm mười hai môn đệ.
Có thể vì Thầy nhớ đến mười hai chi tộc Ítraen ngày xưa.
Mục đích của nhóm Mười Hai này là ở với Thầy và được Thầy sai đi.
Ở với là chuyện ưu tiên, và cũng là chuyện dễ bị xao lãng.
Ở với là có tương quan thân thiết và thường xuyên với Thầy.
Ở với là chia sẻ cuộc sống ăn ở, đói no, thành công, thất bại.
Khi ở với Thầy Giêsu, người môn đệ hiểu Thầy sâu xa và gắn bó với Thầy.
Khi các môn đệ đến với và ở với Thầy Giêsu,
họ như được tách ra khỏi đám đông.
Sau này, khi tìm người thay thế Giuđa phản bội,
Phêrô đòi đó phải là người đã sống với Thầy Giêsu ngay từ đầu (x.Cv 1, 22).
Có thể vì Thầy nhớ đến mười hai chi tộc Ítraen ngày xưa.
Mục đích của nhóm Mười Hai này là ở với Thầy và được Thầy sai đi.
Ở với là chuyện ưu tiên, và cũng là chuyện dễ bị xao lãng.
Ở với là có tương quan thân thiết và thường xuyên với Thầy.
Ở với là chia sẻ cuộc sống ăn ở, đói no, thành công, thất bại.
Khi ở với Thầy Giêsu, người môn đệ hiểu Thầy sâu xa và gắn bó với Thầy.
Khi các môn đệ đến với và ở với Thầy Giêsu,
họ như được tách ra khỏi đám đông.
Sau này, khi tìm người thay thế Giuđa phản bội,
Phêrô đòi đó phải là người đã sống với Thầy Giêsu ngay từ đầu (x.Cv 1, 22).
Ở với nằm trong định nghĩa về người môn đệ của Thầy Giêsu.
Nhưng đó không phải là điểm dừng.
Ở lại với Chúa là để được sai đến với con người.
Được tách ra khỏi đám đông chính là để được sai đến với đám đông,
trong tư cách của người đã được mắt thấy tai nghe Thầy Giêsu.
Người môn đệ được sai sẽ được phép làm những việc y hệt như Thầy :
rao giảng Tin Mừng và trừ quỷ nhằm phục vụ cho con người.
Chẳng những họ làm việc như Thầy, họ còn làm việc của Thầy và với Thầy.
Không ở với thì cũng chẳng được sai đi, và cũng không đủ sức để được sai.
Nhưng ở với là để có ngày được sai đi, mà sai đi thì vẫn luôn ở với.
Nhưng đó không phải là điểm dừng.
Ở lại với Chúa là để được sai đến với con người.
Được tách ra khỏi đám đông chính là để được sai đến với đám đông,
trong tư cách của người đã được mắt thấy tai nghe Thầy Giêsu.
Người môn đệ được sai sẽ được phép làm những việc y hệt như Thầy :
rao giảng Tin Mừng và trừ quỷ nhằm phục vụ cho con người.
Chẳng những họ làm việc như Thầy, họ còn làm việc của Thầy và với Thầy.
Không ở với thì cũng chẳng được sai đi, và cũng không đủ sức để được sai.
Nhưng ở với là để có ngày được sai đi, mà sai đi thì vẫn luôn ở với.
Kitô hữu là người được gọi, để ở với Chúa Giêsu và được ngài sai đi.
Cuộc sống xao động hôm nay có vẻ làm ta quên ở với Chúa
và rơi vào tình trạng nghiện việc.
Chính vì thế công việc ta làm không đem lại hiệu quả thực sự và lâu bền.
Hãy ở với Giêsu mỗi ngày 15 phút, bạn sẽ thấy mọi sự thay đổi.
Cuộc sống xao động hôm nay có vẻ làm ta quên ở với Chúa
và rơi vào tình trạng nghiện việc.
Chính vì thế công việc ta làm không đem lại hiệu quả thực sự và lâu bền.
Hãy ở với Giêsu mỗi ngày 15 phút, bạn sẽ thấy mọi sự thay đổi.
Cầu nguyện:
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa.
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
20 THÁNG GIÊNG
Chia Sẻ Trong Công
Trình Cứu Chuộc
Chúng ta không được
phép quên lý do tại sao Đức Giêsu đã đến làm người trên cõi đời này. Người đã đến
để hoàn thành công trình cứu độ. Người đã hoàn thành bằng cách nào? Bằng đau khổ
và cái chết của Người trên Thập Giá và bằng chiến thắng của Người nơi cuộc Phục
Sinh vinh quang. Mọi lao động của con người, dù có vẻ tầm thường đến mấy đi nữa,
cũng đều tham dự vào công trình cứu độ này của Đức Giêsu. Như tôi đã nói trong
thông điệp về Lao Động: “Bằng thái độ chấp nhận những nỗi vất vả trong công việc
của mình, trong niềm kết hiệp với Đức Kitô Khổ Nạn vì chúng ta, chúng ta đang cộng
tác – một cách nào đó – với Con Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc nhân loại;
chúng ta đang chứng tỏ mình là môn đệ đích thực của Đức Giêsu; chúng ta đang
vác thập giá hằng ngày của mình qua công việc mà mình được mời gọi đảm nhận.”
(Laborem exercens 27).
Giáo Hội cố gắng trung
thành với mẫu gương và chứng tá của Đức Kitô bằng cách kiên thủ với nỗi quan
tâm đến thiện ích của người lao động. Những thông điệp nổi tiếng của các giáo hoàng,
bắt đầu với Thông Điệp Rerum novarum của Đức Lê-ô XIII, luôn luôn bênh vực quyền
lợi về lương bổng và về điều kiện làm việc của người lao động.
Giáo huấn của Giáo Hội
dựa trên nguyên tắc rằng mọi con người đều được dựng nên giống hình ảnh Thiên
Chúa và đều được Thiên Chúa ban cho một phẩm giá độc đáo. Vì thế, cần phải bảo
đảm rằng không ai bị sử dụng thuần túy như một phương tiện sản xuất, như kiểu một
cỗ máy hay một con trâu, con bò… Giáo Hội bác bỏ mọi hệ thống xã hội và kinh tế
dẫn đến tình trạng tước đoạt nhân tính của người lao động.
Bên cạnh mối quan tâm
về điều kiện làm việc, Giáo Hội kiên quyết đòi hỏi rằng người lao động phải nhận
được món tiền lương xứng đáng – một món tiền lương có tính đến các nhu cầu của
gia đình họ nữa. “Đối với một người lao động trưởng thành có những trách nhiệm
gia đình, thì một món tiền lương công bằng nghĩa là phải đủ để tạo lập và duy
trì một gia đình đúng phẩm giá và bảo đảm tương lai của gia đình ấy nữa”
(Laborem exercens 19).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
20-01
Thứ Sáu tuần II thường
niên
Dt 6,8-13 ; Mc
3,13-19.
LỜI SUY NIỆM: “Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người
muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người
và để Người sai các ông đi rao giảng với quyên trừ quỷ.” (Mc 3,13-15).
Đã
đến thời điểm quan trọng của cuộc sống cũng như sứ điệp của Chúa cần được loan
báo rông khắp và được tiếp tục loan báo cho toàn thể nhân loại. Chúa Giêsu đã gọi
những kẻ Chúa muốn. Ngài đã lập Nhóm Mười Hai. Đây là những Giám Mục tiên khởi,
chính những vị Giám Mục này đã được Chúa Giêsu muốn và đã chọn để thay mặt Chúa
trên trần gian này, để tiếp tục loan báo sứ điệp của Ngài. Ngày hôm nay chúng
ta cũng có những vị Giám Mục ở giữa chúng ta. Các ngài đang chăm sóc đời sống của
chúng ta, không những chỉ riêng người Ki-tô hữu, mà gồm tất cả những con người
đang sống trong địa phận của ngài. Trong đời sống hiện tại của mỗi chúng ta phải
biết tôn trọng các ngài, vì các ngài đều đã được Xức Dầu là đấng thay mặt Chúa
Giêsu trên trần gian này; chúng ta phải biết vâng nghe những giáo huấn của các
ngài; bởi những giáo huấn này sẽ giúp chúng ta đi đúng con đường dẫn về Nước Trời,
đồng thời cũng phải biết đem hết nhiệt tâm cộng tác với các ngài trong sứ vụ
truyền giáo. để Ơn Cứu Độ đến được với mọi người trong nhân loại hôm nay.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 20-01: Thánh
FABIANO
Giáo Hoàng Tử Đạo
(+ 250)
Thánh Fabianô lên ngôi
thánh Phêrô không phải do người ta bầu ra, cho bằng chính sự chọn lựa của Thiên
Chúa. Vào lúc dân chúng và hàng giáo sĩ Roma họp nhau để chọn vị mục tử, thì một
cánh chim câu từ trên trời xuống đậu trên đầu Fabiano. Ngài kế vị thánh Anthêrô
làm giáo hoàng năm 236.
Do đó, dầu trước kia
không ai ngó tới Ngài vì Ngài còn là một giáo dân ngoại quốc, bây giờ mọi người
đều lớn tiếng gọi Ngài là người được Chúa chọn. Một cuộc tuyển lựa đặc biệt như
vậy vào Giáo hội hàng đầu trong các Giáo hội, chắc chắn phải có những biến cố
đáng kể tiếp theo. Nhưng lịch sử lại không lưu giữ kỷ niện nào.
Ngài được cai quản
Giáo hội trong 14 năm, với lòng nhiệt thành lẫn sự khôn ngoan. Ngài đã gửi nhiều
nhà truyền giáo sang xứ Gôn (Gaute) và đã kết án nhiều lầm lạc bị gán ghép cách
sai trái cho Origenê. Thánh Cyprianô đã tặng cho Ngài danh hiệu "một con
người khôn sánh".
Ngài đã chịu chết vì đạo
trong thời bách hại của Đeciô khoảng năm 250.
*************
Ngày 20-01: Thánh SÊBASTIANÔ
Ngày 20-01: Thánh SÊBASTIANÔ
Tử Đạo (Thế kỷ III)
Thánh Sêbastianô là
công dân của hai thành phố vì cha Ngài quê quán tại Nac-bon (Narbonne) và mẹ
Ngài quê quán tại Milanô. Năm 283 Ngài gia nhập quân đội. Thánh Sêbastianô nói
rằng: sự hiền lành, khôn ngoan, tài khéo, quảng đại, ngay thẳng và cả trăm đức
tính khác khiến triều đình sớm biết tới thánh nhân. Hoàng đế Điôclêtiano quí mến
và đặt Ngài làm đại úy phòng vệ của ông. Vai trò này giúp cho thánh nhân dễ
dàng đến với các nhà tu để an ủi khích lệ đức tin của các Kitô hữu bị bách hại.
Dịp may đã đến cho
Ngài thi thố lòng nhiêt hành của mình khi Marcô và Marcelinô, hai hiệp sị bị kết
án tử hình vì danh Chúa. Lúc ấy họ suýt bị lung lay đức tin vì những dòng nước
mắt của cha mẹ già yếu lẫn vợ con. Thánh nhân đã có mặt kịp thời để khuyến
khích họ,
Ngài nói: - Hỡi các
chiến sĩ Chúa Kitô, các bạn hy sinh linh hồn bất tử cho thân xác bùn đất sao ?
Các bạn chối bỏ đức tin, phản bội Thiên Chúa, hiến thân cho ma quỉ và từ khước
triều thiên sắp sáng chói trên đầu các bạn sao ?
Đang khi nói những lời
này, một ánh sáng chói lòa tràn ngập ngôi nhà của người giữ ngục. Vợ của người
giữ ngục tên là Zoê được khỏi bệnh câm. Lời nói của thánh Sêbastianô với vài
phép lạ kèm theo đã khơi dậy lòng can đảm nơi các vị tử đạo, cải hóa cha mẹ họ
và khoảng sáu mươi lương dân khác.
Nhưng cuộc trở lại cảm
kích nhất là cuộc trở lại của Crô-mat (Cromace), viên tổng trấn Roma. Ong ta bị
bệnh lậu và nghe biết rằng thánh Sêbastianô, nhờ sức mạnh thầm kín nào đó, có
thể chữa lành nhiều bệnh tật. Ông đến xin thánh nhân cầu khẩn trời cao cho mình
được lành bệnh, thánh nhân nhận lời: - Tôi rất muốn, nhưng với điều kiện là ông
phải thiêu hủy các ngẫu tượng và theo đạo đã.
Đầu tiên ông không chịu
nhưng rồi cũng ưng theo. Ông phá hủy một số lớn các ngẫu tượng. Nhưng bệnh lại
trầm trọng hơn. Ông than thở với thánh nhân: - Nghe lời ông tôi đã pahá hủy các
tựơng thần. Ông đã hứa cho tôi hết bệnh. Bây giờ tôi lại khổ cực hơn bao giờ hết
.
Thánh Sêbastianô trả lời:
- Thưa hoàng công, việc Ngài phá hủy các tượng chẳng nhằm gì nếu Ngài còn cố giữ
lại một tượng thôi. Hãy tiêu hủy nó đi hết và Ngài sẽ được toại nguyện.
Crô-mat tuân theo và
ông đã hết bịnh. Ong và cả gia đình đã theo đạo. Từ chức, ông về miền quê và
nhà ông đã trở thành nơi nương náu cho các Kitô hữu bị đánh hại.
Năm 286, ngọn lửa bách
hại bùng lên dữ dội. Phần đông các Kitô hữu trốn về miền quê. Thánh Sêbastianô
xin đức giáo hoàng cho phép ở lại Rôma để hướng dẫn và nâng đỡ những người còn
lại. Đức giáo hoàng đã trả lời ngay: - Hỡi con hãy ở lại chiến trường để giúp đỡ
các chiến sĩ và hãy tỏ ra là một chiến sĩ gan dạ bảo vệ đức tin.
Một kẻ bội giáo đã tố
giác Ngài với hoàng đế, giận dữ, Điôcletianô triệu vời Ngài tới ngay. Thánh
nhân vừa tới, hoàng đế nói liền: - Sêbastianô, ta đã quí mến ngươi, ta cho
ngươi ở trong hoàng cung và coi ngươi như người nhà mà bây giờ ngươi thù nghịch
với hoàng đế và các thần linh sao ?
Sêbastianô khiêm tốn
trả lời rằng: mình chỉ có thể phục vụ hoàng đế và tổ quốc khi thờ phượng một
Thiên Chúa chân thật và khinh bỏ các ngẫu tượng bằng gỗ đá. Tức giận, hoàng đế
truyền lập tức trói thánh nhân lại và bắn tên cho đến chết. Khi thân thể Ngài đầy
ngập thương tích, người ta tưởng Ngài đã chết và bỏ mặc tại chỗ. Ban đêm, một
góa phụ tên là Irênê đến lấy xác Ngài để mai táng. Nhưng thật lạ lùng khi thấy
Ngài còn sống. Bà liền đưa về nhà săn sóc cho đến khi thánh nhân bình phục hoàn
toàn.
Lúc ấy các Kitô hữu
khuyên Ngài nên tìm đường lẩn trốn. Nhưng sau khi cầu nguyện, Ngài quyết định đến
trước Điôcletianô tuyên xưng đức tin một lần nữa. Trước mặt hoàng đế, Ngài nói:
- Các thày cả thờ ngẫu thần làm cho nhà vua coi các Kitô hữu như là kẻ thù của
tổ quốc. Nhưng đó chỉ là vu khống. Trái lại phải coi như là người xây dựng tổ
quốc mới đúng, bởi vì họ không ngừng cầu nguyện cho tổ quốc được cứu rỗi và nên
phồn thịnh.
Ngạc nhiên không biết
có phải là Sêbastianô ông đã ra lệnh giết không, ông hỏi lại cho chắc. Khi đã
biết chắc, ông truyền đem thánh nhân ra pháp trường đánh đòn cho chết rồi vất
xác xuống rãnh. Một mệnh phụ tên là Lucina đã chôn cất Ngài vào một nghĩa địa ở
dưới hầm.
Từ đó nơi này được mệnh
danh là hang toại đạo thánh Sêbastianô và ngày nay cũng tại nơi này có xây một
đại thánh đường lấy tên là vương cung thánh đường thánh Sêbastianô .
(daminhvn.net)
20 Tháng Giêng
Chuyện Một Khu Rừng
Một câu chuyện có
thật đã được kể về nguồn gốc của một khu rừng như sau: Một ông lão người Pháp nọ,
sau khi vợ qua đời, đã mang đứa con trai duy nhất của ông đến một vùng đất khô
cằn nhất của Miền Trung nước Pháp để lập nghiệp. Thật ra, người đàn ông chỉ muốn
quên đi cái quá khứ khó khăn vất vả.
Vùng đất khô cằn
nơi ông đặt chân đến chỉ còn vỏn vẹn năm ngôi làng nhỏ với rất ít dân cư sống
trong những căn nhà siêu vẹo đổ nát, đa số đã bỏ lên những thành phố lớn để tìm
công ăn việc làm. Ông lão trên 60 tuổi đưa mắt nhìn khung cảnh xung quanh và đi
đến kết luận: nếu không có cây cối, chỉ trong vòng một thời gian ngắn, cả vùng
này sẽ trở thành sa mạc hoang tàn. Sau khi đã dọn chỗ cho đàn cừu và một số gia
súc khác, ông lão bắt đầu đi bộ dọc theo các lối đi và nhặt từng hạt dẻ. Ông chọn
những hạt dẻ tốt để riêng và ngâm vào nước. Khi mặt trời vừa lên, ông dùng một
thanh sắt nhọn moi những lỗ nhỏ và đặt cứ mỗi lỗ một hạt dẻ.
Ngày ngày như thế,
trong liên tiếp 3 năm, ông lão đã trồng được 100 ngàn cây dẻ con. Ông hy vọng rằng
ít nhất 10 ngàn cây còn sống sót. Ông cũng hy vọng rằng Chúa sẽ cho ông sống được
thêm vài năm nữa để làm cho xong công tác trồng cây này.
Ông qua đời năm
1947, hưởng thọ 89 tuổi. Từ những hạt dẻ ông đã cặm cụi moi từng lỗ bỏ vào, nay
nước Pháp đã có được một trong những khu rừng đẹp nhất thế giới. Trong ba khóm
rừng mỗi khóm dài 11 cây số, những cây dẻ xanh tươi cao lớn đã có mặt để giữ nước
mưa, làm cho cây cối xung quanh được xanh tươi và biến khu đồi khô cằn ngày xưa
thành những dòng suối róc rách. Chim chóc đã trở lại. Sự sống cũng chớm nở. Dân
chúng từ từ trở lại các ngôi làng cũ để xây nhà và làm lại cuộc đời.
Sự sống của thiên
nhiên thường giúp con người bớt cô đơn. Ðồng ruộng, cây cỏ xanh tươi, tiếng
chim ca hót thường khơi dậy niềm vui sướng trong lòng người. Ðó là lý do khiến
cho những người sống ở thôn dã dễ có tâm hồn thanh thản và lạc quan vui sống
hơn người thành thị.
Lớn lên ở thôn dã, chứng
kiến cảnh gieo trồng của người nông dân, Chúa Giêsu đã mượn những hình ảnh của
những sinh hoạt thôn dã ấy để nói về Nước Trời. Người gieo trồng nào cũng có niềm
tin và sự lạc quan. Gieo hạt giống vào lòng đất là đặt tất cả niềm tin tưởng
phó thác của mình vào thiên nhiên. Có hạt rơi xuống đất tốt, có hạt rơi bên vệ
đường, có hạt rơi trong bụi gai. Nhưng kết quả cuối cùng vẫn là vụ mùa tươi tốt.
Có những hạt rơi vào đất tốt, có những hạt rơi bên vệ đường, có những hạt rơi
vào bụi gai. Có những kết quả trông thấy, có những âm thầm đau khổ, có những
bách hại dữ dội, nhưng cuối cùng Giáo Hội của Ðức Kitô vẫn tồn tại và sinh ra
được nhiều hoa trái của niềm Hy Vọng.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét