04/11/2019
Thứ Hai tuần 31
thường niên
Thánh Carôlô
Borômêô, giám mục.
Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh năm 1538 tại A-rô-na, miền Lom-ba-đi-a. Sau khi đã học
xong luật đạo luật đời, người được cậu là đức giáo hoàng Pi-ô IV nhận vào hàng
hồng y, rồi được đặt làm giám mục Mi-la-nô. Người ra sức thể hiện gương mẫu một
giám mục như đã được Công Đồng Tren-tô nêu lên. Người cố công cải tổ hàng giáo
sĩ, lập các công đồng miền và các chủng viện. Người cũng canh tân phong hoá của
các tín hữu bằng cách thăm viếng họ, trình bày cho họ biết thế nào là sống
trung thành thật sự với Hội Thánh. Người qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1584.
BÀI ĐỌC I:
Rm 11, 29-36
“Thiên Chúa đã để mọi người phải
giam hãm trong sự cứng lòng tin, để Chúa thương xót hết mọi người”.
Trích thư Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối
tiếc. Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên
anh em được thương xót, cũng thế, nay họ không tin, vì thấy Chúa thương xót anh
em, để họ cũng được thương xót. Thiên Chúa đã để mọi người phải giam hãm trong
sự cứng lòng tin, để Chúa thương xót hết mọi người.
Ôi thẳm sâu thay sự giàu có, thượng trí và thông biết của Thiên Chúa! Sự
phán quyết của Người làm sao hiểu được, và đường lối của Người làm sao dò được!
Vì chưng, nào ai biết được ý Chúa? Hoặc ai đã làm cố vấn cho Người? Hay ai đã
cho Người trước để Người sẽ trả lại sau? Vì mọi sự đều do Người và trong Người:
nguyện Người được vinh quang đến muôn đời. Amen. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 68, 30-31.
33-34. 36-37
A+B=Lạy Chúa, đây
là lúc biểu lộ tình thương, xin nhậm lời con (c. 14cd).
A=Phần con, con đau khổ cơ hàn; lạy Chúa, xin gia ân phù trợ, bảo toàn
thân con. Con sẽ xướng bài ca ngợi khen danh Chúa, và con sẽ chúc tụng Ngài với
bài tri ân.
B=Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa,
lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con
dân của Người bị bắt cầm tù.
A=Vì Thiên Chúa sẽ cứu độ Sion, Người sẽ tái thiết thành trì của Giuđa, tại
đây người ta cư ngụ và chiếm quyền sở hữu. Con cháu của bầy tôi Chúa sẽ thừa hưởng
đất này, và tại đây những người yêu danh Chúa sẽ định cư.
A+B=Lạy Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương, xin nhậm lời con (c. 14cd).
ALLELUIA: Mt 11, 29ab
-Các ngươi hãy mang
lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.
– Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 14, 12-14
“Ông chớ mời các bạn hữu, nhưng
hãy mời những người nghèo khó và tàn tật”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng:
“Khi ông dọn tiệc trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con và
những người láng giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn cho ông.
Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và
đui mù, thì ông sẽ được phúc, bởi họ không có gì đền ơn cho ông: vì chưng, khi
những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Bác Ái
Vô Vị Lợi
Tâm lý thường tình
của con người vẫn là: "Có qua có lại, mới toại lòng nhau" hoặc
"Ông đưa miếng giò, bà thò chai rượu". Chúng ta kết bạn thân thiết với
ai, chúng ta cũng muốn họ có một tâm tình như thế đối với chúng ta.
Nhưng Chúa Giêsu trong
bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một cái nhìn khác, đó là lòng bác ái vô vị lợi:
"Khi ông đãi tiệc, thì đừng mời bạn bè, anh em, bà con, hoặc láng giềng giầu
có... Nhưng hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù; họ không
có gì trả lễ, và như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được trả công trong
ngày các kẻ lành sống lại".
Ở đây, Chúa Giêsu hướng
lòng con người về đời sau. Ðang lúc dự tiệc cưới trên trần gian, Ngài đã liên
tưởng đến bữa tiệc sẽ được hoàn tất trong vinh quang Nước Chúa, ở đó những người
hèn kém được nâng lên và kẻ quyền thế bị hạ xuống; ở đó những người tàn tật,
đui mù thực sự là những khách được mời dự tiệc của Chúa.
Gương bác ái vô vị lợi
có thể tìm thấy trong chính đời sống của Chúa Giêsu. Ngài là hiện thân của tình
yêu Thiên Chúa và tình yêu này được biểu lộ trong việc nhập thể. Ðây là tình
yêu vô biên đến gặp con người ở tầm mức nhân loại, bởi vì khiêm nhường là một
trong những bộ mặt của tình yêu. Chúa Giêsu đã xuống ngang tầm mức những kẻ nhỏ
bé, yếu đuối; Ngài không tìm địa vị cao sang nổi bật, nhưng quan tâm đến những
kẻ nghèo khó, bệnh tật, những kẻ bị xã hội ruồng bỏ.
Tình thương của Chúa
Giêsu không đòi hỏi phải có đi có lại. Ngài đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn, mà
không làm cho họ mặc cảm hay nghĩ ngợi là mình chẳng có gì đền đáp. Ngài mời gọi
tất cả, nhất là những người nghèo khó, vì chỉ có họ mới dễ dàng chấp nhận lời mời
dự tiệc Thiên Chúa. Về mặt thiêng liêng, những người nghèo là những người không
khoe khoang về kiến thức, đức hạnh, hay bất cứ ưu điểm nào của mình; họ ý thức
thân phận của mình: nhận ơn huệ của Thiên Chúa mà không có gì để dâng lại; họ
chỉ biết một điều là sẵn sàng đón nhận vì ý thức rằng Thiên Chúa là Ðấng tốt
lành và đầy lòng thương xót. Và đó là điều Thiên Chúa chờ mong nơi họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta noi gương sống bác ái của Chúa. Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một
tình yêu bao la và nhưng không; do đó, chúng ta cũng có bổn phận phải cho đi một
cách rộng rãi và vô vị lợi những ân huệ mà Ngài đã ban cho chúng ta. Ðược như
thế chắc chắn chúng ta sẽ sống đẹp lòng Chúa và xứng đáng thông dự bàn tiệc
vĩnh cửu trong Nước Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 31 TN1
Bài đọc: Rom
11:29-36; Lk 14:12-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đường lối của Thiên Chúa và của
con người.
Nhiều người trong
chúng ta có khuynh hướng suy xét thật cẩn thận trước khi làm các việc thiện nguyện
trong cộng đòan hay bác ái xã hội. Họ tính tóan xem những công việc này có đem
lại những lợi ích cho cá nhân hay cộng đòan của họ; chẳng hạn: cho đi với hy vọng
sẽ nhận lại, bố thí để tìm hư danh, chỉ đi cầu nguyện cho người chết nào mà
mình hy vọng cũng sẽ được gia đình người chết đến cầu nguyện cho khi mình chết.
Các Bài đọc hôm nay đề
nghị chúng ta thay đổi hòan tòan những tính tóan ích kỷ này. Trong Bài đọc I,
thánh Phaolô khuyên chúng ta tìm học để thấu hiểu đường lối của Thiên Chúa
trong việc cứu độ con người. Ngài chọn dân tộc Do-thái trước để chuẩn bị đường
cho Đấng Thiên Sai; kế tiếp, Ngài mở đường cứu độ cho hết mọi người; sau cùng,
Ngài sẽ cứu những người Do-thái cứng lòng không chịu tin Đức Kitô. Trong Phúc
Âm, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ phải làm ơn cho những người không thể trả ơn đời
này; nhưng chính Chúa sẽ giúp họ trả ơn cho chúng ta đời sau.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm
dường nào!
1.1/ Ba giai đoạn trong Kế-hoạch
Cứu Độ của Thiên Chúa: Một điều làm thánh
Phaolô không thể hiểu là tại sao nhiều người Do-thái không chịu tin vào Đức
Kitô, dù họ là dân tộc được Thiên Chúa lựa chọn để chuẩn bị đường cho Ngài đến;
trong khi biết bao nhiêu Dân Ngoại lại tin vào Ngài. Chương 11 của Thư Roma là
nơi thánh Phaolô cắt nghĩa sự khó hiểu này. Thánh Phaolô quả quyết: “Cả người
Do Thái lẫn Dân Ngọai đều có thể được hưởng ơn trong kế hoạch mầu nhiệm của
Thiên Chúa.” Để hiểu bài đọc, chúng ta có thể chia làm ba giai đoạn chính trong
kế hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa.
(1) Từ ban đầu cho tới
khi Chúa Giêsu đến: Dân Ngoại là những người không tin và vâng phục Thiên Chúa.
Thánh Phaolô lý luận:
– Tuy chưa được nghe về
Thiên Chúa, nhưng Dân Ngọai vẫn bị kết tội vì vinh quang của Chúa biểu lộ khắp
nơi qua việc sáng tạo và quan phòng vũ trụ. Họ có thể dùng trí khôn ngoan của họ
để nhận ra quyền năng của Thiên Chúa và tin vào Ngài (Rom 1:19-21), nhưng họ đã
không làm như thế.
– Người Do Thái rất
hãnh diện vì có Chúa Tể trời đất là Thiên Chúa của họ và Ngài ban cho họ Lề Luật;
nhưng có người Do-thái nào tuân giữ tất cả Lề Luật đâu. Vì thế, họ có thể bị luận
phạt nhiều hơn vì có Luật mà không chịu giữ.
(2) Từ thời Chúa Giêsu
đến cho tới thời Cánh Chung: Vì người Do-thái không tin, nên Tin Mừng Cứu Độ được
rao giảng cho Dân Ngoại.
Thánh Phaolô được Chúa
dùng đặc biệt để rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngọai. Chính người đã thú nhận:
“Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc Dân Ngoại. Với tư cách là Tông Đồ
các Dân Ngoại, tôi coi trọng chức vụ của tôi, mong sao nhờ vậy mà tôi làm cho
anh em đồng bào tôi (người Do-thái) phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em
đó.”
Nhưng khi một số Dân
Ngoại đã đón nhận Tin Mừng và tin nơi Thiên Chúa, họ lại kiêu hãnh coi thường
hay ghét bỏ người Do-thái. Thánh Phaolô phải giải thích cho họ biết lý do tại
sao họ không nên kiêu hãnh và coi thường chỗ đứng của người Do-thái trong kế hoạch
Cứu Độ của Thiên Chúa: “Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được
hoà giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải
là từ cõi chết bước vào cõi sống?”
(3) Giai đoạn sau
cùng: Chúa sẽ đưa người Do-thái trở về và cứu họ vì: “Khi Thiên Chúa đã ban ơn
và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý. Lý do tại sao họ không vâng phục Thiên
Chúa là để Người thương xót anh em, nhưng đó là để chính họ cũng được thương
xót.”
Và thánh Phaolô kết luận:
“Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương
xót mọi người.” Con người chúng ta không thể hiểu nổi kế hoạch Cứu Độ nhiệm mầu
của Thiên Chúa, chỉ một mình Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người, biết cách xử
dụng con người để hoàn tất kế hoạch Cứu Độ của Ngài.
2/ Phúc Âm: Làm ơn cho những người không có gì để trả.
2.1/ Hai thái độ sống:
công bằng và bác ái:
(1) Lợi nhuận của người
đời: “Ăn miếng trả miếng. Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại.” Một ví dụ thực tế
Chúa đưa ra hôm nay: Khi mở tiệc đãi khách, con người thường có khuynh hướng mời
bạn bè, anh em, bà con, hoặc láng giềng giàu có, để đáp lễ hay hy vọng sẽ nhận
được gì từ họ. Cách cư xử như thế mới chỉ là công bằng mà thôi.
(2) Bác ái của người
môn đệ Chúa Kitô: “Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó,
tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có
phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.”
2.2/ Tại sao phải giúp đỡ
người nghèo khổ? Vì chúng ta cũng đã từng nhận
ơn trong những lúc gian nan tuyệt vọng. Chỉ cần hồi tưởng lại quá khứ đôi chút,
chúng ta cũng nhận ra đã không biết bao lần chúng ta đã từng nhận ơn nhưng
không từ:
(1) Thiên Chúa: Ngài
cho chúng ta có mặt trong cuộc đời, cho chúng ta hưởng tất cả những gì không do
tay chúng ta làm ra, tha thứ tội lỗi khi chúng ta xúc phạm đến Ngài, và không
ngừng gởi những người giúp đỡ tinh thần cũng như vật chất khi chúng ta cần đến…
Chúng ta đã trả ơn được gì cho Ngài?
(2) Tha nhân: Nếu
không có các quốc gia mở lòng nhân đạo nhận người vào định cư, nếu không có các
Hội Từ Thiện giúp đỡ những ngày chân ướt chân ráo đến định cư nơi đất khách quê
người, làm sao chúng ta có thể sống ổn định như ngày hôm nay? Chúng ta đã trả lại
được gì cho họ?
Vì chúng ta đã từng nhận
nhưng không nên việc cho đi nhưng không là điều phải làm để đền ơn những gì
chúng ta đã lãnh nhận trong cuộc đời. Chưa chắc chúng ta đã đền trả đủ theo đức
công bằng chứ chưa nói tới chuyện bác ái!
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Tư tưởng và đường lối
của Thiên Chúa khác xa với tư tưởng và đường lối của con người. Chúng ta cần học
hỏi và làm theo đường lối của Thiên Chúa, vì chúng sẽ đem lại hiệu quả cho
chúng ta cả đời này lẫn đời sau.
– Để có thể sống đức
bác ái trọn hảo, chúng ta phải để Chúa Kitô thấm nhuần tòan bộ con người: từ tư
tưởng, suy luận, đến hành động. Để có thể cho đi nhưng không, cần xét mình thường
xuyên để đánh giá những gì mình đã nhận nhưng không nơi Thiên Chúa và tha nhân.
– Để có thể giúp đỡ tất
cả mọi người, phải tập nhìn thấy Chúa trong tha nhân. Đừng bao giờ quên đây là
tiêu chuẩn Thiên Chúa sẽ dùng để phán xét (Mt 25). Nếu đã biết trước tiêu chuẩn
mà vẫn không chịu làm theo; có sa hỏa ngục cũng là tự do lựa chọn của con người.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
04/11/2019 – THỨ HAI TUẦN 31 TN
Th. Ca-rô-lô Bô-rô-mê-ô, giám mục
Lc 14,12-14
NỚI RỘNG VÒNG TAY
“Hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ
không có gì đáp lễ…” (Lc 14,14)
Suy niệm: Tính toán hơn thiệt về tiền
của công sức mình bỏ ra là việc thường tình. Tuy nhiên nếu chỉ nghĩ đến cái lợi
của mình mà quên quyền lợi tha nhân thì là người ích kỷ. Khi thấy người ta mời
dùng bữa chỉ mời những người thân quen hay giàu có, Chúa Giê-su muốn họ mời
những người nghèo khổ, đui mù, què quặt… Những khách mời ‘bất đắc dĩ’ này gây
phiền hà, xấu hổ, không có khả năng đáp lễ, nhưng Chúa Cha trên trời sẽ hậu tạ
cho lời mời vô vị lợi của họ. Chúa mời gọi chúng ta mở rộng vòng tay thân ái
cho những người thấp hèn bé nhỏ, những người dễ bị tổn thương vì bị bỏ rơi
trong cộng đồng.
Mời Bạn: Bên bàn tiệc xã hội hôm
qua cũng như hôm nay, kẻ giàu sang được đãi ngộ biết bao của ngon vật lạ, còn
người nghèo đứng xa nhìn thèm thuồng! Các cơ hội để thăng tiến không mở ra cách
bình đẳng cho tất cả mọi người. Người nghèo là nạn nhân của những đối xử bất
công. Ngay cả những gì họ được quyền hưởng cách chính đáng (như nước sạch,
không khí trong lành,…) cũng bị lấy mất đi. Người ta đối xử nhau với thái độ loại
trừ, kỳ thị dưới nhiều hình thức. Yêu thương người nghèo trước tiên là tôn trọng
quyền lợi và trên hết, tôn trọng phẩm giá của họ.
Sống Lời Chúa: Quan tâm đến người bị bỏ
rơi, thấp cổ bé miệng trong cộng đoàn. Biết chăm sóc, chia sẻ những phúc lợi
mình hưởng được cho những người gặp phải hoàn cảnh kém may mắn hơn.
Cầu nguyện: “Lạy Chúa từ
nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng Chúa trong mọi người chẳng trừ ai.” (Kinh
Hòa Bình)
(5 Phút Lời Chúa)
Đáp lễ (4.11.2019 – Thứ Hai Tuần
31 TN)
Suy niệm:
“Bánh ít đi, bánh quy lại” hay “Có đi có lại mới toại lòng nhau”:
đó vẫn được coi là cách cư xử bình thường giữa người với người.
Hơn nữa ai làm như vậy còn được coi là người biết cách xử thế.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu mời ta vượt lên trên lối cư xử đó,
không ngừng lại ở chỗ tôi cho anh, để rồi anh cho tôi (do ut des).
Ngài dạy cho ông chủ tiệc biết nên mời ai và không nên mời ai.
Có bốn hạng người không nên mời dự tiệc:
bạn bè, anh em, bà con họ hàng, hay láng giềng giàu có.
Ngài đưa ra lý do: “Kẻo họ mời lại ông, và ông được đáp lễ” (c.12).
Hơn nữa, Ngài còn nói đến bốn hạng người nên mời dự tiệc:
những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù (c.13).
Đức Giêsu khuyên nên mời những hạng người này,
vì họ không có khả năng mời lại hay đáp lễ (c.14).
Như thế Đức Giêsu cho ta tiêu chuẩn để mời khách dự tiệc.
Không mời những người quen biết, thân thích, giàu sang,
để mời những người nghèo hèn, những kẻ chẳng được ai mời.
Qua đề nghị khó thực hiện này của Đức Giêsu,
Ngài đụng đến một khuynh hướng tự nhiên mà ít người để ý.
Đó là khi làm điều tốt cho ai
ta cũng mong được hoàn trả cách này cách khác.
Có khi mong được trả lại tương đương hay hậu hỹ
hơn.
Có khi mong trả lại bằng một bia đá ghi công hay một lời tri ân đơn giản.
Nói chung để làm một hành vi hoàn toàn vô vị lợi là điều rất khó.
Chỉ ai thành thật đi vào lòng mình mới thấy mình ít khi cho không.
Đức Giêsu muốn hạn chế khuynh hướng này.
Ngài mời chúng ta ra khỏi thế giới của những người quen biết,
không kết thân với những người giàu có và thế lực,
để mong họ đem lại lợi nhuận hay làm ô dù cho ta.
Ngài đưa ta đến với những người nghèo và không có địa vị,
những người không có khả năng mời lại hay đáp lễ.
Có khi những người đó chẳng ở đâu xa.
Họ nằm ngay trong số bạn hữu, bà con, anh em, hay hàng xóm.
Khi mời họ dự tiệc, trân trọng họ như khách quý,
chúng ta làm sống lại những mối tương quan tưởng như không còn.
Đức Giêsu mời ta thanh luyện ý hướng của mình khi làm điều tốt,
trở nên siêu thoát và từ bỏ những tìm kiếm tự nhiên quy về mình.
Bài Tin Mừng đơn sơ này có thể tạo một bước ngoặt trong đời Kitô hữu.
Chúng ta sẽ được nếm một mối phúc mới:
Phúc cho ai làm một việc tốt mà không được ai biết đến và đáp lễ.
Họ sẽ được Thiên Chúa “đáp lễ” trong ngày phục sinh (c. 14).
Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến,
xin dạy con biết sống quảng đại,
biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính toán,
biết chiến đấu không ngại thương tích,
biết làm việc không tìm an nghỉ,
biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn
Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG MƯỜI MỘT
Lòng Thương Xót Của
Chúa Cha
Trong lời nguyện hiến
tế của Ngài, Chúa Giêsu xin Chúa Cha gìn giữ các môn đệ cho khỏi ác thần (Ga
17,15). Như vậy, lời nguyện hiến tế vừa ca ngợi sự tốt lành của hiệp nhất, vừa
là lời khẩn xin tha thiết để mọi sự dữ chống lại hiệp nhất đều có thể được thắng
vượt. Do đó, đây cũng là một lời nguyện hoà giải. Sự hoà giải này diễn ra ở những
cấp độ khác nhau: nơi chính bản thân mỗi người, giữa các cá nhân, giữa các Kitô
hữu, giữa người Kitô hữu và những người ngoài Kitô giáo, giữa các dân tộc và
các quốc gia, giữa các khu vực đã phát triển và các khu vực kém phát triển trên
thế giới.
Hoà giải là một kinh
nghiệm sâu xa thuộc lãnh vực tâm linh con người. Trong hình thức cao nhất của
nó, nó là hình ảnh người Cha nhân lành mở rộng vòng tay ôm lấy đứa con bất trị.
Anh ta là nạn nhân của cám dỗ muốn xây dựng một thế giới hoàn toàn bởi sức
riêng mình, bất cần Cha. Cái trống rỗng của sự chọn lựa ấy, nỗi cô đơn nhức nhối
ấy, và hậu quả là phẩm giá của anh cũng chẳng còn … Tất cả đã gây ra những vết
thương cần phải được chữa trị tận căn. Anh cần phải quay về và kinh nghiệm lại
lòng thương xót của Cha. Vâng, sự hoà giải phải cắm rễ sâu trong cuộc sống
chúng ta: hoà giải với Thiên Chúa, với chính mình, với nhau, với các cộng đoàn
Giáo Hội khác, bắt đầu bằng một sự biến đổi sâu xa trong tâm hồn mình.
Hoà giải còn mang một
chiều kích xã hội nữa. Nó vượt qua những rào cản ngăn cách các tầng lớp xã hội
và vượt qua sự xung khắc giữa các quốc gia. Nó tiêu diệt các hình thức kỳ thị đầy
bất công. Trên hết, nó ưu tiên tôn trọng phẩm giá độc đáo của mỗi người và tích
cực bảo vệ các quyền của con người ở bất cứ nơi đâu mà các quyền ấy bị đe doạ.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 04/11
Thánh Carôlô
Borrômêô, Giám mục, tiến sĩ
Rm 11, 29-36; Lc
14, 12-14.
LỜI SUY NIỆM: “Khi ông đãi tiệc,
hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ,
và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành
sống lại.”
Với lời đề nghị này của Chúa Giêsu. Trong chương bốn Giáo Huấn Xã Hội của Giáo
Hội ở số 182 Giáo Hội mời gọi sự chọn lựa ưu tiên dành cho người nghèo. Muốn vậy,
mõi người cần phải tái xác nhận cách mạnh mẽ sự lựa chọn ưu tiên dành cho người
nghèo. sự lựa chọn ấy không những ảnh hưởng trên đời sống của mỗi Kitô hữu, mà
còn ảnh hưởng đến các trách nhiệm xã hội chúng ta, và từ đó, ảnh hưởng đến cách
sống và quyết định hợp lý của chúng ta liên quan tới việc làm chủ và sử dụng của
cải.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con hưởng ứng lời mời gọi của Giáo Hội: “Dành mọi
ưu tiên cho người nghèo” Để mỗi người chúng con biết sử dụng của cải của mình
được tốt hơn, đem lại sự sống đời đời cho chúng con.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 04-11
Thánh CARÔLÔ
BORRÔMÊÔ
Giám Mục (1538 –
1584)
Xuất thân từ dòng họ
quí phái Lombardo, thánh Carôlô Borrômêô sinh tại Arôna ngày 2 tháng 10 năm
1538, là con thứ trong gia đình, tuổi trẻ đạo đức đã sớm định hứơng cuộc đời
Ngài để phục vụ Giáo hội, Ngài đạt bằng tiến sĩ luật ở Paris năm 1559, nhưng
tháng giêng năm sau đã triệu vời về Roma. Ở đó Ngài được đặt ngay làm Hồng Y với
những trách và cao trọng trong Giáo hội gồm cả chức vụ Tổng Giám mục Milan, và
dù còn trẻ cũng đã được trao cho trách nhiệm làm quốc vụ khanh tòa thánh.
Trong quyền hạn này,
Ngài kiểm soát mọi giao dịch chính thức của Đức Giáo hoàng, bao gồm nhiều cuộc
đám phán khó khăn liên quan đến việc hoàn thành công đồng Tridentinô từ năm
1560-1564. Công đồng kết thúc, Ngài còn phải lo lắng tới những công chuyện còn
sót lại và mãi tới tháng 9 năm 1565 Ngài mới được đức giáo hoàng cho phép về ở
tại nhiệm sở của mình. Khó khăn lắm mới được trở về Milan, Ngài lại bị triệu hồi
để giúp cậu Ngài bên giường bệnh, và sau đó góp phần chọn lựa đấng kế vị là Đức
Giáo hoàng Piô V. Ngài trở lại Milan vào tháng 4.1566.
Kể từ lúc đó cho đến
khi qua đời, ngày 3.10. 1584, cuộc đời của thánh Carôlô được dành trọn cho giáo
phận với tư cách của một Tổng giám mục. Việc canh tân khẩn thiết nhất trong mục
vụ của vị giám mục tập chú vào sơ đồ canh tân công đồng Tridentinô để ra. Thánh
Carôlô đã trở thành giám mục “kiểu mới” của công đồng Tridentinô, Ngài đã thành
công đến nỗi trở thành gương mẫu và gợi hứng cho toàn thể Giáo hội. Có lẽ hơn bất
cứ một cá nhân nào khác Ngài đã chuyển các sắc lệnh của cộng đồng ra hành động
trong Giáo hội công giáo, Ngài đã thực hiện cuộc canh tân, tổ chức lại hàng
giáo sĩ và đời sống thiêng liêng trong cả địa phận lẫn tỉnh Milan. Nhưng nỗ lực
này được ghi lại đầy đủ chi tiết qua một số qui luật do sáu hội nghị giáo tỉnh
và mười một hội nghị giáo nhận.
Ngài kiên trì viếng
thăm toàn giáo phận rộng rãi bao la được giảng dạy, ban các phép bí tích tới những
làng mạc xa xôi nhất và những vùng thung lũng núi Alpels. Cuộc hồi sinh đạo
công giáo tại Thụy sĩ mà nhiều phần nằm trong quyền hạn của Ngài đã là ảnh hưởng
quyết định của Ngài, Ngài đã thiết lập nhiều học viện và chủng viện, Ngài là
người bạn của dòng tên, dòng thánh Barnaba và nhiều dòng mới thời đó. Chính
Ngài cũng đã thiết lập dòng cho những tu sĩ thánh Ambrôsiô (bây giờ là thánh
Carôlô) để đặc biệt giúp đỡ Ngài. Ngài còn liên hệ một cách chủ động tới cuộc
canh tân dòng cổ. Có một nhóm bất mãn dòng Umiliati là Ngài muốn canh tân và
sau này đã biến mất, đã tìm cách sát hại khi Ngài đang cầu nguyện năm 1569.
Ngài đã khích lệ những
hội đạo đức và tổ chức lại các trường công giáo. Ngài cố gắng bảo tồn nghi thức
thánh Ambrôsiô cho Milan khi nghi thức này bị đe dọa và cố gắng theo gương
thánh Ambrôsiô. Nhưng sự cương quyết không chịu thoả hiệp và sự nghiêm khắc về
những nguyên tắc luân lý đã không khỏi gây nên những chống dối. Sức chống đối
không chỉ từ vài nhóm giáo sĩ và còn từ phía uy quyền thế tục đại diện bởi những
nhà cầm quyền Tây Ban Nha và nghị viện thành phố nữa.
Dầu vậy, như một thánh
nhân và một nhà canh tân, thánh Borrômêô không đòi những người khác điều gì mà
chính Ngài đã thi hành. Đời sống cầu nguyện và bỏ mình của Ngài còn tân tiến với
những nỗ lực mục vụ. Tai họa dịch hạch năm 1576 đến 1578 cho thấy sự hy sinh xả
kỷ tột cùng của Ngài, Ngài đã hiến mình làm hiến tế, bô thí tất cả những gì
Ngài có như động sản, áo quần; lột bỏ những màn trướng để phủ che những người bất
hạnh, chính Ngài cũng ngủ trên sàn nhà, Ngài gọi các linh mục và tu sĩ đến, chỉ
định cho họ những ngả đường để giải tội cho nhưng bênh nhân, an ủi và chuẩn bị
cho họ chết lành. Để những người hấp hối có thể tham dự thánh lễ, Ngài cho dựng
những bàn thờ nơi các ngã tư. Thánh giá mọc lên khắp nơi cho mọi người nhìn thấy.
Chuông nhà thờ reo vang, những bản thánh ca được hát lớn trong mỗi gia đình vào
giờ nhất định.
Như thế, bệnh nhân được
tham dự vào đời sống cộng đoàn, thành phố thoát khỏi cảnh tang thương vô vọng để
sống như trong một tu viện. Đức tổng giám mục đến với người bị dịch hạch, những
trẻ em lăn lóc bên xác mẹ, Ngài cuốn áo choàng mang về nhà. Người ta tổ chức những
cuộc đi chân không theo đám rước tay cầm chặt thánh giá. Cuối cùng khi tai họa
chấm dứt, Đức Hồng y đã xác tín rằng: dù cho có bao nhiêu nạn nhân, đoàn chiên
Ngài phải cảm ơn Thiên Chúa vì cơn thử thách đã đổi mới các tâm hồn.
Nhiều dịp khác cũng
cho thấy sáng kiến và lòng tận tâm của thánh nhân, Milan nhiều lần bị nạn đói,
thánh Carôlô cho trồng bắp, tổ chức những bữa cháo nghèo, lập các nhà từ thiện.
Nhờ Ngài, những người giàu có nên quảng đại hơn. Thánh nhân đã không tìm nghĩ
ngơi sau những nỗ lực không ngừng cho công việc bác ái và mục vụ. Mỗi lúc đêm về
người ta còn thấy Ngài tiến vào nhà nguyện để đọc kinh suy gẫm. Tới cuối đời,
Ngài còn tìm tòi học hỏi, không lãng quên sách thánh, Ngài thích đọc sách cổ,
sách thuốc và sách chiêm tinh Ả Rập. Ngài rất ưa thích nghệ thuật và nếu phải
bán bộ sưu tầm của Ngài đi, thì đây là một hy sinh lớn lao cho Ngài.
Không nghỉ ngơi, thánh
Carôlô Borrômêô giống như một người nghèo không bao giờ biết đến nghỉ ngơi. Cơn
bệnh đến, thánh nhân bất động, mắt nhắm nghiền. Vài người nói: “Kìa cơn mê của
giám mục thánh Modène”. Vào những ngày cuối đời, nhắm mắt lại để người ta tưởng
Ngài ngủ và như thế có thể hồi tâm cầu nguyện mà không bị lo ra, Ngài cười khi
người ta khuyên Ngài đừng sợ chết. Rồi sau khi lãnh nhận các bí tích sau hết,
Ngài lịm vào trong sự tôn thờ.
Tin loan báo cái chết
của thánh Carôlô Borrômêô đã làmcho cả Milan đau đớn. Sủ gia viết truyện đời
Ngài nói: “Đêm ấy, ít có ai ngủ được”. Đức Phaolô V đã phong thánh cho Ngài
ngày 10 tháng 11 năm 1610.
(daminhvn.net)
04 Tháng Mười Một
Quo Vadis, Domine?
Ðêm trước ngày vào
cơ mật viện để bầu Giáo Hoàng, Hồng Y Karol Wojtyla đã chuẩn bị hành lý để trở
về Krakow, tổng giáo phận của ngài. Thế nhưng, ngài đã không trở lại Krakow nữa.
Ngày thứ hai, 16 tháng 10 năm 1978, vị Hồng Y 58 tuổi này đã được bầu làm Giáo
Hoàng và lấy tên là Gioan Phaolô II. Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến từ Ba
Lan, là vị Giáo Hoàng đầu tiên không phải là người Italia kể từ 450 năm qua, và
tính từ 150 năm trở lại, thì ngài là vị Giáo Hoàng trẻ nhất.
Trong khi chuẩn bị
cho bài giảng Chúa Nhật đầu tiên kể từ lúc được bầu làm Giáo Hoàng, Ðức Gioan
Phaolô II đã nghĩ đến tác giả của quyển tiểu thuyết giả sử nổi tiếng “Quo
vadis, Domine?” là ông Henryk Sienkiewicz, một văn sĩ và đồng thời cũng là một
nhà ái quốc Ba Lan. Qua tác phẩm này, vị Giáo Hoàng người Ba Lan đã so sánh tâm
tình của mình với vị Giáo Hoàng đầu tiên là thánh Phêrô như được ghi lại trong
tác phẩm “Quo vadis,Domine?”, “Lạy Chúa, Chúa đang đi đâu?”. Theo tác giả quyển
tiểu thuyết giả sử, thì có lẽ thánh Phêrô thích ở lại quanh quẩn bên bờ hồ
Genezareth hơn là đến giữa trung tâm của đế quốc La Mã để gặp không biết bao
nhiêu chống đối và bách hại. Giữa lúc vị Giáo Hoàng đầu tiên toan tình trốn khỏi
La Mã để trở về quê hương mình, thì ngài gặp lại Chúa Giêsu hiện ra đang đi ngược
chiều với ngài. Ngạc nhiên về sự xuất hiện của Chúa, thánh Phêrô đã hỏi: “Quo
vadis, Domine?” nghĩa là “Lạy Chúa, Chúa đang đi đâu?”. Và Chúa Giêsu đã trả lời
như sau: “Ta đang đi đến La Mã để chịu đóng đinh một lần nữa”. Hiểu được ý
Chúa, Phêrô đã quay trở lại La Mã và ngài ở lại đó cho đến khi chịu đóng đinh.
Hôm nay Giáo Hội kính
nhớ thánh Carolô Borremêô và mừng bổn mạng một cách đặc biệt của Ðức Thánh Cha
Gioan Phaolô II. Mãi mãi tên Carolô gắn liền với tên tuổi và vận mệnh của Ðức
Thánh Cha. Hơn ai hết, ngài phải là người kính nhớ và ghi ơn vị thánh bổn mạng
nhiều nhất.
Tên thánh được đặt cho
chúng ta trong ngày chịu Phép Rửa đánh dấu sự đổi đời quan trọng của chúng ta.
Từ cái chết trong tội lỗi, chúng ta được tái sinh trong sự sống của Chúa. Hướng
đi của chúng ta phải là hướng đi tới Chúa, không thể là bước thụt lùi.
Mang lấy tên thánh
Carolô, Wojtyla đã quyết tâm hướng cuộc đời của mình tiến tới trong phục vụ và
hy sinh như như chính thánh giám mục Carolô Borremêô. Và khi chọn lấy danh hiệu
mới là Gioan Phaolô, vị Giáo Hoàng người Ba Lan cũng quyết tâm tiến tới trên
con đường mà hai vị tiền nhiệm của mình đã vạch ra… Là người Kitô, chúng ta
cũng luôn được mời gọi tiến tới không ngừng trên đường theo chân Chúa Giêsu.
Tên thánh mà chúng ta mang lấy trong ngày Rửa Tội, danh hiệu Kitô mà chúng ta
được đặt cho phải luôn luôn là một nhắc nhở chúng ta về con đường tiến lên ấy.
Chắc chắn con đường ấy không là một con đường rộng thênh thang. Sự tiến lên ấy
không là một đà tiến dễ dàng. Phêrô đã quay trở lại La Mã để chịu đóng đinh… Thập
giá có lẽ đang chờ đợi chúng ta, chúng ta hãy hiên ngang tiến bước vì đó chính
là hướng đi của tất cả những ai mang danh hiệu Kitô.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét