Trang

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2017

10-02-2017 : THỨ SÁU - TUẦN V THƯỜNG NIÊN - THÁNH CÔ-LÁT-TI-CA, TRINH NỮ - Lễ Nhớ

10/02/2017
Thứ Sáu tuần 5 thường niên
Thánh Côláttica, trinh nữ.
Lễ nhớ


* Thánh n là em ca thánh Bin Đc, nhà lp lut cho các đan sĩ Tây phương. Thánh n chào đi Nuc-xi-a, nước Ý, khong năm 480. Thánh n sng đi thánh hiến chân núi Cátxinô, nơi thánh Bin Đc đã lp ra mt đan vin ni tiếng. Thánh n qua đi không bao lâu trước anh người (+ năm 547). Chính vì thế, các n đan sĩ Bin Đc tôn kính thánh n Côláttica như người m tinh thn ca mình.

Bài Ðọc I: (Năm I) St 2, 18-25
"Các ngươi sẽ biết thiện ác như thần thánh".
Bài trích sách Sáng Thế.
Con rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi dã thú mà Thiên Chúa tạo thành.
Nó nói với người nữ rằng: "Có phải Thiên Chúa đã bảo: "Các ngươi không được ăn mọi thứ cây trong vườn?"
Người nữ trả lời con rắn: "Chúng tôi được ăn trái cây trong vườn; nhưng trái cây ở giữa vườn, thì Thiên Chúa bảo: "Các ngươi đừng ăn, đừng động tới nó, nếu không, sẽ phải chết".
Rắn bảo người nữ: "Không, các ngươi không chết đâu. Nhưng Thiên Chúa biết rằng ngày nào các ngươi ăn trái ấy, mắt các ngươi sẽ mở ra, và các ngươi sẽ biết thiện ác như thần thánh".
Người nữ thấy cây đẹp mắt, ngon lành và thèm ăn để nên thông minh.
Bà hái trái cây ăn, rồi lại đưa cho chồng, người chồng cũng ăn. Mắt họ liền mở ra và họ nhận biết mình trần truồng, nên kết lá vả che thân.
Bấy giờ hai người nghe tiếng Thiên Chúa đi trong vườn địa đàng lúc chiều mát.
Ađam và vợ ông liền núp trong lùm cây trong vườn địa đàng cho khuất mặt Thiên Chúa.
Ðó là Lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv. 31, 1-2, 5, 6, 7
Ðáp: Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm. (1a)
Xướng 1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian! - Ðáp.
2) Tôi xưng ra cùng Chúa, tội tôi đã phạm, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: "Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi. - Ðáp.
3) Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cùng Chúa, trong thời buổi khốn khó gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không hại nỗi những người nầy. - Ðáp.
4) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ. - Ðáp.

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia - Lạy Chúa, xin dạy bảo tôi về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn tôi trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 7, 31-37
"Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh.
Người ta đem đến cho Người một kẻ điếc và xin Người đặt tay trên kẻ ấy.
Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh.
Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là "hãy mở ra", tức thì tai anh được sõi sàng.
Chúa Giêsu liền cấm họ: đừng nói điều đó với ai cả.
Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn.
Họ đầy lòng thán phục, mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".
Ðó là Lời Chúa.


Suy Niệm: Hãy mở ra
Michel-Angelo là một trong những danh họa đã để lại nhiều tác phẩm bất hủ nhất, bất hủ vì giá trị nghệ thuật siêu vượt thời gian đã đành, mà còn bất hủ vì sự sống động mà ông đã mặc cho các tác phẩm của ông, điển hình là bức tượng Môsê. Người ta kể lại rằng sau khi hoàn thành bức tượng này, Michel-Angelo đứng chiêm ngắm một cách say sưa, và sự sống động của pho tượng làm ông ngây ngất đến độ ông đã cầm búa gõ vào và thốt lên: "Hãy nói đi".
Quả thật, lời nói là một trong những biểu lộ sống động nhất của sự sống. Khi chúng ta mở miệng thốt ra lời, là lúc chúng ta muốn biểu lộ sự sống, đồng thời nói lên rằng chúng ta đang sống cùng và sống với người khác. Sự hiện diện của chúng ta trong thế giới này cần phải được xác nhận bằng tiếng nói của chúng ta. Những người câm điếc một phần nào bị hạn chế trong sự liên lạc với thế giới xung quanh, sự hiện diện của họ dễ bị người khác quên lãng. Nhưng đáng thương hơn, có lẽ là những người thấp cổ bé miệng, những người mà tiếng nói không được nhìn nhận, những người bị tước đoạt quyền được lên tiếng, quyền sống của họ gần như bị khước từ.
Sống xứng với phẩm giá con người, đó là phải được có tiếng nói. Có lẽ đó cũng là điều mà Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể cũng muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống và cái chết của Ngài. Phép lạ chữa người câm điếc như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay, không chỉ là một chữa lành bệnh tật thân xác, mà còn là dấu chỉ của một thực tại cao siêu hơn, đó là sự sống đích thực mà Chúa Giêsu muốn mang lại cho con người. Khi phục hồi người câm điếc trong khả năng nghe và nói, có lẽ Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng con người không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa; con người chỉ có thể sống thực, sống trọn phẩm giá con người, khi nó biết mở rộng tâm hồn đón nhận và sống Lời Hằng Sống của Chúa.
Cử chỉ Chúa Giêsu trong phép lạ chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo Hội lặp lại khi cử hành Bí tích Rửa tội. Thật thế, Bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ trong đó chúng ta được chữa lành và tái sinh trong đời sống mới. Trong phép lạ này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Ephrata, Hãy mở ra. Hãy mở lớn đôi tai để nghe được tiếng Ngài trong từng biến cố, từng giây phút của cuộc sống. Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở miệng để cảm tạ, chúc tụng và loan báo tình thương Chúa; để nói những lời của yêu thương và hòa bình, của cảm thông và tha thứ.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Hằng Sống của Chúa, chính Ngài là lương thực mang lại sự sống đích thực cho chúng ta. Xin cho sự sống ấy tràn ngập tâm hồn chúng ta để chúng ta lớn lên trong tình yêu Chúa và không ngừng yêu thương, liên đới, chia sẻ với mọi người xung quanh.

Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 5 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Gen 3:1-8; Mk 7:31-37.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sa ngã và tội lỗi
Tại sao con người phạm tội? Người Do-Thái, qua những tài liệu của Qumran, quan niệm cuộc đời là bãi chiến trường giữa Thiên Chúa và ma quỉ, giữa sự thiện và sự ác, giữa con cái của ánh sáng và con cái của bóng tối. Thiên Chúa muốn con người làm những sự tốt lành vì họ là con cái của ánh sáng. Ngược lại ma quỉ muốn con người làm những điều gian ác, để thuộc về con cái của bóng tối giống như chúng. Con người bị giằng co giữa hai bên, và phải xử dụng tự do để quyết định những gì nên làm và nên tránh.
Để giúp con người trở nên tốt lành và gìn giữ con người khỏi tội lỗi và sự chết, Thiên Chúa dạy dỗ để con người biết phân biệt tốt khỏi xấu, và báo trước những hậu quả của các hành động vâng phục hay bất tuân lệnh của Ngài. Ngược lại, để cám dỗ con người phạm tội, ma quỉ phô trương ra những điều hấp dẫn bên ngòai và ẩn giấu đi những điều thiệt hại bên trong; vì nếu phô trương ra sự thật, làm sao chúng có thể lôi kéo con người! Chúng làm con người hy vọng những gì Thiên Chúa nói là sai, và hậu quả mà Thiên Chúa báo trước sẽ không như vậy.
Các Bài Đọc hôm nay cho thấy tội lỗi xảy ra khi con người lạm dụng tự do để bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế Ký trình bày sự sa ngã đầu tiên của Adong và Evà. Ông bà sa ngã vì đã tin vào những gì ma quỉ cám dỗ qua con rắn, qua việc ăn trái cây biết thiện và ác mà Chúa đã ngăn cấm. Trong Phúc Âm, mặc dù Chúa Giêsu đã ngăn cấm con dân chúng đừng loan truyền phép lạ Chúa làm, họ vẫn bất tuân và loan truyền khắp nơi.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sa ngã đầu tiên của con người
1.1/ Ma quỉ và con người: Ma quỉ được tác giả so sánh như lòai rắn, vì sự ma lanh và quỉ quyệt của nó: “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Đức Chúa là Thiên Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà: "Có thật Thiên Chúa bảo: "Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?” Cám dỗ của ma quỉ đầu tiên là phóng đại lệnh truyền của Thiên Chúa, với mục đích làm cho con người thấy sự vô lý của lệnh truyền và sự khắc nghiệt của Thiên Chúa. Lần cám dỗ đầu tiên, người đàn bà nhận ra sự thật, và đã sửa sai con rắn về tính phóng đại của nó: "Trái các cây trong vườn, chúng tôi được ăn. Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: "Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết."”
1.2/ Ma quỉ biết rõ những gì con người muốn: Kế tiếp, rắn cám dỗ con người về hậu quả của việc làm. Rắn nói với người đàn bà: "Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác." Chúng ta thấy sự ma lanh của rắn ở đây: Nó phủ nhận sự chết, nhưng nhấn mạnh đến việc trở thành “những vị thần biết điều thiện điều ác,” như tên Thiên Chúa gọi “cây cho biết thiện và ác.” Chúng biết con người thích tự do, độc lập; và không muốn tùy thuộc vào ai trong việc làm quyết định. Nếu biết thiện và ác, con người sẽ không cần lắng nghe những gì Thiên Chúa dạy dỗ, và sẽ không lệ thuộc vào Thiên Chúa nữa. Con người sa ngã vì cả những hấp dẫn bên ngòai của trái cây và ước muốn được trở nên thần thánh bên trong: “Người đàn bà thấy trái cây đó hấp dẫn để ăn, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn.”
1.3/ Hậu quả của việc bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa: “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân. Nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Đức Chúa là Thiên Chúa.” Đúng như tên gọi của cây: ông bà biết điều thiện và điều ác; thay vì chỉ biết điều thiện như trước đây. Ông bà không những biết điều xấu, mà còn biết xấu hổ vì đã làm điều xấu.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu chữa một người ngọng và điếc.
2.1/ Cách Chúa chữa bệnh: Trình thuật kể: “Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Ephphatha!" nghĩa là: Hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.” Một người có thể nhìn thấy sự khác lạ của phép lạ này nếu đem so sánh với các phép lạ khác; vì trong hầu hết các phép lạ khác, người bệnh cứ ở vị trí của mình, Chúa Giêsu chỉ cần phán là người bệnh được khỏi. Sở dĩ Chúa phải kéo riêng anh ra một nơi, vì anh điếc không nghe được những gì Ngài truyền; và cũng để tránh việc anh có thể làm trò cười cho thiên hạ khi anh không hiểu ý Ngài. Lý do tại sao Chúa phải dùng những cử động có lẽ cho lợi ích của bệnh nhân, để anh biết nguyên nhân của bệnh.
2.2/ Lệnh truyền của Chúa Giêsu và phản ứng của dân chúng:
(1) Tại sao Chúa Giêsu ngăn cấm họ không được rao truyền? Trong Tin Mừng Marcô, chúng ta thường thấy Chúa Giêsu ngăn cấm dân chúng không cho loan truyền những phép lạ Ngài làm, vì lý do “bí mật của Đấng Thiên Sai.” Người Do-Thái, cũng như đa số con người, dễ chấp nhận một Đấng Thiên Sai uy quyền, làm các phép lạ vĩ đại để cứu thóat con người, và giải phóng quốc gia họ khỏi quyền lực ngọai bang. Họ không thể chấp nhận một Đấng Thiên Sai hiền lành, chịu đánh đòn và đóng đinh trên Thập Giá, và giải thóat con người bằng yêu thương và chịu đau khổ. Chúa Giêsu làm phép lạ vì thương dân, không muốn dân chịu đau khổ vì bệnh tật; đồng thời Ngài cũng muốn cho dân tin vào Ngài qua uy quyền làm phép lạ. Điều Ngài không muốn là dân chúng chỉ quen với hình ảnh một Đấng Thiên Sai uy quyền, không để ý đến những điều Ngài giảng dạy, và mất niềm tin khi thấy Ngài chịu treo trên Thập Giá.
(2) Phản ứng của dân chúng: “Nhưng Người càng truyền bảo, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được."” Dân chúng nghĩ việc loan truyền những điều Chúa làm là phải, để mọi người có cơ hội biết đến và tin vào Ngài. Chúa Giêsu lại không muốn những niềm tin đặt căn bản trên phép lạ, vì nó sẽ phai lạt nhanh chóng khi không còn phép lạ nữa. Ngài cần những niềm tin đặt trên hiểu biết và yêu thương, mới có thể giúp con người vượt qua những sóng gió đau khổ của cuộc đời. Chỉ cần quan sát cảnh tượng xảy ra tượng xảy ra dưới chân cây Thập Giá, một người có thể cảm thấy sự mong manh của những niềm tin đặt căn bản trên phép lạ; cũng như những niềm tin đặt trên cơm bánh.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa dựng nên mọi sự tốt lành, và những gì Ngài truyền cho con người phải giữ là cho sự tốt lành của con người. Chúng ta cần tuân giữ để có được và bảo vệ những tốt lành đó.
- Mọi sự xấu xa và tội lỗi là do ma quỉ và con người gây nên, vì đã không biết xử dụng tự do Thiên Chúa ban để tuân giữ những gì Thiên Chúa truyền dạy.
- Chúng ta không thắng được ma quỉ bằng sức riêng của mình; chúng ta cần được hướng dẫn bởi Lời Chúa để nhận ra tình yêu và đường lối của Thiên Chúa cho con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

10/02/17     TH SÁU TUN 5 TN
Th. Cô-lát-ti-ca, trinh nữ            Mc 7,31-37

XIN MỞ TAI VÀ MIỆNG CON


Chúa Giê-su ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha,” nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. (Mc 7,34-35)

Suy niệm: Tờ báo Daily Yomiuri nhận định, giới trẻ ngày nay mở điện thoại từ 110 đến 150 lần một ngày, đôi khi không vì mục đích gì cả và họ hoảng hốt khi mở ra mà không có tin nhắn hay cú điện thoại nào cho mình. Có như thế chúng ta mới hiểu được tâm trạng người câm điếc trong Tin Mừng này. Anh buồn vì tai không nghe được, miệng anh không nói được rõ ràng. Đau khổ hơn, người chung quanh không hiểu anh và anh cũng chẳng làm cho người khác hiểu được anh. Sự cô đơn bên trong đau đớn hơn sự cô độc bên ngoài. Nhưng lòng thương xót của Chúa cứu độ anh. Chúa Giê-su kéo anh riêng ra và phán: “Ép-pha-tha”: hãy mở ra! Quyền năng Chúa chữa lành, cho anh vừa nghe được vừa nói được. Ngài chữa lành “hai trong một.” Không có gì vui hơn lần đầu tiên được nghe và được nói. Chúa làm biến đổi cuộc đời anh.

Mời Bạn: Về mặt thiêng liêng, không ít lần chúng ta tự nguyện trở nên người câm điếc. Lắm khi ta muốn điếc để không nghe lời Chúa, không muốn nghe Chúa đòi hỏi: nghe băng đĩa hàng giờ, nhưng lại không dành được vài phút để nghe lời Chúa! Miệng nói chuyện phiếm bất tận, nhưng lại không nói được một vài lời Chúa cho người thời đại! Nghe lời Chúa hôm nay, bạn có quyết tâm gì?

Sống Lời Chúa: Thực hành hằng ngày “hai trong một”: đọc lời Chúa và nói lời Chúa cho người khác mỗi ngày.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin thương chữa lành khuyết tật của con, xin nói lời “Ép-pha-tha” khai mở tai miệng con ra, hầu con nghe và làm vang lời Chúa.

 Nói được rõ ràng (10.2.2017 – Th sáu Tun 5 Thường niên)
Bnh câm điếc v mt tinh thn làm người ta thành nhng hòn đo, chng có gì đ cho, chng có gì đ nhn, đ ri chết dn trong s nghèo nàn ca mình. 


Suy nim:
Khi đến thăm những trẻ em khuyết tật,
ta thấy mình dễ tiếp xúc, gần gũi các em mù,
hơn các em bị câm điếc.
Thật khó làm cho các em câm điếc hiểu được chúng ta,
và chúng ta cũng không hiểu được điều các em diễn tả.
Ðôi bên cứ như ở hai thế giới, không gặp được nhau.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Ðức Giêsu chữa một người vừa ngọng vừa điếc.
Người ngọng là người gặp khó khăn khi trình bày,
khi phải diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu.
Ta có cảm tưởng lưỡi anh bị một sợi dây trói buộc.
Ðức Giêsu đã đụng đến lưỡi anh,
và sợi dây đó được tháo cởi.
Giờ đây anh có thể nói được tự nhiên và rõ ràng.
Nói sao để người khác hiểu được mình,
đó là ước mơ của nhiều người trong chúng ta.
Nhưng ta lại thấy có cái gì đó trói buộc mình
khiến mình ngần ngại, sợ hãi, né tránh...
Nhiều người đã trở nên ngọng hay câm
vì đã trải qua những kinh nghiệm đau đớn:
kinh nghiệm bị châm chọc, bị khinh miệt, bị khước từ...
Bao kinh nghiệm làm con người mất tự tin và khép lại.
Có những đe dọa ám ảnh làm con người câm nín.
Epphatha, xin hãy mở miệng con
để con có thể hồn nhiên vén mở thế giới của mình,
hầu gặp được sự cảm thông và nâng đỡ.
Nếu bệnh ngọng làm chẳng ai hiểu tôi,
thì bệnh điếc làm tôi chẳng hiểu ai.
Tôi như người đang xem một phim trên truyền hình
mà máy đột nhiên mất tiếng.
Tôi chỉ thấy hành động, nhưng không hiểu được ý nghĩa.
Chẳng ai muốn mình bị điếc hay lãng tai,
nhưng trong thực tế, ta vẫn có thể mắc bệnh này,
nghĩa là mất khả năng lắng nghe người khác.
Chúng ta thường chỉ nghe điều mình muốn nghe,
hay lắm khi nghe điều người khác nói
nhưng lại hiểu dưới cái nhìn chủ quan của mình.
như thế vẫn là chưa hiểu được điều người kia muốn nói.
Nghe bằng tai, không đủ.
Cần lắng nghe bằng cả trái tim.
Chỉ trái tim yêu thương mới giúp ta hiểu đúng, hiểu đủ,
hiểu ý nghĩa đàng sau lớp vỏ ngôn từ.
Epphatha, xin giúp con ra khỏi cái tôi cứng cỏi,
ra khỏi những thành kiến, những suy nghĩ cứng nhắc,
để nghe được cái tôi của anh em.
Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại,
vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần.
Bệnh này làm người ta thành những hòn đảo,
chẳng có gì để cho, chẳng có gì để nhận,
để rồi chết dần trong sự nghèo nàn của mình.
Xin cho con đừng câm điếc trước Thiên Chúa và anh em,
đồng thời giúp người khác ra khỏi sự câm điếc của họ.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa,
làm chân tay cho những người què cụt,
làm đôi mắt cho ai phải đui mù,
làm lỗ tai cho những người bị điếc,
làm miệng lưỡi cho người không nói được,
làm tiếng kêu cho người chịu bất công.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa,
để đem cơm cho người đói đang chờ,
và đem nước cho người họng đang khô,
đem thuốc thang cho người đang đau ốm,
đem áo quần cho người đang trần trụi,
đem mền đắp cho người rét đang run.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đường vắng,
thắp đèn soi cho ai bước trong đêm,
đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh,
truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi,
nâng phẩm giá cho kẻ đời chà đạp,
đem tự do cho những kiếp đọa đày.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con vào thôn xóm,
đem an hòa cho những ai bất thuận,
đem thanh bình cho kẻ sống âu lo,
đem ủi an cho người đang sầu khổ,
đem niềm vui cho những ai bất hạnh,
đem vận may cho người gặp rủi ro.
Lạy Chúa, xin cứ đặt con như một sự tình cờ,
đem may mắn cho những ai gặp được,
giữa đường đời khi lỡ bước bơ vơ,
cứ cho con đừng bao giờ khiếp sợ:
giữa biển đời mang con tim núi lửa
với đôi tay êm ái của mẹ hiền.
Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất cả
cho mọi người được hạnh phúc yên vui ;
còn phần con xin gởi hết nơi Ngài
là Thiên Chúa, Tình Yêu và Lẽ Sống.
Ngài cho con tất cả niềm hy vọng
để tin yêu và vui sống trọn đời.
(NCĐ)

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
10 THÁNG HAI
Nghệ Thuật Thánh: Thấm Đẫm Cái Đẹp Và Sự Thật
Cuộc nhập thể của Con Thiên Chúa đã đem lại khả năng diễn dịch mầu nhiệm của Thiên Chúa xuyên qua những dấu hiệu khả giác – để bộc lộ sự hiện diện của Thiên Chúa cho con người. Với biến cố nhập thể, Ngôi Lời đã đến và trở thành một phần của lịch sử: vị Người-Chúa này đã được nhìn thấy, được nhận biết, được mến yêu. Nghệ thuật Kitô giáo trình bày nhân tính hữu hình của Đức Kitô và các hoạt động thần linh của Người – và với ngôn ngữ sáng tỏ của mình, nó mở ra cho người ta cảm thụ một khía cạnh nào đó trong bản tính khôn tả của Thiên Chúa.
Vẻ đẹp kết hợp với sự thật phản chiếu nơi mọi hữu thể, vén mở bí mật thâm sâu của nó cho con cái loài người. Vì thế, nghệ thuật đích thực là nghệ thuật được bao phủ bằng những dấu chỉ của vẻ đẹp và chân lý. Bấy giờ, nó sẽ trở thành phổ quát, chân chính và có thể hiểu được đối với mọi người. Người ta đón nhận nó với niềm vui, và họ sẽ rút ra từ nó sức khích lệ để thực hiện những điều cao quí.
Giáo Hội đề cao nghệ thuật đích thực, bởi vì Giáo Hội nhìn thấy trong đó một sự diễn tả căn bản của văn hóa và của nhân tính. Giáo Hội cũng xác tín rằng đức tin có thể và vốn thường tác động trong các tác phẩm nghệ thuật một vai trò thúc đẩy – tác động thúc đẩy này đụng chạm đến trái tim và tâm linh của người ta. Công Đồng Vatican II đã nhận định: “Trong những hoạt động cao quí nhất của tài năng con người, rất đáng kể đến mỹ thuật, nhất là nghệ thuật tôn giáo mà tột đỉnh của nghệ thuật này chính là nghệ thuật thánh. Tự bản tính, nghệ thuật thánh nhằm diễn tả một cách nào đó vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa qua những tác phẩm nhân loại; nghệ thuật này càng làm cho Thiên Chúa được ca tụng và tôn vinh hơn, một khi những tác phẩm đó không nhắm chủ đích nào khác ngoài sự góp phần tích cực vào việc đạo đức là hướng tâm trí người ta về cùng Chúa.” (PV 122)
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 10 -2
Thánh Scholastica trinh nữ
St 3,1-8; Mc 7, 31-37.

Lời Suy Niệm: Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh, Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên lên một tiếng rồi nói: “Ép-pha-ta” Nghĩa là hãy mở ra. Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị trói lại. Anh ta nói được rõ ràng.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu rất yêu thương và rất tế nhị trong từng hoàn cảnh một. Trong hoàn cảnh người bị điếc và ngọng này Chúa đã kéo riêng anh ra khỏi đám đông để chỉ còn lại anh ta với những cử chỉ và lời nói của Người; cũng như khi các môn đệ trên đường đi đã tranh luận ai là người lớn hơn cả, thì Người vẫn giữ sự yên lặng cho đến khi về đến nhà Người mới hỏi các ông.(Mc 9, 33-34), Đứng trước người bị phung hủi, người mù, Người luôn hỏi: anh muốn tôi làm gì cho anh...(Mc 11,51; Mt 20,32; Lc 18,41)
Lạy Chúa Giêsu. Xin ban cho chúng con có được khiêm nhu khi phục vụ những người anh em cần đến chúng con để tất cả được hưởng niềm vui trọn vẹn.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 10-02
Thánh SCÔLASTICA
Đồng trinh (480-543)

Thánh Scholastica là em gái thánh Benêdictô, tổ phụ của những đời sống khổ tu bên Tây phương. Ngài còn được nối kết với thánh nhân như người em sinh đôi, nhưng không chắc chắn lắm. Chúng ta biết được chút ít về đời sống của thánh nữ là do cuốn Dialogue, tập hai, của thánh Grêgôriô cả, cuốn sách ghi lại đời sống thánh Bênêdictô và các phép lạ của Ngài. Như anh của Ngài, thánh nữ Scholastica đã sinh ra tại quận Sabina miền Nursia và cha mẹ Ngài được giả thuyết cho là những người dòng dõi quí phái tai miền quê.
Vào một lúc nào đó, có lẽ khi còn rất trẻ, Scholastica đã tu kín và trong những năm cuối cùng đời Ngài, chúng ta thấy Ngài sống gần Montê Cassinô, để có thể gặp được anh mình mỗi năm một lần.
Khi thánh Bênêdictô thiết lập tu viện tại Montê Cassiô, Scholastica cùng với các trinh nữ quây quần bên Ngài đã đến ở bên núi, lập thành tu viện Palumbariola, Ngài đặt mình dưới sự hứơng dẫn của anh, vì Ngài biết rằng: không có ai có thể hướng dẫn các linh hồn về trời cách chắc chắn hơn.
Nhưng Ngài không hề làm rộn anh mình và chỉ gặp anh mỗi năm một lần vào trước mùa chay, trong một trang trại của tu viện ở miền núi. Một nguyện đường đã được dựng nên tại đây để ghi nhớ những giây phút khôn tả, mà thánh Bênêdictô thông cho em mình ánh sáng thần linh Ngài thụ lãnh được và dạy dỗ em mình đường trọn lành của tu sĩ trong thống hối và yêu thương.
Nhưng lần ấy họ đã trải qua một ngày để khen ngợi Chúa và cầu xin hạnh phúc trên trời, bên ngoài khí trời tươi mát vì đã vào xuân, bầu trời trong sáng lạ thường, thánh Scholastica say sưa cảm nếm hương vị của câu chuyện đàm thọai trong khi màn đêm buông dần xuống... lúc đó thánh Scholastica nới với thánh Bênêdictô: - Anh ơi trời khuya rồi, làm sao anh về được. Thôi mình tiếp tục nói chuyện tới sáng về niềm vui cuộc sống trên trời đi.
Thánh Bênêdictô trả lời: - Em nói chi, anh không thể nhận lời em được. Anh không thể qua đêm ở ngoài nhà dòng được đâu.
Thánh Scholastica dấu mặt vào đôi lòng bàn tay và nức nở khóc. Ngài nói với Chúa ước muốn êm ái của lòng mình. Và Thiên Chúa là đấng đã chúc phúc cho cả một cuộc sống hiến dâng, lại sắp gọi thánh nữ về với mình, nên như người cha chiều con vậy, đã muốn ban cho Ngài niềm an ủi dịu dàng cuối cùng. Một trận cuồng phong nổi lên. Mưa đổ xuống như thác lũ với sấm sét dữ dằn. Chẳng ai còn có thể nghĩ tới việc ra đi nữa.
Thánh Bênêdictô bối rối, Ngài nói: - Này em, em làm gì vậy ?
Thánh Scholastica êm ái trả lời: - Em đã xin anh, nhưng anh chẳng muốn nghe em. Em đã cầu xin Chúa và Ngài đã nhận lời. Bây giờ nếu có thể được, anh hãy về nhà dòng đi.
Lúc ấy thánh Bênêdictô cảm tạ lòng thương xót Chúa, Ngài tiếp tục nói chuyện về hạnh phúc đang chờ đón những người Chúa chọn. Lời Ngài dâng cao như những chùm ánh sáng.
Đến sáng cơn giông ngừng. Anh em mỗi người một ngả và không còn gặp nhau trên trần gian này lần nào nữa.
Ba ngày sau, khi thánh Bênêdictô đang đứng bên cửa sổ đã thấy linh hồn em mình bay lên như ánh chim câu, phủ đầy ánh sáng thiên đàng. Say mê với thị kiến này, Ngài cất cao giọng hát bài thánh Ca. Đó chính là lúc thánh Scholastica êm ái tắt hơi trong tu viện mình. Thánh Bênêdictô sai các tu sĩ đi tìm xác em để chôn trong ngôi mộ dọn sẵn cho mình.
Một tháng sau nhà ẩn tu vĩ đại cũng từ giã cõi thế để hợp với thánh Scholastica trong hạnh phúc của các thánh nhân mà họ đã tha thiết khơi dậy.
(daminhvn.net)


10 Tháng Hai
Liều Thuốc Dành Cho Kẻ Chán Ðời
Một người đàn ông chán đời nọ đang đứng nhìn dòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông đốt một điếu thuốc cuối cùng trước khi kết liễu cuộc đời.
Ông không còn lối thoát nào khác hơn nữa. Ông đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường trong tâm hồn. Ông đã đi đây đi đó, ông đã tìm lạc thú trong các cuộc vui trác táng, ông đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng chán chường vẫn cứ chán chường. Ông thử thời vận lần cuối cùng bằng một cuộc hôn nhân, nhưng không có một người đàn bà nào có thể ở bên cạnh ông được vài tháng, bởi vì ông đòi hỏi quá nhiều, nhưng lại không biết nghĩ đến người khác. Ông nhận ra rằng ông đã chán chường mà cũng không ai được hạnh phúc bên cạnh ông. Chỉ có dòng sông may ra mới mang lại cho ông sự thanh thản.
Người đàn ông chưa hút xong điếu thuốc thì cũng có một người hành khất cũng đi qua chiếc cầu. Con người rách rưới đó dừng lại nhìn người đàn ông và chìa tay xin giúp đỡ. Người đàn ông chán chường không ngần ngại rút cả ví tiền và trao cho người hành khất. Ông giải thích rằng bên kia thế giới ông không cần tiền bạc nữa. Người hành khất cầm lấy chiếc ví một lúc rồi trao lại cho khổ chủ. Ông ta nhìn thẳng vào đôi mắt của kẻ chán đời và nói: "Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế. Tuy là một người hành khất, nhưng tôi không là một kẻ hèn nhát. Ông hãy giữ lại tiền của ông và đem qua bên kia thế giới của ông". Nói xong, người hành khất ném cả ví tiền xuống dòng sông rồi lặng lẽ bước đi, bỏ mặc kẻ chán đời tiếp tục gặm nhấm nỗi đắng cay chua xót của ông.
Ðã hút xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn muốn chưa kết liễu cuộc đời. Ông nhìn theo người hành khất đang khuất xa dần. Tự nhiên, ông không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt lại chiếc ví để trao tặng cho người hành khất. Chưa một lần trong đời, ông biết mở ví trao tặng cho bất cứ người nào. Giờ phút này. ông muốn mở rộng tâm hồn, mở rộng đôi tay để trao tặng và muốn tiếp tục sống. Nghĩ như thế, kẻ chán đời đứng thẳng lên, rời bỏ cây cầu và tiếp tục đuổi theo cho kỳ được người hành khất.
Không gì buồn chán cho bằng sống không có định hướng, không có lẽ sống. Sống mà không biết tại sao mình sống, mình sẽ đi về đâu là điều làm cho con người chán chường và đau khổ nhất.
Ai cũng khao khát hạnh phúc, ai cũng đi tìm hạnh phúc nhưng lắm khi người ta chỉ chạy theo ảo ảnh của hạnh phúc. Ai cũng biết rằng tiền tài, danh vọng và lạc thú trong cuộc sống tự nó không phải là hạnh phúc và lắm khi chúng cũng không mang lại hạnh phúc cho con người.
Hạnh phúc không phải là một nơi để đi đến, hạnh phúc là một hướng đi. Có đi theo hướng đó, con người mới cảm thấy được hạnh phúc. Vậy hướng đi của chúng ta là gì?
Chúa Giêsu, Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống, đã vạch ra cho chúng ta hướng đi ấy. Và hướng đi Ngài đã vạch ra chính là Sống cho tha nhân. Ai càng tích trữ và chiếm giữ cho mình, người đó càng nghèo nàn và khốn khổ. Ai càng đóng kín quả tim và khép chặt bàn tay, người đó sẽ không được nhận lãnh. Hạnh phúc đích thực chính là trao ban, bởi vì như Thánh Phaolô đã ghi lại lời của Chúa Giêsu: "Cho thì có hạnh phúc hơn nhận lãnh".
Cho là liều thuốc chữa trị được căn bệnh trầm trọng nhất trong tâm hồn chúng ta: đó là sự chán sống. Cho cũng là liều thuốc xoa dịu được mọi khổ đau trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta đang đau khổ vì bị phản bội, vì thất chí, vì bệnh tật hay vì bất cứ một nguyên do nào: chúng ta hãy thử mở rộng tâm hồn để trao ban, để san sẻ. Chúng ta sẽ cảm thấy được xoa dịu trong tâm hồn.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét