Bề trên cả Dòng Tên bị tỏ ý lo ngại: Kitô Giáo không có Chúa
Kitô
Vũ Văn An4/1/2017
Theo
Magister Sandro, trong số các linh mục sinh tại giáo phận Carpi, nơi Đức
Phanxicô sẽ tới thăm vào Chúa Nhật, 2 tháng Tư này, sẽ có một vị đang gây nhức
óc cho ngài.
Đó là Cha Roberto
A. Maria Bertacchini. Ngài vốn được đào tạo tại một trường có tới 3 linh mục
Dòng Tên nổi tiếng. Đó là các Cha Heinrich Pfeiffer, một sử gia nghệ thuật và
là giáo sư tại Đại Học Gregoriana, Francesco Tata, cựu bề trên tỉnh dòng Tên tại
Ý và Piersandro Vanzan, một cây viết nổi danh của tờ “La Civiltà Cattolica”.
Cha Bertacchini vốn là một học giả nghiên cứu về Thánh Augustinô và là tác giả
của nhiều cuốn sách và bài báo đăng trên các tập san thần học.
Tuần trước, Cha gửi
cho Đức Phanxicô và Đức Hồng Y Gerhard L. Müller, bộ trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức
Tin một tờ trình (memorandum) dài 6 trang, cực lực phê phán các ý nghĩ được
trình bầy trong cuộc phỏng vấn gần đây với tân bề trên cả Dòng Tên, Cha Arturo
Sosa Abascal, người rất gần gũi với Đức Giáo Hoàng.
Cha Bertacchini
cho rằng các ý nghĩ trên “có tính cách trầm trọng đến nỗi không thể im lặng làm
ngơ mà không trở thành kẻ đồng loã với chúng” vì chúng có nguy cơ “đem đến một
thứ Kitô Giáo không có Chúa Kitô”.
Cuộc phỏng vấn
nói trên là cuộc phỏng vấn của nhà báo Thụy Sĩ Giuseppe Rusconi chuyên viết về
Vatican, đăng trên Blog Rossoporpora ngày 18 tháng Hai vừa qua. Sau đây là nội
dung một số điểm trong tờ trình của Cha Bertacchini:
Tờ Trình
Về cuộc phỏng vấn
với Cha Bề Trên Cả Dòng Tên về tính đáng tin cậy của các Sách Tin Mừng
Bởi Roberto A.
Maria Bertacchini
Tháng Hai vừa
qua, Cha Bề Trên Cả Dòng Tên có tham dự một cuộc phỏng vấn trong đó, ngài ám chỉ
rằng lời lẽ của Chúa Giêsu về tính bất khả tiêu của hôn nhân không phải là một
điểm có tính vững ổn về thần học, nhưng đúng hơn, là một điểm khởi đầu đối với
tín lý mà ta cần phải khai triển cách thích đáng. Điều này, nghĩ cho cùng, có
thể dẫn tới việc hỗ trợ điều trái ngược hẳn, tức sự tương hợp của ly dị đối với
cuộc sống Kitô Giáo. Theo nhận định của Cha Bertacchini, sáng kiến này có thể
châm ngòi cho một tình huống nổ bùng.
Dĩ nhiên, Cha
Arturo Sosa Abascal, Dòng Tên, rất thận trong việc không rơi vào trạng huống lạc
giáo thẳng thừng. Và điều này, theo một nghĩa nào đó, có khi còn trầm trọng
hơn. Bởi thế, điều cần là lần giở lại sợi chỉ xuyên suốt trong lối lý luận của
ngài.
Vấn đề ngài đặt
ra là liệu các tác giả Tin Mừng có đáng tin hay không, và ngài cho hay: cần phải
biện phân. Thành thử việc các ngài có đáng tin hay không không phải là một sự
kiện. Một tuyên bố nghiêm trọng như thế cần phải được lý luận thấu đáo cả về
chiều dài lẫn về chiều sâu, vì quả tình có thể có việc thừa nhận sai lầm trong
chi tiết câu truyện; nhưng nghi vấn tính chân thực trong các giáo huấn tín lý của
Chúa Giêsu là một điều khác hẳn.
Dù thế nào đi
chăng nữa, vị tu sĩ Dòng Tên của chúng ta cũng không tự ý can dự, nhưng một
cách rất khôn khéo, đã nại tới Đức Giáo Hoàng. Và vì Đức Phanxicô, trong khi xử
sự với các cặp đã ly thân v.v…, cho tới lúc có cuộc phỏng vấn, chưa bao giờ
trích dẫn các đoạn trong đó Chúa Giêsu nhắc đến tính bất khả tiêu của hôn nhân,
nên sứ điệp tiềm ẩn của vị tu sĩ Dòng Tên của chúng ta rõ như ban ngày: nếu Đức
Giáo Hoàng đã không trích dẫn các đoạn đó thì có nghĩa là ngài đã làm việc biện
phân và đã cho rằng chúng không phải là lời lẽ của Chúa Giêsu. Do đó, chúng
không có tính bó buộc. Nhưng mọi vị giáo hoàng trước đây từng dậy điều ngược lại.
Điều này là sao? Hẳn các ngài sai lầm cả. Hay các ngài hẳn đã nói và dậy những
điều chỉ đúng với thời các ngài, chứ không đúng với thời ta.
Ta phải rõ ràng
điều này: vị tu sĩ Dòng Tên ưu tú của chúng ta không nói điều trên “apertis
verbis” (một cách huỵch toẹt) nhưng nói xa gần, để người ta tự hiểu lấy. Và do
đó, ngài cho ta chiếc chìa khóa để giải thích phương thức mục vụ của Đức Giáo
Hoàng đối với các gia đình đi trệch ra ngoài giáo huấn truyền thống. Đó là:
trên thực tế, nay “ta biết”, một cách rất có thể, hay đúng hơn, gần như chắc chắn,
rằng Chúa Giêsu không bao giờ dạy hôn nhân là bất khả tiêu. Chính các tác giả
Tin Mừng đã hiểu lầm mà thôi.
Một Kitô Giáo
không có Chúa Kitô?
Vấn đề nghiêm trọng
đến nỗi không thể im lặng làm ngơ mà không trở thành đồng loã. Nguy hiểm là: điều
này sẽ đem lại một thứ Kitô Giáo giản lược các sứ điệp của Chúa Giêsu, hay một
thứ Kitô Giáo không có Chúa Kitô.
Trong Tin Mừng
Thánh Lễ ngày 24 tháng Hai vừa qua, có một đoạn của Tin Mừng Máccô 10:2-12 về
việc rẫy vợ. Thành thử có được phép nghĩ rằng không biết có phải Chúa Giêsu nói
ra những điều đó và chúng không có tính bó buộc hay không?
“Cảm thức đức
tin” vốn bảo ta rằng các tác giả Tin Mừng là người đáng tin. Tuy nhiên, cha bề
trên Cả Dòng Tên của chúng ta bác bỏ tính đáng tin này, và ngoài ra, còn không
lưu ý chi tới sự kiện này: Thánh Phaolô cũng đã tiếp nhận tín lý này từ Giáo Hội
như là của Chúa Giêsu, và truyền nó lại như thế cho các cộng đoàn của ngài:
“Còn với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa: vợ
không được bỏ chồng, mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc phải làm hoà
với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ” (1 Cor 7:10-11).
Tính nhất quán của
đoạn văn trên với các bản văn của các Tin Mừng Nhất Lãm về việc rẫy vợ và ngoại
tình là điều hoàn toàn rõ ràng.Và quả là phi lý khi nghĩ rằng những lời đó là của
riêng Thánh Phaolô chứ không thuộc truyền thống tiền Vượt Qua. Không chỉ có thế.
Trong thư Êphêsô 5:22-33, Thánh Phaolô rà lại cùng một giáo huấn đó của Chúa
Giêsu và thậm chí còn củng cố giáo huấn này. Ngài rà lại, vì ngài trích dẫn
cùng đoạn sách Sáng Thế mà chính Chúa Giêsu đã trích dẫn; ngài củng cố, vì Chúa
Kitô yêu Giáo Hội một cách bất khả tiêu, đến độ hy sinh mạng sống của Người, và
quá bên kia cuộc sống trần gian. Và Thánh Phaolô biến lòng trung thành này
thành mẫu mực cho lòng trung thành vợ chồng.
Như thế, điều rõ
ràng hoàn toàn là: có sự liên tục hiển nhiên về giáo huấn giữa lời rao giảng tiền
Vượt Qua và hậu Vượt Qua; và điều cũng rõ ràng là: có sự bất liên tục với Do
Thái Giáo, là tôn giáo vẫn duy trì định chế rẫy vợ. Nhưng nếu Thánh Phaolô xây
dựng sự bất liên tục này trên Chúa Kitô, thì nghi vấn các Sách Tin Mừng có phải
là điều có nghĩa hay không? Từ đâu mà có sự nhẩy vọt gợi hứng cho thực hành của
Giáo Hội cổ xưa ấy, nếu không từ Chúa Kitô?
Ta nên để ý điều
này: ly dị cũng đã được thế giới La Hy chấp nhận, và thêm vào đó, còn có định
chế thê thiếp nữa, một định chế dễ dàng đem lại việc kết hợp vợ chồng sau đó,
như kinh nghiệm của Thánh Augustinô, chẳng hạn, đã chứng tỏ. Và trong khoa chép
sử, có nguyên tắc cho rằng sự trì trệ văn hóa không vô cớ mà thay đổi. Bởi thế,
nếu sự thay đổi đã được chứng thực trong lịch sử, thì đâu là nguyên nhân nếu
không phải là Chúa Giêsu? Và nếu là Chúa Kitô, thì tại sao lại hoài nghi tính
đáng tin của các Tin Mừng?
Sau cùng, nếu
Chúa Giêsu không nói các lời trên, thì đâu là nguyên nhân khiến các môn đệ nhận
định cách hoảng hốt (“vậy chẳng thà không lấy vợ còn hơn!”) trong Mátthêu
19:10? Thánh Mátthêu là một trong các môn đệ ấy và các ngài rất chậm hiểu và tỏ
ra gắn bó với các truyền thống bị Chúa Giêsu thách thức. Thành thử, theo quan
điểm chép sử, tình tiết ở Mt 19:3-12 là hoàn toàn đáng tin: cả về phương diện
phê bình nội tại lẫn phê bình ngoại tại.
Bối cảnh có tính
tín điều
Mặt khác, quả quyết
rằng không biết có phải Chúa Giêsu thực sự phát ra những lời đó hay không và,
do đó, chúng không có tính bó buộc “trên thực tế” là một lạc giáo, vì đã bác bỏ
tính linh hứng của Thánh Kinh. Thư 2 Timôtê 3 nói rất rõ: “Mọi Sách Thánh đều
được Thiên Chúa linh hứng và có ích để giảng dậy, thuyết phục, sửa trị và huấn
luyện lòng chính trực”.
“Mọi” hiển nhiên
cũng bao gồm Mátthêu 19:3-12. Nếu không, chắc hẳn còn có lời “khác” trổi vượt
hơn Sách Thánh và sự linh hứng của Sách Thánh. Thực vậy, quả quyết tính không
đáng tin của một số lời Chúa Giêsu nói giống như mở ra một lỗ hổng ở chiếc đập
“fides quae” (nội dung đức tin), một lỗ hổng sẽ dẫn đến việc toàn diện chiếc đập
xụp đổ tan tành. Cha Bertacchini minh giải:
a) Nếu Chúa Giêsu
không nói các lời trên, thì các tác giả Tin Mừng không đáng tin. Và nếu các
ngài không đáng tin, thì các ngài không nói sự thật; nhưng nếu các ngài không
nói sự thật, thì các ngài cũng không được Chúa Thánh Thần linh hứng.
b) Nếu Chúa Giêsu
không nói các lời trên, có hẳn Người đã nói tất cả các lời khác mà chúng ta coi
là tốt đẹp không? Ai đã không đáng tin ở một vấn đề có tính cách đổi mới cũng sẽ
không đáng tin ở các vấn đề khác, như phục sinh chẳng hạn… Đó là ý nghĩa việc cả
chiếc đập xụp đổ.
Và điều đó chưa hết
đâu, vì nếu theo các nghi ngờ của cha bề trên cả Dòng Tên, thì không những
Thánh Phaolô bị chà đạp dưới chân, mà cả Vatican II nữa. Thực thế, hiến chế
“Sacrosasnctum Concilium” 7 khẳng định như thế này:
“Chúa Kitô luôn
hiện diện trong Giáo Hội của Người […] Người hiện diện trong lời của Người, vì
chính Người nói khi Sách Thánh được đọc lên trong Giáo Hội”.
Vì các đoạn nói về
tính bất khả tiêu của hôn nhân được đọc trong Thánh Lễ, và nói cho chính xác:
Máccô 10:2-12 được đọc vào thứ Sáu tuần thứ 7 mùa thường niên và vào Chúa Nhật
27 năm B, Mátthêu 19:3-12 được đọc vào thứ Sáu tuần thứ 19 mùa thường niên, và
Mátthêu 5:27-32 được đọc vào thứ Sáu tuần thứ 10, chẳng hóa ra Vatican II, cách
nào đó, đã gắn những lời này vào thế giá của Chúa Giêsu.
Như thế, những ai
theo các hoài nghi của cha bề trên cả Dòng Tên không những bác bỏ Vatican II,
mà hơn nữa còn hoài nghi cả Thánh Truyền đến độ biến thẩm quyền giảng dậy của
Chúa Giêsu thành trừu tượng và không thể nào nắm được. Nếu thế, ta đang đối diện
với một cuộc ném bom trải thảm đúng nghĩa…
Để kết luận, việc
bước từ tính tôn giáo của lề luật qua tính tôn giáo của biện phân là một điều
thánh thiêng, nhưng đầy cạm bẫy. Nó đòi một việc đào luyện tuyệt vời mà bất hạnh
thay rất ít người ngày nay đạt tới…
Dù sao, vì thế giới
mà dựng lên một mặt trận giả với mục đích duy nhất là tránh tranh chấp và bách
hại không những là một việc hèn nhát, mà còn hoàn toàn bước ra ngoài Tin Mừng,
là Sách đòi ta phải thành thực và can đảm trong việc bảo vệ sự thật. Chúa Giêsu
không sợ thập giá, mà các tông đồ cũng không sợ. Hơn nữa, Thánh Phaolô nói rất
rõ:
“Những ai muốn nở
mày nở mặt vì những lý do thuần tuý con người, thì ép anh em phải chịu cắt bì,
chỉ là để khỏi bị ngược đãi vì thập giá Đức Ki-tô” (Gl 6:12).
Cắt bì, một đàng,
có nghĩa trở về với tính tôn giáo được Rôma nhìn nhận là hợp pháp, và đàng
khác, là phù hợp với não trạng thời đại. Thánh Phaolô biết rằng cắt bì chân thực
là cắt bì của trái tim, và trong việc này, ngài không bao giờ đầu hàng.
Carpi, Ngày 19
Tháng Ba, 2017
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Magister nhận định
rằng trong bản văn đầy đủ bằng tiếng Ý, Cha Bertacchini viết rằng ngày 24 tháng
Hai, một ít ngày sau khi đăng tải cuộc phỏng vấn Cha Sosa, Đức Giáo Hoàng
Phanxicô “đã kiểm duyệt các chủ trương của cha bề trên cả Dòng Tên” khi dành trọn
bài giảng ở Nhà Thánh Mácta cho đoạn Tin Mừng Máccô nói về hôn nhân và ly dị, một
điều ngài chưa bao giờ làm trước đó.
Theo cha
Bertacchini, trong bài giảng trên, Đức Giáo Hoàng Phanxicô thách thức các hoài
nghi của Cha Sosa. Ngài nhấn mạnh rằng “Chúa Giêsu trả lời các người biệt phái
về việc rẫy vợ, và do đó, tác giả Tin Mừng là đáng tin”.
Tuy nhiên, nếu
căn cứ vào bản văn chính thức do Đài Phát Thanh Vatican và tờ L’Osservatore
Romano phổ biến, thì các nhận định của Đức Phanxicô về đoạn Tin Mừng Máccô ấy
có vẻ khá lắt léo.
Vì có lúc, Đức
Giáo Hoàng tiến xa tới chỗ cho rằng “Chúa Giêsu không trả lời liệu [việc rẫy vợ]
là hợp pháp hay không hợp pháp”.
Và cho dù Đức
Giáo Hoàng vẫn chống khoa giải nghi học (casuistry), ta thấy có sự mâu thuẫn.
Vì đâu có gì khác với điều “Amoris Laetitia” yêu cầu khi nó đòi phải biện phân
từng trường hợp ai được rước lễ ai không trong số những người ly dị và tái hôn
vẫn sống theo kiểu vợ chồng?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét